1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

PHÉP NÓI VÀ VIẾT HỎI NGÃ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Milou, 24/07/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Nếu gặp một chữ hoặc một tiếng mà ta không hiểu nghĩa, nhưng ta lại biết rằng chúng có thể ghép chung với hai từ mà lại có cùng ý nghĩa, thì đó là một tiếng Hán Việt. Ví dụ: ta gặp từ trường sinh mà ta không biết tiếng trường là gì, nhưng biết là nó ghép chung với hai tiếng khác (trường dạ, trường kỉ), thì có thể đoán biết là trường là một tiếng Hán Việt có nghĩa là "dài"; hoặc là đọc đến mấy chữ tác nghiệp, ta không hiểu tác là gì, nhưng biết là có sáng tác, tác giả, thì đoán biết tác là một tiếng Hán Việt, có nghĩa đại khái là "làm ra cái gì đó".

    Nếu một tiếng nào đó mặc dù quen dùng riêng rẽ trong lời nói hằng ngày, nhưng lại thấy chúng thường ghép trong ít nhất là hai từ Hán Việt, thì tiếng hoặc chữ đó là một tiếng Hán Việt. Ví dụ: tiếng học là một từ quen dùng. Tiếng này có thể gặp trong những từ Hán Việt như học sinh, đại học, học vị. Vậy thì tiếng học là một tiếng Hán Việt. Thí dụ khác: tiếng chúng có thể gặp trong các từ Hán Việt như quần chúng, chúng sinh..., vậy thì chúng cũng là một tiếng Hán Việt.
    Tại sao lại có sự phân biệt dấu hỏi ngã trong từ Hán Việt , và từ Thuần Việt
    Trích bài viết của tác giả Đào Xuân Kiên)
    DẤU HỎI NGÃ ÐỐI VỚI TIẾNG THUẦN VIỆT
    Một tính cách rất nổi bật của tiếng Việt là tính cách hoà phối ngữ âm giữa hai thành phần của một từ kép mà chúng ta thường gọi là từ láy. Những từ có hai âm tiết láy với nhau khi một hay nhiều thành phần âm tiết của hai âm tiết đó lặp lại giống hệt âm kia (gọi là điệp âm), hoặc kết hợp với âm kia theo một trật tự nào đó. Một vài thí dụ về từ láy: vui vẻ, xinh xắn, khô khan, đẹp đẽ... Hiện tượng láy từ có tác dụng trước hết là sự cân đối, sự hài hoà giữa các âm tiết của từ. So sánh hai câu dưới đây:
    2a Căn nhà này khá rộng.
    2b Căn nhà này khá rộng rãi.
    Cả hai câu nói đều đúng cách nói thông thường. Nhưng khi nói rộng rãi như trong câu 2b thì nghe êm ái hơn, dễ nghe hơn, và do đó được chuộng hơn.
    Xem thế thì hoà phối ngữ âm là sự kết hợp hài hoà giữa thành phần của một từ với một từ khác để tạo thành sự cân đối nhịp nhàng. Hoà phối ngữ âm có thể thực hiện ở cả bốn thành phần âm tiết của từ:
    Láy âm đầu: lững lờ, lờ vờ, lụng thụng
    Láy âm chính: đo đỏ, gồ ghề, chúm chím, nhõng nhẽo
    Láy âm cuối: mũm mĩm, hầm hập, ươn ướt
    Láy thanh: thênh thang, vàng vọt, lả lơi, ngả ngớn
    Ở đây chúng ta chỉ chú ý đến sự hoà phối ngữ âm về mặt thanh điệu. Sự phân bố cân phương này được gọi là luật hài thanh [5]. Luật hài thanh được thể hiện qua hai hiện tượng liên quan đến hoạt động của thanh điệu tiếng Việt:
    Trước hết là sự hài thanh giữa hai âm tiết của từ láy: đây là sự phân bố cân đối giữa các thanh giữa hai âm tiết của một từ kép thành từng đôi một trong mỗi nhóm dưới đây:
    Nhóm thứ nhất (thanh bổng): ngang - hỏi - sắc
    Nhóm thứ nhì (thanh trầm): huyền - ngã - nặng
    Theo bảng trên đây, hai từ thuộc nhóm thứ nhất có thể mang một trong ba thanh:

    Ngang - hỏi: lửng lơ, thơ thẩn, sang sảng
    Hỏi - sắc: lở lói, ngả ngớn, vắng vẻ, gắng gỏi,
    Ngang - sắc: diêm dúa, nghe ngóng, mang máng, líu lo, thối tha
    Ba thanh thuộc nhóm thứ nhì được phân bố kết hợp như sau:

    Huyền - ngã: ầm ĩ, lờ lững, vòi vĩnh, ỡm ờ, thẫn thờ,
    Ngã - nặng: kĩu kịt, nũng nịu, nhão nhoẹt, hợm hĩnh, đẹp đẽ
    Huyền - nặng: mờ mịt, vàng vọt, lặng lờ, mặn mà

    Luật hài thanh còn thể hiện cả trong hiện tượng chuyển thanh điệu của một số từ. Tiếng Việt có nhiều từ biến đổi thanh mà vẫn không đổi ý nghĩa sang một từ khác. Hiện tượng chuyển đổi thanh trong tiếng Việt cũng theo phép hài thanh, nghĩa là các từ chuyển thanh theo hai nhóm mà Lê Ngọc Trụ (1959) tóm lại thành hai mô hình mà ông gọi là tan - tán - tản và lãi - lời - lợi. Phép chuyển thanh này như sau:
    Ðổi thanh theo mô hình tan - tán - tản (nhóm ngang - hỏi - sắc). Dưới đây là một số trường hợp thường gặp:
    chăng - chẳng lén - lẻn rảy - rưới
    chưa - chửa lỏm - lóm túa - tủa / toả
    không - hổng thoáng - thoảng há miệng - hả miệng
    phản - ván ham - hám nói hở - nói hớ
    tan - tản bấu - bâu vểnh mặt - vênh mặt
    Ðổi thanh theo mô hình lãi - lời - lợi (nhóm huyền - ngã - nặng). Dưới đây là một số trường hợp thường gặp:
    đã - đà ngỡ - ngờ chậm rãi - chẫm rãi
    lời - lợi cội - cỗi ướt đẫm - ướt đầm
    dẫu - dầu còi - cỗi đen sậm - đen sẫm
    cũng - cùng đỗ - đậu xoã tóc - xoà tóc
    (sông) Nhị - (sông) Nhĩ thõng - thòng ăn ruỗng - ăn ruồng
    Ngoài ra, có một số từ Hán Việt và tiếng thuần Việt dường như có liên quan, gần gũi với nhau [6]. Những trường hợp vay mượn qua lại như thế cũng tuân theo phép hài thanh của tiếng Việt, nghĩa là cũng theo một trong hai mô hình tan - tán - tản và lãi - lời - lợi. Dưới đây là một vài thí dụ về sự giao tiếp ngôn ngữ như thế:
    huyền - ngã - nặng ngang - hỏi - sắc
    cưỡng - gượng thiểu - thiếu
    trữ - giữ thố - thỏ
    đãi - đợi xả - xá
    Biết được tính cách của luật hài thanh thì chúng ta có thể nêu lên thành luật gọi là "luật hỏi-ngã của các tiếng nôm" như sau:
    Luật 1 khi hai tiếng có thể láy được với nhau thì hễ một tiếng mang dấu ngang (không dấu) hoặc dấu sắc thì tiếng kia phải mang dấu hỏi; ngược lại, hễ một tiếng mang dấu huyền hoặc dấu nặng thì tiếng kia phải mang dấu ngã.
    Luật 2 một từ có thể chuyển thanh điệu sang ngang hoặc sắc thì chắc chắn là mang dấu hỏi (theo mẫu tan - tán - tản); ngược lại, một tiếng có thể chuyển sang thanh huyền hoặc thanh nặng thì chắc chắn là có dấu ngã (theo mẫu lời - lãi - lợi).
    Hai luật hỏi ngã này có thể giúp giải quyết được một số khá lớn các trường hợp mà người viết đang còn phân vân không biết nên bỏ dấu hỏi hay dấu ngã. Chẳng hạn, khi phải viết câu dưới đây, người nói giọng đàng trong có thể phân vân không biết bỏ dấu hỏi ngã thế nào:
    3a Chị mơ gói thịt mơ ra rồi ngao ngán thơ dài.
    Có thể dùng phép hài thanh (ngang hỏi sắc-huyền ngã nặng) để tìm ra được rằng: tiếng Việt có nói mở mang (làm cho rộng ra) theo luật ngang-hỏi-sắc, và có mỡ màng (có nhiều chất dầu, mỡ) theo luật huyền-ngã-nặng; lại cũng có thở than (than vãn chuyện gì) mà không có *thỡ (viết với dấu ngã). Vậy câu 3a bỏ dấu hỏi ngã như sau:
    3b Chị mở gói thịt mỡ ra rồi ngao ngán thở dài.
    Một thí dụ khác là khi viết câu dưới đây:
    4a Ðứa bé đa ăn no rồi mà vân chưa chịu đi ngu.
    Chúng ta biết là từ đã ở đây phải bỏ dấu ngã vì cũng có thể nói đà mà câu vẫn không đổi nghĩa. Từ vẫn mang dấu ngã vì phó từ này không có thể nhầm lẫn với từ vẩn - Có nghĩa là chất cặn bẩn, hoặc từ vẩn vơ (có nghĩa là tâm trạng không dứt khoát) theo luật ngang-hỏi-sắc. Từ ngủ ở cuối câu thì chỉ có thể láy thành ngủ nghê theo luật ngang-hỏi-sắc, nên phải mang dấu hỏi. Vậy thì câu 4a được viết hoàn chỉnh như sau:
    4b Ðứa bé đã ăn no rồi mà vẫn chưa chịu đi ngủ.

