1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

PHÉP NÓI VÀ VIẾT HỎI NGÃ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Milou, 24/07/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    PHÉP NÓI VÀ VIẾT HỎI NGÃ

    PHÉP NÓI VÀ VIẾT HỎI NGÃ

    Hồ Hữu Tường soạn


    Phân nửa người Việt Nam, từ Thanh Hóa trở ra, về phương diện hỏi, ngã, nói và viết rất đúng, còn một phân nửa, từ Nghệ, Tịnh trở vào, nói không phân biệt hai thanh này và viết rất lầm.
    Sự trộn lộn hai thanh này thành một sẽ là một việc làm cho tiếng Việt nghèo nàn thêm, vàlàm cho lắm câu thành tối nghĩạ Người có ý thức không ai dám chủ trương một việc nông nổi như vậỵ Mà phân biệt hai thanh, khi nói và viết, đối với người đàng trong, là một một vấn đề to: vấn đề hỏi ngã

    Mấy năm nay, đã có nhiều người nghiên cứu vấn đề này vàđưa ra một luật, mà chúng tôi xin gọi là luật Nguyễn Đình, để nhắc nhở người đã nêu nó ra trước nhất. Cái hay - và cũng là cái dở - của luật Nguyễn Đình là để cho người đã khá giỏi tiếng Việt dùng được mà thôị Đối với kẻ thiếu học, thì công dụng của nó rất ít.
    Lại giá trị của luật ấy chỉ ở trong phạm vi chính tả. Người đàng trong, dầu cho đã thạo rồi, cũng không sao nói đúng được.
    Muốn giải quyết đến cội rễ vấn đề này, ta hãy nghĩ xem: tại sao người đàng ngoài, dầu chẳng biết luật Nguyễn Đình, vẫn nói đúng va viết đúng hỏi ngã? Ấy bởi vì từ thuở mới học nói, họ đã nghe chung quanh họ, hai thanh này phân biệt rõ ràng. Vậy phương pháp của âm học, đối với mỗi người, và áp dụng cho tất cả, sẽ thành phương pháo giải quyết được vấn đề đến triệt để.
    Dầu ta có thạo thông lệ này, hay thông lệ nọ, mà ta nói vẫn sau, thì trẻ em nghe ta nói sai, sẽ nói sai, ắt là vấn đề hãy còn mãị
    Việc đánh dấu đúng, tuy là cần chỉ là gáo nước để tưới trận lửa to, làm sao mà trừ đám cháy được? Còn nếu ta nhờ các thông lệ làm phương tiện riêng để phân biệt hỏi, ngã, hầu nói đúng, thì thế hệ sau nghe ta nói đúng, sẽ nói đúng. Rồi ít lâu, ở toàn cõi Việt Nam, sẽ không còn vấn đề nàỵ
    Chúng tôi soạn tập sách vấn đề giải quyết vấn đề hỏi ngã. Khi ai nấy đã nói đúng và viết đúng cả rồi, vấn đề sẽ không còn, sách sẽ hết cần, hóa thành vô dụng. Nên lòng cầu nguyện là được một ngày gần đây, sách sẽ không được dùng nữa, và chỉ dành cho những kẻ khảo cứu tài liệu lịch sử xem chơi mà thôi.



