1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Pháo tự hành xung kích (Assault gun)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi chiangshan, 22/06/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    SU-152
    [​IMG]
    SU-152 do thiếu tá Sankovsky chỉ huy thuộc Tập đoàn quân 13 đã tiêu diệt 10 xe tăng Đức trong trận đụng độ đầu tiên. Kursk, tháng 8-1943.
    SU-152 trang bị pháo lựu ML-20 được hoàn tất thiết kế vào tháng 2-1943 và đi vào sản xuất hàng loạt tháng 3-1943. Pháo chính ML-20 152mm có vận tốc đầu nòng 655m/s, xuyên được vỏ thé thẳng 110mm ở khoảng cách 2.000m. Tuy nhiên do quá trình nạp đạn nhiều giai đoạn nên tốc độ bắn chậm (2 phát/phút). Được trang đạn xuyên giáp AP nặng 48,78kg và đạn nổ nặng 43,6kg. SU-152 được phát triển để yểm trợ gần cho bộ binh nhưng nó vẫn có thể sử dụng để chống tăng. Có hệ thống ngắm toàn cảnh (cho bắn gián tiếp) và hệ thống ngắm xa (cho bắn trực tiếp). Tầm bắn trực tiếp khoảng 700m.
    [​IMG]
    SU-152 do trung uý S.F.Bezerin chỉ huy thuộc Phương diện quân Baltic số 2, mùa hè 1944.
    Trung đoàn pháo tự hành đầu tiên trang bị SU-152 này được tổ chức tháng 5-1943. Trong trận Kursk SU-152 nhận thêm một biệt danh mới - "Zveroboy" (kẻ săn thú) vì trong 12 ngày đêm chiến đấu, trung đoàn này đã tiêu diệt 12 xe tăng Tiger và 7 pháo tự hành Ferdinand. Trung đoàn có 12 SU-152, sau đó là 21 (mùa đông 1943-1944).
    [​IMG]
    SU-152 của trung đoàn pháo tự hành hạng nặng 368 yểm trợ cho cuộc tấn công của Quân đoàn xe tăng Cận vệ số 4, Tập đoàn quân 60, Phương diện quân Ukrainian số 1 ở Lvov ngày 27-7-1944.
    Thông số :
    Nặng : 45,5 tấn.
    Dài : 8,95m.
    Rộng : 3,25m.
    Cao : 2,45m.
    Kíp lái : 5 người.
    Vũ khí : pháo ML-20S 152,4mm.
    Cơ số đạn : 20 viên.
    Tốc độ bắn : 2 phát/phút
    Tầm hoạt động : 165km.
    Vận tốc: 43km/h trên đường và 14km/h.
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    ISU-152/-122/-122S
    [​IMG]
    ISU-122
    Loạt xe ISU gồm ISU-152, ISU-122, ISU-122S đều dựa trên khung xe IS-2.
    ISU-152 trang bị một khẩu pháo lựu ML-20 152mm và cơ số đạn 20 viên. Khẩu pháo này có khả năng xuyên 120mm giáp thẳng ở khoảng cách 1.000m.
    [​IMG]
    ISU-152 của trung đoàn pháo tự hành hạng nặng 1419 của Quân đoàn xe tăng Cận vệ số 7. Ba Lan, ngày 17-1-1945.
    ISU-122 được phòng thiết kế Chelyabinsk tiến hành do sự thiếu hụt pháo lựu ML-20 152mm, trong khi đang có sẵn một số lớn pháo A-19 122mm và rất nhiều đạn. ISU-122 trang bị loại pháo này với cơ số đạn 30 viên. Khẩu pháo này xuyên được 150mm giáp thẳng ở khoảng cách 1.000m.
    [​IMG]
    ISU-122 của trung đoàn pháo tự hành số 25 Ba Lan vượt sông Neisse, tháng 4-1945.
    ISU-122S hay ISU-122-2, trang bị pháo D-25S 122mm, bản cải tiến của A-19 với bộ khoá nòng bán tự động, cho phép tăng tốc độ bắn từ 1,5 lên 3 phát/phút.
    [​IMG]
    ISU-122S ở Konigsberg, tháng 4-1945.
