1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Phi công tiêm kích

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi homoeternus, 09/01/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    1. Các bạn vào www.yahoo.com
    2. Chọn mục Search The Web, đánh vào Mig-29, hay gì gì đấy cũng được.
    3. Trong mục Select Search Category chọn Video.
    Enter.
    Trời ơi xem không hết.
    Một link
    http://www.pumaslog.addr.com/downloads.htm
    Các loại movie về đủ thể loại
    http://www.royfc.com/links/acft_video_mig.html
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 13:08 ngày 18/02/2005
  2. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    1. Các bạn vào www.yahoo.com
    2. Chọn mục Search The Web, đánh vào Mig-29, hay gì gì đấy cũng được.
    3. Trong mục Select Search Category chọn Video.
    Enter.
    Trời ơi xem không hết.
    Một link
    http://www.pumaslog.addr.com/downloads.htm
    Các loại movie về đủ thể loại
    http://www.royfc.com/links/acft_video_mig.html
    Được kqndvn sửa chữa / chuyển vào 13:08 ngày 18/02/2005
  3. 929rr

    929rr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/12/2004
    Bài viết:
    1.158
    Đã được thích:
    0
    Vietnamese Female Fighter Pilot
    T/U Elizabeth Pham
    T/U Lily Tran
    USN F18D
  4. 929rr

    929rr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/12/2004
    Bài viết:
    1.158
    Đã được thích:
    0
    Vietnamese Female Fighter Pilot
    T/U Elizabeth Pham
    T/U Lily Tran
    USN F18D
  5. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    Có cái này hay post cho mọi người cùng đọc.
    PHI CÔNG CHIẾN ĐẤU NGUYỄN VĂN BẢY
    Ngày 19 tháng 02 năm 2005

    Đại tá, phi công Nguyễn Văn Bảy là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đã bắn rơi 7 máy bay Mỹ. Nhưng con đường trở thành phi công chiến đấu giỏi là cả một quá trình phấn đấu gian khổ không mệt mỏi, ông có nhiều kỷ niệm gắn bó với tháng tư...
    Đi bộ đội vì sợ lấy vợ

    Ông Nguyễn Văn Bảy tên thật là Nguyễn Văn Hoa, sinh năm 1936, ở xã Hòa Thành, Lai Vung, tỉnh Sa Đéc. Ngày nhỏ ông bị các anh em trêu tên Hoa là tên con gái, xấu hổ quá, ông bỏ tên Hoa lấy tên thứ Bảy là tên chính thức từ đó. Tháng 4 năm 1954, ba của ông ép lấy vợ, ông ?ohoảng quá?, vội ôm quần áo bỏ nhà theo người bạn tên Lê, đang là bộ đội địa phương. Nửa tháng theo bạn mới được đơn vị nhận chính thức nhờ có ông anh làm xã đội trưởng bảo lãnh. Đêm đầu tiên, được giao cây súng gác đơn vị, ông sung sướng quá, ôm súng đi lại suốt đêm, gác luôn hộ bạn, mặc dù lúc đó ông chưa biết bắn súng làm sao.
    Cuối năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được học bổ túc, tham gia các công việc của đơn vị như đóng gạch, tăng gia, chăn nuôi. Nhờ cần cù, chịu khó, ông luôn được khen thưởng vì thành tích trong lao động sản xuất. Có lần, đoàn khám tuyển phi công đến đơn vị, ông trúng tuyển, được đi học trường văn hóa Lạng Sơn. Lao động rất cừ, nhưng đi học là vấn đề hết sức khó khăn với ông. Những con chữ, những bài tính rối mù trong đầu. Tháng 2 năm 1960, ông được cùng anh em khóa 2 sang học trường không quân số 3 Trung Quốc. Cùng đi học với ông có các phi công Trần Mạnh (đoàn trưởng), Nguyễn Phúc Trạch, Đồng Văn Đe... Nơi nước bạn, việc học tập của ông lại càng vất vả hơn, trước hết vì ngôn ngữ, sau nữa lý thuyết ngành không quân đòi hỏi trình độ cao mới tiếp thu hết được. Nhưng ông đã tìm mọi cách vượt qua, chăm chỉ học tập rèn luyện, đặc biệt là trong thực hành. Ông rất có khả năng bắt chước thầy, mọi động tác thầy dạy ông thường luyện tập thành thục, đến mức nhắm mắt lại cũng có thể chỉ từng bảng đồng độ cao, tốc độ... Những ngày luyện tập lái máy bay YAK-18 thật vất vả với Nguyễn Văn Bảy. Ông không biết tại sao cứ ngồi lên buồng lái là buồn ói, mà ông ói thật, ói khắp sàn máy bay, ói ra cả mật xanh mật vàng. Ông cố gắng vượt qua. Nhiều bạn trong đoàn cũng bị như ông, có người không chịu được phải chuyển sang học phục vụ mặt đất. Còn ông, ông nhớ mãi lần Bác Hồ gặp cả đoàn trước khi đi học, Bác hỏi.
    - Chú nào quê ở miền Nam đi học lái máy bay đợt này?
    Ông cùng anh em miền Nam giơ tay. Bác Hồ động viên:
    - Các chú phải cố học thành tài, để sau này thống nhất đất nước thì lái máy bay chở Bác về thăm đồng bào miền Nam. Đồng bào thấy con em mình ra miền Bắc được ăn học thành phi công thì chắc sẽ vui mừng lắm.
    Những điều Bác Hồ căn dặn, đã động viên ông phải quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, không phụ lòng tin yêu của Bác và của đồng bào miền Nam.