  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    TÍNH CÁCH ÂM HỌC CỦA HAI THANH HỎI NGÃ
    1. Tiếng Việt là tiếng có nhiều thanh, hơn cả tiếng Tàụ Những thanh này chia làm hai loại: loại thanh thuần là loại thanh biến.
    2. Thanh thuần là những thanh có một tính cách đơn thuần, và giữ mãi tính cách ấy từ đầu đến cuối:
    Những tiếng luôn luôn giọng ngang nhau, mà ta thường viết không dấu
    Những tiếng luôn luôn giọng cất cao lên, mà ta có thể viết không dấu hoặc phải viết với dấus sắc
    Những tiếng luôn luôn giọng kéo dài xuống, mà ta phải viết với dấu huyền
    Những tiếng giọng rớt xuống rồi dừng liền, mà ta phải viết dấu nặng
    Ở khắp cõi Việt Nam, ai cũng nói được và tất nhiên, viết đúng bốn thanh thuần này
    3. Những thanh biến không giữ mãi một tính cách. Khi phát tiếng ra thì, ban đầu theo tính cách này, rồi biến liền sang tính cách khác:
    Hoặc mới phát ra, giọng đưa lên, rồi biến thành đưa xuống: ấy là những tiếng phải đánh dấu hỏi
    Hoặc mới phát ra, giọng cho xuống rồi biến thành đưa lên: ấy là những tiếng phải đánh dấu ngã
    Những người từ Thanh Hoá trở ra, đều phân biệt được như vậỵ Bởi vì, khi nói, họ để luồng hơi ra lâu, có thời giờ mà biến thanh rõ ràng được. Những người từ Nghệ, Tịnh trở vào, đều nói không được. Bởi vì, khi nói, họ cho luồng hơi qua mau quá,không có thời giờ mà biến thanh cho kịp.
    4. Tuy người đàng ngoài nói đúng hỏi, ngã, song không phải ở địa phương nào cũng nói y như nhaụ
    Ví dụ như nói dấu hỏị Có nơi thì nói phần đưa giọng lên nhiều, phần đưa giọng lên nhiều, phần đưa giọng xuống ít. Có nơi thì trái lại, đưa giọng lên ít, đưa giọng xuống nhiềụ Vì vậy mà mỗi vùng có giọng đặc biệt của mình. Nhưng dầu thế nào, vẫn theo đúng tuần tự lên xuống.
    Còn như nói dấu ngã, thì cũng vậỵ Có nơi đưa giọng xuống nhiều, giọng lên ít. Có nơi đưa giọng xuống ít, giọng lên nhiềụ Bởi thế mà mỗi vùng có đặc biệt của mình. Nhưng dầu thế nào vẫn nói đúng theo tuần tự xuống lên.
    Nói tóm lại, bất cứ giọng địa phương nào, hỏi ấy là lên rồi xuống và ngã ấy là xuống rồi lên. Dựa vào thời gian làm thứ nguyên để lộ cách biến chuyển của hai thanh ấy thế nào, chúng ta thấy hai thanh ấy biến theo hai chiều nghịch nhau luôn.
    5. Vậy, muốn nói được rõ ràng hỏi, ngã, tất phải theo cho đủ hai điều kiện này
    Nói cho luồng hơi ra vừa lâu, đủ thời giờ để ta chuyển thanh
    Phải chuyển thanh đúng theo mỗi loại: gặp hỏi trước cho lên, rồi mới xuống; gặp ngã trước cho xuống, rồi mới cất lên
    Nếu theo đúng như trên, thì nói, đọc hỏi ngã sẽ không còn khó khăn gì cả
    HAI BỰC BỔNG, TRẦM
    6. Sáu thanh trước có thể sắp vào hai bực bổng, trầm tuỳ theo sự phát âm cao hay thấp
    Bực bổng gồm những tiếng không phải đánh dấu, hoặc phải đánh dấu sắc, dấu hỏị
    Bực trầm gồm những tiếng phải đánh dấu nặng, dấu huyền, dấu ngã. Trong hình vẽ, ta ghi bằng những lằn ở dưới lằn phẳng.
    Vậy về mặt tương đối, hỏi và ngã khác nhau, vì thuộc vào hai bực khác nhaụ Hỏi thuộc về loại bổng. Ngã thuộc về loại trầm
    7. Vậy ta dựa vào độ cao thấp của mỗi tiếng làm thứ nguyên để ghi hai thanh hỏi, ngã, chúng ta thấy rằng hai thanh ấy ở vào hai vị trí đối nhaụ
    Hỏi là thanh cao, ở vào bực bổng
    Ngã là thanh thấp, ở vào bực trầm
    Ở nhiều địa phương, có ngườinói hay kéo dàị Họ nói hỏi, mà kéo xuống nhiều quá, nghe như xuống đến bực trầm. Hoặc họ nói ngã, mà kéo lên nhiều quá, nghe như vượt lên bực bổng. Tuy vậy, phần căn bản vẫn ở đúng vị trí của nó.
    8. Hai phương diện nhận xét, hoặc do theo cách biến chuyển của mỗi thanh, hoặc do theo bực cao thấp, có thể nào tương phản nhau chăng?
    Không
    Thanh hỏi ở vào bực bổng và là một thanh biến. Đã cất giọng lên rồi mà phải biến, nếu còn càng cất cao lên nữa, thì là thanh sắc, nên phải hạ giọng xuống mới ra một giọng khác hơn là sắc.
    Thanh ngã ở vào bực trầm và là một thanh biến. Đã rớt giọng xuống rồi, mà phải biến, nếu còn càng cho rớt nữa, thì lại là thanh nặng; nên phải cất giọng lên lại mới ra một giọng khác hơn là nặng.
    Vậy ở vào bực trầm mà biến đi, thì phải theo tuần tự xuống lên
    9. Xét hai hiện tượng tên, ta thấy rằng cách biến của mỗi thanh tùy theo vị trí của thanh nàỵ Vậy có thể lấy vị trí của thanh mà làm cái định nghĩa đầy đủ của nó.
    Thanh hỏi là một thanh biến ở vào bực bổng
    Thanh ngã là một thanh biến ở vào bực trầm


