1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Paul Carell - Hitler mặt trận miền Đông

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi huytop, 30/10/2015.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939


    2.10 - THEO NGỌN THỦY TRIỀU







    1.






    Một sự tĩnh lặng tạm thời đã buông xuống mặt trận phía đông. Đó là một điều rất đơn giản xảy ra – khi đà tấn công khủng khiếp của người Nga cuối cùng đã vượt xa nguồn tiếp tế hậu cần của họ - và cũng là một phần mang lại kết quả của hệ thống phòng thủ rời rạc nhưng lại rất dũng cảm đến từ những người lính Wehrmacht. Phương diện quân Ukraina I của Konev vấp phải sự kháng cự ngày càng tăng từ Cụm quân dưới quyền Schörner. Và mặc dù Nguyên soái Zhukov đã tạo chiếm được ba đầu cầu đổ bộ bên bờ tây của sông Oder tại Frankfurt, Küstrin và Sch-wedt, nhưng để tiến sâu hơn nữa là nhiệm vụ bất khả thi do vấp phải sự phòng thủ mãnh liệt của người Đức. Hơn nữa, cuộc kích cục bộ của Steiner ở phía bắc đã khiến Bộ chỉ huy tối cao (STAVKA) của Hồng quân lo lắng đến mức phải tạm thời đình hoãn hướng tấn công trực diện vào thủ đô Berlinh cho tới khi mọi sự rắc rối được xóa bỏ…

    Mức độ quan tâm của Hitler đối với mối đe dọa từ Nga sô ngày càng thể hiện rõ ràng khi ông chuyển một trong những tư lệnh chiến trường giỏi nhất của mình từ một khu vực phía Tây cũng đang trên đà sụp đổ sang phía Đông. Quốc trưởng ra lệnh cho Nam tước Hasso von Man-teuffel, Tư lệnh Tập đoàn quân Panzer số 5 là mũi nhọn chủ công trong giai đoạn thành công nhất của Trận chiến Bulge, đến tiếp quản một khu vực phòng thủ trọng yếu trên sông Oder.

    Manteuffel là một vị tướng trẻ đầy nhiệt huyết và là cháu trai của một anh hùng quân sự vĩ đại, đó là Thống chế nước Phổ Freiherr von Manteuffel (1809–1885). Chỉ cao khoảng 1 m 64, đã có lúc Nam tước là một chuyên giađua ngựa đồng thời là nhà vô địch năm môn phối hợp của Đức, và Manteuffel là đại diện tiêu biểu nhất trong truyền thống quân sự nước Phổ. Chính anh là một trong số ít những người dám tranh cãi với Hitler, và thậm chí đã không tuân theo mệnh lệnh trực tiếp từ Fuhrer. Albert Speer, Bộ trưởng Bộ Khí tài và Vũ trang Đế chế, vốn là một người thân quen cũ, đã từng cầu xin anh đừng làm theo mệnh lệnh phá hủy các cây cầu, đập nước và nhà máy trong khu vực công nghiệp quan trọng ở Cologne-Düs-seldorf; nếu không người dân Đức sẽ phải chịu nhiều đau khổ sau chiến tranh. Chả cần thúc giục Manteuffel; anh ta sẽ phá hủy các cây cầu chỉ khi mà nó thật cần thiết cho các mục đích chiến lược.

    Chiều ngày 3 tháng Ba, Keitel gặp Manteuffel trước Văn phòng Đế chế và lo lắng dặn dò : “Manteuffel, cậu còn trẻ và bồng bột. Đừng làm Fuhrer lo lắng và cũng đừng nói năng quá nhiều. " Một lúc sau, vị tướng nhỏ bé được dẫn vào văn phòng của Quốc trưởng, nơi Nam tước thấy Hitler đang ngồi sụp trên ghế như một ông già. Từng gặp trước Chiến dịch Bulge, khi hai người tranh luận về kế hoạch cho cuộc tấn công, Hitler dường như trong tình trạng thể chất kém. Bây giờ trông Quốc trưởng càng tệ hơn.

    Hitler ngước nhìn lên, và thay vì đón Manteuffel với sự nồng nhiệt như thường lệ, ông ta lại hét lên, "Tất cả các tướng lĩnh đều là những kẻ dối trá!"

