1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Phê bình văn học của Nguyễn Hòa

Chủ đề trong 'Văn học' bởi tieucaluoi, 16/11/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tieucaluoi

    tieucaluoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/11/2005
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    Tôi cứ tưởng topic này "chết yểu" rồi, mãi mới thấy có người quan tâm đến. Lại mừng mừng. Bạn kelly2005 à, tôi nghĩ Nguyễn Hòa tranh luận với GS Lê Xuân Khoa trên talawas với Nguyễn Hòa làm phê bình văn học là một người vì thấy văn giống nhau. Hồi đầu đọc cuộc tranh luận trên talawas tôi cũng nghĩ như bạn là Nguyễn Hòa cứng nhắc, bảo thủ. Về sau đọc bài của GS Trần Chung Ngọc bàn về cuộc tranh luận ấy, tôi lại thấy Nguyễn Hòa không cứng nhắc và bảo thủ. Bạn đọc bài của GS Trần Chung Ngọc ở http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_tcn_tanmanI.htm sẽ thấy. Mới rồi tôi có đọc một bài của Nguyễn Hòa trên chungta.com viết về văn hóa rất thú vị. Tôi pots lên bạn đọc nhé, đọc xong thử chia sẻ với tôi một tý, vì tôi rất thích bài này. Chào!
    Tản mạn về một số hiện tượng văn hóa Việt Nam đương đại trong quan hệ với quá trình ?ođứt gãy văn hóa?
    Nguyễn Hoà 06/12/2005 11:29:13 AM

    Lâu nay, khái niệm ?ođứt gãy văn hóa? thường đã được nhiều nhà khoa học sử dụng khi nghiên cứu một bước biến đổi, một sự ?olột xác?... của một nền văn hóa dân tộc trong tiến trình phát triển. Trong phạm vi khảo sát của người viết bài này, cho đến nay, chưa thấy tác giả nào định nghĩa ?ođứt gãy văn hóa? cụ thể là gì, song căn cứ vào những nội dung được các tác giả đã trình bày, có thể xác định một số nội hàm cơ bản của khái niệm ?ođứt gãy văn hóa?, mà trong đó nổi lên là tính chất ?obước ngoặt?, là sự chuyển đổi hệ thống giá trị văn hóa của một dân tộc trong tính liên tục của nó. Xét theo thời gian, ?ođứt gãy văn hóa? không diễn ra trong một thời gian ngắn, nó cần tới một khoảng thời gian khá dài, sao cho sự tiếp thu trong giao lưu văn hóa cùng với sự vận động nội sinh của một nền văn hóa... có thể phối kết tạo dựng nên hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa mới. Tuy nhiên, nếu coi văn hóa là thể hiện của ?otính người? trong hoạt động sinh tồn thì ?ođứt gãy văn hóa? không làm cho ?otính người? ấy biến đổi, mà về bản chất, ?ođứt gãy văn hóa? chính là tầng cấp mới của ?otính người?, là biểu hiện của năng lực sáng tạo, của khả năng thỏa mãn nhu cầu văn hóa vật chất - tinh thần... đã đạt tới một trình độ mới, cao hơn.
    Từ cách hiểu trên đây, theo tôi trong lịch sử ít nhất văn hóa Việt Nam đã trải qua hai lần ?ođứt gãy?, và phải nói rằng hệ quả của sự ?ođứt gãy? đã đưa tới những biến đổi tích cực, theo hướng đi lên của văn hóa dân tộc. Và nếu xét trong sự vận động nội tại của nó, hai lần ?ođứt gãy văn hóa? ấy vừa là tình trạng chuyển dịch để biến đổi vừa tạo ra tiền đề để biến đổi.
    Nhìn từ lịch sử văn hóa, chúng ta không có nhiều sử liệu đủ để xác định cơ tầng văn hóa Nam Á ở Việt Nam trước và sau thiên nỉên kỷ I có diện mạo ra sao, cũng như không đủ sử liệu để xác định diễn tiến của quá trình văn hóa Trung Hoa đã theo bước chân các tập đoàn cai trị phong kiến phương Bắc du nhập vào Việt Nam như thế nào. Về phần mình, tôi cho rằng sớm nhất cũng phải đến thế kỷ VII, với sự thiết lập An Nam đô hộ phủ của nhà Đường, vấn đề ?ođồng hóa văn hóa? của phong kiến Trung Hoa mới được đặt ra ở Việt Nam (?). Điều này có thể được lý giải từ cách thức cai trị. Là một lãnh thổ nằm trong khu vực ?otứ di? dưới con mắt của phong kiến Trung Hoa, ở thời kỳ đầu, sự cai trị của phong kiến Trung Hoa có lẽ không hoàn toàn triệt để. Tính chất ?okymi? (lỏng lẻo) của sự cai trị dường như là kết quả của sự ?onhìn xa, trông rộng? đối với một vùng lãnh thổ mà tự nó đã thiết lập được những điều kiện cơ bản để tồn tại, và tinh thần độc lập dân tộc không phải là một động lực nội sinh mà phong kiến Trung Hoa có thể khuất phục trong một sớm một chiều. Các cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng, của Bà Triệu, của Lý Bôn... đã minh chứng điều đó. Về mặt văn hóa, nếu coi chữ Hán là bộ phận ?olĩnh ấn tiên phong? để mở rộng ảnh hưởng của văn hóa Hán thì dường như từ thế kỷ VII trở về trước, chữ Hán mới chỉ giữ một vai trò khiêm tốn trong sinh hoạt văn hóa của xã hội, có lẽ chữ Hán được sử dụng chủ yếu trong bộ máy quan lại cai trị người Trung Hoa và những người Việt nào phụ thuộc trực tiếp vào họ?
    Từ thế kỷ VII đến nửa đầu thế kỷ X - khi Ngô Quyền giành lại quyền tự chủ, hẳn chữ Hán và Nho giáo dần dà đã có một vị trí xã hội nào đó để tới năm 1070, dưới triều Lý, Văn Miếu ra đời và năm 1076 Quốc tử giám được thành lập. Từ đó, cùng với những thăng trầm của lịch sử, trải qua các cuộc xâm lược từ nhà Nguyên tới nhà Minh, một văn hóa Việt ?okiểu mới? từng bước hình thành, phát triển. Lần ?ođứt gãy? này biến thiên trong mấy thế kỷ, và phải chăng có thể coi những yếu tố cơ bản nhất, những nguyên lý cơ bản nhất... của hệ thống giá trị văn hóa này đã được đặt nền móng, được tạo dựng dưới triểu Lê Thánh Tông (1442 - 1497) và tiếp được bổ sung hoàn chỉnh trong các thế kỷ sau?
    Do chưa đủ dữ kiện để phân tích - chứng minh nên ý kiến trên đây chỉ là giả thuyết làm việc. Điều muốn nói tới ở đây là một quá trình ?ođứt gãy văn hóa? mới diễn ra từ đầu thế kỷ XX, vắt sang thế kỷ XXI, mà theo tôi cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Và do chưa khái quát được những vấn đề cơ bản, chủ yếu của quá trình ?ođứt gãy văn hóa? từ đầu thế kỷ XX đến nay, nên bài viết này chỉ dừng lại ở sự mô tả các hiện tượng.
    Hơn thế kỷ trước, người Pháp xâm lược Việt Nam. Sau khi bình định được một thuộc địa ở phương Đông, trong chừng mực nhất định, người Pháp đã thực thao một số hành động văn hóa để hình thành nên một quá trình ?oÂu hoá? trong nhiều sinh hoạt xã hội. Nổi lên là sự ra đời của tầng lớp trí thức ?oTây học?, là sự ra đời của báo chí, là nền văn học mới... (và lỉệu có thể nói rằng chiếc ?oáo dài? của phụ nữ Việt Nam là ví dụ điển hình của sự phối kết ?oĐông - Tây? trong văn hóa trang phục ở Việt Nam?). Xét về văn hóa - văn minh, đây là lần đầu tiên văn hóa Việt Nam tiếp xúc - giao lưu - tiếp biến với một văn hóa - văn minh hoàn toàn khác biệt so với những gì đã tiếp xúc - giao lưu - tiếp biến từ hàng hàng chục thế kỷ trước. Một tư duy hoàn toàn khác (tư duy phân tích), một hệ thống giá trị văn hóa - văn minh lạ lẫm được du nhập... đã gây nên một cuộc đảo lộn và một quá trình ?ođứt gãy văn hóa? xuất hiện. Nhưng quá trình du nhập ấy, sự ?ođứt gãy văn hóa? ấy dẫu mạnh mẽ đến đâu vẫn không thể nhanh chóng thay thế tất thảy mọi hành vi ứng xử, mọi thói quen, nền nếp văn hoá... có tuổi đời đã hàng nghìn năm. Nó phải chấp nhận một tình trạng ?olưỡng phân?, như chấp nhận sự chung sống giữa khăn xếp áo the với complet, giữa ?ogiầy giôn? với ?oguốc kinh?, giữa rau diếp với salade, giữa khoai lang với khoai tây? Tình trạng ?olưỡng phân? kéo dài trong nhiều thập kỷ, và chưa lúc nào sự ?oÂu hóa? thể hiện được khả năng thật sự lấn lướt. Cho nên không phải là ngẫu nhiên vào quãng những năm 60 của thế kỷ XX, trong đa số các gia đình Việt Nam ở miền Bắc, không dễ các bậc phụ huynh lấy làm vừa lòng với cô con gái ?orượu? có mái tóc phidê (frisé), và đám con trẻ còn pha phách phần lời một ca khúc thành: ?ongười phidê trông cao bồi, người phidê trông chán ghê?? để nghêu ngao. Đó cũng là thời mà các ?oông Tây An Nam? bị coi như một cái gì ?okhác người?, và trong sinh hoạt hàng ngày, nếu ai đó nói tiếng Việt thi thoảng có pha thêm một vài ?otừ Tây? thường đem tới một ấn tượng buồn cười, thậm chí lố lăng. Tức là sau hơn nửa thế kỷ tiếp xúc với văn minh phương Tây, về cơ bản người Việt vẫn bảo lưu rất nhiều giá trị văn hoá vật chất - tinh thần truyền thống.
    Tuy nhiên do mấy chục năm chiến tranh, quá trình ?ođứt gãy văn hóa? đã bị gián đoạn ít nhiều, song nếu quan sát kỹ, người ta vẫn thấy những hiện tượng như là biểu hiện của sự phối kết văn hóa ?oTây - Ta? xuất hiện ở cả hai miền Nam - Bắc (mà có lẽ ở khu vực phía Nam tỏ ra nổi trội hơn?)... Còn vài thập niên trở lại đây, dường như một quá trình ?oÂu hoá? mới lại đang diễn ra, quá trình ?ođứt gãy văn hóa? lại tiếp tục và cũng dường như, nó không khởi nguồn từ một sự tự giác mà được khởi nguồn một cách tự phát?
    Hôm nay ở vùng đô thị, vốn liếng thời gian rỗi ít ỏi và cả sự đua theo những kiểu lối thời thượng đã lôi cuốn người ta đến với các siêu thị (super market), nơi những người mẹ trẻ có thể mua thức ăn sẵn dành cho cả tuần, để cha mẹ già chỉ còn việc lên gác xuống nhà, xem vô tuyến truyền hình hoặc rủ nhau đi tập thể dục dưỡng sinh. Trong mâm cúng gia tiên ngày Tết ở nhiều gia đình, đã thấy có mặt thịt hun khói, jambon, ngô ngọt xào và xúc xích Đức - những món ăn mấy chục năm trước vẫn chưa thể len lỏi vào mâm cơm Việt. Cho nên không có gì đáng ngạc nhiên nếu thấy trong bữa tiệc gia đình lại được tổ chức mô phỏng theo thực đơn (menu) nhà hàng để bắt đầu bằng súp gà và kết thúc bằng bánh mì phết bơ. Rồi nữa là những bộ Jean ?ocả cây?, những chiếc mini jube tối màu, những cravatte made in France? cùng với sự hiện diện của những chai XO, Rémy Martin, John Black trên bàn thờ các cụ? tất cả thật sự đang tiềm ẩn khả năng biến khăn xếp, áo dài thành trang phục của những dịp lễ lạt hoặc cần giới thiệu bản sắc, và biến những chai ?oquốc lủi? nút lá chuối khô thành thú vui của những cuộc nhậu bình dân và những người hoài cổ.
    Mọi thứ đến quá nhanh, nói theo ngôn ngữ của xã hội học văn hóa thì một số ?ochuyển dịch văn hoá? đang diễn ra gấp gáp. Ngoảnh đi ngoảnh lại, đa số lớp trung niên chưa kịp hiểu internet là gì thì lớp cháu con đã kịp chat qua mạng để kết bạn với một John, một Smith nào đó ở phía trời Tây. Rồi người ta chấp nhận, dù vẫn thấy ?ochướng mắt?, về sự hiện diện hàng ngày không chỉ trên đường phố mà trong cả ngôi nhà của mình những mái tóc nhuộm xanh đỏ tua tủa như lông nhím vì được xịt ?okeo bọt?, hoặc những tấm áo kéo phía trước thì hở phía sau và ngược lại, kéo phía sau thì hở phía trước. Rồi cánh thanh niên trẻ tuổi bắt đầu không quan tâm tới ý nghĩa của quan niệm ?omất dông?, họ đi chơi giao thừa tới 4 - 5 giờ sáng. Họ phấp phỏng chờ đón ngày Thánh Valentin để gửi cho nhau một nhánh hoa hồng - thứ quà tặng mà đôi khi nhiều người do không nắm bắt được ?othông điệp tình yêu? của nó nên vẫn vác đại lên sân khấu tặng cho các diễn viên (!). Một cách tự nhiên, người ta chấp nhận luôn cả lời ?oChúc mừng Năm mới? qua telephone, qua SMS, qua Email và không cảm thấy có điều gì thất thố. Nghĩa là đã có những ?ochuyển dịch văn hoá? mới đang bắt đầu và phần nào được thừa nhận như những kiểu loại hành vi được coi là phù hợp với tiết tấu, nhịp điệu, quan niệm thẩm mỹ, khuôn mẫu ứng xử của lối sống đương đại.
    Trên bình diện rộng hơn. Nửa thế kỷ trước, khi ở một số đô thị xảy ra hiện tượng giao lưu - tiếp biến với văn minh phương Tây, thì người Việt ở nông thôn chủ yếu vẫn nhìn về đô thị như nhìn một ?othế giới khác mình?, hiếm hoi mới có người ?odám? gia nhập vào thế giới đó. Do điều kiện kinh tế, và do cả sự e ngại, văn minh đô thị rất khó xâm nhập vào ?obiển làng xã? mênh mông vốn bảo lưu khá chặt chẽ những tập quán văn hoá cổ truyền. Ngày nay tình huống đã khác, văn minh đô thị đã có điều kiện toả rộng ảnh hưởng của nó. Nói theo xã hội học thì người nông dân Việt Nam đã có sự chuyển biến trong ?ovai trò xã hội?. Họ đã mở rộng tầm nhìn, được đánh thức những khát vọng và tự phát tiếp nhận, chuyển tải những nội dung văn hoá - văn minh từ đô thị mà họ biết rằng họ hoàn toàn có khả năng gia nhập và biến chúng thành tài sản của mình. Tuy nhiên, chính sự tự phát ấy lại đưa tới một tình trạng ?ohỗn tạp? mới, bởi ở đây - các làng xã, văn minh thường chỉ được chọn lựa qua xe máy Wave, đầu VCD GVG, quạt MD? cùng mang nhãn hiệu made in China. Sau lũy tre làng, những ngôi nhà cao tầng mọc lên san sát, ngất nghểu cần ăngten cùng những bức tường cắm mảnh chai bia Tàu nham nhở, đã làm cho hàng râm bụt và hai câu lục bát ?oNhà nàng ở cạnh nhà tôi - Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn? của Nguyễn Bính đôi khi chỉ còn đọng lại trong ký ức của những người già. Cưỡi trên chiếc mô tô phóng vèo vèo, phun khói mù mịt vào mọi ngõ ngách, cười hô hố khi có cụ già vừa dạt vào bên đường vừa mắng ?ocon cái nhà ai?, trai làng không còn lo lắng về chuyện ?ocông tử nhất bộ?. Họ được học hành, được đi đây đi đó nhưng nhiều người trong số họ vẫn tỏ ra hăng hái níu kéo những lề thói của tinh thần tiểu nông tư hữu mà biểu hiện rõ nhất là thói ích kỷ tiểu nông ?ocha chung không ai khóc?, ?otrống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ? và cái hiện tượng ?ophong tỏa gái làng? tưởng đã mất hút từ lâu nay lại có xu hướng ?ophục sinh??!
  2. tieucaluoi

    tieucaluoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/11/2005
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    (tiếp) Thêm nữa, thử khảo sát một sinh hoạt kinh tế - văn hóa phổ biến ở Việt Nam như ?ocái chợ? chẳng hạn, hẳn sẽ thấy nhiều điều thú vị.
    Cuối năm 2003, tôi đi chợ Bắc Hà. Trời se se lạnh. Các chị người Mông vừa đi vừa thoăn thoắt se lanh. Lán lò rèn phì phào đỏ lửa, tiếng búa chí chát nhịp nhàng. Chênh vênh trên sườn đồi, vài ba chiếc chảo thắng cố bốc khói nghi ngút. Dưới cái sân xi măng rộng rãi, các cuộc mua bán trao đổi đang diễn ra. Góc này hơn chục chú trâu ủ rũ chờ sang tay chủ mới. Góc kia dăm chú chó lừng lững như con bê, nằm phủ phục canh chừng đám lợn choai đuôi ngoáy tít chạy ra chạy vào. Giữa nhộn nhịp những chiếc áo Mông, áo Dao, thấp thoáng mấy ông tây bà đầm cao lớn vừa giương ống kính máy ảnh, vừa gặm ngô luộc hoặc nhồm nhoàm ngoạm quả dưa to như cái phích một lít? Đi giữa khu chợ vùng cao lại nghĩ đến lời một anh bạn làm dân tộc học kể rằng, cũng ở một cái chợ như thế này, ngày nọ người ta cho xây một loạt ki-ốt với ý định quy hoạch việc trao đổi mua bán vào nền nếp. Nhưng rồi không có ?okhách thương? nào chịu vào. Từ bản làng vùng cao xuống chợ, đem theo nắm sa nhân, túi thảo quả, xách con gà?, ?okhách thương? tự sản tự tiêu chỉ cần nhanh chóng và giản tiện. ?oKinh tế tự nhiên? không có nhu cầu đặt chân vào các ki-ốt. Và mọi người vẫn đứng ở đầu chợ để mời mua chai mật ong, bọc mộc nhĩ, túi ớt khô và liếc cái nhìn lãnh đạm vào dãy ki-ốt mốc thếch, đứng lẻ loi.
    Nhớ ngày nọ, về thăm gia đình người bạn ở làng Vọng Nguyệt (Yên Sơn, Bắc Ninh), thấy bạn bảo muốn đi chợ Mai thì phải ngủ sớm, tôi đâm tò mò. Mờ đất hôm sau bạn đã gọi dậy, hai anh em mắt nhắm mắt mở đi chợ. Chợ họp gần giữa làng, trong ánh đèn le lói, chợ ồn ào kẻ bán người mua. Thì ra chợ có tên chợ Mai vì họp vào lúc sớm mai, chỉ diễn ra trong vòng hơn một giờ đồng hồ, bày hàng nhanh, mua bán nhanh, tan chợ cũng nhanh. Mọi người tranh thủ đi chợ còn kịp về cơm nước để đi làm. Mấy năm sau, đến làng Bái Nại (Nga Sơn, Thanh Hóa) lại gặp cái chợ có tên chợ Hôm. Chợ họp lúc xế chiều, khi các ngư phủ thu lưới từ biển trở về. Và mọi việc cũng diễn ra rất nhanh, chưa kịp tìm hiểu, vừa lúc lên đèn thì chợ đã tan. Lại nghĩ, nếu làm một nghiên cứu đầy đủ, có lẽ những chợ ?omai?, chợ ?ohôm? kể trên hẳn cũng có một mối liên hệ nào đó với các chợ ?ocóc?, chợ ?oxổm? mà ta vẫn gặp ở nhiều đô thị Việt Nam. Tương tự như mấy chữ ?omai, hôm?, mấy chữ ?ocóc, xổm? tự chúng đã chuyển tải tính chất và loại hình hoạt động của các chợ này. Họp chợ nhanh, mua bán nhanh, thu dọn cũng nhanh. Nơi đó thường chỉ có hàng hóa tiêu dùng cập nhật, như mớ rau, con cá, miếng bí, lạng thịt, củ khoai, cân đậu? Nghĩa là những loại hàng hóa thiết yếu cho bữa ăn hàng ngày mà quỹ thời gian rỗi ngắn ngủi không cho phép người ta có thể đến chợ Mơ, chợ Hôm (Hà Nội), chợ Rồng (Nam Định), chợ Sắt (Hải Phòng), chợ Đông Ba (Huế), chợ Bến Thành (TP Hồ Chí Minh) để sắm sanh? Các chợ ?ocóc?, chợ ?oxổm? luôn không nằm trong quy hoạch, nghĩa là chúng hình thành tự nhiên và luôn phải thích ứng với sự xuất hiện bất chợt của người quản lý đô thị. Và thật kỳ tài, nếu mấy bác xe thồ, mấy chị hàng rau còn có thể nhanh tay dúi phương tiện, hàng hóa vào một xó xỉnh nào đó hoặc cắm đầu cắm cổ chạy dạt ra tứ phía, thì mấy cô hàng thịt vừa mới đon đả mời chào ?oAnh ăn mông cho em đi!?, vừa mới thoăn thoắt liếc con dao sáng loáng lên chiếc dũa tròn to bằng ngón chân cái, vậy mà thoáng thấy bóng nhân viên công lực là cô hàng thịt đã thu dọn sạch bong những ba chỉ, chân giò? chỉ để lại cái bàn chỏng chơ!
    Các loại chợ hình thành một cách ?otự nhiên? này tồn tại bởi chúng có khả năng đáp ứng tức thời nhu cầu của con người về các chủng loại hàng hóa tiêu dùng hàng ngày và phù hợp với vốn liếng thời gian dành cho việc đi chợ. Thật ra đến hôm nay, việc đi siêu thị mua thức ăn cho cả tuần, hoặc có người giúp việc đi chợ theo thực đơn kê sẵn của ông bà chủ vẫn chưa phổ biến, số đông người Việt Nam ở đô thị vẫn phải tự lo lấy việc cơm nước. Trừ hai ngày nghỉ cuối tuần, mọi người chỉ có thể đến chợ vào lúc xế chiều (tuy vẫn có một số chị em tranh thủ lúc ?osếp? đi vắng, liền tạt ra chợ mua con cá mớ rau về giấu sau cánh cửa!). Quỹ thời gian cùng với hai thực phẩm chủ yếu là rau và cá trong bữa ăn thường ngày dường như không thích hợp với các khu nhà dở chợ dở siêu thị sầm uất, ngất nghểu mấy tầng lầu. Những khu nhà kỳ vĩ ấy thường chỉ thu hút cư dân một địa bàn, vắng teo vào giờ hành chính, và được bố trí giống hệt nhau: tầng một gồm các quầy quần áo, túi cặp, đồ điện tử, hàng khô; tầng hai vẫn gồm các quầy đồ điện tử, vải vóc, đồng hồ? nhưng cao cấp hơn tầng một; tầng ba trở lên là vài ba văn phòng cùng các hiệu sửa sang sắc đẹp, các trung tâm thể dục thể hình treo biển quảng cáo có mấy lực sĩ cơ bắp cuồn cuộn như ếch lột da. Và xung quanh các khu chợ cao tầng như vậy, đâu đâu cũng thấy một vành đai trong quầy, ngoài quầy của các hàng rau cá, gà lợn. Ở đó, kiểu loại chợ búa của ?okinh tế tự nhiên? vẫn hiện hữu với mẹt ổi, chùm roi, thúng chanh, rổ rau hái từ vườn nhà và là nguyên nhân chủ yếu của những tiếng còi ?otoét, toét? vẫn vang lên một cách thường xuyên. Đấy cũng là nơi khi chiều về, các bà nội trợ có thể dừng xe đạp, ghé xe máy mua vội lạng thịt, mớ rau cho bữa cơm chiều mà không phải gửi xe và không tốn thời gian luồn lách vào những quầy hàng có mái hiên sùm sụp, không phải cò kè mặc cả với những chị những cô mắt xanh mỏ đỏ, cong cớn ?okhinh người rẻ của?, luôn đưa ra những cái giá cao ngất trời, bán hàng mà cứ như đuổi khách.
    Sau một thời gian đô thị hóa, chúng ta đã làm được khá nhiều công việc để xây dựng phong cách sinh hoạt mới cho xã hội hiện đại, nhưng xem ra câu hỏi ?ochợ sẽ tồn tại như thế nào?? vẫn là một bài toán khó giải. Nếu như ở cái chợ vùng cao kia, người ta đã không thành công khi xây ki-ốt để đưa một sinh hoạt ?okinh tế tự nhiên? vào quy củ, thì đối với chợ ở vùng đô thị vẫn còn nhiều vấn đề đang được đặt ra. Trước mắt, khi thức ăn nhanh (fastfood) và việc mua sắm ở siêu thị chưa trở thành thói quen của số đông, và nếu một ngày những khu chợ hiện đại ra đời chưa phải kết quả của một khảo sát khoa học về nhu cầu, về biểu thời gian, về đặc điểm của người Việt trong việc tổ chức bữa ăn và đi chợ? thì ngày ấy trật tự đô thị còn nhiều bề bộn. Và tôi cũng như bạn, trong khi di chuyển trên đường vẫn phải bấm còi ?opim pim? hoặc vội vàng phanh gấp vì một chiếc xe thồ bắp cải hay một gánh su hào? vừa hiên ngang phóng qua!