    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 06:57 ngày 24/07/2002
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    MUỐN NÓI ĐƯỢC HỎI, NGÃ
    10. Sự phân tích ở trước đã chỉ rằng hai thanh hỏi, ngã khác nhau như hai điệu nhạc. Vì vậy mà muốn nói được hai thanh này, chúng ta phải tập như là tập hát hai điệu nhạc khác nhaụ Và phép tập nói, được trình bày ở đây, cũng phỏng theo phép tập hát.
    11. Bắt đầu, phải tập nghẹ Trẻ con ở đàng ngoài, vừa mới nhớm có trí khôn, là đã nghe thật lâu, rồi mới bập bẹ vài lờị Và bởi chúng nó biết nghe phân biệt hỏi, ngã, mà chúng nó nói được rõ ràng.
    Người học hát cũng thế. Lỗ tai của họ đã quen một điệu hát, biết phân biệt điệu hát của mình học, trong muôn điệu, thì mới có thể hát đúng được.
    Khi ta tập nghe, tất nhiên phải nghe những người nói đúng, nhất là những trẻ con đàng ngoài, vì tiếng nói của chúng nó trong trẻo hơn. Khi chúng nó nói mau, mà ta phân biệt kịp được tiếng nào thanh hỏi, tiếng nào thanh ngã, ấy là phần thứ nhất đã xong rồị
    12. Kế đến tập nóị Khi lỗ tai đã quen rồi, thì tất nhiên miệng nói theo ý được. Ban đầu còn ngượng chút ít. Nhưng việc biến thanh không phải là khó, đối với kẻ biết lên giọng xuống giọng. Nên cẩn thận nơi tuần tự trước sau, như đã bày ở trước.
    Cũng nên lấy tay mà vẽ trên không lằn cong mô tả sự lên giọng, xuống giọng, giống như người chỉ huy cuộc hoà nhạc ra dấu vậỵ Cách thực tiễn này, nếu được các nhà giáo áp dụng ở nhà trường, sẽ đem lại mau lẹ những thành tích tốt đẹp.
    13. Sau là phải luôn luôn thực hành. Nói chuyện với người đàng ngoài phân biệt hỏi, ngã đã đành, mà nói với ai cũng giữ cho nghiêm nhặt, chẳng cho saị Lại cũng nên dùng mọi phương pháp để cho chung quanh mình, ai nấy đều nói phân biệt hỏi, ngã. Ở nhà trường, các nhà giáo phải nghiêm khắc. Ở sân khấu, các diễn giả phải thận trọng cách phát ngôn. Ở diễn đàn, mọi người phải tập nói trúng.... Thì lần lần, phong trào lan rộng, sẽ lôi cuốn được số đông theọ
    14. Chừng ấy, mỗi người đều nghe chung quanh mình phân biệt rõ ràng, sẽ xem việc nói cẩu thả của mình như là một việc nới đớt. Rồi sẽ xấu hổ, tự chữạ Lại gặp hoàn cảnh thuận tiện để chữa được vì có khác nào trẻ con ở đàng ngoài, đã nghe mọi người nói phân biệt, ắt sẽ nói phân biệt dễ dàng.
    Rồi một thế hệ sau, khi mỗi người đã phân biệt hẳn hoi rồi, thì tình trạng ngày nay chỉ có ở đàng ngoài, sẽ được phổ cập toàn cõi Việt Nam. Vấn đề hỏi ngã sẽ giải quyết xong rồi vậỵ
    15. Nhưng trước khi đến được tình trạng đẹp đẽ ấy, phải trải qua một hồi quá độ Ấy là lúc mọi người biết cách nói và nói được, viết được hỏi, ngã, nhưng hãy còn chưa thuần thục và tự nhiên được như người đàng ngoàị Gặp một tiếng, thuộc về loại các thanh biến, không biết nó là thanh nào, hỏi hay là ngã. Vậy làm sao mà nói đúng, viết đúng được? Nói cách khác, thì đâu là phương pháp để phân biệt tiếng ấy có thanh hỏi hay ngã. Chúng ta sẽ có trả lời ở phần sau nàỵ