    Đây là lần đầu tiên Manteuffel thấy Quốc trưởng hét vào mặt anh và cảm thấy rất phẫn nộ vì điều đó.

    Nam tước không kìm được, liền chất vấn :

    “Có bao giờ Fuhrer biết Tướng von Manteuffel và các sĩ quan của anh ta là những kẻ nói dối không? Ai đã nói vậy?"

    Nhân chứng duy nhất, tay trợ lý Quân sự của Hitler, đang đứng đó, mắt miệng mở to hết cỡ vì ngạc nhiên. Bản thân Hitler cũng chớp mắt và giải thích rằng ông ta không hề nhắc đến Manteuffel hay các tướng lĩnh dưới quyền anh ta, rồi Quốc trưởng lấy lại được bình tĩnh và bắt đầu nói về tình hình mặt trận một cách lịch sự. Và Manteuffel cảm thấy kinh hoàng trước việc Hitler thiếu hiểu biết về ưu thế trên không của Đồng minh, và phải giải thích rằng không có gì có thể di chuyển tại vùng Rhineland vào ban ngày - không phải các đoàn xe, thậm chí là các phương tiện cơ giới riêng lẻ - cũng luôn bị các máy bay Đồng minh bắn hạ.

    "Thật là khó tin !" Quốc trưởng đưa ra lời nhận xét.

    “Thưa Fuhrer ! Chỉ riêng tôi đã từng mất 3 chiếc jeep vì bị máy bay Đồng minh chộp trúng trong vài tháng qua ..”

    Manteuffel thuật lại, và Hitler nghe ấn tượng đến mức há hốc mồm.

    Sau đó Quốc trưởng nói với Manteuffel rằng sự yên tĩnh ở phía đông chỉ là tạm thời trong lúc này. Zhukov đã đững vững tại Oder, chỉ cách Berlin một giờ xe chạy, với hơn 750.000 quân. Để bảo vệ thủ đô, Himmler đã tổ chức lại hoàn toàn Cụm Tập đoàn quân Vistula. Tất cả các lực lượng hiện tại mà ông ta còn trong tay được tập hợp một cách vội vã thành 2 Tập đoàn quân: một bảo vệ phía sau Frankfurt và Küstrin, do Tướng Theodor Busse chỉ huy, và một ở phía bên trái Busse, trấn giữ một tuyến phòng thủ đến tận biển Baltic. Hitler nói : Tập đoàn quân thứ hai này cần một người biết cách chiến đấu với người Nga nên yêu cầu Manteuffel đến trình diện ngay với Reichsführer Himmler tại Sở chỉ huy của ông ta. Manteuffel đã nghe nói rằng Himmler là chỉ huy trên danh nghĩa của Cụm Vistula, nhưng nó có vẻ quá lố bịch và anh ta không thể không hỏi tại sao một người như vậy lại được Quốc trưởng chọn lựa vào vị trí quan trọng như vậy.

    Hitler chỉ còn biết nhún vai và phân trần : "Himmler được bổ nhiệm làm Tư lệnh chỉ là một động thái chính trị." Khi Manteuffel rảo bước qua tiền sảnh, anh ta lại nghe Keitel trách cứ ngay phía sau . “Tôi đã nghe những gì anh nói với Quốc trưởng trong cuộc họp,” rồi ông ta cao giọng. “Lẽ ra, anh không nên nói những điều như thế. Fuhrer đã bị hành hạ đủ điều lắm rồi! ”.....
    ngthi96, viagralesstatpcit thích bài này.
  2. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939



    2.






    Ở phía bên kia sông Oder, tâm lý căng thẳng ở Wugarten đã dần dà lắng xuống; giờ đây, các tù binh Đồng minh dưới quyền của Đại tá Fuller không còn sợ một cuộc phản kích của quân Đức từ phía bắc. Lúc này, mối quan tâm chính của họ là những người Nga đang chuẩn bị cho chiến dịch cuối cùng tới thủ đô Berlin. Cứ vài ngày lại có một đơn vị Hồng quân ghé qua thị trấn, để rồi một số quân nhân lại say bí tỉ và gây ra các hành vi cưỡng hiếp. Đã có lúc, Fuller lên tiếng phản đối gay gắt về hành vi không thể chấp nhận được của Hồng quân với một vị Nga, thì ông ta chỉ nhận lại một câu trả lời : “Thưa Đại tá, ông phải nhớ rằng tất cả phụ nữ đều là tài sản của Hồng quân. Ông đừng nên can thiệp vào chuyện của những người lính Nga này nữa. "