    Đạn pháo cho ISU gồm đạn bán xuyên, đạn nổ hoặc đạn HE. Kíp lái trang bị tiểu liên PPS hoặc PPSh, cùng lựu đạn "quả dứa" F-1.
    Mùa xuân 1944, các trung đoàn pháo tự hành hạng nặng
    SU-152 bắt đầu được trang bị lại bằng ISU-122 và ISU-152. Tất cả đều được tặng danh hiệu "Cận vệ". Đến cuối chiến tranh, 56 đơn vị như vậy được tổ chức.
    Mỗi trung đoàn có 21 xe ISU-152 hoặc ISU-122 hoặc hỗn hợp cả hai loại. Chúng không được phân biệt và được sử dụng cho mục đích, chiến thuật giống nhau.
    Tháng 3-1945, lữ đoàn pháo tự hành hạng nặng Cận vệ 66 được thành lập. Nó gồm 3 trung đoàn, tổng cộng 1.804 người, với 65 ISU-122 và 3 SU-76M.
    Tháng 2-1944, đơn vị ISU đầu tiên được thành lập. Nó mang tên tương tự các đơn vị xe tăng. Ví dụ : trung đoàn pháo tự hành hạng nặng độc lập. Mỗi trung đoàn có 4 phân đội (mỗi phân đội 5 xe + 1 xe cho chỉ huy). Chiến thuật sử dụng cũng tương tự các trung đoàn xe tăng hạng nặng : yểm trợ các cuộc tiến công. Tất cả các trung đoàn pháo tự hành hạng nặng đều nằm trong đội hình Tập đoàn quân hoặc Phương diện quân (chủ yếu là các đơn vị dự bị). Những khẩu pháo tự hành này được sử dụng làm hoả lực từ xa vì chúng không hiệu quả ở tầm gần. Tốc độ bắn chậm không thích hợp cho cận chiến.
    Mặc dù không có nhiều súng máy, chúng vẫn là những vũ khí hiệu quả trong chiến đấu đô thị, vì khẩu pháo rất mạnh với đạn nổ HE.
    [​IMG]
    ISU-152 trên đường phố Polotzk (Byelorussia) tháng 7-1944.
    Lần sử dụng tập trung ISU đầu tiên là mùa hè 1944, trong chiến dịch tấn công "Bagration", khi ít nhất 14 trung đoàn pháo tự hành hạng nặng tham chiến. Lập tức, loại pháo này đạt được danh tiếng về khả năng chống lại xe tăng Tiger và Panther của Đức. Ví dụ, mùa hè 1944, một nửa tiểu đoàn Panzer 502 (6/12 chiếc) đã bị xoá sổ vì hoả lực ISU.
    ISU thường được sử dụng kết hợp với xe tăng hoặc bộ binh để yểm trợ tấn công của họ. ISU cũng thường xuyên trở thành vũ khí chính chống lại các cuộc phản kích bất ngờ của Đức. Ví dụ, ngày 15-1-1945, ở Đông Phổ gần thị trấn Borove, quân Đức mở cuộc phản kích vào bộ binh Soviet - được yểm trợ bởi trung đoàn pháo tự hành hạng nặng Cận vệ 390. Bộ binh Soviet rút lui về phía sau vị trí của trung đoàn. Trung đoàn nổ súng, nhiều xe bọc thép bị phá hủy, phần lớn bộ binh Đức bị tiêu diệt. Cuộc phản kích thất bại.
    ISU cũng được dùng để pháo kích vì chúng thích hợp cho cả bắn gián tiếp lẫn trực tiếp. Trong chiến dịch tấn công Sandomir-Silesia, trung đoàn pháo tự hành hạng nặng Cận vệ 368 của Phương diện quân Ukranian số 1 được giao nhiệm vụ pháo kích, và trong 107 phút trung đoàn đã bắn 980 phát đạn.
    Kết quả là 2 khẩu đội súng cối và 8 khẩu pháo Đức bị phá hủy, một tiểu đoàn bộ binh bị loại khỏi vòng chiến.
    Thông số :
    ISU-152
    Nặng : 46 tấn.
    Dài : 9,85m.