  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    LÀM SAO BIẾT ĐƯỢC
    TIẾNG NÀO HỎI TIẾNG NÀO NGÃ
    Phương Pháp Tự Nhiên
    16. Khi ta biết cách nói rồi, muốn có thể phân biệt tiếng nào hỏi, tiếng nào ngã, thì nên theo phương pháp tự nhiên hơn hết, là học
    Phương pháp này đã đem lại những công hiệu rõ ràng. Nhiều người ngoại quốc, tuy nói tiếng Việt rất khó khăn, song đã chịu khó học cẩn thận rồi, thì nói, viết rất đúng hỏi ngã. Nhiều người đàng trong, chịu khó học, cũng nói được viết đúng như người đàng ngoàị
    Mà bằng chứng đích xác hơn hết là, cả một cõi Bắc Việt, ai cũng nói đúng nhờ học từ thuở bé ở nơi chung quanh mình.
    17. Cái may của người đàng ngoài, là sự học này là một cái học thường xuyên, trong mỗi lúc nghe nói, trong mỗi lúc nói, mà người học thấy cực nhọc hay để tí công cố gắng nàọ Chung quanh mình, cha, mẹ, anh, chị, bè, bạn, lối xốm, thảy là người thầy sẵn sàng dạy mình, và lại những ngưòi thầy dạy đúng phương pháp tự nhiên. Kết quả là lên năm, lên sáu tuổi, đứa bé đã học xong rồi, đến trường khỏi phải trở lại vấn đề
    Cái rủi của người đàng trong là không có trường học tự nhiên ấỵ Ngay nhà trường chính quy cũng vẫn là một lớp học thiếu sót về vấn đề nàỵ Thầy giáo nào có công, cũng chỉ dfạy cho học trò đánh dấu đúng, khi viết. Chúng tôi chưa hề gặp một thầy giáo nào ở đàng trong đã dạy học trò nói thanh ngã, thanh hỏi bao giờ. Và cũng chớ nên trách họ, vì chính họ còn chưa nói được thay!
    18. Vậy cần phải học, tuy trong những điều kiện khắt khe hơn, nhưng phải cố tìm tạo ra một hoàn cảnh gần như tự nhiên, và dõi theo một phương pháp tự nhiên.
    Hoàn cảnh ấy, là một nhóm người biết cố gắng nói đúng, viết đúng hỏi, ngã. Phương pháp ấy, là nên học thuộc lòng, không khác nào trẻ con mới học nói phải thuộc tiếng mới, không khác nào người ngoại quốc học nói phải học thuộc tiếng lạ
    Trong khi nói chuyện, nếu phải dừng trước một tiếng để suy nghĩ nên nói thanh nào, thì làm sao cho lời được suôn, lại còn nói chi đến việc trổ tài hùng biện? Trong khi viết, nếu phải dừng mỗi lúc để suy nghĩ nên đánh dấu nào, thì làm sao chép kịp lời của người, hay ghi cho kịp nguồn hứng của mình?
    19. Học phải chọn sách. Học về hỏi, ngã, không có gì qua từ điển, tự điển, tự vị Những người có tiếng là viết đúng chính tả, như Phan Khôi, Phan Văn Hùm, thường thú nhận rằng không có dụng cụ nào hơn là tự điển để tra cứu, mỗi lần trí nhớ của họ hơi lờ mờ
    Ngày nay, những từ điển, lấy tiếng Việt làm nền để cắt nghĩa và điển chế tiếng Việt, thật là khó tìm. Một vài quyển hãy còn lưu hành, nhưng lại rất cẩu thả về vấn đề chính tả.
    20. Học trong tự điển là một việc rất mau chán. Vì vậy mà cần có một lối học mau lẹ, lại có nhiều kết quả.
    Lối học thực tiễn này dựa vào những nhận xét sau đây:
    Trong tiếng Việt, tiếng thanh hỏi nhiều hơn tiếng thanh ngã. Vậy ta học trước hết những tiếng thanh ngã, ắt ít tốn công hơn. Còn tất cả những tiếng nào thừa lại, là to cho thanh hỏị Dựa theo sự nhận xét này, chúng tôi trích đăng ở phần phụ lục một bảng kể những tiếng thanh ngã để cho tiện việc học thuộc lòng.