    Trận đầu gặp địch
    Giữa năm 1965, ông trở về nước tham gia trực ban chiến đấu, nhưng kinh nghiệm không chiến lúc này còn rất hạn chế. Ông nhớ có lần bay cùng biên đội với các phi công: Toại, Lai, Hoàng thì nghe biên đội trưởng phát hiện địch phía trước bèn hô ?obắp ngô?. Đây là mật ngữ vứt thùng dầu phụ chuẩn bị vào công kích. Ông quên mất ý nghĩa của mật ngữ, nhưng nhìn thấy máy bay đi trước quẳng thùng dầu phụ, ông mới đoán ra ý nghĩa của khẩu lệnh, vội làm theo, nhưng cũng chưa nhìn thấy địch đâu. Mãi đến 7 tháng 10 năm 1965, ông mới được nhìn thấy máy bay địch. Ấy là lần ông bay biên đội Quyền, Huyên, Bẩy, Chao lên khu Yên Thế, độ cao 3.000 mét. Biên đội trưởng Quyền thấy 2 chiếc máy bay F105, vội xin trên cho vào công kích. Ông nhìn thấy 2 thằng địch trước mặt, vội thả thùng dầu phụ tăng tốc nghiêng cánh máy bay định yểm trợ đồng đội. Nhờ nghiêng cánh ông phát hiện thấy quả tên lửa ở phía sau mình do một máy bay khác của địch bám đuôi bắn, ông vội cua gấp máy bay tránh. Quả tên lửa đến quá gần, nổ chói tai phía bên phải. Máy bay bị sức ép, lật ngược, một mảnh đạn bắn vào nắp buồng lái làm thủng một lỗ. Ông choáng váng, biết máy bay bị thương, nhưng vẫn cố ghì cần lái, lật ngược máy bay lại. Ông lập tức lấy tay bịt lỗ thủng nắp buồng lái, thì thấy lực hút ra rất mạnh, ông vội rụt tay lại. Nhìn ra phía ngoài chiếc máy bay địch to bè bay sạt qua đầu, ông định đuổi theo, nhưng máy bay của ông lúc này điều khiển rất khó khăn, hơn nữa tốc độ máy bay MiG-17 thấp bằng nửa máy bay địch, không thể đuổi kịp. Ông nhìn ra phía cánh thấy rất nhiều vết đạn lỗ chỗ. Máy bay mất thăng bằng, chao đảo, Nguyễn Văn Bảy vội xin phép hạ cánh. Địch lúc ấy đang tập trung đánh sân bay Kép, ông đã bay về Nội Bài hạ cánh an toàn. Mọi người ùa ra đón, có cả các chuyên gia Liên Xô. Khi nhìn thấy chiếc máy bay của ông te tua, trên mình đếm ra đúng 84 lỗ thủng, các chuyên gia phát biểu: ?oChúng tôi bây giờ mới thấy chiếc máy bay ở tình trạng bị thương nặng như thế này mà hạ cánh an toàn. Phi công Việt Nam giỏi quá!?. Trận này ông được trên thưởng huân chương Chiến công hạng 2. Trong trận đánh ngày 4 tháng 4 năm 1965, phi công Trần Hanh đã đúc rút kinh nghiệm, máy bay địch có tên lửa chưa chắc bắn được ta, nếu có bắn thì chưa chắc đã trúng, ta có thể né được.
    Đám cưới và chiến công đầu trong tháng 4
    Đám cưới của ông với bà Trần Thị Niên, cũng đồng hương Sa Đéc là đám cưới lính chiến trường, chỉ trong vòng 15 phút là xong. Tháng 4 năm 1966, ông đang trực ban chiến đấu ở sân bay Kép, thì bà Niên học xong trung cấp tài chính ở Hà Nội, thế là ông xin phép đơn vị cho bà xuống để làm lễ thành hôn. Một mình bà đi xe xuống, không có đại diện nhà gái cũng như cơ quan. Bà xuống, thì ông còn trực chiến ngoài đường băng, anh em cơ quan chính trị trung đoàn phải đưa bà ra địa phương làm giấy đăng ký kết hôn giúp ông. Ông nhớ, lúc ấy ông có đưa 10 đồng cho nhà bếp mua bánh, kẹo và 10 đồng mua một tút thuốc lá Thăng Long, còn chè xanh là xin của dân. Buổi chiều rút ban, ông mới nói mọi người: ?oTối nay mình cưới vợ, các cậu qua chơi nghen!?. Vào buổi lễ, Trung đoàn phó Đào Công Xưởng làm chủ hôn, đại diện cho nhà trai, còn Tham mưu phó Chu Tất Bộ thì phải đóng giả đại diện nhà gái để tiện thưa gửi hai bên. Anh em ngồi quây quần với nhau bên nồi chè xanh nghi ngút khói. Chưa kịp hút xong điếu thuốc, thì có điện của trên chuẩn bị một biên đội cơ động ngay về Nội Bài. Thế là tiệc cưới giải tán, tất cả lại khẩn trương chuẩn bị lên đường.
    Sau bảy ngày cưới, ngày 26 tháng 4 năm 1966, biên đội của ông gồm Chung, Tân, Bảy, Mẫn đang hoạt động ở vùng trời Võ Nhai (Bắc Thái), thì phát hiện máy bay địch ở thế có lợi đang bám đuôi hai máy bay của Chung và Mẫn trong biên đội. Ông và Tân đã dũng cảm, nhanh chóng, bất ngờ lao thẳng vào giữa đội hình máy bay địch, làm chúng hốt hoảng tháo chạy. Ông bình tĩnh bám chắc một chiếc, tới cự ly có hiệu quả đã nổ súng, máy bay địch lặn xuống tránh đạn. Ông cho máy bay lật theo và bồi một loạt đạn nữa, máy bay địch bốc cháy rơi tại chỗ. Trong trận này biên đội bắn rơi 2 phản lực Mỹ, bắn bị thương một chiếc khác và hạ cánh an toàn.