    Rộng : 3,07m.
    Cao : 2,48m.
    Kíp lái : 5 người.
    Vũ khí : - pháo ML-20S 152,4mm
    - 1 súng máy phòng không DShK 12,7mm.
    Cơ số đạn : ML-20S : 20 viên
    12,7mm : 250 viên.
    Tầm hoạt động : 145km.
    Vận tốc : 35km/h trên đường và 18km/h.
    ISU-122/-122S
    Nặng : 46 tấn.
    Dài : 9,85m.
    Rộng : 3,07m.
    Cao : 2,48m.
    Kíp lái : 5 người.
    Vũ khí : - pháo D-25S 121,9mm
    - 1 súng máy phòng không DShK 12,7mm.
    Cơ số đạn : D-25S : 30 viên
    12,7mm : 250 viên.
    Tầm hoạt động : 145km.
    Vận tốc : 35km/h trên đường và 18km/h.
    Ngoài ra còn một số bản cải tiến, trang bị bằng pháo nòng dài BR-8 152mm, pháo BL-10 152mm, pháo S-26 130mm nhưng không được chấp nhận đưa vào biên chế.
    [​IMG]
    ISU-130, trang bị pháo S-26 130mm.
    [​IMG]
    ISU-152, trang bị pháo BL-10 152mm.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 11:27 ngày 23/06/2005
  3. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Hồi ức của lính tăng Dmitri Loza có kể về cuộc đối đầu giữa Panther và ISU 152: trong trận đánh trên đườcng phố Vienna, bộ binh Nga bị Panther phản kích. Họ gọi cho cánh xe tăng và Loza phái lên trước một ISU 152. Tất cả binh lính đổ ra quan sát cuộc đối đầu. Chỉ bằng một phát đạn, ISU 152 bắn bay luôn tháp pháo chiếc Con Báo. Kính cửa vỡ rơi lả tả xuống đầu đám lính hiếu kỳ...
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Pháo tự hành Nhật :
    Ho-Ni I/-II/-III
    Còn có tên là Type-97, loại pháo tự hành này dựa trên khung xe tăng Type-97 Chi-Ha, được phát triển từ năm 1942.
    Ho-Ni I trang bị pháo chống tăng Type-90 75mm.
    Ho-Ni II trang bị pháo lựu Type-91 105mm.
    Ho-Ni III trang bị pháo phòng không Type-88 75mm.
    Pháo tự hành Ho-Ni được sử dụng cả để yểm trợ cho bộ binh lẫn chống tăng. Chỉ có một số lượng rất ít, 124 xe được sản xuất.
    Ho-Ni I
    Ho-Ni III
    Thông số :
    Nặng : 14,6 tấn (Ho-Ni I), 16,1 tấn (Ho-Ni II/-III).
    Dài : ?
    Rộng : ?
    Cao : ?
    Kíp lái : 3 người (Ho-Ni I), 5 người (Ho-Ni II/-III)
    Vũ khí : Ho-Ni I : pháo chống tăng Type-90 75mm.
    Ho-Ni II : pháo lựu Type-91 105mm.
    Ho-Ni III : pháo phòng không Type-88 75mm.
    Cơ số đạn : ?
    Tầm hoạt động : 195km (130 dặm).
    Vận tốc : 37,5km/h (25 dặm/h)
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 10:45 ngày 26/06/2005
  5. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Pháo tự hành Đức :
    StuG III
    [​IMG]
    StuG III F/8, mặt trận Nam Âu.
    StuG III bắt đầu được phát triển từ tháng 6-1936 và bắt đầu đi vào sản xuất tháng 1-1940. Loại pháo tự hành này dựa trên khung xe Pz III, nhưng vỏ thép phía trước được tăng từ 30mm lên 50mm và từ tháng 5-1943 được tăng lên thành 80mm.
    Loạt xe đầu tiên, gồm StuG III A, B, C, D, E được trang bị pháo StuK-37 L/24 75mm nòng ngắn.
    [​IMG]
    StuG III E
    Loạt xe thứ hai, StuG III F, F/8, G, StuG III F được trang bị pháo L/43 75mm nòng dài. Sau đó StuG III F được thay thế bằng StuG III F/8 và G trang bị pháo L/48 75mm nòng dài hơn. Kể từ StuG III E, xe được trang bị thêm súng máy đồng trục MG34 7,92mm.
