1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Phi công tiêm kích

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi homoeternus, 09/01/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tạp chí Văn nghệ quân đội hàng tháng cách đây khoảng 5, 6 năm có một truyện ngắn về không quân. Truyện kể rằng có thằng F4 phát hiện ra mig17 đuổi theo, hắn cố tình bay chậm lại và bay bằng để dử Mig đuổi theo cho đồng đội bắn. Hắn tin rằng Mig 17 không có tên lửa nên cứ yên tâm tiếp tục giảm khoảng cách. Đột ngột, máy bay của hắn bị nổ tung và mất lái, buộc hắn phải nhảy dù. Hắn không biết rằng anh phi công trên chiếc Mig17 đã bắn rơi hắn bằng tên lửa A72.
    Nhưng đây chỉ là truyện ngắn chục trang. Không có tên phi công. Không có tên địa danh. Vì vậy mình đoán là chuyện sáng tác. Nhưng không biết có phải dựa trên một truyện thực tế nào đấy không.
  2. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Tạp chí Văn nghệ quân đội hàng tháng cách đây khoảng 5, 6 năm có một truyện ngắn về không quân. Truyện kể rằng có thằng F4 phát hiện ra mig17 đuổi theo, hắn cố tình bay chậm lại và bay bằng để dử Mig đuổi theo cho đồng đội bắn. Hắn tin rằng Mig 17 không có tên lửa nên cứ yên tâm tiếp tục giảm khoảng cách. Đột ngột, máy bay của hắn bị nổ tung và mất lái, buộc hắn phải nhảy dù. Hắn không biết rằng anh phi công trên chiếc Mig17 đã bắn rơi hắn bằng tên lửa A72.
    Nhưng đây chỉ là truyện ngắn chục trang. Không có tên phi công. Không có tên địa danh. Vì vậy mình đoán là chuyện sáng tác. Nhưng không biết có phải dựa trên một truyện thực tế nào đấy không.
  3. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Phi công nó sang giúp mình thật. Nó có bắn rơi máy bay Mỹ thật chứ không phải nó tranh công đâu.
    Nhưng cậu để ý xem, thằng tàu toàn bắn rơi máy bay không người lái (unmanned) và 2 thằng A6A ném bom cơ động kém thôi, hai loại này đi đánh trộm không có đội hình tiêm kích hộ tống nên dễ bị hạ.
    Cậu đếm xem nó bắn rơi được mấy thằng F4 với F105? Hình như 3 chiếc thôi thì phải (trên tổng số ~50 claims). Quá ít.
    Đủ hiểu là nó chỉ nhằm vào mục tiêu dễ mà tránh mục tiêu khó.
  4. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Phi công nó sang giúp mình thật. Nó có bắn rơi máy bay Mỹ thật chứ không phải nó tranh công đâu.
    Nhưng cậu để ý xem, thằng tàu toàn bắn rơi máy bay không người lái (unmanned) và 2 thằng A6A ném bom cơ động kém thôi, hai loại này đi đánh trộm không có đội hình tiêm kích hộ tống nên dễ bị hạ.
    Cậu đếm xem nó bắn rơi được mấy thằng F4 với F105? Hình như 3 chiếc thôi thì phải (trên tổng số ~50 claims). Quá ít.
    Đủ hiểu là nó chỉ nhằm vào mục tiêu dễ mà tránh mục tiêu khó.
  5. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Bác lại làm nhụt chí anh em rồi! Nhiều ngừơi còn cho rằng không quân VN chỉ dùng để lôi máy bay Mỹ xuống thấp cho cao xạ bắn (sai hoàn toàn! chẳng lẽ máy bay Mẽo thích bay thấp hơn là bay cao!)
    Cái màn dogfight này hình như cần nhiều tố chất cá nhân bẩm sinh, nhanh tay lẹ con mắt, chứ không phải cứ nhiều giờ bay là xong! Trên thế giới rất nhiều át hạ rất nhiều đối thủ, lên đến chức cao nhưng nhiều khi bị hạ bởi một đối thủ trẻ măng!