    Trận đánh mà ông nhớ nhất là trận ngày 5 tháng 9 năm 1966. Hôm ấy, ông cùng phi công Võ Văn Mẫn, quê ở Ba Tri, Bến Tre được phân công trực chiến sân bay Gia Lâm. Khoảng 4 giờ chiều, địch cho máy bay Hải quân vào cầu Giẽ, 2 máy bay ta được lệnh cất cánh. Nhưng khi bay vào khu vực thì địch đã rút. Lúc này mặt đất phát hiện một tốp máy bay địch khác vào Phủ Lý, lập tức sở chỉ huy dẫn hai máy bay ta vào không chiến. Cách địch 15km, ông đã phát hiện mục tiêu như hai chấm đen trước mặt. Còn cách 5km, ông ra lệnh cho số 2 thả thùng dầu phụ, tăng tốc đối đầu máy bay địch. Thấy khí thế hùng dũng của ta, hai máy bay địch hoảng loạn vòng phải lợi dụng đám mây chạy trốn. Ông Bảy thấy vậy thầm tính toán, nếu bám đuôi địch thì khó đuổi kịp được, vì tốc độ địch nhanh hơn, ông quyết định bay cắt đón đường. Ông hô: ?oSố 2 theo tôi?. Quả nhiên bay một hồi thì hai chiếc máy bay địch, bọn chúng thần hồn nát thần tính, vừa bay vừa làm động tác uốn éo để tránh đạn của ta, chính vì thế mà bị hạn chế tốc độ. Ông bám ngay chiếc thứ 2 cách khoảng 250 mét xả súng vào buồng lái địch, tên phi công trúng đạn chết tại chỗ, mảnh mê ca văng ra, nhiều mảnh chui theo luồng gió hút cả vào máy bay ông Mẫn. Ông lách ra, ra lệnh cho số 2 vào công kích. Phi công Võ Văn Mẫn bám ngay chiếc máy bay số 1 của địch và nổ súng tấn công. Chiếc máy bay trúng đạn, phi công địch nhảy dù. Hai ông sung sướng trở về hạ cánh. Sở chỉ huy nhắc chú ý địch bám đằng sau. Ông Bảy nói vào micrô: ?oĐịch chỉ có 2 thằng, bị bắn ráo trọi rồi còn đâu nữa?. Tối ấy, Quân chủng báo cáo lên Bộ Quốc phòng, Bộ báo cáo Bác Hồ. Bác có hỏi xem hai đồng chí phi công tên gì, quê ở đâu. Biết là cả hai cùng phi công người miền Nam, Bác vui lắm và gửi tặng ngay hai huy hiệu của Người.
    Trận đánh ngày 24 tháng 4 năm 1967 cũng là trận đánh đáng nhớ của biên đội trưởng Nguyễn Văn Bảy. Trước đó 2 ngày, địch đã đánh phá sân bay Kiến An, nhằm chuẩn bị cho một đợt đánh phá Hải Phòng. Chỉ trong vòng một đêm, nhân dân và bộ đội ta đã vá kịp thời hàng chục lỗ bom trên sân bay. Chiều 23 tháng 4, biên đội Bảy, Bôn, Hôn, Địch chuyển từ Gia Lâm xuống sân bay Kiến An. Sáng hôm sau, biên đội cất cánh. Vừa tới độ cao 1.500 mét đã nhìn thấy máy bay địch như ruồi bay từng bày trước mặt. Nguyễn Văn Bảy quyết định cho biên đội lao vào giữa đội hình địch. Ông hô lớn: ?oTất cả theo tôi? rồi xông vào trận. Máy bay địch thấy MiG-17 của ta thì hoảng sợ, máy bay cường kích ném bom lung tung tháo chạy, còn bọn tiêm kích thì tìm cách bắn tên lửa. Ông Bảy có kinh nghiệm, khi nhìn thấy máy bay địch trước mặt đeo tên lửa, không hoảng hốt mà quan sát kỹ thấy tên lửa địch rơi ra khỏi cánh xịt khói là ông biết nó bắn, lập tức ông ngoặt gấp tránh để tên lửa địch sượt sang bên. Khi bay chiến đấu phần quan sát phía trước, phần quan sát sau lưng, vì thằng địch bám đuôi là ta dễ bị tiêu diệt. Máy bay của địch to xác hơn máy bay ta, tốc độ lớn hơn, nên độ cơ động không linh hoạt bằng. Nếu địch chấp nhận không chiến là máy bay MiG-17 rất có lợi thế cơ động bán kính vòng lại nhỏ hơn, nhanh hơn so với máy bay địch. Trận này tuy ông không bắn rơi được chiếc nào, nhưng biên đội bắn rơi 2 chiếc máy bay của địch, phá tan ý đồ đánh phá Hải Phòng của chúng. Bí thư thành ủy Hải Phòng gửi tặng cho biên đội 1 chiếc đài hiệu ?oMẫu Đơn? của Trung Quốc.
    Nhớ mãi những lần gặp Bác Hồ
    Tháng 4 năm 1967, ông được bầu vào Quốc hội khóa 3 và được vào đoàn Chủ tịch trong các kỳ họp Quốc hội. Đây cũng là niềm vinh dự cho ông và nhờ đó ông rất nhiều lần được gặp Bác Hồ. Ấy là những lần chuẩn bị họp Quốc hội, bao giờ Đoàn Chủ tịch có hội ý trước, Bác Hồ thường đến tham dự cùng. Ông có một câu chuyện muốn kể cho Bác nghe. Chẳng là trước khi tập kết ra Bắc, ông có cùng đơn vị đi làm cỏ, sửa sang lại mộ cho cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Cao Lãnh.
    Phi công Nguyễn Văn Bảy tham gia tất cả 13 trận đánh, bắn rơi 7 máy bay Mỹ và chưa một lần nào bị địch bắn cháy máy bay phải nhảy dù. Ông đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, được 7 huy hiệu của Bác Hồ, và một đồng hồ đeo tay do Bác Hồ tặng. Ông đã trải qua nhiều cương vị khác nhau trong Quân chủng Phòng không-Không quân như: Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 927, Phó tư lệnh Sư đoàn không quân 372, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không quân 376, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân. Ông nghỉ hưu tháng 12 năm 1989, tham gia Ban chấp hành Hội Cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay ông vẫn là Trưởng ban liên lạc Hội cựu chiến binh Không quân tại thành phố Hồ Chí Minh.
    Bài và ảnh: Đoàn Hoài Trung

  6. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    Có cái này hay post cho mọi người cùng đọc.
    PHI CÔNG CHIẾN ĐẤU NGUYỄN VĂN BẢY
    Ngày 19 tháng 02 năm 2005

    Đại tá, phi công Nguyễn Văn Bảy là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đã bắn rơi 7 máy bay Mỹ. Nhưng con đường trở thành phi công chiến đấu giỏi là cả một quá trình phấn đấu gian khổ không mệt mỏi, ông có nhiều kỷ niệm gắn bó với tháng tư...