    Trong quá trình chiến đấu, một số ít StuG được cải tiến và trang bị lại với các vũ khí khác như pháo L/33 75mm hoặc súng phun lửa.
    [​IMG]
    StuG III G
    Những xe StuG III A đầu tiên được sản xuất tháng 1-1940, sau đó được sử dụng trong chiến dịch ở Pháp. Chúng được tổ chức thành các phân đội 6 xe, chia thành 3 trung đội.
    Đến tháng 8-1940, các đơn vị pháo tự hành được tổ chức thành các tiểu đoàn 18 xe, gồm 3 phân đội. Tháng 3 và 4-1941, số xe của mỗi phân đội được tăng lên 7. Từ năm 1942, số pháo tự hành trong mỗi tiểu đoàn tăng lên 28. Tháng 10-1942, biên chế tiểu đoàn pháo tự hành lại thay đổi, với số lượng 31 xe, gồm cả 3 xe cho phân đội chỉ huy. Tháng 6-1944, lữ đoàn pháo tự hành được tổ chức với 33 StuG III/IV và 12 StuH 42. Tuy nhiên chỉ những sư đoàn chủ lực Wehrmacht hay Waffen SS mới có trong biên chế các lữ đoàn StuG.
    Tính từ tháng 1-1940 đến tháng 3-1945, có trên 9.400 StuG thuộc tất cả các phiên bản được sản xuất. 80% trong đó là StuG II G.
    StuG Át
    - Tháng 9-1942 ở Stalinegrad, tiểu đoàn StuG số 244 đã bắn cháy 9 xe tăng Soviet trong 20 phút.
    - Wachtmeister Kurt Kirchner của tiểu đoàn StuG số 677 đã tiêu diệt 30 xe tăng Soviet trong vài ngày chiến đấu ở miền bắc nước Nga, tháng 2-1942.
    - Hauptmann Peter Franz, chỉ huy tiểu đoàn StuG "Grossdeutschland" tiêu diệt 43 xe tăng T-34/76 của Hồng quân trong trận đánh ở Borissovka ngày 14-3-1943.
    - Oberfeldwebel Rudolf Jaenicke, trung đội trưởng StuG, đã tiêu diệt 12 xe tăng BT-2 của Hồng quân cùng máy kéo và nhiều trang bị được chở bằng đường sắt, tháng 7-1941.
    - Unteroffizier Horst Naumann của tiểu đoàn StuG số 184, từ 1 đến 4-1-1943 đã tiêu diệt 12 xe tăng Soviet trong trận đánh ác liệt ở khu vực Demyansk.
    - SS-Sturmbannfuehrer Walter Kniep, chỉ huy tiểu đoàn StuG số 2, sư đoàn SS Panzer số 2 "Das Reich", từ 5-7-1943 đến 17-1-1944 đã cùng tiểu đoàn tiêu diệt 129 xe tăng Soviet và chỉ bị mất 2 chiếc StuG.
    StuG III cũng được trang bị cho các đồng minh của Đức : Romania (119 StuG III F/8 và G), Bulgaria (55 StuG III G) , Hungary (40 StuG III G), Italy (5 StuG III G), Tây Ban Nha (10 StuG III F/8 và G) và Phần Lan (59 StuG III G)
    Năm 1943 và 1944, Phần Lan mua 59 StuG III G. Chúng được sửa đổi chút ít, tăng cường thêm các biện pháp bảo vệ, ngoài ra khẩu súng máy MG34 Đức được thay bằng trung liên DT 7,62mm của Nga. Số StuG này được tổ chức trong tiểu đoàn pháo tự hành thuộc sư đoàn thiết giáp Phần Lan. Trận đánh đầu tiên ngày 14-6-1944, những xe StuG của Phần Lan đã tiêu diệt 11 T-34/85, 2 ISU-152, 1 KV-1 và 1 IS-2, cùng một số khẩu đội pháo chống tăng và súng máy.