    Trí nhớ muốn được chắc chắn, cần nên vận dụng tất cả các cơ quan, tai nghe, mắt nhìn, tay viết. Phần lỗ tai đã được chú trọng rồị Còn nên cho quen mắt, bằng cách đọc kỹ và nhiều những sách đánh dấu đúng, những bản viết tay đánh dấu đúng. Và nhất là tập đánh dấu cho quen mắt, quan tay như người đàng ngoài, dấu hỏi rõ ràng vẽ hình kéo xuống, sau khi đã vòng tròn, dấu ngã rõ ràng kéo lên, sau khi đã vòng tròn. Tay, mắt, tai hiệp nahu làm cho phần máy móc của trí nhớ được vận dụng đầy đủ, thì sự nhớ càng chắc.
    Rồi cũng phải làm cho phần thông minh của trí nhớ làm việc, để tập luyện và để củng cố những điều đã học được với một cách máy móc. Vậy cần phải suy nghĩ, để tìm cái lý của sự việc (nghĩa là cái lẽ vì sao phải đánh dấu ngã) và những liên quan của các việc. Đây là một công cuộc đòi lắm hiểu biết. Vậy xin xét ở chương sau.

  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Trong khi nói chuyện, nếu phải dừng trước một tiếng để suy nghĩ nên nói thanh nào, thì làm sao cho lời được suôn, lại còn nói chi đến việc trổ tài hùng biện? Trong khi viết, nếu phải dừng mỗi lúc để suy nghĩ nên đánh dấu nào, thì làm sao chép kịp lời của người, hay ghi cho kịp nguồn hứng của mình?
    19. Học phải chọn sách. Học về hỏi, ngã, không có gì qua từ điển, tự điển, tự vị Những người có tiếng là viết đúng chính tả, như Phan Khôi, Phan Văn Hùm, thường thú nhận rằng không có dụng cụ nào hơn là tự điển để tra cứu, mỗi lần trí nhớ của họ hơi lờ mờ
    Ngày nay, những từ điển, lấy tiếng Việt làm nền để cắt nghĩa và điển chế tiếng Việt, thật là khó tìm. Một vài quyển hãy còn lưu hành, nhưng lại rất cẩu thả về vấn đề chính tả.
    20. Học trong tự điển là một việc rất mau chán. Vì vậy mà cần có một lối học mau lẹ, lại có nhiều kết quả.
    Lối học thực tiễn này dựa vào những nhận xét sau đây:
    Trong tiếng Việt, tiếng thanh hỏi nhiều hơn tiếng thanh ngã. Vậy ta học trước hết những tiếng thanh ngã, ắt ít tốn công hơn. Còn tất cả những tiếng nào thừa lại, là to cho thanh hỏị Dựa theo sự nhận xét này, chúng tôi trích đăng ở phần phụ lục một bảng kể những tiếng thanh ngã để cho tiện việc học thuộc lòng.
    Trí nhớ muốn được chắc chắn, cần nên vận dụng tất cả các cơ quan, tai nghe, mắt nhìn, tay viết. Phần lỗ tai đã được chú trọng rồị Còn nên cho quen mắt, bằng cách đọc kỹ và nhiều những sách đánh dấu đúng, những bản viết tay đánh dấu đúng. Và nhất là tập đánh dấu cho quen mắt, quan tay như người đàng ngoài, dấu hỏi rõ ràng vẽ hình kéo xuống, sau khi đã vòng tròn, dấu ngã rõ ràng kéo lên, sau khi đã vòng tròn. Tay, mắt, tai hiệp nahu làm cho phần máy móc của trí nhớ được vận dụng đầy đủ, thì sự nhớ càng chắc.
    Rồi cũng phải làm cho phần thông minh của trí nhớ làm việc, để tập luyện và để củng cố những điều đã học được với một cách máy móc. Vậy cần phải suy nghĩ, để tìm cái lý của sự việc (nghĩa là cái lẽ vì sao phải đánh dấu ngã) và những liên quan của các việc. Đây là một công cuộc đòi lắm hiểu biết. Vậy xin xét ở chương sau.