    Thôi bác so sánh tiếp năm 1966 và 1967 đi nào, ta bắn được nhiều F105 lắm mà chưa thấy nhiều trong danh sách 1966 của bác!!
  6. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Bác lại làm nhụt chí anh em rồi! Nhiều ngừơi còn cho rằng không quân VN chỉ dùng để lôi máy bay Mỹ xuống thấp cho cao xạ bắn (sai hoàn toàn! chẳng lẽ máy bay Mẽo thích bay thấp hơn là bay cao!)
    Cái màn dogfight này hình như cần nhiều tố chất cá nhân bẩm sinh, nhanh tay lẹ con mắt, chứ không phải cứ nhiều giờ bay là xong! Trên thế giới rất nhiều át hạ rất nhiều đối thủ, lên đến chức cao nhưng nhiều khi bị hạ bởi một đối thủ trẻ măng!
    Thôi bác so sánh tiếp năm 1966 và 1967 đi nào, ta bắn được nhiều F105 lắm mà chưa thấy nhiều trong danh sách 1966 của bác!!
  7. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Chẳng biết post vào đâu. http://www.vov.org.vn/ Tớ mượn tạm chỗ này.
    ?oTrung đoàn tuổi 30 - 4? năm ấy...
    Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, ta thu được rất nhiều vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại của địch, trong đó có cả hàng trăm máy bay các loại. Năm ấy, đường xe lửa chưa thông suốt, đường ô tô chưa đáp ứng đủ, nhu cầu chuyên chở quân đội và hàng hoá quân sự từ Bắc vào Nam và ngược lại. Thêm vào đó, phía biên giới Tây Nam, tàn quân nguỵ và Fulro, cấu kết với các băng nhóm ********* vẫn tụ tập quấy phá, ta rất cần những chiếc máy bay chiến đấu loại nhỏ, dễ len lách trinh sát, săn tìm trên địa hình rừng núi để tiêu diệt chúng... Trung đoàn 18 vận tải quân sự ra đời trong bối cảnh ấy và được thành lập ngay sau ngày giải phóng tại Tân Sơn Nhất, nên bà con ở thành phố mang tên Bác cứ gọi là "Trung đoàn tuổi 30 - 4"...
    Những năm ấy, tôi được báo Quân đội nhân dân cử vào thành phố mới giải phóng để viết về tình hình làm chủ trang bị kỹ thuật thu được của địch và bảo vệ an ninh xã hội của bộ đội ta, nên thường xuyên qua lại với trung đoàn. Đơn vị lớn mạnh nhanh lắm, mỗi lần trở lại, tôi thấy khác trước nhiều, đến nỗi tôi phải thốt lên: "Quả là những cánh bay Phù Đổng"...
    Ngày đầu thành lập, cả chỉ huy, phi công, thợ máy, toàn trung đoàn chỉ có 37 người. Vậy mà chỉ sau 6 tháng nghiên cứu, huấn luyện bay chuyển loại và phát triển lực lượng, các anh đã làm chủ 6 loại máy bay thu được của Mỹ - nguỵ: C130, C119, C47, C7A, ĐC4, ĐC6, với đội ngũ khá hùng hậu: 15 tổ bay và 100 thợ máy, đến tháng thứ 7 đã có thể tham gia vào bay thực hiện các nhiệm vụ vận chuyển và chiến đấu. Việc học tập không dừng lại ở đấy. Năm 1979, yêu cầu mới đặt ra, trung đoàn lại bước vào đợt bay huấn luyện chuyển loại lần thứ 2 sang máy bay AN26 của Liên Xô, và cũng chỉ sau 4 tháng, các anh đã đào tạo được 7 tổ bay cho loại máy bay này. Những năm tiếp theo, vừa thực hiện nhiệm vụ, vừa xen kẽ huấn luyện, trung đoàn vẫn nâng được số tổ bay lên nhanh chóng, tới năm 1985, đã có 40 tổ bay cho loại AN26 này. Cùng với sự lớn lên về lực lượng, về năng lực tổ chức chỉ huy, trình độ kỹ thuật bay với kỹ năng kỹ xảo của phi công và chuyên môn kỹ thuật của các cán bộ và thợ máy cũng trưởng