    Tổng cộng, các StuG của Phần Lan đã tiêu diệt 87 xe tăng Soviet, đổi lại 8 chiếc StuG bị thiệt hại.
    [​IMG]
    StuG III G Phần Lan. Những khối gỗ gắn vào hai bên hông xe để bảo vệ. Để ý khẩu DT Nga trên tháp pháo.
    Năm 1967, StuG được quân đội Syria sử dụng trong cuộc chiến ở cao nguyên Golan. Một số đã bị quân đội Israel tịch thu.
    Thông số :
    StuG III A
    Nặng : 19,6 tấn.
    Dài : 5,38m.
    Rộng : 2,92m.
    Cao : 1,95m.
    Kíp lái : 4 người.
    Vũ khí : pháo StuK-37 L/24 75mm.
    Cơ số đạn : 44 viên.
    Tầm hoạt động : 160km.
    Vận tốc : 40km/h.
    StuG III G
    Nặng : 23,9 tấn.
    Dài : 6,77m.
    Rộng : 2,95m.
    Cao : 2,16m.
    Kíp lái : 4 người.
    Vũ khí : - pháo StuK-40 L/48 75mm.
    - 2 súng máy MG34 hoặc MG42 7,92mm.
    Cơ số đạn : - pháo L/48 75mm : 54 viên.
    - súng máy MG34/MG42 : 600 viên.
    Tầm hoạt động : 155km.
    Vận tốc : 40km/h.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 18:12 ngày 27/06/2005
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    StuH 42
    [​IMG]
    StuH 42 được phát triển từ tháng 10-1942, dựa trên khung xe StuG III F và F/8. Trang bị pháo lựu StuH 42 L/28 105mm. Từ năm 1943, StuH 42 được sản xuất dựa trên khung xe StuG III G. Tính đến tháng 2-1945, tổng cộng 1.212 StuH 42 được sản xuất.
    Trong chiến đấu, nhiệm vụ chính của StuH là yểm trợ cho StuG và bộ binh, mặc dù chúng cũng có thể bắn đạn lõm chống thiết giáp. Trong trận Kursk, 68 xe đã được sử dụng.
    Thông số :
    Nặng : 26,4 tấn.
    Dài : ?
    Rộng : ?
    Cao : ?
    Kíp lái : 4 người.
    Vũ khí : - pháo StuH 42 L/28 105mm.
    - 1 súng máy MG34 7,92mm.
    Cơ số đạn : ?
    Tầm hoạt động : 153km (102 dặm).
    Vận tốc : 37,5km/h (25 dặm/h)
    StuG IV
    StuG IV bắt đầu đi vào sản xuất từ tháng 12-1943. Đây là một phiên bản cải tiến của StuG III. Được trang bị pháo L/48 75mm nòng dài gắn trên khung xe Pz IV. Kíp lái gồm 4 người.
    Tính đến tháng 3-1945, tổng cộng 1.139 StuG IV đã xuất xưởng.
    [​IMG]
    StuG IV của Cụm Tập đoàn quân C ở Italy năm 1944.
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 18:31 ngày 27/06/2005
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Marder I
    Loạt xe Marder được phát triển vào cuối năm 1941, với mục đích chống lại các loại xe tăng mới của Hồng quân như T-34 hay KV. Pháo tự hành Marder dựa trên khung xe của một số loại xe tăng Đức hoặc xe tăng Pháp chiến lợi phẩm. Được trang bị bằng pháo chống tăng PaK 40 75mm của Đức hoặc pháo cấp sư đoàn F-22 76,2mm Nga chiến lợi phẩm (được cải tiến để bắn đạn 75mm Đức). Dùng đạn xuyên giáp, khẩu PaK 40 có thể xuyên 116mm giáp thẳng ở 1.000m, còn khẩu F-22 cải tiến xuyên được 108mm.
    [​IMG]
    Marder I dựa trên khung xe bọc thép Tracteur Blinde 37L của Pháp.
    Năm 1940, quân đội Đức tịch thu hơn 300 xe 37L của Pháp. Tháng 5-1942, người Đức quyết định chuyển số xe này thành pháo chống tăng tự hành. Chúng được trang bị lại bằng pháo chống tăng PaK 40/1 L/46 75mm và súng máy MG34 7,92mm. Vỏ thép dày từ 5-12mm.