    Tình hình ngày càng trở lên tệ hại hơn khi lương thực trong làng dần dần sụt giảm đến mức báo động. Vào ngày 4 tháng Ba, một chiếc xe hậu cần được hứa hẹn từ lâu của người Nga từ từ lăn bánh vào thị trấn, chỉ mang theo mười sáu gói thuốc lá và một lá thư từ Sở chỉ huy Tập đoàn quân thông báo cho Fuller rằng xe tải sẽ đến Wugarten trong vài giờ nữa để vận chuyển các tù nhân Mỹ về phía đông, sau đó sẽ hồi hương. Vào lúc bình minh, dân làng im lặng đứng nhìn những người bảo vệ của họ leo lên năm chiếc xe tải Dodge. Ngay trước khi rời đi, Fuller đề nghị giao cho Đại úy Foch - một người họ hàng với một vị Thống chế nổi tiếng - chỉ huy số tù nhân còn lại trong làng. Đối với các cựu tù binh Ý, đây là sự sỉ nhục cuối cùng đối với vị tướng Geloso của họ.

    Fuller đưa Hegel - người phiên dịch kiêm bảo vệ người Đức giả dạng người Mỹ - vào xe tải chở chính ông và cảnh báo rằng Hegel phải hết sức cẩn thận khi di chuyển qua các thị trấn. Tại một trong những trạm dừng chân, Đại úy Donald Gilinski nhận thấy một người lính Nga đã chết nằm dưới mương và nói với một Trung sĩ Hồng quân hãy lấy cái thẻ quân nhân của người chết.

    "Tại sao phải làm như vậy ?"Trung sĩ Hồng quân hỏi.

    "Rất đơn giản, cái chết của anh lính sẽ được báo cáo lại cho Sư đoàn."

    "Khỏi cần!"

    " Cha mẹ người lính sẽ được thông báo về cái chết của con trai họ !”

    “Khi anh ta không trở lại,”Trung sĩ Nga nói, “họ đều biết là anh ấy đã hy sinh.”

    .. Càng đến gần Posen, anh lính giả dạng Hegel càng phấn khích trước viễn cảnh được gặp vợ con. Fuller và các sĩ quan Mỹ khác trong chiếc xe tải một lần nữa phải cảnh báo anh ta không được tiết lộ bản thân. Nếu Hegel bị phát hiện, tất cả bọn họ sẽ gặp rắc rối. Nhưng khi họ lái xe tình cờ đi qua con phố Hegel, anh ta không thể cưỡng lại việc nhìn trộm vào nhà mình. Cựu tù nhân vốn là một sĩ quan trẻ Hoa kỳ vội vàng kéo giật lại anh ta lại.

    Đoàn người tiếp tục đi qua thành phố rồi đến một trại tập trung tù nhân chiến tranh lớn tại Wrzesnia, nơi tràn ngập mọi sắc tộc đang tham chiến : từ người Mỹ, Anh, Pháp, Ba Lan, Nam Tư, Rumani, Ý và có cả một người Brazil duy nhất. Nhìn thấy Fuller, nhóm lính Mỹ từng đổ bộ với ông ta ở bãi biển Normandy đã nhiệt tình chào đó. Nhưng phản ứng của người Anh rất lạnh lùng, thậm chí, một người lính đã nhảy xổ Fuller trong lúc ông ta không đề phòng và đánh ông ta ngã xuống đất.

    "Có chuyện gì với tên khốn điên khùng đó vậy?" - Fuller hỏi.

    “Ồ, hắn ta đánh bất cứ ai trông giống như là sĩ quan,” một người lính Anh khác vội vàng giải thích.