    Chỉ sau một hai chục năm mà vật đổi sao dời, cuộc sống đổi thay, có những sự vật gắn bó với người dân nước Nam không biết đã bao năm mà trong khoảnh khắc chỉ còn như hoài niệm. Những ngôi nhà lợp ngói âm dương. Những chiếc cổng làng cổ kính rêu phong nơi bao thế hệ thảng thốt bồi hồi mỗi lúc đi xa về gần. Những đêm trăng đập lúa, tãi rơm. Tiếng giã gạo phập phùm. Tiếng sáo diều vi vút. Và còn biết bao thứ nữa đang dần dần vắng bóng. Rồi những chiếc giếng làng, nơi chiều chiều các cô gái làng khỏa làn nước trong, uyển chuyển đôi thùng, kĩu kịt đi vào các ngõ tre xanh. Những cảnh tượng ấy hiện giờ ở nhiều nơi như đã đi vào dĩ vãng. Từ ngày giếng khoan xuất hiện, nhiều chiếc giếng làng bỗng trở nên hoang phế. Hàng gạch thấp xây quanh miệng giếng gãy đổ nham nhở, dãy xương rồng trồng chắn lối trâu bò thì xơ xác tiêu điều. Nước trong giếng vẫn ngấp nghé đầy tràn, nhưng làn nước xanh trong ngày trước nay đã chuyển màu, đục ngàu và lập lờ xác chuột. Ngày giếng làng mới bỏ hoang, mấy chú bé còn loai ngoai ngụp lặn, đến khi mấy chú trâu con cũng thích thú ngâm mình giữa làn nước trong thì giếng làng trở thành ao đầm. Lũ trẻ sinh sau đẻ muộn đâu có biết nơi ấy, bên giếng làng, xưa kia cha mẹ chúng đã trao cho nhau cái nhìn đầu tiên. Cũng là nơi chờ khi chiều xuống, cha chúng cùng cánh trai làng, mỗi chàng một chiếc thùng con xách nước dội ào ào, mặc kẻ qua người lại, mặc cho ông bố vợ tương lai cất tiếng ?oe hèm? nhắc nhở. Thì ngày xưa bằng tuổi con bây giờ, các cụ lại không ra đây dội ào ào hay sao!
    Trong khi các sinh hoạt bên cái giếng làng đang dần dà phai nhạt ở một số làng quê, người ta lại thấy ?ohồn giếng làng? lù lù xuất hiện trên nhiều hè phố đô thị vào các buổi chiều mùa hạ. Đấy là lúc vài bác trung niên, dăm chàng trai trẻ, mấy chú choai choai, cùng nhau tung tẩy cái thùng con con tiến ra hè phố. Rồi cái cảnh tượng mang không khí trào lộng quanh chiếc giếng làng ngày xưa lại được tái hiện. Người ta bày ra bụng to bụng nhỏ, mình béo mình gầy. Hò hét í ới. Cười đùa vô tư như ở chỗ không người, tảng lờ chiếc biển ?ođường phố văn minh sạch đẹp? được nghiêm cẩn gắn lên cột điện. Thế là hè phố đã trở thành nơi trình diễn thể dục thể hình và cửa hàng trưng bày đồ lót nam giới! Lại nhớ trong những câu chuyện cha kể cho tôi nghe thời tôi còn nhỏ, có một chuyện rằng ngày trước ở Hà Nội, sáng sáng có những anh ?oculit? đạp xe dọc phố, qua vỉa hè nhà nào còn rác rưởi, anh ta liền viết một cái hóa đơn gài vào cửa, và nhà đó tự giác lên ?obốt? nộp phạt. Lớn lên đọc Nhớ và Ghi của Nguyễn Công Hoan thấy có đoạn: ?othỉnh thoảng đội xếp đi tuần? Họ đi tới đâu, thì dân phố bảo nhau, vội vàng quét hè nhà cho sạch. Hàng rong, thì ù té chạy. Vì người ta sợ bị phạt? tôi liên tưởng đến chuyện cha kể năm nào và nghĩ, những sự việc tưởng chừng nhỏ mọn ấy nay đang có xu hướng trở nên sống động hơn trong sinh hoạt đô thị.
    Xét từ lịch sử hình thành, thì Hà Nội và rộng hơn là các đô thị khác ở Việt Nam, đến hôm nay xem ra vẫn chỉ là một cái ?olàng? lớn. Kết luận này có thể ?olạ tai? nếu nhìn từ các phương tiện văn minh, nhưng sẽ là ?othuận tai? nếu nhìn từ lối sống, thói quen, tác phong? của dân cư. Xưa kia, kinh tế thương nghiệp còn trong tình trạng sơ khai vốn không cần tới quy mô lớn, trao đổi hàng hóa thường dừng lại ở phạm vi địa phương. Bởi thế ngoài các trung tâm quyền lực như kinh đô và các trung tâm hành chính địa phương, thì sự xuất hiện đô thị với tính cách là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa dường như không thật sự là đòi hỏi cấp thiết. Sự phồn thịnh rồi suy tàn nhanh chóng của kiểu đô thị - kinh tế như Phố Hiến là một ví dụ điển hình, và nên lưu ý là hiện tượng này xảy ra cách chúng ta không xa. Khi đô thị không ra đời như kết quả tất yếu của sự phát triển đô thị - kinh tế thì việc tổ chức để đô thị có thể vận hành theo quy củ hiển nhiên sẽ rất dễ lỏng lẻo. Cùng với đó quá trình ?ophình ra? của đô thị ở một quốc gia nông nghiệp lúa nước, xét đến cùng, là hệ quả của sự tích hợp dân cư. Người ta đến đô thị từ mọi miền, người ta định cư nhưng không thể cắt đứt mối liên hệ với cộng đồng làng xã. Ngay đến cả tầng lớp quan lại, các vị đại khoa? cũng không dám thoái thác nghĩa vụ với nguồn gốc xuất thân (về quê giỗ chạp, dự hội làng, họp ?ogiáp?, nhận phần ruộng?). Điều này góp phần lý giải tại sao cho đến thời hiện tại, những ngày mồng 1, 2, 3 Tết ở Hà Nội thường vắng vẻ, vì nhiều gia đình đã bầu đoàn kéo nhau về quê. Trong một số trường hợp, khi số lượng người cùng một cộng đồng xuất thân tăng lên, người ta còn mang cả thành hoàng làng, cả ông tổ nghề nghiệp theo để thờ cúng, làm hình thành nên các khu phố có cư dân xuất xứ cùng một địa phương, hình thành các ?ophố nghề?. Rồi theo thời gian, sự tích hợp này cũng biến động với sự xuất hiện của cư dân từ các địa phương khác đến sau, sự xuất hiện của những ngành nghề mới? Và thế là các đô thị dần dà phai nhạt tính chất ?onguyên hợp? ban đầu, thậm chí phai nhạt một vài đặc điểm riêng để thay thế bằng sự tích hợp văn hóa từ các cộng đồng không cùng nguồn gốc, với những nền nếp, thói quen, lối sống? khác nhau, với những nét bản sắc khác nhau. Tất cả cùng phối kết làm nên một diện mạo văn hóa mới cho đô thị, và bên những ?ocái hay? lại không thiếu những ?ocái dở?. Nếu xem xét từ lối sống, từ quan niệm ứng xử của cư dân nông nghiệp truyền thống, phải nói rằng những tàn dư của ?othói vị kỷ tiểu nông tư hữu? còn tồn tại khá dai dẳng trong sinh hoạt đô thị. Ở đó nhiều người đã quen với lối ?ođèn nhà ai nhà nấy rạng?, tâm lý dựa dẫm vào cộng đồng? Phải chăng chính những điều này là nguyên do chủ yếu làm nên sự manh mún, tùy tiện, nhếch nhác của đô thị Việt Nam đương đại và gây sự cản trở không nhỏ đối với lối sống công nghiệp, tư duy công nghiệp - những thành tố văn hóa mới mà xã hội đang hướng tới? Thiết nghĩ vấn đề phải được giải quyết từ nhận thức của mọi người, từ sự giáo dục đồng bộ, chứ không chỉ từ những biện pháp hành chính. Nếu không giải quyết từ phần ?ogốc gác? của nó, thì người dân vẫn xây nhà theo sở thích chứ không theo quy hoạch, rồi khi anh nhân viên môi trường đô thị khuất bóng nơi góc phố là người ta lại tiếp tục ?olẳng? ra đường những chú chuột to đùng và đã ?ongoẻo? cứng đơ?!
    Nhìn từ các hiện tượng, có thể đặt ra một câu hỏi rằng phải chăng sự tăng trưởng về mức sống, cái mới về văn minh... dường như chỉ đem lại một số biến đổi về hình thức - với những dáng vẻ bên ngoài khác nhau, trong sinh hoạt văn hoá của xã hội Việt Nam ở cả đô thị lẫn nông thôn, còn thực chất chúng vẫn chưa có khả năng làm biến đổi một cách cơ bản những thói quen, tập quán từng ổn định lâu đời? Từ tiếp biến văn hoá đến ?ochuyển dịch văn hoá? rồi phát triển văn hoá là cả một quá trình lâu dài. Cũng tức là quá trình ?ođứt gãy văn hoá? trong thời hiện đại không phải là một quá trình ?otự nhiên nhi nhiên?, đó phải là một quá trình được nhận thức tự giác, vừa chủ động chọn lọc, vừa sáng tạo, vừa tích luỹ... để hình thành hệ thống giá trị vật chất - tinh thần mới, được xã hội thừa nhận, tạo tiền đề cho văn hoá phát triển. Tình trạng ?onhùng nhằng? càng kéo dài, không được hướng dẫn bằng một ý thức tự giác sẽ rất dễ đẩy tới một kết quả là tình trạng ?ohỗn mang văn hóa, trì trệ văn hóa?, hiển nhiên sự phát triển văn hoá cũng sẽ rơi vào cùng cảnh ngộ. Phải chăng những ?ochuyển dịch văn hoá? đương thời đang phát lộ điều chúng ta không mong mỏi rằng đây mới chỉ là những ?ochuyển dịch văn hóa? tự phát?