    Ngoài ra, cũng nên biết thêm là người Việt - nhất là người miền Nam - hay nói gộp các tiếng hai âm tiết thành một trong những trường hợp sau đây: phải không > phỏng, bà ấy > bả, ở bên ngoài ấy > ở ngoải, hôm ấy > hổm, năm ấy > nẳm, hồi ấy > hổi [7]. Tất cả những tiếng nói gộp trên đây đều mang dấu hỏi. Vậy thì có luật 3 như sau:

    Luật 3 Các tiếng nói gộp âm đều mang dấu hỏi
    Trong kho từ ngữ tiếng Việt hiện đại còn có một nhóm nhỏ những từ ngữ nước ngoài nhưng đã được chuyển sang giọng đọc tiếng Việt. Các tiếng vay mượn thường được phiên chuyển sang thanh hỏi: moả (< moi), xừ luỷ (< lui), đi rỏn (< ronde), sở cẩm (< commissaire de police), làm cỏ vê (< corvée). Vậy có thể nêu thành luật cho loại từ ngữ này như sau:

    Luật 4 các tiếng vay mượn từ tiếng nước ngoài và đã chuyển sang giọng tiếng Việt, thì thường viết với dấu hỏi.
    DẤU HỎI NGÃ CỦA TỪ HÁN VIỆT
    Như đã nói ở trên, nhận biết được một từ Hán Việt sẽ có lợi rất lớn là phân biệt được một phần khá lớn những từ mang dấu hỏi ngã thuộc nhóm từ Hán Việt. Giở từ điển Hán Việt, ta có thể thấy là:
    (1) Những từ Hán Việt bắt đầu bằng các phụ âm d, l, m, n. nh, ng, v thường viết dấu ngã [8]. Có khoảng 180 từ Hán Việt mang dấu ngã. Ví dụ:

    Phụ âm d: dã, dĩ, dũ, dữ.
    Phụ âm l: lão, lễ, lỗ, lữ
    Phụ âm m: mão, mãnh, mẫn, mỗ
    Phụ âm n: não, nễ, nỗ, nữ
    Phụ âm ng: ngã, ngỗ, ngũ, ngữ
    Phụ âm nh: nhã, nhĩ, nhũ, nhữ
    Phụ âm v: vẫn, vĩ, viễn, vũ
    (2) Ngoài những trường hợp kể trên, các từ Hán Việt khác bắt đầu bằng các phụ âm khác đều viết dấu hỏi, trừ những lệ ngoại sẽ nói ở dưới. Ví dụ về các từ Hán Việt có dấu hỏi:

    Nguyên âm: ả, ảo, ẩn, yểu, uẩn, uỷ.

    Phụ âm
    b bảo, bỉ, bỉnh, bổng, bửu
    c/k/q cảo, cổ, củ, kỉ, kiểu, quả, quản, quảng, quỷ
    đầu ch chỉ, chiểu, chuẩn, chủng, chử
    đầu đ đả, đẩu, để, điểu, đổ
    gi giả, giảo,
    h hảo, hỉ, hổ, hủ
    đầu kh khả, khẩu, khổ, khởi
    ph phả, phỉ, phổ
    s sỉ, sổ, sửu
    t tả, tảo, tể, tỉ, tổ, tử
    th thải, thổ, thủ, thưởng
    tr trảo, trảm, triển, trưởng
    x xa, xả, xảo, xỉ, xử
    Nhóm thứ nhì này có khoảng 30 trường hợp ngoại lệ, cần nhớ thuộc lòng. Dưới đây là bảng liệt kê các từ đó với những thí dụ về từ ghép đặt trong ngoặc:
    Phụ âm
    b bãi (bãi thị, bãi nại), bĩ (bĩ vận),
    c cữu (linh cữu), cưỡng (cưỡng đoạt)
    đ đãng (khoáng đãng), đễ (hiếu đễ), đỗ (Ðỗ thị)
    h hãm (hãm hại), hãn (hãn hữu), hoãn (hoãn binh), hĩ (một tiếng đệm), hỗ (hỗ trợ), hỗn (hỗn hợp, hỗn mang), huyễn (huyễn mộng), hữu (bằng hữu)
    k kĩ (ca kĩ, kĩ thuật, kĩ xảo)
    ph phẫn (phẫn nộ), phẫu (giải phẫu)
    d quẫn (quẫn bách), quỹ (quỹ đạo, quỹ tích, thủ quỹ)
    s sĩ (bác sĩ, viện sĩ), suyễn (suyễn tức, suyễn yết)
    t tiễn (tiễn biệt), tĩnh (tĩnh mịch), tuẫn (tuẫn tiết)
    th thuẫn (mâu thuẫn), thũng (phù thũng)
    tr trãi, trẫm, trĩ (ấu trĩ), trữ (dự trữ, lưu trữ, tích trữ)
    x xã (xã hội, xã tắc)
    Từ hai điểm trên, chúng ta có thể nêu lên hai luật hỏi ngã dành cho tiếng Hán Việt như sau:
    Luật 5 các từ Hán Việt có phụ âm đầu d, l, m, n, nh, ng, v đều có dấu ngã.
    Luật 6 các từ Hán Việt khác có thanh hỏi. Trừ khoảng 30 trường hợp ngoại lệ.