    Đi bộ đội vì sợ lấy vợ

    Ông Nguyễn Văn Bảy tên thật là Nguyễn Văn Hoa, sinh năm 1936, ở xã Hòa Thành, Lai Vung, tỉnh Sa Đéc. Ngày nhỏ ông bị các anh em trêu tên Hoa là tên con gái, xấu hổ quá, ông bỏ tên Hoa lấy tên thứ Bảy là tên chính thức từ đó. Tháng 4 năm 1954, ba của ông ép lấy vợ, ông ?ohoảng quá?, vội ôm quần áo bỏ nhà theo người bạn tên Lê, đang là bộ đội địa phương. Nửa tháng theo bạn mới được đơn vị nhận chính thức nhờ có ông anh làm xã đội trưởng bảo lãnh. Đêm đầu tiên, được giao cây súng gác đơn vị, ông sung sướng quá, ôm súng đi lại suốt đêm, gác luôn hộ bạn, mặc dù lúc đó ông chưa biết bắn súng làm sao.
    Cuối năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được học bổ túc, tham gia các công việc của đơn vị như đóng gạch, tăng gia, chăn nuôi. Nhờ cần cù, chịu khó, ông luôn được khen thưởng vì thành tích trong lao động sản xuất. Có lần, đoàn khám tuyển phi công đến đơn vị, ông trúng tuyển, được đi học trường văn hóa Lạng Sơn. Lao động rất cừ, nhưng đi học là vấn đề hết sức khó khăn với ông. Những con chữ, những bài tính rối mù trong đầu. Tháng 2 năm 1960, ông được cùng anh em khóa 2 sang học trường không quân số 3 Trung Quốc. Cùng đi học với ông có các phi công Trần Mạnh (đoàn trưởng), Nguyễn Phúc Trạch, Đồng Văn Đe... Nơi nước bạn, việc học tập của ông lại càng vất vả hơn, trước hết vì ngôn ngữ, sau nữa lý thuyết ngành không quân đòi hỏi trình độ cao mới tiếp thu hết được. Nhưng ông đã tìm mọi cách vượt qua, chăm chỉ học tập rèn luyện, đặc biệt là trong thực hành. Ông rất có khả năng bắt chước thầy, mọi động tác thầy dạy ông thường luyện tập thành thục, đến mức nhắm mắt lại cũng có thể chỉ từng bảng đồng độ cao, tốc độ... Những ngày luyện tập lái máy bay YAK-18 thật vất vả với Nguyễn Văn Bảy. Ông không biết tại sao cứ ngồi lên buồng lái là buồn ói, mà ông ói thật, ói khắp sàn máy bay, ói ra cả mật xanh mật vàng. Ông cố gắng vượt qua. Nhiều bạn trong đoàn cũng bị như ông, có người không chịu được phải chuyển sang học phục vụ mặt đất. Còn ông, ông nhớ mãi lần Bác Hồ gặp cả đoàn trước khi đi học, Bác hỏi.
    - Chú nào quê ở miền Nam đi học lái máy bay đợt này?
    Ông cùng anh em miền Nam giơ tay. Bác Hồ động viên:
    - Các chú phải cố học thành tài, để sau này thống nhất đất nước thì lái máy bay chở Bác về thăm đồng bào miền Nam. Đồng bào thấy con em mình ra miền Bắc được ăn học thành phi công thì chắc sẽ vui mừng lắm.
    Những điều Bác Hồ căn dặn, đã động viên ông phải quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, không phụ lòng tin yêu của Bác và của đồng bào miền Nam.
    Trận đầu gặp địch
    Giữa năm 1965, ông trở về nước tham gia trực ban chiến đấu, nhưng kinh nghiệm không chiến lúc này còn rất hạn chế. Ông nhớ có lần bay cùng biên đội với các phi công: Toại, Lai, Hoàng thì nghe biên đội trưởng phát hiện địch phía trước bèn hô ?obắp ngô?. Đây là mật ngữ vứt thùng dầu phụ chuẩn bị vào công kích. Ông quên mất ý nghĩa của mật ngữ, nhưng nhìn thấy máy bay đi trước quẳng thùng dầu phụ, ông mới đoán ra ý nghĩa của khẩu lệnh, vội làm theo, nhưng cũng chưa nhìn thấy địch đâu. Mãi đến 7 tháng 10 năm 1965, ông mới được nhìn thấy máy bay địch. Ấy là lần ông bay biên đội Quyền, Huyên, Bẩy, Chao lên khu Yên Thế, độ cao 3.000 mét. Biên đội trưởng Quyền thấy 2 chiếc máy bay F105, vội xin trên cho vào công kích. Ông nhìn thấy 2 thằng địch trước mặt, vội thả thùng dầu phụ tăng tốc nghiêng cánh máy bay định yểm trợ đồng đội. Nhờ nghiêng cánh ông phát hiện thấy quả tên lửa ở phía sau mình do một máy bay khác của địch bám đuôi bắn, ông vội cua gấp máy bay tránh. Quả tên lửa đến quá gần, nổ chói tai phía bên phải. Máy bay bị sức ép, lật ngược, một mảnh đạn bắn vào nắp buồng lái làm thủng một lỗ. Ông choáng váng, biết máy bay bị thương, nhưng vẫn cố ghì cần lái, lật ngược máy bay lại. Ông lập tức lấy tay bịt lỗ thủng nắp buồng lái, thì thấy lực hút ra rất mạnh, ông vội rụt tay lại. Nhìn ra phía ngoài chiếc máy bay địch to bè bay sạt qua đầu, ông định đuổi theo, nhưng máy bay của ông lúc này điều khiển rất khó khăn, hơn nữa tốc độ máy bay MiG-17 thấp bằng nửa máy bay địch, không thể đuổi kịp. Ông nhìn ra phía cánh thấy rất nhiều vết đạn lỗ chỗ. Máy bay mất thăng bằng, chao đảo, Nguyễn Văn Bảy vội xin phép hạ cánh. Địch lúc ấy đang tập trung đánh sân bay Kép, ông đã bay về Nội Bài hạ cánh an toàn. Mọi người ùa ra đón, có cả các chuyên gia Liên Xô. Khi nhìn thấy chiếc máy bay của ông te tua, trên mình đếm ra đúng 84 lỗ thủng, các chuyên gia phát biểu: ?oChúng tôi bây giờ mới thấy chiếc máy bay ở tình trạng bị thương nặng như thế này mà hạ cánh an toàn. Phi công Việt Nam giỏi quá!?. Trận này ông được trên thưởng huân chương Chiến công hạng 2. Trong trận đánh ngày 4 tháng 4 năm 1965, phi công Trần Hanh đã đúc rút kinh nghiệm, máy bay địch có tên lửa chưa chắc bắn được ta, nếu có bắn thì chưa chắc đã trúng, ta có thể né được.