  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Phương Pháp Bác Học
    21. Phương pháp bác học này đòi hỏi nhiều hiểu biết về ngữ âm học, để áp dụng những định luật sự biến di của âm thanh, và về từ nguyên học, để tìm tòi gốc rễ của mỗi tiếng.
    Ngữ âm học và từ nguyên học là hai khoa rất khó. Ở Âu Mỹ, vào trường đại học, người ta mới khởi sự cho học các khoa này, còn từ bực trung học trở xuống, chỉ nói cho biết thoáng qua thôị Mà khi đã học xong rồi, phải có óc tìm tòi, khiến suy diễn mới tự mình khảo cứu thêm được. Vì vậy mà phương pháp bác học được nhắc đến sau đây không phải để cho ai cũng dùng được.
    22. Đối với tiếng Việt, hai định luật sau đây của ngữ âm học giúp cho chúng ta rọi nhiều tia sáng và vấn đề hỏi ngã:
    Những âm thanh thường có xu hướng có gần tính chất với những âm thanh đi cặp với mình. Ấy là luật thuận thinh âm
    Những âm thanh thường biến chuyển ra những âm, thanh có gần tính chất với mình.
    Ở đây không phải là để khảo cứu về ngữ âm học, nên xin phép không dừng lâu nơi hai luật này, mà chỉ áp dụng chúng nó vào vấn đề hỏi ngã mà thôị
    23. Do theo sự khảo cứu ở phần thứ nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực nhất, ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực bổng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thường đi cặp với những thanh hỏi, ngang, và sắc là những thanh gần tính chất với nó. Ví dụ như:
    Hỏi đi cặp với hỏi: bẩn thỉu, mỏng mảnh
    Hỏi đi cặp với ngang: thẩn thơ, mơn mởn
    Hỏi đi cặp với sắc: khỏe khoắn, lấp lửng
    Còn thanh ngã ở vào bực trầm, gần với những thanh huyền, nặng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thường đi cặp với những thanh ngã, huyền,nặng là những thanh có gần tính chất với nó. Ví dụ như:
    Ngã đi cặp với ngã: bãi hãi, lẽo đẽo
    Ngã đi cặp với huyền: bão bùng, hiền ngõ
    Ngã đi cặp với nặng: nhão nhẹt, chậm rãi
    24. Nếu đảo ngược tính cách trên, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để tìm tiếng nào có thanh ngã (luật Nguyễn Đình)
    Tiếng có thanh ngã là những tiếng đi cặp với tiếng thanh ngã, nặng hay huyền
    25. Tuy nhiên, thông lệ này có rất nhiều ngoại lệ Trong bảng phụ lục sau đây, chúng tôi đánh dấu sao ( + ) những tiếp cặp nào ở ngoài lệ nàỵ Độc giả sẽ thấy rằng số ấy không phải là ít, và phương pháp bác học, tuy đòi hỏi rất nhiều hiểu biết và suy nghĩ, vẫn không bằng phương pháp tự nhiên
    26. Khoa từ nguyên học, áp dụng vào tiếng Việt, cho ta biết rằng những tiếng họ hàng, hoặc biến chuyển ra, thường có những thanh gần với thanh cội rễ.
    Như ba thanh ngang, sắc, hỏi biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ: chưạ..chửa; miếng...miểng; cảnh...kiếng; chẳng...chăng; thể...thế
    Còn ba thanh huyền, nặng, ngã, biến chuyển qua lại với nhaụ Ví dụ: rồị..rỗi, chậm...chẫm; cữụ..cậu; lỡ ... lợ; cũng....cùng.
    27. Nếu đảo ngược tính cách này, chúng ta có thể nêu được cái thông lệ thực tiễn để tìm tiếng nào có thanh ngã
    Tiếng có thanh ngã là những tiếng do tiếng thanh ngã, nặng, huyền biến chuyển ra
    28. Ngoài ra còn những tiếng Hán Việt mà cách phát thanh theo những định luật phiền tạp, và sự áp dụng các định luật ấy chưa chắc gì đơn giản hơn là theo phương pháp tự nhiên là học ngay cho thuộc lòng. Lại các định luật này có rất nhiều ngoại lệ, mà nhớ cho được và cho đủ, cũng cần phải học thuộc lòng. Vậy thì, làm thế nào, vẫn khó tìm một phương pháp, duy lý dễ dàng, cho vừa tầm thực dụng của bình dân
    Tốt hơn là dùng phương pháp tự nhiên, đã dễ dàng, còn đem lại nhiều thành tích tốt đẹp
    29. Tuy vậy, những định luật kể trên vẫn có giá trị là những kim chỉ nam cho những nhà khảo cứu, để tìm tòi chính tả và điển chế tiếng Việt. Giá trị của nó là giá trị của một phương pháp bác học, và chỉ có giá trị ấy trong địa hạt của khảo cứụ Cố đem ra ngoài địa hạt ấy và biên thành những thông lệ thực tiễn, chưa ắt là hạp với kinh nghiệm của khoa sư phạm.
    Trái lại, nếu ta đã dùng phương pháp tự nhiên mà học thuộc lòng rồi, lại áp dụng thêm phương pháp bác học để khảo chính và củng cố trong trí nhớ những điều đã học được, thì là một việc thêm haỵ
    30. Đặc sắc của khoa học không phải là dừng nơi một phát kiến nào, mà ở nơi sự tìm tòi và phát kiếm thêm mãị Vấn đề hỏi ngã không phải ở trọn trong luật Nguyễn Đình và luật tứ thinh
    Đứng vào một sở cậy khác, rọi một nhấn quang khác, chắc chắn sẽ tìm thấy việc khác có thể giúp cho ta hiểu rõ thêm vấn đề.
    Như có người (Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Thế Lữ...và chúng tôi) nghĩ rằng tiếng Việt nam là một tiếng "nhạc ý" (nghĩa là dùng âm thanh cao, thấp, dài, ngắn mà diễn ý), khác hơn tiếng Tàu là một tiếng "hội ý" (nghĩa là dùng nét vẽ mà tượng ý). Thế thì, hỏi hay ngã, tất phải có quan hệ với ý của tiếng dùng. Nhắc đến giả thuyết này, chúng tôi chỉ có ý mách rằng có thể khảo cứu và suy luận thêm về vấn đề hỏi ngã, chớ chưa định ý lập một cái luật nào mớị
    31. Độc giả nên nghiên cứu bằng thuật dùng thẻ (fiche). Thẻ ấy là những mảnh giấy rời nhỏ. Trên mỗi thẻ, ta nêu to một tiếng dấu ngã, kế đến những điều gì mà ta cần chép để nhớ (nghĩa tiếng, gốc tiếng, luật về ngữ âm học) và những nhận xét hay giả thuyết riêng của tạ Khi có đủ bộ rồi, ta chịu khó quy nạp những nhận xét, biết đâu ta chẳng tìm được cái gì hay đẹp về vấn đề?