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  2. Pakita

    Pakita Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/12/2001
    Bài viết:
    821
    Đã được thích:
    0
    Cho em vào góp vui tí. Em có thằng em họ, bốn năm tuổi gì đó, trông yêu lắm, mỗi tội nói ngọng. Có lần bạn của chị nó đến nhà chơi, nhìn thấy thằng bé liền khen: "Ôi Uyên ơi em mày xinh thế!" -----> Cu cậu sướng lắm cứ lân la ra hóng chuyện, được một lúc đứa bạn chị nó kêu lên: "Ôi sao em mày nói ngọng thế?" -----> Cu cậu xấu hổ quá chạy vèo vào trong nhà, một lúc sau chẳng hiểu nghĩ ngợi thế nào, lại chạy ra phân trần: "Không phại là em nói ngọng đâu. Em chị hơi nhầm dấu họi với cạ dấu ngá thôi mà... "
    i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!i!
    Crazy, but that's how it goes
    Millions of people living as foes
    Maybe it's not too late
    To learn how to love and forget how to hate...
  3. xinh_gai_cuc_ki

    xinh_gai_cuc_ki Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/07/2002
    Bài viết:
    403
    Đã được thích:
    0

    Thế thì fải dạy lại thôi. Trẻ con bây giờ ngọng nhiều lắm. Nhất là
    - Dấu hỏi - dấu ngã.
    - Chữ L và N.
    Tớ cũng có 1 cô em 5 tuổi..con bà dì út. bình thường tớ ko có nhà thì mọi người cũng chẳng dể ý. Chỉ có tớ mỗi lần nghe nó đọc bài tớ lại fải ngồi cạnh sửa cho từng chữ. Đi nhà trẻ, nó nghe cô giáo nói, bạn bè nó nói...nếu đúng thì ko sao...chứ như con em tớ thì mỗi lần dạy nó học cứ như đánh vật ấy. Tớ bảo nó đọc cho tớ nghe câu : Hôm nay nóng nực, nam nữ nô nức lên núi nằm la liệt (hi`hi`, con chị hơi tếu ) " Bạn có tuỏng tượng được nó fát âm thế nào ko? "Hôm nay lóng lực..nam lữ lô lức lên núi nằm la liệt ". ( Chán gần chết.) Tớ quát ầm lên con bé xanh mắt lại ... bây giờ nó sợ học với tớ lắm.
    Sao ngày xưa mình bị ba mẹ , thày cô giáo rèn ác thế mà bây giờ tụi nó chẳng "được" như thế nhỉ?

    Được xinh_gai_cuc_ki sửa chữa / chuyển vào 14:15 ngày 22/04/2003
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Trẻ con mà?????
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  5. dhna79

    dhna79 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/04/2001
    Bài viết:
    948
    Đã được thích:
    0
    bác mi lô cho em hỏi , dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng dịch sang tiếng Anh là cái gì ạ, để nếu Tây nó có hỏi thì còn biết đường mà giả lời. Cám ơn bác mi lô trước.
    ---------------------
    Why me ?
  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghĩ là mình chỉ cần giải thích là tiếng Việt có 6 loại Accents, mấy cái dấu đó thì gọi là accent marks.
    EBDBDBD - "That's all, folks"
  7. dhna79

    dhna79 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/04/2001
    Bài viết:
    948
    Đã được thích:
    0
    Vầng, cám ơn bác mily phát. Nhưng em vẫn chưa rõ, nếu nói dấu hỏi với dấu ngã thì nói thế nào ? Nói bằng tiếng Anh ý ??
    ---------------------
    Why me ?
  8. Terminator2

    Terminator2 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    31/12/2000
    Bài viết:
    3.249
    Đã được thích:
    0
    Tiếng Anh làm gì có từ để chỉ dấu của Tiếng Việt, làm sao mà nói họ hiểu được. Thôi thì cứ phiên âm từ tiếng Việt sang đi, mai sau biết đâu trong Tiếng Anh lại xuất hiện mấy từ mới có nguồn gốc từ tiếng Việt.