    Số lượt đọc: 554 - Cập nhật lần cuối: 06/12/2005 11:34:19 AM



  3. kelly2005

    kelly2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2005
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    0
    Xin chào Tieucaluoi,
    Trước hết phải cảm ơn bạn đã thật nhiệt tình trả lời và còn post thêm bài. Cũng phải xin lỗi luôn vì mấy hôm vừa rồi mình bận quá, hôm nay mới đọc bài bạn gửi và viết vài dòng được.
    Mình đã đọc bài viết trên Giao điểm rồi. Bài viết hay và nhiều thông tin đấy. Thực ra, mình cũng chỉ không thích Nguyễn Hoà trong loạt tranh luận với Lê Xuân Khoa một chút thôi chứ không phải là ghét. Đặc biệt "đáng cảm phục" (định viết là "đáng khen" đấy nhưng vì bác ấy già rồi nên không dùng nữa...) là việc tranh luận công khai trên một diễn đàn như Talawas. Việc kết thúc tranh luận một cách "thanh bình" cũng là một điều rất hay. Mình hiểu rằng, Nguyễn Hoà có những lý lẽ hợp lý.
    Tuy vậy cái làm mình không thích, như mình đã nói từ trước đó là sự cứng nhắc thể hiện trong bài viết này. Với một đề tài tranh luận như thế và với các diễn giả như thế thì chắc chắn là bất phân thắng bại rồi. Đó không phải là tranh luận khoa học nữa khi mà các bên tham gia đều còn nặng lòng với quá khứ (nhưng cũng cần nhận thấy rằng, nếu không nặng lòng thì chẳng nhảy vào tranh luận làm gì). Cuối cùng như đã mọi người cũng đã thấy từ trước, không ai thuyết phục được ai cả. Chúng ta đã và sẽ phải thừa nhận trong một số vấn đề nhất định sẽ không thể có một chân lý duy nhất - chân lý tuyệt đối... Cuộc sống mà... Thế nên mình nghĩ, biết trước điều đó để rồi tránh các cuộc tranh luận như thế từ đầu thì hơn...
    Thêm một điểm mà mình không thích ở các bài viết của Nguyễn Hoà đợt đó là cách viết. Nhiều đoạn mang nặng cảm tính mà thiếu các dẫn chứng cụ thể. Về khoản này thì bài viết của Lê Xuân Khoa nặng cân hơn hẳn (là mình nói về cách viết chứ không đánh giá về tính xác thực trong các thông tin mà Lê Xuân Khoa đưa ra - ko có đủ khả năng để làm việc đó mà). Bạn có công nhận các lập luận của Lê Xuân Khoa rất academic không? Cũng vì mang nặng cảm tính nên trong các bài tranh luận đó có một số đoạn rất là "xã luận"... nghe sáo. Mình cũng hiểu là rất khó tránh khỏi điều đó khi mà người viết đã từng là lính. Dù vậy, tránh được vẫn hơn bạn nhỉ?!
    Về bài viết mà bạn mới gửi, mình cũng thấy thích như bạn. Nếu chỉ xét việc bàn luận về khái niệm "đứt gãy văn hoá" thì kể như bài viết đã thành công rồi. Bài viết đã chỉ một cách rõ ràng đứt gãy văn hoá là gì và đưa ra hai ví dụ xác thực. Đánh giá cao hơn nữa nếu đúng là chưa có ai bàn về khái niệm này cụ thể như vậy.
    Bài viết cũng thể hiện sự trăn trở của người viết với những thay đổi lớn về của xã hội. Cái đó đáng trân trọng. Người viết cũng thể hiện cái nhìn cởi mở về việc tiếp nhận các giá trị mới vào đời sống văn hoá bản địa. Điều này thì chắc chắn làm giới trẻ thích thú rồi!
    Tuy nhiên, mình thấy đây chưa phải là bài viết xuất sắc. Trước hết, nếu đặt ra một mục tiêu cao hơn là bàn về lần đứt gãy văn hoá thứ hai thì thấy hơi tiếc vì bài viết chưa đủ độ sâu. Tác giả cũng đã nói rõ từ đầu rằng viết chỉ để xới xáo lên vậy thôi chứ chưa thể làm một nghiên cứu công phu mà. Thực ra đây không phải là một đề tài quá mới mẻ. Các nhà nghiên cứu văn hoá, báo chí và cả những người bình thường như chúng ta nữa cũng đã phần nào hiểu, bày tỏ về vấn đề này rồi và cũng đều có những nhận định như tác giả (dù được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác). Hy vọng là tác giả sẽ tiếp tục đề tài này và công bố sớm để chúng ta lại có dịp mà bàn luận... hihi...
    Thêm một nhận xét nữa về cách viết là bài viết dàn trải với một bố cục không chặt chẽ lắm. Đoạn cuối chẳng hạn, hơi lan man... Cũng với các ý đó nếu được tổ chức lại theo một kết cấu khoa học hơn thì sẽ có giá trị hơn nhiều, mình nghĩ.
    Ôi, mình viết thế mà cũng dài phết nhỉ... Viết một lèo đọc lại thấy khiếp quá... Mà bác Nguyễn Hoà cũng hay ghé thăm trang này, không hiểu đọc mấy dòng nhận xét "mạo muội" này bác ấy có giận không? Hihi... Mong bác ấy tiếp nhận "vui vẻ" trên "tinh thần dân chủ" như bác ấy đã phát biểu. Chắc bác ấy cũng hiểu rằng có yêu quý bác và các bài viết của bác mới đem bác ra bình loạn, mổ xẻ như thế này chứ...
    Thế nhé. Bạn có thời gian thì trao đổi lại vài câu cho vui. Nếu có thêm bài viết gì của Nguyễn Hoà thì lại post lên đây nhé! Cảm ơn trước nhiều nhiều.