    Tháng 7 và 8-1942, 170 Marder I dựa trên khung xe 37L được xuất xưởng. Ban đầu chúng được đưa tới mặt trận phía đông, nhưng sau đó chuyển sang trang bị cho lực lượng ở Pháp. Năm 1943, sư đoàn Panzer số 12 "Hitlerjugend" nhận được 3 Marder I làm nhiệm vụ huấn luyện. Tiểu đoàn Panzer 200, sư đoàn Panzer SS số 21 đã sử dụng 24 Marder I trong trận đánh ở Normandy. Chúng tác chiến khá hiệu quả và quân Đồng minh thường báo cáo về chúng như là các pháo chống tăng 88mm tự hành. Mùa xuân 1944, sư đoàn Panzer-Grenadier SS số 17 "Götz von Berlichingen" có một đại đội 12 xe Marder I, tất cả đều mất trong chiến đấu ở Normandy. Năm 1944 vẫn còn 131 xe trong biên chế và 6 vẫn được sử dụng đến tận tháng 3-1945.
    Thông số :
    Nặng : 8,2 tấn.
    Dài : 5,38m.
    Rộng : 1,88m.
    Cao : 2m.
    Kíp lái : 4-5 người.
    Vũ khí : - pháo Pak 40/1 L/46 75mm.
    - 1 súng máy MG34 7,92mm.
    Cơ số đạn : - pháo Pak 40 : 40 viên.
    - súng máy MG34 : 600 viên.
    Tầm hoạt động : 135-150km.
    Vận tốc : 34-38km/h.
    [​IMG]
    Marder I, dựa trên khung xe FCM36 của Pháp.
    Trong chiến dịch Pháp, quân Đức tịch thu 50 xe tăng FCM36 của Pháp. Năm 1943, 10 xe tăng FCM36 được chuyển thành pháo tự hành, trang bị pháo chống tăng PaK 40 L/46 75mm. Kíp lái 4 người. Vỏ thép dày 10-40mm.
    Số Marder I này chủ yếu trang bị cho lực lượng ở Pháp.
  8. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Một số đánh giá chủ quan:
    Thế Chiến 2 là giai đọan cho ra đời nhiều học thuyết quân sự quan trọng, ảnh hưởng lớn tới các cuộc chiến tranh giai đọan về sau (trong CT VN và cuộc chiến Iraq). Trong đó, lí?Z thuyết về sử dụng xe tăng-pháo tự hành và phòng ngự chống xe tăng là một phần quan trọng.
    Các nhận xét:
    Về quân Mỹ: họ chủ trương dùng sức mạnh hỏa lực không quân, pháo binh để tiêu diệt sinh lực đối phương cả trong tấn công và phòng thủ, lấy sự vượt trội về kinh tế và kỹ thuật để trấn áp đối phương. Chiến thuật và chiến lược của họ là chiến thuật và chiến lược của nhà kinh tế, tất cả được tính tóan trên những biểu đồ và thống kê. Khả năng của họ cho phép họ làm chuyện này một cách thành công nhất.
    Quân Đức (và học trò giỏi của họ về sau là Quân đội Xô viết):
    Theo những câu chuyện kể trên (của chiangsan và Chiến tranh Vệ quốc của danngoc), ta thường gặp những trận đánh mà một nhóm nhỏ xe tăng hoặc pháo tự hành tấn công tiêu diệt cả chục, thậm chí hàng chục xe tăng và khí tài đối phương. (ví dụ quân Xôviết tại Ukraina 41, Leningrad 41-42, quân Đức tại Bỉ 44, Phổ 45, Phần Lan 44 v.v.). Đây là chuyện có thật. Bởi những trường hợp như vậy thường kẻ thành công là quân phòng thủ hay quân đột kích bất ngờ, chủ động lựa chọn địa hình, chiến trường, vị trí tấn công... Và khi nổ súng, đối phương thường không phát hiện ra họ để phán pháo. Thế nhưng những con số này không thể nói lên thực tế chiến trường!