    Đám cưới và chiến công đầu trong tháng 4
    Đám cưới của ông với bà Trần Thị Niên, cũng đồng hương Sa Đéc là đám cưới lính chiến trường, chỉ trong vòng 15 phút là xong. Tháng 4 năm 1966, ông đang trực ban chiến đấu ở sân bay Kép, thì bà Niên học xong trung cấp tài chính ở Hà Nội, thế là ông xin phép đơn vị cho bà xuống để làm lễ thành hôn. Một mình bà đi xe xuống, không có đại diện nhà gái cũng như cơ quan. Bà xuống, thì ông còn trực chiến ngoài đường băng, anh em cơ quan chính trị trung đoàn phải đưa bà ra địa phương làm giấy đăng ký kết hôn giúp ông. Ông nhớ, lúc ấy ông có đưa 10 đồng cho nhà bếp mua bánh, kẹo và 10 đồng mua một tút thuốc lá Thăng Long, còn chè xanh là xin của dân. Buổi chiều rút ban, ông mới nói mọi người: ?oTối nay mình cưới vợ, các cậu qua chơi nghen!?. Vào buổi lễ, Trung đoàn phó Đào Công Xưởng làm chủ hôn, đại diện cho nhà trai, còn Tham mưu phó Chu Tất Bộ thì phải đóng giả đại diện nhà gái để tiện thưa gửi hai bên. Anh em ngồi quây quần với nhau bên nồi chè xanh nghi ngút khói. Chưa kịp hút xong điếu thuốc, thì có điện của trên chuẩn bị một biên đội cơ động ngay về Nội Bài. Thế là tiệc cưới giải tán, tất cả lại khẩn trương chuẩn bị lên đường.
    Sau bảy ngày cưới, ngày 26 tháng 4 năm 1966, biên đội của ông gồm Chung, Tân, Bảy, Mẫn đang hoạt động ở vùng trời Võ Nhai (Bắc Thái), thì phát hiện máy bay địch ở thế có lợi đang bám đuôi hai máy bay của Chung và Mẫn trong biên đội. Ông và Tân đã dũng cảm, nhanh chóng, bất ngờ lao thẳng vào giữa đội hình máy bay địch, làm chúng hốt hoảng tháo chạy. Ông bình tĩnh bám chắc một chiếc, tới cự ly có hiệu quả đã nổ súng, máy bay địch lặn xuống tránh đạn. Ông cho máy bay lật theo và bồi một loạt đạn nữa, máy bay địch bốc cháy rơi tại chỗ. Trong trận này biên đội bắn rơi 2 phản lực Mỹ, bắn bị thương một chiếc khác và hạ cánh an toàn.
    Trận đánh mà ông nhớ nhất là trận ngày 5 tháng 9 năm 1966. Hôm ấy, ông cùng phi công Võ Văn Mẫn, quê ở Ba Tri, Bến Tre được phân công trực chiến sân bay Gia Lâm. Khoảng 4 giờ chiều, địch cho máy bay Hải quân vào cầu Giẽ, 2 máy bay ta được lệnh cất cánh. Nhưng khi bay vào khu vực thì địch đã rút. Lúc này mặt đất phát hiện một tốp máy bay địch khác vào Phủ Lý, lập tức sở chỉ huy dẫn hai máy bay ta vào không chiến. Cách địch 15km, ông đã phát hiện mục tiêu như hai chấm đen trước mặt. Còn cách 5km, ông ra lệnh cho số 2 thả thùng dầu phụ, tăng tốc đối đầu máy bay địch. Thấy khí thế hùng dũng của ta, hai máy bay địch hoảng loạn vòng phải lợi dụng đám mây chạy trốn. Ông Bảy thấy vậy thầm tính toán, nếu bám đuôi địch thì khó đuổi kịp được, vì tốc độ địch nhanh hơn, ông quyết định bay cắt đón đường. Ông hô: ?oSố 2 theo tôi?. Quả nhiên bay một hồi thì hai chiếc máy bay địch, bọn chúng thần hồn nát thần tính, vừa bay vừa làm động tác uốn éo để tránh đạn của ta, chính vì thế mà bị hạn chế tốc độ. Ông bám ngay chiếc thứ 2 cách khoảng 250 mét xả súng vào buồng lái địch, tên phi công trúng đạn chết tại chỗ, mảnh mê ca văng ra, nhiều mảnh chui theo luồng gió hút cả vào máy bay ông Mẫn. Ông lách ra, ra lệnh cho số 2 vào công kích. Phi công Võ Văn Mẫn bám ngay chiếc máy bay số 1 của địch và nổ súng tấn công. Chiếc máy bay trúng đạn, phi công địch nhảy dù. Hai ông sung sướng trở về hạ cánh. Sở chỉ huy nhắc chú ý địch bám đằng sau. Ông Bảy nói vào micrô: ?oĐịch chỉ có 2 thằng, bị bắn ráo trọi rồi còn đâu nữa?. Tối ấy, Quân chủng báo cáo lên Bộ Quốc phòng, Bộ báo cáo Bác Hồ. Bác có hỏi xem hai đồng chí phi công tên gì, quê ở đâu. Biết là cả hai cùng phi công người miền Nam, Bác vui lắm và gửi tặng ngay hai huy hiệu của Người.