    I'll be back!
  9. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Phân biệt dấu hỏi - ngã, chuyện không đơn giản


    Trong chuyện vừa Ngôi trường đi xuống của nhà văn Vũ Hạnh (Tạp chí Văn ấn hành tại Sài Gòn năm 1966, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh in lại năm 1988 và NXB Đà Nẵng tái bản năm 2002), có nhân vật "thi sĩ - giáo sư" Đỗ Văn Chỉ, biệt hiệu Hồng Hoa Phượng Điệp. Bằng lối viết hài hước chua cay, Vũ Hạnh mô tả nhân vật Đỗ Văn Chỉ thế này:
    "Ông tuyên bố rằng thi hào không cần phải giỏi chính tả và chỉ giáo viên tiểu học mới bận tâm đến môn bần tiện ấy. Hơn nữa, theo ông, cứ nhìn dọc các dãy phố Sài Gòn thì rõ: biết bao cửa hiệu ăn đều viết chữ phở với cái dấu ngã kỳ cục mà người ta vẫn kéo vô ăn uống ào ào, đâu có cảm thấy mất ngon vì không chịu dùng dấu hỏi? Chính Thuốc Tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn lại viết toàn bằng dấu ngã ở trên tất cả các tấm quảng cáo to tướng mà vẫn bán chạy suốt mấy mươi năm nay rồi, đâu có gì sai chút dấu mà không công hiệu? Tóm lại, theo giáo sư Chỉ, thì môn chính tả quả là một xa xỉ phẩm, trong đó phân biệt các dấu hỏi, ngã là việc buồn cười!".
    Ngỡ đâu mỗi một nhân vật hư cấu "thi sĩ - giáo sư" Đỗ Văn Chỉ bạo phổi phát ngôn vung vít như thế, chẳng dè thực tế hiện nay cũng có "văn nghệ sĩ - trí thức" nói tương tự. Ví như nữ diễn viên tên tuổi, từng lấy bằng cử nhân Ngữ văn trong nước và tốt nghiệp đạo diễn sân khấu ở nước ngoài. Khi có kẻ góp ý về một văn bản do chính diễn viên ấy viết tay lộn tùng phèo dấu hỏi với dấu ngã, chị ta nhún vai:
    - Chuyện nhỏ! Thì dấu hỏi hay dấu ngã, mình cũng đọc như nhau. Vậy khi viết, phân biệt làm gì cho mệt?
    Phân biệt dấu hỏi với dấu ngã là quy tắc chính tả Việt ngữ được thống nhất trên toàn quốc. Chẳng biết đó có phải là "chuyện nhỏ" không, nhưng trường hợp có thật vừa nêu đúng là "chuyện như đùa".
    Cầm chắc rằng nhân vật hư cấu Đỗ Văn Chỉ là người miền trung hoặc miền nam. Dân gốc hai miền này phát âm không phân biệt thanh hỏi và thanh ngã. Trong khi đó, hầu hết dân miền bắc phát âm thanh hỏi khác ngã một cách rõ ràng. Tuy nhiên, phần lớn người miền trung và miền nam có thực học đều viết đúng, hoặc ít nhất cũng hạn chế tối đa sự nhầm lẫn dấu hỏi với dấu ngã khi viết. Bởi, người ta ý thức được tiếng Việt chuẩn phải đủ sáu thanh: ngang, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Nhiều phương ngữ, thổ ngữ - cả ở miền bắc - chỉ có năm thanh, thậm chí bốn thanh. Nhưng đó là phát âm. Còn chính tả lại thể hiện đầy đủ sáu thanh, nếu vô tình hay cố ý tước bỏ bớt thanh nào đấy thì có thể gây hiểu lầm.