  4. Ngumo

    Ngumo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/11/2003
    Bài viết:
    10.072
    Đã được thích:
    12
    Thực ra, những vấn đề mà nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà đã phản ánh tới bạn đọc hoàn toàn đúng. Chỉ tội, với một số những người quen đứng trên bục của sự nổi tiếng và luôn coi mình là chuẩn mực của một số lĩnh vực thì không chịu nổi giọng điệu phê bình của Nguyễn Hoà. Đã có time tiếp xúc và ngao du cùng Nguyễn Hoà, tôi mơi biết ông là một người có thể đọc, tìm tòi và lắng nghe ở mọi lúc, mọi nơi và một người khá cầu tiến, nếu trong những quan điểm của ông, những nhận xét của ông đưa ra, nếu có gì sai, ông sửa ngay và đã không ít lần tôi chứng kiến ông đã lặng lẽ sửa bài viết của mình. Và, theo tôi nghĩ, không như nhiều người nói là ông đầy giọng hằn học với văn học Việt Nam, ông đã, đang và sẽ xây đựng một nền văn học tiến bộ hơn.
  5. tieucaluoi

    tieucaluoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/11/2005
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    Ban Kelly2005 à, tôi vừa đi làm ở tỉnh xa về, phố huyện tôi đến có mỗi một hàng internet chậm như rùa. Làm tôi nhớ tới một bài báo của Nguyễn Hòa trên Thể thao văn hóa cảnh báo các số liệu sử dụng internet ở Việt Nam chỉ là phong trào hình thức, còn người ta sử dụng internet để làm gì thì không quan tâm. Đúng là thế thật đấy.
    Nguyễn Hòa viết nhiều thật, ông này quan tâm tới nhiều lĩnh vực, ý kiến đúng nhưng thẳng thắn quá. Ông này ít khi tra lời phỏng vấn, chỉ có bài trả lời phỏng vấn trên báo Pháp luật là ông ấy nói nhiều về suy nghĩ quan niệm của ông ây thôi, tôi còn lưu trong máy đây, ban kelly2005 đọc bai ấy chưa, chưa đọc tôi sẽ pots lên cho. Ông Nguyễn Hòa học văn hóa quần chúng thế mà lại đi làm phê bình, lạ đấy nhỉ. Tôi thích Nguyễn Hòa vì ông ấy hiểu bọn trẻ như tôi, không phóng khoáng nhưng thoải mái chừng mực. Những người đi trước không hiểu người trẻ thì chỉ là cha chú, không phải là bạn. Người ta sợ cha chú nhưng ngại gần gũi, làm bạn vẫn hơn.
    Bạn ngumo à, bạn có quen biết Nguyễn Hòa à. Nguyễn Hòa như bạn kể thì cũng hay nhỉ. Tôi cũng thích đọc sách vì yêu văn học nhưng ít thời gian lắm toàn là phải tranh thủ. Đi làm mang theo sách rồi bận không đọc được. Tôi cũng mong văn học nước mình phát triển lành mạnh thôi. Mà thôi, tôi lại có việc phải làm đây. khi nao rỗi tôi sẽ tâm sự với các bạn nhiều hơn nhé.
  6. kelly2005

    kelly2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2005
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    0
    Mình không biết Nguyễn Hoà ngoài đời nhưng những trang viết của ông cũng khiến mình có suy nghĩ như các bạn - một Nguyễn Hoà độc lập, thẳng thắn và cởi mở. Mong rằng Nguyễn Hoà sẽ mãi mãi giữ được tinh thần làm việc đó.
    @ Tieucaluoi: Còn chần chừ gì nữa... post bài Nguyễn Hoà trả lời phỏng vấn trên báo Pháp luật đi, mình rất muốn đọc. Mình chỉ được đọc báo điện tử thôi nên... thiệt thòi lắm... :-(
  7. tieucaluoi

    tieucaluoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/11/2005
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    Bạn kelly2005 à, xong việc rồi ngồi buồn buồn tớ vào đây lại thấy bạn. Hì hì... tớ "bịp bợm" bạn đấy, tớ chẳng lưu bài phỏng vấn Nguyễn Hòa đâu, tớ copy từ evan ấy mà. Tớ pots bạn xem nhé.
    Thứ Ba 21/12/2004

    eVăn: Cuối tháng 8 vừa qua, báo Pháp luật có bài phỏng vấn nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa, biên tập viên lâu năm của tạp chí Văn nghệ Quân đội, một cây viết quen thuộc với bạn đọc. Trong bài, Nguyễn Hòa đã đề cập một số điểm được xem là "nhức nhối" của làng văn nghệ và phê bình văn nghệ hiện nay. Chúng tôi xin giới thiệu lại nguyên văn bài phỏng vấn.

    Nguyễn Hòa: ''Phải học nhiều năm tôi mới nói được từ Không''
    Bình Nguyên
    LTS. báo Pháp luật: Có lẽ đến giờ, trong giới phê bình chỉ có mình anh là hay ?ongắm? các giáo sư, tiến sĩ một cách trực tiếp và đưa ra những dẫn chứng cụ thể đến mức... đau lòng. Thế nhưng, trái với những lời lẽ sắc sảo và có phần... cực đoan trong các bài phê bình trên mặt báo, Nguyễn Hòa có một nụ cười thật cởi mở, chẳng giống cái tính khí của một ông chuyên ?obới lông tìm vết? như nhận xét của một số người. Chỉ khi ngồi với nhau, nói về nghề, cái sắc sảo ấy lại trồi lên, rõ rệt ngay từ ánh mắt đến cái khoát tay. Anh bảo, làm phê bình phải biết nói không với một số thứ phù hoa mạ kền. Và để nói được từ ?okhông? nhẹ tênh ấy, anh phải học mất nhiều năm...