    Đêm hôm sau, tất cả người Mỹ và người Anh trong trại lên một chuyến tàu đi qua Warsaw để sau đó tới đích là Odessa. Từ đó, họ sẽ lên tàu Anh để hành trình sang nước Ý.





    o O o





    Khi nhóm Fuller đến gần thủ đô Ba Lan, có hai thanh niên Ba-lan trẻ tuổi muốn trốn sang nền tự do phương Tây cũng tìm cách gia nhập nhóm. Cả 2 thanh niên từng trốn thoát khỏi thủ đô Warsaw để tránh bị người Nga hành quyết. Hành trình của họ thật ly kỳ, nhất là đối với một người có tên là Jan Krok Paszkowski, mới 18 tuổi, con trai của một chỉ huy Sư đoàn Ba-lan bị quân Đức bắt năm 1939 và hiện thời vẫn là tù nhân của Đức Quốc xã. Anh trai Jan, một trung úy, từng chiến đấu với quân Nga trong khi cha anh lại chiến đấu với quân Đức. Sau đó anh ta gia nhập lực lượng kháng chiến Ba Lan, nhưng bị Đức Quốc xã bắt và bị xử tử ở Maidenek. Giống như anh trai của mình, Jan cũng tham gia Đội quân kháng chiến AK (Armia Krajo-wa) hay còn gọi là Lực lượng Home Army do tướng Bor chỉ huy. Cũng như những thanh niên Ba-lan trẻ tuổi khác, Jan xuống đường lao vào cuộc khởi nghĩa Warsaw và bị thương tới 2 lần. Cuộc khởi nghĩa bị quân Đức đàn áp đẫm máu, và trong mộtnỗ lực cuối cùng tuyệt vọng để thoát ra, Jan cùng và 300 chiến binh kháng chiến cố gắng trốn thoát qua hệ thống cống rãnh ngầm nhưng buộc phải ngoi lên mặt đất ngay trước trụ sở cảnh sát Đức. Trên đường bị mang đi hành quyết, Jan đã tìm cách trốn thoát, và với sự giúp đỡ của những người nông dân, Jan đã thoát về được nhà mình ở gần thành phố…..
    tatpcitviagraless thích bài này.
  3. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Ngay sau khi cuộc Tổng tấn công của Liên Xô vào ngày 12 tháng Giêng bắt đầu và quân Nga đã vượt qua sông Vistula, còn Lực lượng Home Army đã bị tan rã – nước Ba Lan sẽ sớm được hưởng tự do. Nhưng chỉ sau có vài tuần, Jan mới bừng tỉnh, cậu thấy rõ ràng là Stalin đang có ý định biến Ba Lan trở thành nước vệ tinh của Cộng sản - chứ không phải giải phóng đất nước cậu ta – thế nên những chiến binh cũ thuộcHome Army, trong đó có cả Jan, lại bắt đầu tham gia kháng chiến chống lại ông chủ mới.

    Đầu tháng Ba, biết tin người Nga chuẩn bị bắt mình vì Jan đã tham gia vào cuộc nổi dậy Warsaw, nên cậu ta quyết định trốn sang phía tây. Có tin đồn rằng quân Đức sắp tổ chức một cuộc phản công gần biên giới Ba Lan - Tiệp Khắc. Jan và một cộng sự trẻ tuổi khác hy vọng sẽ vượt qua được chiến tuyến trong lúc hỗn quân hỗn quan, và họ lên một chuyến tàu đến Katowice ở miền nam Ba Lan. Jan đang mặc một bộ lễ phục sáng bóng, sờn rách (mua ở chợ trời bằng 2 miếng vàng trị giá 10 đô la/ thời điểm 1945) và đi đôi ủng kỵ binh đen cao, nhưng không gây ra lời xì xào, bình luận nào — vào năm đó sự kỳ quái trong trang phục là chuyện thường tình của cuộc sống.

    Thành phố Katowice đã trở thành một thánh địa nhộn nhịp cho những người di dân cũng như những kẻ đang kiếm tìm cơ hội. Sự tò mò của hai chàng thanh niên được khơi dậy bởi tấm biển bên ngoài một ngôi nhà: KHU ĐỊNH CƯ PHÍA TÂY.Vào bên trong, họ phát hiện ra rằng với một vài chai vodka, có thể nhận ngay được chứng minh thư mới, cho phép họ định cư trên lãnh thổ Đức như trong một số điều khoản thỏa thuận dành cho Ba Lan tại Hội nghị Yalta. Jan tin chắc đó là một sự cứu cánh cho bọn cậu. Đúng là — như những người trong hàng nói với anh rằng phải có một lý do nào đó mà người Nga mới chấp nhận loại giấy tờ tùy thân như thế.