  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Về cách phát âm các đại từ chỉ người và chỉ chỗ trong tiếng Sài Gòn
    cao xuân hạo
    ở TP Hồ Chí Minh cũng như ở các tỉnh Nam Bộ nói chung, những đại từ chỉ xuất như anh ấy, chị ấy, ông ấy, bà ấy, trong ấy, ngoài ấy, bên ấy trong tiếng nói tự nhiên hằng ngày thường được phát âm "gộp lại" thành một tiếng, nghe gần như ảnh, chỉ, ổng, bả, trỏng, ngoải, bển, tuy trên những khí cụ ghi âm chính xác những tiếng này có dài hơn các từ mang thanh "hỏi - ngã"(*).
    Nhưng không biết từ bao giờ, trên sân khấu, trong phim ảnh và cả trên diễn đàn các hội nghị nữa, cách phát âm tự nhiên này được thay thế bằng một cách phát âm khác hẳn, mà chắc là có ai đó cho là "chuẩn" hơn hay "đúng" hơn: thay vì ảnh, chỉ, bển, v.v., ta có thể nghe thấy diễn viên (hay diễn giả) nói "anh ấy, chị ấy, bên ấy" tách bạch, trong đó từ ấy được đánh một trọng âm nhấn rất mạnh.
    Bài này đặt vấn đề bàn thêm xem thử cách phát âm bình thường (ảnh, chỉ) đáng chê trách đến mức nào mà phải bị loại trừ ra khỏi ngôn ngữ nghệ thuật, và cách phát âm hiện dùng trên sân khấu và trong phim có thật là cách phát âm chuẩn hay không. Muốn trả lời mấy câu hỏi này, chúng tôi đã tiến hành ghi âm và phân tích âm phổ trên máy spectrograph cách phát âm những tổ hợp nói trên trong ba phương ngữ khác nhau của Việt Nam: tiếng miền bắc (Hà Nội), tiếng miền trung (Huế), và tiếng miền nam (Sài Gòn), được đặt trong một ngôn cảnh như nhau - trong bốn kiểu câu đơn giản và thông dụng:
    Anh ấy mới về quê.
    Bên ấy mát hơn nhiều.
    Tôi muốn gặp anh ấy.
    Nó đang ngồi bên ấy.
    rồi lần lượt thay anh ấy và bên ấy bằng chị ấy, trong ấy, v.v.
    Chúng tôi đo độ dài, cường độ chính xác (bằng đơn vị 1/100 giây và 1 db) của từng tiếng trong các tổ hợp đang xét được phát âm theo những quy tắc ngữ âm của từng địa phương so với chiều dài của cả câu được phát âm với tốc độ nói chuyện thoải mái (từ 1,60 giây đến 2 giây mỗi câu), có chú ý đến cách dùng từ của từng địa phương.
    Những kết quả thu được trên máy (thiết bị vi tính hóa CECIL for Windown) cho phép chúng tôi nhận xét những điều sau đây:
    1. Trong các tổ hợp đang xét, ở cả ba phương ngữ không có trường hợp nào từ chỉ xuất đi sau (ấy, đó hay nớ) mang trọng âm;
    2. Ngược lại, từ ấy bao giờ cũng được phát âm với một độ dài xấp xỉ 2/5 độ dài của từ đi trước và một cường độ xấp xỉ bằng 1/4 cường độ của từ này. Như vậy, trong anh ấy chẳng hạn, anh, tuy không mang trọng âm ngữ đoạn, vẫn mạnh và dài khoảng gấp ba ấy (nhược hóa thành í trong tiếng Hà Nội, thành a trong tiếng Huế);
    3. Độ dài cộng lại của hai từ anh í (Hà Nội), anh a (Huế) và độ dài của ảnh (Sài Gòn) hoàn toàn bằng nhau (khoảng 0,27 giây); trong khi đó, độ dài của ảnh "đại từ chỉ người" có nhỉnh hơn độ dài của ảnh trong hình ảnh, do phần cuối (phần cao nhất) của âm tiết được kéo dài thêm.
    4. Trong tiếng Hà Nội, tổ hợp chị ấy trong câu nói tự nhiên phát âm gần hoàn toàn giống như từ *chĩ (thanh "ngã"); người Hà Nội nghe băng ghi âm không thể phân biệt đâu là chị ấy, đâu là chĩ, tuy trên bản ghi âm có thể thấy rõ sự chênh lệch về độ dài giữa hai bên.
    Những điều này vừa nói trên đây cho thấy rằng cách phát âm ổng, ảnh, chỉ, ngoải, v.v., của tiếng Sài Gòn tuân theo những quy tắc ngữ âm học có hiệu lực trong ngôn ngữ của toàn dân, chứ không phải là một nét đặc trưng của riêng phương ngữ Nam Bộ. Cụ thể hơn, đó là những quy tắc chi phối cách đặt trọng âm trên các ngữ đoạn có tác dụng phân giới các thành phần cú pháp trong câu và chi phối hiện tượng nhược hóa của những âm tiết không mang trọng âm. Nếu một trong những công dụng quan trọng của sự vắng mặt của trọng âm và cách phát âm nhược hóa là phân biệt hư từ với thực từ, đại từ hồi chỉ với danh từ hay danh ngữ tương ứng trong tất cả các phương ngữ của tiếng Việt, thì đây cũng chỉ là một trường hợp cục bộ của sự phân biệt ấy mà thôi. Cách phát âm đang xét tuyệt nhiên không phải là một hiện tượng vượt ra ngoài những quy tắc làm thành diện mạo âm vị học của tiếng Việt, khiến cho tiếng Sài Gòn và tiếng Nam Bộ xa cách với tiếng Việt "chuẩn", lại càng không phải là một hiện tượng tiêu cực "sinh ra do tính lười biếng cố hữu của người Nam Bộ" như một số người có xu hướng nghĩ. Hoàn toàn ngược lại! Nó là kết quả tác động của các quy tắc của tiếng Việt với tính cách ngôn ngữ toàn dân vào phương ngữ Nam Bộ. Nó chính là cách phát âm chuẩn dùng cho các tổ hợp hữu qua trong phương ngữ Nam Bộ.