    Trận đánh ngày 24 tháng 4 năm 1967 cũng là trận đánh đáng nhớ của biên đội trưởng Nguyễn Văn Bảy. Trước đó 2 ngày, địch đã đánh phá sân bay Kiến An, nhằm chuẩn bị cho một đợt đánh phá Hải Phòng. Chỉ trong vòng một đêm, nhân dân và bộ đội ta đã vá kịp thời hàng chục lỗ bom trên sân bay. Chiều 23 tháng 4, biên đội Bảy, Bôn, Hôn, Địch chuyển từ Gia Lâm xuống sân bay Kiến An. Sáng hôm sau, biên đội cất cánh. Vừa tới độ cao 1.500 mét đã nhìn thấy máy bay địch như ruồi bay từng bày trước mặt. Nguyễn Văn Bảy quyết định cho biên đội lao vào giữa đội hình địch. Ông hô lớn: ?oTất cả theo tôi? rồi xông vào trận. Máy bay địch thấy MiG-17 của ta thì hoảng sợ, máy bay cường kích ném bom lung tung tháo chạy, còn bọn tiêm kích thì tìm cách bắn tên lửa. Ông Bảy có kinh nghiệm, khi nhìn thấy máy bay địch trước mặt đeo tên lửa, không hoảng hốt mà quan sát kỹ thấy tên lửa địch rơi ra khỏi cánh xịt khói là ông biết nó bắn, lập tức ông ngoặt gấp tránh để tên lửa địch sượt sang bên. Khi bay chiến đấu phần quan sát phía trước, phần quan sát sau lưng, vì thằng địch bám đuôi là ta dễ bị tiêu diệt. Máy bay của địch to xác hơn máy bay ta, tốc độ lớn hơn, nên độ cơ động không linh hoạt bằng. Nếu địch chấp nhận không chiến là máy bay MiG-17 rất có lợi thế cơ động bán kính vòng lại nhỏ hơn, nhanh hơn so với máy bay địch. Trận này tuy ông không bắn rơi được chiếc nào, nhưng biên đội bắn rơi 2 chiếc máy bay của địch, phá tan ý đồ đánh phá Hải Phòng của chúng. Bí thư thành ủy Hải Phòng gửi tặng cho biên đội 1 chiếc đài hiệu ?oMẫu Đơn? của Trung Quốc.
    Nhớ mãi những lần gặp Bác Hồ
    Tháng 4 năm 1967, ông được bầu vào Quốc hội khóa 3 và được vào đoàn Chủ tịch trong các kỳ họp Quốc hội. Đây cũng là niềm vinh dự cho ông và nhờ đó ông rất nhiều lần được gặp Bác Hồ. Ấy là những lần chuẩn bị họp Quốc hội, bao giờ Đoàn Chủ tịch có hội ý trước, Bác Hồ thường đến tham dự cùng. Ông có một câu chuyện muốn kể cho Bác nghe. Chẳng là trước khi tập kết ra Bắc, ông có cùng đơn vị đi làm cỏ, sửa sang lại mộ cho cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Cao Lãnh.
    Phi công Nguyễn Văn Bảy tham gia tất cả 13 trận đánh, bắn rơi 7 máy bay Mỹ và chưa một lần nào bị địch bắn cháy máy bay phải nhảy dù. Ông đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, được 7 huy hiệu của Bác Hồ, và một đồng hồ đeo tay do Bác Hồ tặng. Ông đã trải qua nhiều cương vị khác nhau trong Quân chủng Phòng không-Không quân như: Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 927, Phó tư lệnh Sư đoàn không quân 372, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không quân 376, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân. Ông nghỉ hưu tháng 12 năm 1989, tham gia Ban chấp hành Hội Cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay ông vẫn là Trưởng ban liên lạc Hội cựu chiến binh Không quân tại thành phố Hồ Chí Minh.
    Bài và ảnh: Đoàn Hoài Trung

  7. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0

    Vì thấy một số bạn ngộ nhận là ta chiến thắng quá dễ dàng, quá xuất sắc, tớ tạm tổng hợp lại số liệu dưới đây để chúng ta có cái nhìn thực tế hơn.
    Ta thắng trận nhưng cái giả phải trả cũng không nhỏ.
    Chú ý:
    - Bắn cháy chưa chắc đã rơi - Địch vẫn có thể bay về. Nhưng đã nói bắn rơi tức là đã sờ được xác máy bay.
    - Có hai nhóm, một nhóm là tỷ lệ trong trận chiến được đề cập. Nhóm sau là tỷ lệ tính chung (cộng dồn tất cả các trận đánh từ đầu).
    Nguồn: Lê Thành Chơn, Sỹ quan Không quân Nhân dân Việt nam, 2004.
    3/4/65: Bắn rơi 2 F8 - Địch bảo 2 F8 bị thương nhưng về được đến hạm.
    (2-0) ?" (2-0)
    4/4/65: (Hanh, Huân, Năm, Giấy) Bắn rơi 2 F105 (địch công nhận). Nhưng mất cả 4 máy bay (3 bị bắn rơi và một phải hạ cánh bắt buộc hư hỏng không dùng được nữa). 3 phi công hy sinh. Trần Hanh duy nhất sống sót nhưng không bay lại được nữa.
    (2-4) ?" (4-4)
    ?oĐại tá Đặng Tính gật đầu. Đôi mắt ông lộ rõ đau đớn. Tư lệnh quân chủng rời khỏi phòng chỉ huy, đầu cúi xuống bước qua bậc ngăn cách giữa hai sở chỉ huy phòng không và không quân, ông trở về vị trí của ông. Tư lệnh không quân Nguyễn Văn Tiên hai tay chống trên bàn. Ông không tin điều khủng khiếp đã xảy ra, chúng ta mất cả bốn chiếc Mig-17, bốn phi công. Có điều gì đó đau lắm, bốn chiến sĩ trẻ măng? Ông nhìn mớ bòng bong, rối mù những đường bay của ta và bọn Mỹ xoắn vào nhau, không nói lời nào. Mắt mở trừng, ông như thấy lại trận đánh mới đây, tưng bừng và oanh liệt. Long nhận ra Tư lệnh đã rơi lệ, những giọt nước mắt nhỏ xuống trên tấm mi-ca trắng?