    Sáng hôm sau, hai chàng trai trẻ, mang trong mình một danh tính mới, đi đến gần một cây cầu ở gần sông Oder. Họ bị chặn lại ở một trạm canh gác của Nga và cùng những người khác đến một khu trại có hàng rào dây thép gai ở phía đông con sông. Tại đây, họ nói với một sĩ quan NKVD rằng họ được những người phụ trách thuộc Tổ chức di dân của KHU ĐỊNH CƯ PHÍA TÂY cử đến để tìm nơi trú chân cho những người dân tản cư tại thành phố cổ Neisse, một thành phố cách 40 km về phía tây con sông Oder nằm trên lãnh thổ Đức, sát ngay ngã ba biên giới Đức – Ba lan và Tiệp khắc. Hồng quân tin vào những lời trình bày của họ và cấp cho họ những giấy thông hành đặc biệt cho phép họ đi bất kỳ phương tiện nào của Liên Xô. Vào giữa buổi chiều, cả hai lại đi nhờ về phía tây qua sông Oder, trên một chiếc xe tải của Nga. Vào lúc hoàng hôn, chiếc xe tải dừng lại gần cây cầu dẫn đến Thành phố Neisse, và họ được yêu cầu xuống xe. Đi bộ lên cầu, họ có thể nhìn thấy thành phố rực lửa bên kia sông; thỉnh thoảng họ cũng nghe thấy những tiếng “tạch tạch..” ngắt quãng liên tục của những tràng tiểu liên lẻ tẻ trong nội đô thành phố…

    Có hai chốt chặn trên cầu; họ đã vượt qua chốt đầu tiên nhưng bị chặn lại ở chốt chặn thứ hai, và được thông báo rằng đây là biên giới mới giữa Ba Lan và Đức. Jan chỉ vào thành phố Neisse đang bốc cháy - nổi tiếng với cái tên Silesian Rome (*) - và hỏi liệu anh có thể giúp cứu các tòa nhà lịch sử ở Neisse, nơi sẽ là một điểm đích cuối cùng của một phần đất nước Ba Lan mới sau chiến tranh. Lập luận này đã gây ấn tượng với một Thiếu tá Nga đến nỗi ông không chỉ cho phép họ đi qua mà còn ra lệnh cho một Binh nhì và một Trung úy hộ tống theo họ. Khi cả toán người đi về phía thành phố, người lính binh nhì - một thanh niên mặt mày bặm trợn, xám xịt – mới thổ lộ "Tôi từng là một sĩ quan nhưng tôi đã bắn một tay sĩ quan khác vì tội hãm hiếp một cô gái Ba Lan." Jan nghĩ rằng anh binh nhì này chắc là một nhân viên NKVD giả dạng, vì viên Trung úy đã đối xử rất tôn trọng với anh ta.

    Trong thành phố cổ xinh đẹp này , một nhóm nhỏ binh lính đang cố gắng tập hợp lại với nhau để dập lửa, nhưng hầu hết lính tráng đang bận rộn cướp bóc. Họ say sưa cuồng loạn trên khắp các con phố, thi nhau nã đạn vào những hình ảnh của chính họ được phản chiếu lấp lánh trên những ô cửa kính.

    “Những người Cộng sản không nên có hành động thú vật!”,tay binh nhì Hồng quân mặt nhăn nhó hét lên. “Chúng ta là những người Cộng sản. Tôi cũng là một người cộng sản. Các bạn không nên đốt cháy trụi một thị trấn ở Ba Lan. Chúng ta là anh em chiến hữu mà! ”.

    Trong một đêm bận rộn và đến rạng sáng, không hề có sự giúp đỡ, cả 4 người chỉ có thể cứu được một vài tòa nhà, và bộ lễ phục của Jan không còn nhận ra được nữa. Người lính binh nhì Nga vội vàng tìm 2 bộ quần áo mới trong giống như hai chú gà chọi màu trắng-đỏ cho hai người Ba Lan, bắt mặc vào để họ không bị bắn nhầm.