  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0

    Thái độ lên án cách phát âm này xuất phát từ một định kiến hoàn toàn vô căn cứ về "những hiện tượng tiêu cực của tiếng địa phương". Nó đưa đến một hậu quả tai hại là làm tăng cái mặc cảm vô lý của người dân đối với tiếng mẹ đẻ của mình. Hơn nữa, nó buộc các diễn viên phải nói theo một kiểu cách rất thiếu tự nhiên. Tệ hơn nữa, cái kiểu phát âm này lại đi ngược lại những quy tắc ngữ âm của ngôn ngữ toàn dân, trong đó có cả cái được mọi người thừa nhận là "tiếng Việt chuẩn", và do đó làm nảy sinh trên sân khấu và trong phim ảnh một thứ tiếng Việt kỳ cục "chẳng giống ai".
    Cách phát âm anh ấy, chị ấy thành hai tiếng rời nhau với một trọng âm đặt trên chữ ấy khi các tổ hợp này làm đại từ hồi chỉ là một cách phát âm hoàn toàn sai, không riêng gì đối với tiếng Nam Bộ, mà đối với tất cả các tỉnh, các vùng trên lãnh thổ Việt Nam. Nó làm mất một sự phân biệt cần thiết giữa một đại từ và một danh ngữ, và do đó làm cho nghĩa của câu khác đi, hay khó hiểu đúng, hay ít nhất cũng rất thiếu tự nhiên, nếu không phải là kỳ cục.
    Nói những điều này ra có lẽ không cần thiết đối với người Nam Bộ bình thường: xưa nay họ vẫn nói như thế, nghĩa là nói đúng theo những quy tắc của tiếng mẹ đẻ, trong khi dùng tiếng Việt để giao tiếp hằng ngày, và dù có xem kịch, xem phim bao nhiêu, dù có ai chê bai quở trách bao nhiêu họ cũng vẫn nói đúng - vì đó là cách nói chuẩn xác nhất và quen thuộc nhất.
    Nhưng nó là cần thiết đối với các diễn viên và nhất là đối với các nhà đạo diễn. Cách đây mươi năm, trong khi giảng về ngữ âm tiếng Việt cho các sinh viên Trường Nghệ thuật Sân khấu TP Hồ Chí Minh, tôi có trình bày vấn đề này, và bao giờ cũng tìm được sự đồng tình trong tất cả các sinh viên nghe giảng. Họ nói: "Phải chi cho tụi em phát âm như vậy thì chắc chắn là tụi em sẽ dễ nói tự nhiên hơn nhiều trong khi diễn".
    Nhưng không hiểu tại sao cho đến nay tình hình trên sân khấu vẫn như cũ. Không biết có phải vì các nhà đạo diễn có ý muốn "chuẩn hóa dần dần" cách phát âm của diễn viên không.
    Tiến tới chuẩn hóa là một quá trình tất yếu đối với bất kỳ ngôn ngữ quốc gia nào. Nhưng đây là một quá trình tự nhiên có tính quy luật riêng của nó, và tuy người dân, nhà nước và các cơ quan văn hóa có thể có chủ động khuyến khích quá trình này, nhưng không thể làm việc này một cách vội vàng và thiếu cơ sở, nhất là bằng cách ép người học chấp nhận những kiểu phát âm hoàn toàn trái với những chuẩn mực đã hình thành rồi trong ngôn ngữ toàn dân, như các quy tắc trọng âm đã nói ở trên. Còn như trong tình hình hiện nay, không có lý do gì để cho rằng có những hiện tượng nào đó "tiêu cực" đến nỗi phải "sửa" ngay trong khi toàn bộ hệ thống, trong đó mọi thứ đều có quan hệ hữu cơ với nhau, và do đó mà đều hợp lý, vẫn còn nguyên như cũ.
    _______________
    (*) Trong các phương ngữ Nam Bộ, cũng như trong hầu hết các phương ngữ Trung Bộ, không có sự phân biệt giữa hai thanh "hỏi" và "ngã": hai thanh này được đồng nhất hóa thành một thanh mà chúng tôi tạm gọi là "hỏi - ngã", tương ứng với hai thanh "hỏi" và "ngã" trong một hệ thống gồm sáu thanh. Trong tiếng Nam Bộ, thanh này là một thanh có âm vực cao ngang thanh "sắc" khi kết thúc, nhưng xuất phát thấp hơn chừng một cung (ton), thành thử nghe gần giống như thanh "ngã" ở Bắc Bộ, nếu không kể âm tắc thanh hầu thường cắt thanh này ra làm hai phần.
    (theo báo Nhân Dân)

  9. minh_le

    minh_le Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/12/2002
    Bài viết:
    780
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn các bác ! ngày trước em hoc trường K.trúc ,trong lớp có 4 người Huế, mỗi khi viết bài toàn sai chính tả, khi trả bài thầy giáo bảo : "tôi không nhìn tên củng biết các em là người miền trung " !
    9399
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Về Dấu Hỏi Ngã Trong TV. Để phân biệt nó. TRước tiên chúng ta cần phải phân biệt Từ Thuần Việt, Và từ Hán Việt ạnh ạ.Vì sự phân biệt dấu Hỏi Ngã có liên quan đến 2 nhóm từ vựng này anh ạ.Trước tiên, em xin mượn lời người khác để phân biệt 2 nhóm từ này.
    Từ thuần Việt trước kia thường gọi chung đây là những "tiếng nôm", nói trại từ "tiếng nam", tức là tiếng của người nước Nam - để phân biệt với tiếng nói của người phương Bắc, tức là người Hán. Ðó là những từ có thể chuyển đổi thanh theo quy luật hài thanh, hoặc là những từ láy âm theo phép hoà phối ngữ âm. Chẳng hạn, từ nở, nóng, hỏi là những từ thuần Việt, vì chúng có thể tạo thành những từ láy âm: nở nang, nóng nảy, hỏ han. Một từ như đã, chẳng, dẫu là những từ thuần Việt, vì chúng có thể chuyển thanh điệu mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa: đà, chăng, dầu.
    Từ Hán Việt là những từ đã vay mượn từ vốn từ vựng tiếng Hán từ cả gần hai nghìn năm trước đây, khi nhà Hán bên Trung Hoa sang đô hộ xứ mình. Số từ Hán Việt đã chiếm quá nửa số vốn từ của chúng ta hiện nay. Có thể nhận biết một từ Hán Việt hay không là nhờ mấy cách như sau:

    Nếu một chữ hay một tiếng có thể ghép với các tiếng như nhất (một), hữu (có), vô (không), bất (chẳng), thì từ ấy phải là từ Hán Việt. Vậy thì từ nhân, ích, đạo, bình [/i]là những tiếng Hán Việt vì chúng có thể kết hợp có ý nghĩa với bốn tiếng trên kia: nhất nhân, hữu ích, vô đạo, bất bình.[/i]
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.

Chia sẻ trang này