    14 /6 /1965, biên đội F17 do Lâm Văn chỉ huy bắn rơi 1 chiếc F4H
    (1-0) ?" (5-4)
    16/06/65: (Lê, Nhật, Lâm Văn, Cao): Lê bắn rơi 1F4 chỉ huy. Nhật bay kèm bị bắn rơi (nhảy dù). Lâm Văn bắn cháy 1F4. Cao bị bắn rơi. Lê đuổi tiếp địch bị lừa đâm vào núi. (ca 2 hy sinh).
    (2-3) ?" (7-7)
    ?65: Mai Đức, Văn Lai. Lai bắn cháy 1AD6. Lai đâm vào núi hy sinh.
    (1-1) ?" (8-8)
    10/07/65: Phan Thanh Nhạ và Nguyễn Cương. Cả hai phi công hy sinh ngay trong buồng lái vì địch tấn công bất ngờ. Toàn quân chủng không biết địch đến từ đâu. Bộ Tư lệnh cho dừng chiến đấu, củng cố lực lượng và nghiên cứu cách đánh.
    (0-2) ?" (8-10)
    ?oViệt Thành tái mặt, anh gọi liên tục nhưng không có tiếng của Nhạ và Cương trả lời. Thiếu tá Lê Oánh, trung đoàn phó, người chỉ huy cuộc bay tuần tiễu thẫn thờ ngồi xuống ghế, mắt nhìn đường chỉ đỏ dừng lại ở phút 30. Ông với tay đè tờ giấy bóng mờ, dường như ông cho là càng đè mạnh thì ông kéo được hai chiếc Mig trở về. Nhưng, ông rút tay lại, cùi tay chống lên mặt bàn, hai bàn tay ôm hai bên má. Lúc đó là 11 giờ 30 phút 29 giây ngày 10 tháng 7 năm 1965. Sở chỉ huy trung đoàn bàng hoàng, nhiều sĩ quan đã không còn tự chủ, bước ra phòng chỉ huy, liếc nhìn đường bay ta và địch. Trong hơn chục người vây quanh bàn chỉ huy, thậm chí có người còn đứng phía sau lưng Trung đoàn phó Lê Oánh chồm qua vai ông để nhìn. Họ chẳng thấy gì. Chỉ có Phan Thành lặng lẽ đứng đối diện với Việt Thành, nhìn Việt Thành với ánh mắt soi mói, qua một khe giữa cổ của hai người đứng chắn phía trước. Phan Thành nhìn rất rõ bộ mặt tái nhợt như mất hồn của Việt Thành?
    20/9/1965 bộ tư lệnh quân chủng cho trung đoàn Sao Đỏ tiếp tục chiến đấu.
    20/9/1965: 4 Mig-17 bắn rơi 01 F-4, ta về hạ cánh an toàn
    (1-0) ?" (9-10)
    6 /11 /1965, một biên đội Mig-17 đánh bọn trực thăng cứu giặc lái Mỹ bị bắn rơi ở Hòa Bình, bắn rơi tại chỗ 01 CH-30 bắt sống bốn tên giặc lái Mỹ.
    (1-0) ?" (10-10)
    Tet Am lich 1966:
    1 Mig 17PF. Một mình Lâm Văn tác chiến. Bay đêm. Bắn cháy một lúc 2 máy bay.
    (2-0). (12-10).
    Nhận xét khách quan:
    - Sau cả năm 1965, tỷ lệ được - mất của Không quân ta là 12-10.
    - Ta và địch chiến đấu hiệu suất ngang nhau. Số điểm thì có thể nói là hoà, nhưng xét về điều kiện đôi bên thì rõ ràng Không quân ta đã thắng (chính mình). Phi công ta đáng được kính trọng. Đề nghị các bác ngả mũ trân trọng các chú, các bác, các anh (trong đó có nhiều người thuộc làng quê và gia đình tớ).
    - Nhiều trận đánh khác không có thương vong, nhưng ta đã phá được đội hình ném bom, buộc địch phải bỏ dở tấn công.
    Tin thêm:
    Phía địch: ?oPháo cao xạ hạ 158 chiếc, tên lửa hạ 73 chiếc và Mig bắn rơi 15 chiếc. Con số do Bộ Quốc phòng chính thức xác nhận là chỉ có hơn 300 chiếc bị bắn hạ và hơn số đó bị thương?.
    Bắc Việt Nam claims chỉ riêng 1965 đã bắn rơi tới 834 máy bay.
  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0

    Vì thấy một số bạn ngộ nhận là ta chiến thắng quá dễ dàng, quá xuất sắc, tớ tạm tổng hợp lại số liệu dưới đây để chúng ta có cái nhìn thực tế hơn.
    Ta thắng trận nhưng cái giả phải trả cũng không nhỏ.
    Chú ý:
    - Bắn cháy chưa chắc đã rơi - Địch vẫn có thể bay về. Nhưng đã nói bắn rơi tức là đã sờ được xác máy bay.
    - Có hai nhóm, một nhóm là tỷ lệ trong trận chiến được đề cập. Nhóm sau là tỷ lệ tính chung (cộng dồn tất cả các trận đánh từ đầu).
    Nguồn: Lê Thành Chơn, Sỹ quan Không quân Nhân dân Việt nam, 2004.
    3/4/65: Bắn rơi 2 F8 - Địch bảo 2 F8 bị thương nhưng về được đến hạm.
    (2-0) ?" (2-0)
    4/4/65: (Hanh, Huân, Năm, Giấy) Bắn rơi 2 F105 (địch công nhận). Nhưng mất cả 4 máy bay (3 bị bắn rơi và một phải hạ cánh bắt buộc hư hỏng không dùng được nữa). 3 phi công hy sinh. Trần Hanh duy nhất sống sót nhưng không bay lại được nữa.
    (2-4) ?" (4-4)
    ?oĐại tá Đặng Tính gật đầu. Đôi mắt ông lộ rõ đau đớn. Tư lệnh quân chủng rời khỏi phòng chỉ huy, đầu cúi xuống bước qua bậc ngăn cách giữa hai sở chỉ huy phòng không và không quân, ông trở về vị trí của ông. Tư lệnh không quân Nguyễn Văn Tiên hai tay chống trên bàn. Ông không tin điều khủng khiếp đã xảy ra, chúng ta mất cả bốn chiếc Mig-17, bốn phi công. Có điều gì đó đau lắm, bốn chiến sĩ trẻ măng? Ông nhìn mớ bòng bong, rối mù những đường bay của ta và bọn Mỹ xoắn vào nhau, không nói lời nào. Mắt mở trừng, ông như thấy lại trận đánh mới đây, tưng bừng và oanh liệt. Long nhận ra Tư lệnh đã rơi lệ, những giọt nước mắt nhỏ xuống trên tấm mi-ca trắng?