    Thực tế chiến trường cho thấy, kẻ chiến thắng không hẳn là kẻ tiêu diệt được nhiều xe tăng và sinh lực đối phương hơn trong một trận đánh cục bộ, mà là kẻ luôn chiếm thế chủ động và cuối trận đánh, làm chủ được chiến trường.
    Học thuyết quân sự Đức, kể từ khi họ tấn công Liên Xô năm 41, lấy xe tăng làm vũ khí đột kích tuyến phòng thủ đối phương, bao vây, chia cắt, chặn đường rút lui, chiếm các đầu cầu, kho tàng, gây rối lọan kẻ địch. Như vậy, xe tăng trên chiến trường không phải làm nhiệm vụ tiêu diệt xe tăng địch. Nhiệm vụ này được giao cho pháo chống tăng và về sau là pháo tự hành diệt tăng. Một xe tăng là rất đắt giá (đắt hơn nhiều so với pháo tự hành) nên không kinh tế để dùng vào việc diệt tăng. Thực tế chiến trường cho thấy, chỉ tới cuối cuộc chiến, người Đức mới luống cuống dùng tăng để đấu tăng và kết quả là thiệt hại của họ còn lớn hơn so với trước!
    Kết quả những trận đấu mà quân phòng thủ tiêu diệt nhiều xe tăng địch, nhưng rồi bị bao vây, hết nhiên liệu, đạn dược, lương thực và phải bỏ lại hay phá hủy vũ khí nặng để rút chạy, như đã thấy ở quân Nga chiến trường Ukraina 41, Leningrad 41-42, quân Đức tại Bỉ năm 44, tại Phổ năm 45! Và kẻ làm chủ chiến trường là kẻ có chiến thuật, chiến lược hợp lí!
    Tóm lại, với mặt trận Xô-Đức, nhà cầm quân người Đức (và về sau là quân Nga) chủ trương lấy chiến thuật và chiến lược đúng đắn để chiến thắng. Tức bao gồm việc nghi binh, ngụy trang, tính chủ động trong tấn công và phòng thủ, khả năng cơ động của các đơn vị, khả năng tập trung hỏa lực v.v. Việc đột kích là dành cho xe tăng, hỏa lực là việc kết hợp của pháo binh (gồm cả pháo tự hành), không quân và nghi binh, chống tăng là dành cho pháo chống tăng và pháo tự hành. Học thuyết này ảnh hưởng nặng tới quân đội Xôviết (và cả VN) về sau. Khả năng của một người lính không đóng góp gì nhiều ngòai việc ngoan ngõan tuân theo chỉ huy. Do đó, xuất hiện việc khen thưởng, tuyên truyền hình ảnh người lính anh hùng trên chiến trường, mục đích chính là khuyến khích họ nghe lời hơn nữa chỉ huy. Hitler đã đẩy quá cao hình ảnh người anh hùng Đức trên chiến trường, dẫn tới việc xây dựng và sử dụng những quái vật như xe tăng KingTiger, pháo tự hành Mause ... Những hình tượng tuyên truyền này thực ra không hiệu quả (vì quá tốn kém, không cơ động, không phù hợp thực tế và yêu cầu chiến trường luôn biến đổi...) Chính điều này trở thành con dao hai lưỡi, thúc đẩy thêm nhanh sự thất bại của Đức Quốc xã. Người Nga ở lĩnh vực này tỏ ra thực tế hơn. Họ xây dựng những pháo tự hành giá rẻ (chấp nhận hy sinh tiện nghi của tổ lái) để diệt tăng địch, xây dựng những xe tăng giá rẻ (IS-2 rẻ hơn nhiều so với Tiger) để đột kícvh thành công tuyến phòng thủ địch (sẵn sàng hy sinh nhiều khi đột kích nhưng chiếm được thế chủ động và cuối cùng làm chủ chiến trường, bao vây đối phương và chiến thắng). Tuy nhiên, cá nhân tôi xin nhấn mạnh, học thuyết này chỉ nên áp dụng với chiến tranh tổng lực (đánh tới chết), không ph2u hợp với chiến tranh cục bộ thời nay).
  9. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.956
    Đã được thích:
    1.588
    up

Chia sẻ trang này