    Vào buổi tối, họ được cả toán được mời đến một khu hỗn độn toàn các sĩ quan để ăn mừng và giới thiệu đó là buổi ra mắt của các đại diện thuộc “Tân Chính quyền Ba Lan”. Jan ngồi giữa hai nữ sĩ quan Hồng quân khá xinh đẹp, những người có vẻ chỉ nói được tiếng Ba Lan một cách nhát gừng nhưng tỏ ra có thái độ rất thân thiện. Trong khi họ ăn, bảy nhạc sĩ – nguyên là các thường dân Đức, mỗi người đeo băng tay có ghi dòng chữ “Nghệ sĩ” - chơi các bản nhạc phổ thông phương Tây thịnh hành. Sau bữa tối, một màn trình diễn kỳ lạ bắt đầu: đàn ông khiêu vũ một mình hoặc cùng với nhau, nhưng hiếm khi có phụ nữ nhảy cùng. Cuộc vui này diễn ra như một dòng chảy bất tận cho đến tận ba giờ sáng, làm cho 2 thanh niên Ba Lan trẻ tuổi bị cuốn vào vai trò đội lốt gian lận của họ đến nỗi họ gần như tin chắc vào điều đó…

    Tuy nhiên, khi tỉnh rượu vào buổi sáng hôm sau, họ quyết định phải nên trốn đi trước khi người Nga phát hiện ra chân tướng của họ, nhưng trước khi ra đến rìa phía tây của thị trấn, hai chiếc xe sedan màu đen lao tới, theo sau là cả một đoàn xe tải chở binh lính đang vẫy cờ Ba Lan. Một trong những chiếc sedan dừng lại và hai nữ sĩ quan Hồng quân bước ra trong trang phục dân sự. Trước sự ngạc nhiên tột độ của Jan, chính một trong hai người nữ sĩ quan xinh đẹp đêm hôm qua đã nói chuyện với anh bằng thứ tiếng Ba Lan cực kỳ hoàn hảo. “Chúng tôi rất vui vì bạn đã ở đây,” nữ sĩ quan xinh đẹp nói. "Chúng tôi đến để thành lập một Chính quyền Cộng sản tại đây !”.Cô giới thiệu những người khác trên xe là những người Cộng sản và hỏi liệu cô ta có thể giúp gì cho hai thanh niên Ba Lan trẻ tuổi không.

    Người bạn của Jan đã suy nghĩ nhanh và nói, "Chúng tôi làm việc trong Tổ chức văn hóa và công việc của chúng tôi là bảo vệ các tòa nhà cổ và viện bảo tàng." Mưu mẹo tự phát này nghe có vẻ hợp tai với những người Cộng sản, vì không lâu sau, trước khi họ thành lập văn phòng riêng cho hai thanh niên Ba Lan trẻ tuổi, cấp cho họ một chiếc xe tải và giấy phép đi sang đến tận Tiệp Khắc để mang về những di vật trong các viện bảo tàng bị cướp bóc;thậm chí còn cung cấp cho họ những nơi tạm nghỉ thoải mái tại du thuyền đậu trên sông.Tất cả những điều mà hai thanh niên Ba Lan trẻ tuổi phải làm lúc này là thư giãn và chờ đợi tin chiến thắng.
    ……………………….

    (*). Trước khi WW II bùng nổ, rất nhiều thành phố Ba lan có nhiều công trình kiến trúc độc nhất vô nhị, nên được du khách đặt các biệt danh như : Warsaw (Paris phương Bắc), Zamosc ( Venice phương Bắc), Sandomierz (Little Rome), Bydgoszcz (Little Berlin). Còn thành phố mà 2 nhân vật đến mang tên là Lusatian Neisse (Tiếng Ba lan là Nysa - mệnh danh là Silesian Rome) thuộc Hạ lưu Silesia - ngã ba biên giới 3 quốc gia, trên lãnh thổ Đức. Biệt danh này ám chỉ thực tế rằng Nysa từng được coi là đẹp không kém thành Rome và nó từng là thủ đô của công quốc Nysa do các vị giám mục Công giáo cai trị. Ngay từ Thế kỷ XVI, Nysa đã được coi là viên ngọc của kiến trúc Silesia. Là thủ đô của công quốc giám mục, nó nổi bật nhờ "bức tranh toàn cảnh của một trăm tòa tháp", có thể nhìn thấy rõ ràng từ những ngọn đồi lân cận.Bức tranh toàn cảnh này - những ngọn tháp của vô số nhà thờ và tòa thị chính, những ngọn tháp của những bức tường thành - đã mang lại cho Nysa biệt danh là "Silesian Rome". Thành phố nhỏ này bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai....
    maseo, viagralesstatpcit thích bài này.

Chia sẻ trang này