    14 /6 /1965, biên đội F17 do Lâm Văn chỉ huy bắn rơi 1 chiếc F4H
    (1-0) ?" (5-4)
    16/06/65: (Lê, Nhật, Lâm Văn, Cao): Lê bắn rơi 1F4 chỉ huy. Nhật bay kèm bị bắn rơi (nhảy dù). Lâm Văn bắn cháy 1F4. Cao bị bắn rơi. Lê đuổi tiếp địch bị lừa đâm vào núi. (ca 2 hy sinh).
    (2-3) ?" (7-7)
    ?65: Mai Đức, Văn Lai. Lai bắn cháy 1AD6. Lai đâm vào núi hy sinh.
    (1-1) ?" (8-8)
    10/07/65: Phan Thanh Nhạ và Nguyễn Cương. Cả hai phi công hy sinh ngay trong buồng lái vì địch tấn công bất ngờ. Toàn quân chủng không biết địch đến từ đâu. Bộ Tư lệnh cho dừng chiến đấu, củng cố lực lượng và nghiên cứu cách đánh.
    (0-2) ?" (8-10)
    ?oViệt Thành tái mặt, anh gọi liên tục nhưng không có tiếng của Nhạ và Cương trả lời. Thiếu tá Lê Oánh, trung đoàn phó, người chỉ huy cuộc bay tuần tiễu thẫn thờ ngồi xuống ghế, mắt nhìn đường chỉ đỏ dừng lại ở phút 30. Ông với tay đè tờ giấy bóng mờ, dường như ông cho là càng đè mạnh thì ông kéo được hai chiếc Mig trở về. Nhưng, ông rút tay lại, cùi tay chống lên mặt bàn, hai bàn tay ôm hai bên má. Lúc đó là 11 giờ 30 phút 29 giây ngày 10 tháng 7 năm 1965. Sở chỉ huy trung đoàn bàng hoàng, nhiều sĩ quan đã không còn tự chủ, bước ra phòng chỉ huy, liếc nhìn đường bay ta và địch. Trong hơn chục người vây quanh bàn chỉ huy, thậm chí có người còn đứng phía sau lưng Trung đoàn phó Lê Oánh chồm qua vai ông để nhìn. Họ chẳng thấy gì. Chỉ có Phan Thành lặng lẽ đứng đối diện với Việt Thành, nhìn Việt Thành với ánh mắt soi mói, qua một khe giữa cổ của hai người đứng chắn phía trước. Phan Thành nhìn rất rõ bộ mặt tái nhợt như mất hồn của Việt Thành?
    20/9/1965 bộ tư lệnh quân chủng cho trung đoàn Sao Đỏ tiếp tục chiến đấu.
    20/9/1965: 4 Mig-17 bắn rơi 01 F-4, ta về hạ cánh an toàn
    (1-0) ?" (9-10)
    6 /11 /1965, một biên đội Mig-17 đánh bọn trực thăng cứu giặc lái Mỹ bị bắn rơi ở Hòa Bình, bắn rơi tại chỗ 01 CH-30 bắt sống bốn tên giặc lái Mỹ.
    (1-0) ?" (10-10)
    Tet Am lich 1966:
    1 Mig 17PF. Một mình Lâm Văn tác chiến. Bay đêm. Bắn cháy một lúc 2 máy bay.
    (2-0). (12-10).
    Nhận xét khách quan:
    - Sau cả năm 1965, tỷ lệ được - mất của Không quân ta là 12-10.
    - Ta và địch chiến đấu hiệu suất ngang nhau. Số điểm thì có thể nói là hoà, nhưng xét về điều kiện đôi bên thì rõ ràng Không quân ta đã thắng (chính mình). Phi công ta đáng được kính trọng. Đề nghị các bác ngả mũ trân trọng các chú, các bác, các anh (trong đó có nhiều người thuộc làng quê và gia đình tớ).
    - Nhiều trận đánh khác không có thương vong, nhưng ta đã phá được đội hình ném bom, buộc địch phải bỏ dở tấn công.
    Tin thêm:
    Phía địch: ?oPháo cao xạ hạ 158 chiếc, tên lửa hạ 73 chiếc và Mig bắn rơi 15 chiếc. Con số do Bộ Quốc phòng chính thức xác nhận là chỉ có hơn 300 chiếc bị bắn hạ và hơn số đó bị thương?.
    Bắc Việt Nam claims chỉ riêng 1965 đã bắn rơi tới 834 máy bay.
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Nếu các bác đọc số máy bay Mĩ bị các đơn vị phòng không TQ ở VN hạ (do phía TQ đưa ra) thì còn đáng hãi nữa : 1.707 bị bắn rơi, 1.608 bị bắn bị thương, 42 phi công bị bắt !!!
    Ta tổn thất nặng, có trận mất 6-7 máy bay mà không biết vì sao, có trận đâm vào núi hy sinh 1/2 biên đội mà địch không thiệt hại gì, có thời điểm cả 921 và 923 dồn lại không được 1 trung đoàn...
    Tất cả đều có thể xem trong LSKQNDVN.
  10. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Nếu các bác đọc số máy bay Mĩ bị các đơn vị phòng không TQ ở VN hạ (do phía TQ đưa ra) thì còn đáng hãi nữa : 1.707 bị bắn rơi, 1.608 bị bắn bị thương, 42 phi công bị bắt !!!
    Ta tổn thất nặng, có trận mất 6-7 máy bay mà không biết vì sao, có trận đâm vào núi hy sinh 1/2 biên đội mà địch không thiệt hại gì, có thời điểm cả 921 và 923 dồn lại không được 1 trung đoàn...
    Tất cả đều có thể xem trong LSKQNDVN.

Chia sẻ trang này