    - Anh có nghĩ rằng, lâu nay các tờ báo ít quan tâm đến phê bình - một lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa đánh giá, tổng kết, góp phần định hướng cho văn học và công chúng, mà chỉ chạy theo sự vụ ở bề nổi?
    - Chúng ta cũng nên thông cảm với các tòa soạn. Để tờ báo bán chạy, họ phải làm thế nào đó cho các ?omón ăn? bày ra trên mặt báo thật đa dạng, sinh động, hấp dẫn. Nên lãnh địa dành cho phê bình bị thu hẹp là chuyện đương nhiên. Vả lại gần đây, chúng ta như đang ở trong tình trạng ai cũng có thể viết phê bình, giới thiệu một hai bài thơ, dăm ba quyển sách, thậm chí bốc thơm lẫn nhau mà cũng được coi là phê bình, thì người đọc sẽ rất khó tin cậy. Điều này làm cho phê bình đích thực bị chìm lấp, trở nên lẻ loi. Phê bình cần đến yếu tố trực cảm, nhưng nhất thiết phải dựa vào lý thuyết. Mà muốn dựa được vào lý thuyết thì phải "hiểu". Ngày trước, PGS. Phan Ngọc đã dạy tôi một câu rất hay: ?oCó thể anh biết rất nhiều, nhưng hiểu thì chưa bao nhiêu đâu. Hãy cố gắng hiểu những thứ anh biết?.
    - Như anh nói, phê bình văn học đích thực như bị "chìm lấp, trở nên lẻ loi", vậy thì nó có đóng góp được gì cho sự phát triển của văn học không?
    - Nó đã có và hiện vẫn có những đóng góp, dù đôi khi không lớn. Nhưng theo tôi, hiện tại phê bình đang gặp những vấn nạn, thứ nhất, như đã nói là tình trạng "người người viết phê bình"; thứ hai, là thời gian qua phê bình văn học như bị lạm dụng để một số người biến thành "sân chơi ngoài văn chương", thậm chí trở thành sàn đấu của vài người viết phê bình không vì động cơ văn chương. Ví dụ, có hai nhà thơ (tôi xin giấu tên) trao đổi với nhau về thơ trên một trang web và không thể chấp nhận được, dẫu chỉ về tuổi tác, khi một trong hai nhà thơ đã ví hai giáo sư văn học ở Việt Nam như "hai chú cún giữ cửa văn học". Một người có văn hóa không bao giờ phát ngôn như thế. Động cơ để nói ra điều đó là nằm ngoài văn chương, không phải là phê bình và tôi tin nhà thơ đó chưa đọc tác phẩm của hai giáo sư này. Người viết phê bình luôn biết phải xem lại chính mình. Dù thế nào thì khi đánh giá một tác phẩm, chúng ta vẫn phải dựa trên trục hay - dở, đúng - sai... phù hợp với số đông chứ không thể do bản thân anh thích hay không thích. Bài phê bình của anh có thuyết phục hay không là hướng tới mọi người, chứ không phải để thỏa mãn sở thích của chính anh. Cái ?ochủ quan? luôn rình rập ở đâu đó trong mỗi người viết, từ ân oán, yêu ghét cho đến những ràng buộc tình cảm, hệ lụy cá nhân,... chỉ lơ là một chút là nó ?othò? ra ngay. Làm phê bình nên cố gắng độc lập, khách quan. Xin nói thật, chẳng dễ dàng gì để có thể nói ra một tiếng ?okhông!?. Tôi phải mất nhiều năm để học được cách nói ra từ đó một cách phù hợp và đúng lúc. Người ta nhờ mình viết, cũng tức là người ta muốn mình khen, có ai lại đi nhờ người khác "chê" bao giờ! Mà mình từ chối là rất dễ bị ghét bỏ, bị cho là cao ngạo, tinh tướng. Tôi chịu nhiều điều tiếng vì những chuyện tương tự như vậy?
    Nói về những biến thái của nền phê bình văn học hiện nay, không có nghĩa là chúng ta thiếu những nhà phê bình vẫn đang cặm cụi làm việc một cách cẩn trọng và đầy nhiệt tâm. Ví dụ như Nguyễn Hữu Sơn, Chu Văn Sơn, Nguyễn Phượng, Phan Huy Dũng, Phạm Xuân Thạch... Tuy nhiên trong thực tế, những bài viết, những công trình của họ khi công bố thường như bị chìm lẫn giữa một biển thông tin khổng lồ. Chỉ có những người yêu nghề, chịu khó đọc thì mới phát hiện ra và trân trọng.
    - Nhiều người cho rằng, văn học của chúng ta đang thiếu những đỉnh cao, lý do chính vẫn bởi phê bình không theo kịp với sáng tác...
    - Không. Theo tôi, đỉnh cao mà chúng ta đang thiếu chính là tài năng và tư duy nghề nghiệp của nhà văn. Người viết văn xuôi ở Việt Nam hôm nay, tạm lấy từ 40 tuổi trở lên, thường viết theo lối ?ochuyện kể?. Đọc họ, tôi biết nhiều người sáng tác theo... đề tài. Nghĩa là nếu viết về thành thị thì họ sẽ nghĩ ra một câu chuyện diễn ra ở thành thị và ?okể? nó cho đến hết cái cốt truyện họ hư cấu ra. Tiếc thay, cái chính yếu làm nên một tác phẩm là ý tưởng, là các chi tiết văn học thì lại thiếu trầm trọng... Đấy là chưa kể người ta đua theo "mốt", chạy theo các đề tài câu khách. Một người thành công khi viết về sự tẻ nhạt, đơn điệu trong nếp sống của lớp người trẻ tuổi ở đô thị, thế là hàng chục cây bút cũng đua nhau viết về sự tẻ nhạt, đơn điệu ấy, đến mức tạo thành một... trào lưu. Hay là cái "mốt" truyện ngắn 2.000 từ cho đủ một trang báo chẳng hạn, cũng đáng báo động lắm chứ. Tất nhiên ở đây cũng có lỗi của nhà phê bình, khi nhiều người vẫn sử dụng các phương pháp cũ mòn để khảo sát tác phẩm, chẳng phát hiện được điều gì mới mẻ. Phải chăng điều đó khiến người sáng tác coi thường người phê bình?
    Bên cạnh đấy, chúng ta còn chưa thống nhất, chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về ?ophê bình văn học?. Nên làm phê bình bây giờ ?ovui? lắm, đó là cái việc ai cũng có thể làm. Rồi nữa, ai mà chẳng thích nghe những lời ngọt ngào, trong khi ?otrung ngôn? thì ?onghịch nhĩ?. Nhưng nhiều khi chúng ta phải biết nghe cả những lời đắng cay thì mới nhận chân được mình, mới ?olớn? lên được. Thà nói những lời chân thành, tuy có đôi lúc phũ phàng, nhưng còn có ích hơn những lời ve vuốt giả dối. Tôi chọn xu hướng phê bình thẳng thắn, có tình, có lý, song không phủ nhận sạch trơn.
    - Thế nhưng, phê bình của ta yếu còn bởi ngày càng ít những người dám dấn thân đến cùng với cái nghiệp nhiều đắng cay, ít ngọt bùi này. Và những người trẻ đã thờ ơ với những cái ?obức xúc? như anh đã từng bức xúc khi đến với việc viết phê bình. Người ta viết như một cuộc chơi mà thôi. Anh thấy thế nào?
    - Qua quan sát tôi thấy dường như một số người làm công việc không phải văn chương thì viết văn lại hay. Có lẽ vì họ không sản xuất hàng loạt theo kiểu ?omay gia công? mà họ viết từ sự bức xúc nội tâm. Quả là nhiều người viết trẻ hôm nay không chịu dấn thân tới cùng với văn chương. Tiêu chí có tác phẩm đăng báo không quyết định cái gì cả. Tôi nghĩ rằng đầu thế kỷ 20 và bây giờ là đầu thế kỷ 21, lịch sử văn hóa nước ta như đang lặp lại. Nghĩa là lại diễn ra một cuộc giao lưu rất lớn với văn minh phương Tây và cuộc giao lưu mới ?oác liệt? hơn rất nhiều, đặc biệt là vai trò của tính thực dụng trong cuộc mưu sinh. Ví dụ, tôi và anh cùng tốt nghiệp một trường đại học, anh có thể kiếm được 2 ?ové? mỗi tháng, thì tội gì tôi lại kỳ cạch ngồi viết phê bình kiếm một cái nhuận bút cao nhất cỡ 300 nghìn đồng! Dù "dấn thân" đến đâu người ta vẫn phải tính toán, và hiển nhiên khó ai dám sống bằng nghề phê bình chuyên nghiệp, nghề của tôi là biên tập đấy chứ. Thêm vào đó, ngay từ trong trường đại học, sinh viên của chúng ta chưa được chăm chút một tình yêu đích thực với văn chương. Họ học văn, rồi đi làm những công việc khác.
    - Có ý kiến cho rằng, cách phê bình của Nguyễn Hòa là thiên về phê phán và hơi bị... cực đoan, anh nghĩ sao?
    - Tôi thích nói lên sự thật và nhiều khi nói một cách riết róng, vậy thôi. Ai nói tôi cực đoan là không hiểu tôi. Cực đoan là "được đẩy đến mức quá đáng", tôi tự thấy mình không phải vậy. Khi viết phê bình, tôi chỉ có cuốn sách ở trước mặt. Để nói đúng thì phải suy nghĩ kỹ lưỡng, phải cố gắng dựa trên một nền tảng kiến văn rộng và sâu, phải có những luận chứng thuyết phục, chứ không nói dựa. Thường thì tôi im lặng trước một ý kiến nào đó nghĩa là tôi đồng tình, lại có tác phẩm tôi định giá là rất hay nhưng lại viết về nó rất ít. Tôi nghĩ, nếu cả người khen và người được khen đều thiếu tỉnh táo, thì khen quá lời sẽ là tạo ra một nguy thật sự. Tôi không thích đưa ra quá nhiều câu chữ ngợi khen, chứ không phải thích bới lông tìm vết. Cái quan trọng là cố gắng biết mình là ai, ý kiến của mình trung thực như thế nào. Vả lại, tôi không phải là người được đào tạo cơ bản về văn học, mà tôi vốn học ngành văn hóa quần chúng. ?oCờ, đèn, kèn, trống, đóng đinh, leo thang, trèo tường, căng khẩu hiệu? tôi "lành nghề" ra phết đấy. Chính vì thế tôi tự biết mình có những khoảng trống về tri thức và trong điều kiện của mình, tôi luôn cố gắng lấp đầy những khoảng trống đó. Hiểu cái gì thì viết cái ấy, không hiểu thì tránh xa. Thiên hạ thiếu gì người tài, viết lăng nhăng người ta nhận ra ngay.
    - Phải chăng vì muốn phê phán sự ?okhông biết mình? của một số người mà anh đã công bố những sự sao chép của họ?
    - Trong nghề, các anh chị khác cũng ?obiết tỏng? cả ấy mà. Tôi buộc phải nói thẳng việc nhà phê bình X lấy ý kiến của tác giả ở nước ngoài mà không chú thích, vì nếu không rất dễ gây ngộ nhận cho bạn đọc. Ví dụ nữa, như trường hợp cuốn sách viết về người Mông ở Nghệ An, tôi biết rõ từ năm 2002, nhưng sau rất nhiều lần cân nhắc tôi mới công bố trên báo Công an Nhân dân. Hay như với một vị giáo sư chủ biên một cuốn sách ?ođạo văn? vô tội vạ chẳng hạn, khi đặt bút tôi đã phải đấu tranh với chính mình về mặt tình nghĩa, vì đó là thầy tôi. Cuối cùng tôi quyết định lên tiếng bởi cuốn sách đó là giáo trình để giảng dạy trong trường đại học.
    - Thế nhưng, nếu người ta lật lại, nói Nguyễn Hòa ?ochặt chém? họ vì về mặt công trình cũng như học hàm học vị không bằng họ nên ghen tỵ, anh giải thích sao đây?
    - Tôi chưa bao giờ suy nghĩ một cách "tiểu khí" như vậy. Người ta còn bịa ra vô khối chuyện, nào là tôi chưa học đại học, nào là vì tôi không được vào Hội Nhà văn... trong khi tôi chưa nộp đơn vào Hội và cũng chưa buồn in sách! Người đời ấy mà, có những người thích gán cho người khác những động cơ thấp kém, chứ không muốn nhìn nhận người khác trong tính lương thiện. Ai đó nói tôi ghen tỵ thì hãy chứng minh tôi đã nói sai, hay tranh luận một cách sòng phẳng. Cho đến nay có tới 99 % những điều tôi đã công bố mà chưa thấy ai phản bác. Sự im lặng đó có thể lý giải là do người ta không chấp, và cũng có thể do tôi nói đúng quá!
    - Như thế thì hẳn hệ lụy của những lời nói thẳng quả là không ít?
    - Đương nhiên, có người yêu người ghét, thậm chí có người gọi điện thoại tới nhà tôi văng tục, chửi rủa, khủng bố như Al Quaeda! Tôi lắp máy ghi âm vào điện thoại, có vị nửa đêm gọi điện đến để chửi, tôi lưu ý rằng sẽ bấm máy ghi âm, rồi dỡ băng công bố, họ chuyển giọng ngọt ngào ngay. Đến thế đấy anh ạ, cái nghề nó buộc phải vậy. Có cuốn tiểu thuyết vừa phát hành đã có bao nhiêu lời tung hô, riêng tôi lại chỉ đích danh các hạn chế của nó, liền có người cho rằng tôi hắt hủi. Sau khi bài viết của tôi về ông tiến sĩ đạo văn in trên báo Công an Nhân dân, một số người gọi điện để ?ogiãi bày? hộ "khổ chủ". Tôi nghĩ thế này, một cán bộ có thành tích thì tốt thôi, nhưng liệu có một sự thống nhất trong một con người vừa gian lận, nhập nhằng trong khoa học mà lại vừa công tác tốt không nhỉ? Và cả những cám dỗ nữa. Có một ông thứ trưởng làm thơ, cho người đem tới tặng tôi 14 tập liền rồi mời tôi đi Cúc Phương dự đêm lửa trại để bình thơ của ông ta. Đi như thế được ăn chơi nhảy múa, biết đâu còn kiếm được vài đồng, nhưng phải bợ đỡ nịnh nọt khen mấy câu thơ ba lăng nhăng thì tôi xin kiếu. Có nhà thơ gọi điện thoại nhờ tôi viết bài ca ngợi thơ phú của anh, tôi ậm ừ nhưng không viết, anh bảo đưa trước nhuân bút, tôi cũng không viết. Anh gọi nhiều đến mức vợ tôi quen giọng và trả lời tôi không có nhà, dẫu tôi đang vắt vẻo ngồi xem phim hành động!
    - Nghĩa là anh dị ứng và kiên quyết chối từ việc giới thiệu truyện ngắn theo ?ohội chứng? 2000 từ, buồn xa xăm thành thị; còn thơ thì hội chứng ?othơ nghỉ mát??
    - Tôi lên tiếng nhiều lần lắm rồi. Bây giờ ai mà chẳng làm thơ được, nhất là thơ Tết mới đáng sợ. Có trang báo in 6 bài thơ thì trong đó có 4 bài do các tác giả đi... nghỉ mát mà viết nên. Mời anh đọc chùm thơ có tên ?oĐối cực? đăng trên một tờ báo: ?oĐối cực 1: Em vừa ma mãnh đã ngu ngơ - Nửa bên hủ tiếu nửa riêu cua...?; đến ?oĐối cực 4? thì thật kinh dị: ?oĐừng! Tôi hôi hám phường lái lợn...?. Thơ của nhà thơ chính danh hẳn hoi mà còn như thế thì không xảy ra tình trạng ?ongười người in thơ? mới là chuyện lạ... Làm thơ là một thú chơi tao nhã có văn hóa. Nhưng thơ có thể công bố lại là chuyện khác, lỗi này một phần do những người "gác gôn" các trang văn nghệ. Không rõ họ cố tình hay không có khả năng thẩm định nên để "lọt" vào trang báo những bài thơ như thế?
    - Ngoài việc viết về các nhà văn, các hiện tượng văn học, tôi lại thấy anh hay bàn về công trình của các vị giáo sư, tiến sĩ, đó có là chuyện lạ không? Và xin anh một phút thôi, có lúc nào anh nghĩ sẽ làm nghiên cứu sinh rồi trở thành tiến sĩ Nguyễn Hòa?
    - Viết phê bình là công việc tôi làm hàng ngày. Còn vì sao tôi hay đọc sách vở của các giáo sư, tiến sĩ ư (?), vì họ là người công bố công trình, xuất bản nhiều sách. Tôi đọc vì muốn học hỏi, nếu phát hiện có điều gì không đúng thì phải nói rõ để giúp vào sự điều chỉnh. Nhìn nhận thật đúng đắn thì bảo vệ luận án tiến sĩ là một công việc khó khăn. Và chúng ta cũng có nhiều người làm khoa học nghiêm túc như vậy. Hồi còn là giảng viên đại học, đó là yêu cầu bắt buộc, nhưng tôi cứ nấn ná, khất lần với thủ trưởng. Về tạp chí Văn nghệ Quân đội là tôi thôi luôn. Với lại guồng quay cuộc sống hối hả thế này, dứt ra mấy năm để nghiên cứu, tôi cứ thấy tiếc. Thú thật với anh, làm nghiên cứu sinh trong khi lại biết rõ năng lực của một số người sẽ giảng dạy mình, sẽ cho điểm mình, thậm chí có người còn nằm trong "tầm ngắm" của mình nữa thì ngại quá. Bạn bè hỏi tại sao không làm nghiên cứu sinh, tôi liền pha trò theo lối AQ: nhiều khi làm anh cử nhân văn hóa quần chúng để "ngắm" các vị giáo sư, tiến sĩ văn học hay văn hóa học kể cũng hay...!
    Bình Nguyên thực hiện
    Pháp luật, 31/8/2004