thành. Nhiều người lái được 2, 3 loại máy bay, có người lái tới 4, 5 loại; nhiều anh em từ phi công cấp 3, đã vươn tới phi công cấp 1, có thể bay được trong mọi điều kiện thời tiết phức tạp cả ban ngày và ban đêm. Những năm ấy, Đại tá - trung đoàn trưởng Nguyễn Xuân Hiển (sau này là Tổng giám đốc Tổng công ty Hàng không Việt Nam) và các anh Nguyễn Văn Nhượng, Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Thành Trung, Phạm Hữu Hùng, Nguyễn Như Nghi, Mai Chí Lưu, Đoàn Hồng Quân, Nguyễn Hồng Hải, Trần Văn Quang, Nguyễn Văn Cao, Đặng Văn Lự, Duy Vận, Nguyễn Văn Hiền, Đức Anh, Cao Phúc... là những cánh bay giỏi, những cánh bay đầu đàn trong huấn luyện, vận tải, cũng như trong chiến đấu. Các anh bảo yêu cầu của không quân phải như thế, khắc nghiệt lắm, phi công giỏi, thợ máy cũng phải giỏi, mà đã giỏi, mới làm chủ được máy bay, làm chủ được kỹ thuật, làm chủ được bầu trời, làm chủ được mọi tình thế để đánh thắng, và như thế, cũng là làm chủ được an toàn bay...
    Có nhiều người lái và thợ máy giỏi, có cả một tập thể đoàn kết, kỷ luật, say mê học tập và công tác, nên những năm ấy, trung đoàn 18 luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Trong nhật ký vận chuyển của đơn vị còn ghi lại: Càng những năm sau, cường độ vận chuyển càng lớn. Có năm - như năm 1984, khối lượng chuyên chở gấp 6 lần cả hai năm 1979, 1980. Chỉ tính đến giữa năm 1984, toàn trung đoàn đã bay tới 31.298 lần chiếc cho nhiệm vụ vận chuyển, chở 147.487 người và 37.215 tấn hàng. Nhưng đấy chỉ là những chuyến bay chở người, chở hàng đơn giản, chiến đấu mới là nhiệm vụ trung tâm, hàng đầu của trung đoàn thời điểm này. Những năm ấy, ở biên giới Tây Nam, tàn quân nguỵ và Fulro còn ẩn náu, cướp phá; nghĩa vụ quốc tế trước nạn diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt - Iêng-xa-ri trên đất Campuchia cũng được đặt ra cho quân đội ta, trong đó có trung đoàn 18. Muốn đánh thắng địch thì phải tập luyện. Nhiều anh em đã từng ?okhông chiến? với máy bay Mỹ khi chúng ra ném bom miền Bắc, song giờ đây, vẫn như phải học lại từ đầu cách sử dụng súng đạn, nhất là những vũ khí đặc thù trên máy bay vận tải, và đánh với kẻ thù dưới mặt đất... Tiếp đến là học từ ?ođộng tác chiến đấu cá nhân? nhỏ lẻ, đến tác chiến trong đội hình đông, cường độ lớn, với nhiều cách đánh, trên nhiều địa hình và tình huống phức tạp. Ngày ấy, nhiều cán bộ ở Bộ Tổng tham mưu và Bộ tư lệnh Quân chủng Không quân luôn có mặt ở trung đoàn. Các anh hướng dẫn luyện tập cơ bản, rồi tổ chức các đợt diễn tập theo phương án chiến đấu trên thực địa. 5 lần diễn tập, thì cả 5 lần trung đoàn đều đạt khá, giỏi. Những trận chiến đấu tiếp ngay sau đó. Trận đầu tiên, Nguyễn Xuân Hiển trực tiếp chỉ huy. Cũng như ở bộ binh, phải trinh sát nắm chắc địch, anh lên một chiếc máy bay bay tới trận địa. Từ trên cao, Nguyễn Xuân Hiển nhận rõ các mục tiêu nằm bên một con sông gấp khúc, rất nhiều mái lều mới dựng, và nhiều đường mòn từ các vạt rừng dồn lại, chứng tỏ địch tập trung ở đây khá đông. Trở về căn cứ, sau khi phân tích địa hình, triển khai phương án tác chiến, anh nhận