    Với dấu hỏi và dấu ngã, chỉ cần xem xét các thí dụ với phụ âm đầu B sau đây cũng đủ thấy nếu lẫn lộn thì ngữ nghĩa biến đổi "một trời, một vực":
    Bả: bà ấy / mồi nhử (bả chuột, bả vinh hoa...).
    Bã: rời, nát, nhạt nhẽo (giò bã) / mệt rã rời / phần cái, phần xác còn lại sau khi chiết hết nước cốt (bã mĩa, bã rượu).
    Bảo: nói (gọi dạ, bảo vâng) / quý hóa (bảo bối, bảo vật)
    Bão: gió lớn, có sức tàn phá dữ dội / quặn bụng (đau bão).
    Bẩy: nâng vật nặng nhờ tác động lên đòn có điểm tựa.
    Bẫy: dụng cụ hoặc phương thức lừa bắt đối tượng nào đó.
    Bỉ: phỉ báng, khinh rẻ (bỉ mặt, thô bỉ).
    Bĩ: xui rủi (bĩ cực, thái lai).
    Bổng: thu nhập ngoài lương (bổng lộc / nâng cao lên trong khoảng không (nhấc bổng).
    Bỗng: bã rượu hoặc rau có ủ chua (giấm bỗng)/ bất ngờ (bỗng dưng, bỗng nhiên).
    Một chuyện tiếu lâm kể rằng, có anh nọ buôn bán cùng lúc hai mặt hàng: hải sản và gốm sứ. Một cô bạn gái ở tỉnh xa đánh bức điện tín cho anh: Gửi gấp 100 đĩa. Số là cô vừa đọc thư anh ấy, có đoạn viết rằng vừa mới nhập loại đĩa (dĩa) sứ men lam rất đẹp. Oái oăm thay! Nhân viên bưu điện lại chuyển điện văn như thế này: Gửi gấp 100 đỉa. Kết cục là cô gái kia bị một phen kinh hãi vì nhận được lô hàng gồm cả trăm con đồn đột, tức loài... đỉa biển!
    Tất nhiên đấy là chuyện khôi hài, nhưng hàm ý mang tính cảnh báo: Chớ nhầm lẫn dấu hỏi với dấu ngã khi viết chữ quốc ngữ.
    Viết đúng dấu hỏi và dấu ngã nói riêng, đúng chính tả nói chung, không chỉ chứng tỏ sự tôn trọng tiếng Việt, mà còn bộc lộ phần nào trình độ học vấn. Giám đốc một công ty "ăn nên làm ra" ở TP Hồ Chí Minh có lần tuyên bố:
    - Với hồ sơ xin vào làm công ty chúng tôi, riêng đơn xin tuyển nhân viên là chúng tôi yêu cầu viết tay. Dù đương sự có bằng cấp cỡ nào, nhưng đọc thấy lá đơn viết sai chính tả tiếng Việt thì chúng tôi rất nghi ngờ về trình độ.
    Thực tế cho thấy, muốn viết đúng hỏi - ngã, cần đọc kỹ và viết nhiều. Gặp từ ngữ chưa rõ ràng bỏ dấu, nên tra từ điển, nhất là các loại từ điển chính tả; chẳng hạn Việt ngữ chánh tả tự vị của Lê Ngọc Trụ (NXB Khai Trí, Sài gòn, 1972), Từ điển chính tả phổ thông của nhiều soạn giả (NXB Văn hóa, Hà Nội, 1963), Từ điển chính tả mini của Hoàng Tuyền Linh và Vũ Xuân Lương (NXB Đà Nẵng, 1995), Từ điển chính tả tiếng Việt của Hoàng Phê, Lê Anh Hiên, Đào Thản (NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998), v.v...
    Ngành Giáo dục và Đào tạo - đặc biệt là các bậc học phổ thông - có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc hình thành các hệ thống tôn trọng chính tả tiếng Việt, không xem việc thả dấu hỏi "lộn sòng" dấu ngã là... chuyện như đùa.
    Nguyên Tâm
    (Tạp chí Tài hoa trẻ)


    ...........................
    Cù Lần

Chia sẻ trang này