  8. tuongcuopsaudoi

    tuongcuopsaudoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2002
    Bài viết:
    19
    Đã được thích:
    0
    chỗ vàng vàng của bạn khiến mình khó hiểu. Mình có đọc mấy bài đó của ông LXKhoa. Mình chẳng thấy có chút gì là "academic" trong bài đó cả. Nếu bạn đọc ở mục "ý kiến ngắn" hồi đó, bao nhiêu độc giả hỏi vặn, có thấy ông LXKHoa trả lời đâu. Còn nếu bạn muốn tìm hiểu nhiều, mời vào box LSVH
    - về Nguyễn Hòa : đây là 1 trong vài cây bút viết nghiêm túc nhất hiện nay, rất cầu thị. (cá nhân mình thì cho là đó là cây bút viết nghiêm túc nhất). Bạn đã hay đọc Tala, hẳn sẽ thấy rất nhiều GS, TS có danh vị nhưng thái độ tranh luận thì khó chấp nhận được. VD như PGS Phan Ngọc (bạn vào tìm chủ đề về việc Phan Ngọc dịch quyển Hegel
    =================
    diễn đàn ttvnol hoàn toàn tuân thủ pháp luật của nhà nước CH XHCN Việt Nam
    diễn đàn ttvnol là 1 diễn đàn dân chủ, công bằng , tất cả các thành viên vi phạm nội quy sẽ bị xử lý
    qthang2006 = qthang2007 =Tuongcuopsaudoi = ngac_ngoai_van_con_them
  9. kelly2005

    kelly2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2005
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    0
    Xin chào tuongcuopsaudoi,
    Xin lỗi nhé, tại mình viết không rõ nên bạn không hiểu ý mình. Mình nói các bài viết của LXKhoa academic hơn là muốn nhấn mạnh đến kỹ thuật, phong cách viết thôi. LXK đã đưa ra quan điểm rõ ràng và chứng minh những quan điểm ấy bằng các chứng cứ cụ thể. Mình không nói đến tính xác thực của các chứng cứ - điều mà một bài viết academic rất cần.
    Có lẽ mình phải viết "trông các bài viết của LKX có vẻ academic hơn" thì chính xác hơn nhỉ? Cảm ơn bạn đã trao đổi.
    Cũng như các bạn ở đây, mình thấy yêu mến và nể trọng Nguyễn Hoà. Mong bác ấy sẽ có nhiều nghiên cứu chất lượng nữa.
    À, Nguyễn Hoà có bài mới về các cuộc tranh luận xung quanh Cẩu Nhi đên trên chungta.com đấy, mọi người đã đọc chưa? Có cần post lên đây không?
  10. tieucaluoi

    tieucaluoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/11/2005
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    Hì hì, tôi đang khoái chí vì đọc bài của Nguyễn Hòa trên chungta.com. Tôi pots luôn nhé. Lanh chanh trước bạn kelly2005 một tý.
    Cẩu Nhi và sau này còn gì nữa...? 16/12/2005 08:33:36 AM
    Nguyễn Hoà
    Cách đây gần hai mươi năm, vào thời trên hòn đảo nhỏ ở hồ Trúc Bạch - Hà Nội, hiện lên sừng sững một nhà hàng có tên gọi Restaurant Cổ Ngư, dư luận đã một lần xôn xao về việc hậu thế đang xâm phạm một ?odi tích lịch sử?. Bằng tấm lòng tâm huyết với văn hóa dân tộc, với truyền thống văn hiến Thủ đô, hai nhà sử học vào hàng đầu bảng của ngành sử học nước nhà đã nhanh chóng, khẩn thiết lên tiếng bảo vệ một di tích được hai ông gọi là đền Cẩu Nhi - đền Chó con. Trong đó một vị coi ngôi đền đã ?ocắm một cái mốc lớn trên chặng đường dài lịch sử Hà Nội?. Còn vị Giáo sư kia thì nhấn mạnh đây là ?omột kỷ niệm lịch sử của Thăng Long thời Lý?. Thế là từ sự ồn ào của dư luận và hình như còn có cả sự bảo đảm bằng vàng từ uy tín của hai giáo sư sử học lừng danh, cái nhà hàng tọa lạc nhầm chỗ kia liền nhanh chóng bị xóa bỏ (dù hai vị chưa một lần đem tới cho lớp chúng sinh còn thiếu am hiểu về lịch sử một câu trả lời rõ ràng rằng tại sao ngôi đền lại là ?ocột mốc?, là ?okỷ niệm??).
    Gần hai mươi năm sau, khi ngân sách thành phố Hà Nội đã có một khoản cỡ 3 tỷ đồng sẵn sàng chi ra để biến hòn đảo nhỏ trên hồ Trúc Bạch thành một danh lam thắng cảnh, thì ?oCẩu Nhi? lại được ?ophục sinh? và để giúp đi tìm những lý do lịch sử, mấy cuộc thảo luận mang dáng dấp như đấu trường ?otỷ thí? giữa các nhà khoa học bảo vệ ?oCẩu Nhi? và các nhà khoa học phản đối ?oCẩu Nhi? đã diễn ra. Điều trớ trêu là dẫu thảo luận có bất phân thắng bại như thế nào thì theo lãnh đạo Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội: ?oSở vẫn đồng ý với việc xây dựng đền Cẩu Nhi trên hồ Trúc Bạch theo đúng quy trình và Luật Di sản. Vấn đề còn lại chỉ là quy mô xây dựng sẽ được điều chỉnh? (báo Thể thao & Văn hóa, số 88, ngày 23.8.2005). Qua đó xem chừng tiếng nói của các nhà khoa học cũng không quan trọng tới mức như người ta tưởng; khi đã có tiền, khi đã quyết xây thì ý kiến phản đối quyết liệt của các ông Đỗ Văn Ninh, Bùi Thiết... xem ra cũng giảm thiểu trọng lượng!
    Kẻ viết bài này không quan tâm nhiều lắm đến sự kiện ngôi đền ?oCẩu Nhi? có được xây dựng lại hay không và quy mô của nó lớn nhỏ ra sao, khi việc xây dựng ?oCẩu Nhi? trở thành sự thể hiện tình yêu văn hóa dân tộc và khả năng tiêu tiền vào những việc quan trọng hơn xóa đói giảm nghèo của những người có trách nhiệm thì một cá nhân có quan tâm cũng không còn quan trọng nữa. Nhưng cái cung cách mà các nhà khoa học đưa ra trong thảo luận để bảo vệ hay phản đối ?osự tích Cẩu Nhi? lại buộc tôi phải viết bài này, bởi tôi e ngại rồi đây sau ?ovụ đền Cẩu Nhi?, với cung cách ấy, các nhà khoa học khả kính của nước nhà sẽ tiếp tục phô diễn quan niệm và năng lực khoa học của họ để đưa các sự kiện lịch sử - văn hóa còn ?obí hiểm? của dân tộc trong quá khứ sẽ đi tới đâu?
    Trước hết xin bàn đôi chút về Tây Hồ chí - tài liệu duy nhất để các nhà khoa học trung thành với ?oCẩu Nhi? dựa vào để chứng minh sự đúng đắn của mình. Với một dân tộc không có truyền thống làm sử cập nhật và chính xác như Việt Nam, lại thêm chiến tranh giặc giã, thiên tai làm cho thất lạc... tôi không tin Tây Hồ chí là một văn bản có khả năng đưa tới những thông tin xác thực. Bởi ngoài việc không có tên tác giả, cho đến nay, chưa ai xác định được Tây Hồ chí ra đời trong ?okhoảng? thời gian nào, người bảo đầu thế kỷ XIX, người nói giữa thế kỷ XIX, người lại đồ rằng đầu thế kỷ XX. Song điều đáng nói là dù cuốn sách được viết trong ?okhoảng? thời gian có biên độ rộng rãi như trên thì liệu có tin cậy được không, khi nó đề cập tới một sự kiện diễn ra từ thế kỷ XI, tức là diễn ra trước Tây Hồ chí quãng 8 thế kỷ. Đặc biệt hơn, sự kiện đó lại chưa từng được ghi chép trong bất kỳ một cuốn sách lịch sử nào, chưa có mặt trong bất kỳ một truyền thuyết nào? Mặt khác ngoài ?othần tích? còn rất mông lung (hay có thể nói là không có thần tích) cho đến nay chưa có bất kỳ một nhà khoa học nào biết được nghi thức hành lễ, vật cúng tế..., rồi ngày lễ đền ?oCẩu Nhi? được tổ chức ra sao, vào ngày nào tháng nào hàng năm?
    ?oTả xung hữu đột? để giành phần thắng trong một đề tài còn hết sức mù mờ, đã có vài ba nhà khoa học tung ra nhiều chủng loại ?ovũ khí chuyên môn? mà thiển nghĩ nếu họ không tung ra tôi còn ?okính nhi viễn chi?, còn khi họ tung ra rồi thì tôi nghi ngờ ?ocon người khoa học? của họ. Ví dụ:
    - Một ông tiến sĩ ở Viện Hán - Nôm khẳng định: ?oTây Hồ chí là cuốn sách có ký hiệu hẳn hoi (A3192.1/2) tại thư viện Viện Hán Nôm. Công trình được viết bằng chữ Hán, có thể được sao vào khoảng cuối Lê đầu Nguyễn" và ông khuyến nghị hậu thế cứ ?otheo những gì các cụ đã viết chứ không nên đưa ý kiến đoán định chủ quan về những thông tin sách nêu?. Té ra theo ông tiến sĩ thì hễ cuốn sách nào có ?osố hiệu hẳn hoi? trong thư viện Hán - Nôm là chuẩn xác, cứ thế dựa theo mà làm. Tôi không rõ chuyên ngành khoa học mà Tiến sĩ theo đuổi, nhưng xem chừng với ông thì khoa học sinh ra trên đời này hơi bị... vô bổ!
    - Một nhà Hà Nội học thì ?ođoán mò?: ?oChuyện đó không ai bịa đặt ra cả vì nó đã được chép trong Tây Hồ chí. Tác phẩm này ra đời từ giữa thế kỷ XIX. Tây Hồ chí khẳng định đúng là trên gò hồ Trúc Bạch có một đền gọi là đền Cẩu Nhi thờ Thần Chó con. Về sau, tín ngưỡng thờ chó của người Việt phai nhạt đi nên cái đền đó, hoặc một cái đền mới xây trên vị trí đó lại được dân đổi qua gọi là Thủy Trung Tiên tự, tức là thờ Mẫu?. Tôi thành thực không hiểu nhà nghiên cứu lấy gì làm cơ sở cho kết luận ?otín ngưỡng thờ chó... phai nhạt đi?, rất mong ông sẽ chứng minh xưa kia ?otín ngưỡng thờ chó? từng thịnh hành trong đời sống tâm linh của người Việt?
    - Một Giáo sư khác thì dứt khoát hơn: ?oTheo quan điểm của tôi, nó là ngôi đền thờ cả Thần Cá lẫn thần Cẩu Nhi cùng một lúc! Không có gì lạ khi có hai thần được thờ trong cùng một ngôi đền. Trong các kiến trúc cổ của Việt Nam có ngôi đình thờ đến 21 Thành Hoàng thì sao??. Trong trường hợp này, có lẽ Giáo sư đã đánh đồng tín ngưỡng thờ thành hoàng với các tín ngưỡng dân gian khác chăng, và trong ngôi đình thờ 21 thành hoàng mà Giáo sư đề cập, có vị nào ở dưới nước như cá, lại có vị ở trên cạn như... chó không nhỉ? Và tôi nghĩ đây là lối ?onói lấy được? chứ không phải là nghiên cứu khoa học!
    - Ông Giáo sư nọ thì biện dẫn: ?oNên thấy một điều này nữa, một trong năm con vật được Phật Giáo liệt vào hàng những con vật thiêng, đó là chó, ngựa, voi, khỉ và thỏ. Nếu bác bỏ tục thờ Chó, vậy tôi xin hỏi chim Lạc là chim gì? Chim ấy cũng là bịa ra, cả con rồng cũng không có thật, vậy tại sao người Việt vẫn thờ??. Với những câu hỏi mang màu sắc ?ocảm tính? do Giáo đặt ra, tôi thấy buồn cười, hình như ông ít được tạo điều kiện để ?onạp? thêm kiến thức về tín ngưỡng dân gian (?). Đến mức này thì quả thật chỉ biết nói là chịu thua, và khoa học có lẽ chỉ là phương tiện làm nên danh tiếng cho ông, chứ còn thế nào là ?olàm khoa học? thì ông không quan tâm. Lại nữa, tôi không rõ Giáo sư đã thấy ngôi chùa nào ở Việt Nam thờ chó, thờ thỏ chưa nhỉ? Và tôi tự hỏi, Giáo sư đã nghĩ gì khi lấy niềm tin về ?ochim Lạc?, về ?orồng? đã đạt tầm mức phổ cập quốc gia để so sánh với tín ngưỡng về ?ochó?, trong khi chắn chắn là ông chưa biết tín ngưỡng ấy từng được hiểu và thờ cúng như thế nào!
    - Còn vị Giáo sư ngày trước từng quả quyết ?ođền Cẩu Nhi? đã ?ocắm một cái mốc lớn trên chặng đường dài lịch sử Hà Nội? thì nay khẳng định: ?oKhông thể phủ nhận Tây Hồ chí mặc dù sách này không phải không có chỗ nhầm lẫn; song nói về nhầm lẫn thì Đại Việt Sử ký toàn thư cũng có cả chục sai sót. Càng không thể căn cứ vào việc không có tên tác giả để phủ định giá trị sách. Bao nhiêu sách không có tên tác giả: Đại Việt sử lược cũng có đề tác giả đâu, mà ai phủ nhận được giá trị của sách này. Còn chú thích là thói quen làm khoa học hiện đại, chứ xưa không...?. 18 năm sau ngày đưa ra một ý kiến ?onhư đinh đống cột?, ông Giáo sư vẫn không đưa ra một chứng lý lịch sử - văn hóa nào ngoài việc quyết tâm bảo vệ sự chính xác của Tây Hồ chí. Vậy Giáo sư giải thích sao đây khi ông thấy trong Đại Việt sử ký toàn thư (bản Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích, GS Hà Văn Tấn hiệu đính, GS Phan Huy Lê tham gia Hội đồng chỉ đạo và duyệt) có đoạn: ?oTháng 5, trồng 500 trượng toàn cây muỗm (suốt từ bến Hồng đến đê quai vạc Cẩu Thần)? để từ đó suy ra tục ?othờ chó?; trong khi cũng sự kiện này, trong Đại Việt sử ký toàn thư (bản Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính và chú giải) lại viết: ?oTháng 5, trồng 500 trượng toàn cây muỗm (suốt từ bến Hồng đến đê quai vạc Tuẫn Thần)?? Giữa ông Giáo sư này và cụ Đào Duy Anh có sự khác nhau trong việc phải đọc là ?ocẩu? hay phải đọc là ?otuẫn? và sự khác nhau ấy liệu có bảo đảm rằng Giáo sư đọc chính xác hơn? Ý kiến Giáo sư làm tôi nhớ tới chuyện ngày 13.10.2003 tôi đọc trên website talawas - trong cuộc tranh luận về GS Trần Đình Hượu, thấy học trò người Đức của Giáo sư là Patrick Raszelenberg kể lại rằng trong buổi nói chuyện với Patrick Raszelenberg (tháng 3.1996), Giáo sư nói: ông ?ophải bịa ra những dữ kiện vì phía chính trị muốn thế?. Trước một ý kiến ?ođộng trời?, ngày ấy tôi hy vọng Giáo sư sẽ lên tiếng bác bỏ hoặc công nhận nhưng tuyệt nhiên cho đến nay vẫn thấy ông im lặng (do ông tảng lờ hay ông chưa biết?). Nhân tranh luận về ?ođền Cầu Nhi?, phát biểu của Giáo sư làm tôi liên tưởng: phải chăng Giáo sư cũng lại ?obịa? nốt?...
    Từ diễn biến của sự việc, tôi thấy chẳng sớm thì muộn rồi đây giữa Hà Thành hoa lệ sẽ mọc lên một ngôi đền thờ Chó. Qua đó, biết đâu một tín ngưỡng đã bị quên lãng nay sẽ được phục hồi (nếu nó đã từng có?), và nếu như nó chưa từng có thì cũng biết đâu từ nay con dân nước Việt sẽ có thêm một chú chó để thờ. Hướng tầm nhìn về tương lai, tôi nghĩ rồi đây không biết các nhà tổ chức sẽ lấy ngày nào để làm lễ đền và tôi xin mạo muội đề xuất: nên chăng lấy giờ Tuất, ngày Tuất, tháng Tuất đầu tiên của năm Âm lịch để tổ chức là thích hợp nhất. Và để cho hoàn bị và nghiêm túc về khoa học, ban tổ chức nên mời một vị giáo sư tuổi Tuất đứng ra là chủ lễ. Tuy nhiên, riêng về phần các phẩm vật được dùng để cúng tế ?oCẩu Nhi? thì tôi không dám góp ý, mà chỉ mạo muội đưa ra một giả thuyết rằng liệu có mối liên hệ nào đó giữa Thành hoàng làng Cổ Nhuế với ?oCẩu nhi? không đây, vì biết đâu Thành hoàng làng Cổ Nhuế chính là vị thần chuyên lo phần ?ohậu cần? cho ?oCẩu Nhi? thì sao!?
    Rồi tôi hình dung vào một ngày đẹp trời nào đó, khi ?ođền Cẩu Nhi? khánh thành, trên chiếc cầu vắt mình soi bóng trên hồ Trúc Bạch, các nhà tổ chức cùng các nhà khoa học khả kính sẽ kính cẩn bước theo chiếc kiệu sơn son thếp vàng mà trên đó, chồm chỗm một ?oCẩu Nhi? xinh xắn đáng yêu. Và trở thói quen, mỗi năm vài lần, trong không khí linh thiêng khói hương nghi ngút, các vị lại thành kính cúi lạy trước bàn thờ một chú chó con đã từng ?ocắm một cái mốc lớn trên chặng đường dài lịch sử Hà Nội?. Trong khi đó xa xa bên đê Nhật Tân, cách đấy vài trăm mét đường chim bay, từ dãy nhà hàng nào là Anh Tú, nào là Hồ Kiểm... mùi giềng mẻ mắm tôm đang bốc lên ngào ngạt, và hàng đoàn thực khách mặt mũi hả hê dắt xe ra về, sau khi đã ?oxơi tái? một hai báo xáo, vài ba đĩa nhựa mận với dăm bảy đoạn dồi... Nhưng tôi vẫn băn khoăn không rõ sau khi hành lễ, các vị quan khách khả kính nọ có ?onháy? nhau lỉnh ra đê Nhật Tân hay không, nên tự an ủi, hãy để thời gian trả lời!
    Số lượt đọc: 608 - Cập nhật lần cuối: 16/12/2005 08:34:55 AM

Chia sẻ trang này