tiêu diệt mục tiêu 2, Nguyễn Thành Trung tiêu diệt mục tiêu 3. Ngay chiều hôm đó, 4 biên đội với 12 chiếc máy bay xuất kích. Nguyễn Xuân Hiển dẫn 2 biên đội đầu, các biên đội sau do anh Minh, anh Ngữ phụ trách. Tới vùng địch thì một tình huống xảy ra: Bên một số mục tiêu có nhiều dân chúng đang đi qua và mây mù kéo đến che khuất vùng địch đóng. Nguyễn Xuân Hiển vội truyền đi một mệnh lệnh: ?oBất kỳ giá nào cũng phải bảo đảm an toàn cho dân" và anh phải bay vòng lần thứ hai mới hạ lệnh được cho biên đội mình "phóng pháo", còn biên đội của Tham mưu trưởng Nguyễn Hồng Sơn phải bay vòng lại lần thứ 3 mới đánh được. Nguyễn Xuân Hiển lại gọi cho Nguyễn Thành Trung: ?oNếu dân vẫn chưa đi qua mục tiêu 3, thì quay sang đánh mục tiêu 1". Một tiếng đáp lại: "Anh yên tâm" và Nguyễn Thành Trung kiên trì bay đến vòng thứ 4 thì diệt được mục tiêu 3 của địch khi đồng bào đã cách xa nơi bom nổ... Từ trận đầu đánh thắng, nhiều kíp chiến đấu sau đã xuất quân và hoàn thành tốt nhiệm vụ, mặc dầu cũng phải xử trí nhiều tình huống khác nhau, phải bay không có người bảo vệ, không có đội hình lớn, nhiều khi còn bay đêm, chỉ có một mình, đánh xong, lại tự xác định lấy đường về...
    Những năm ấy, thực hiện nghiêm túc chỉ thị ?oThu hồi, quản lý, sử dụng tốt các cơ sở vật chất kỹ thuật lấy được của địch? của Quân ủy Trung ương, trung đoàn 18 vận tải quân sự ?otrung đoàn tuổi 30 - 4" như bà con miền Nam thân thiết đặt cho - là như vậy. Niềm vui đất nước thống nhất, Bắc - Nam liền một dải, đã cho các anh sức mạnh đó. Sự nỗ lực này đã được Đảng, Nhà nước và Quân đội ghi công: Trung đoàn mới 4 tuổi, 28 tập thể và cá nhân đã được tặng thưởng huân chương Chiến công và tròn 10 tuổi, đã được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân./.
    Sự kiện và Nhân chứng

    Không quân Việt Nam: bản lĩnh-trí tuệ-sáng tạo
    Thiếu tướng Phạm Phú Thái

    Trong kháng chiến chống Mỹ, không quân làm nhiệm vụ tác chiến phòng không, bảo vệ miền Bắc XHCN và chi viện cho miền Nam. Trong thời kỳ hiện nay, yêu cầu xây dựng lực lượng không quân đòi hỏi lớn hơn trước rất nhiều vì đây là lực lượng tiến công, yểm trợ, bảo vệ, chi viện cho các chiến trường, các binh đoàn trên bộ, trên biển. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải xây dựng và phát huy truyền thống quí báu của các thế hệ đi trước đã xây dựng lên.
    Nói về việc kế thừa, phát huy những truyền thống quí báu của Không quân Việt Nam trong thời kỳ mới, Thiếu tướng Phạm Phú Thái-Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân khẳng định: 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển của không quân đã xây dựng nên truyền thống vô cùng quí giá. Đó là xây dựng được đội ngũ cán bộ có phẩm chất, trung thành, dũng cảm, khiêm tốn, ngoan cường, luôn sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Không quân Việt Nam đã làm nên chiến thắng vô cùng vẻ vang trước không quân Mỹ - không quân hàng đầu của thế giới, xây dựng nên truyền thống trung thành vô hạn, tiến công kiên quyết, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể.
    Trong thời kỳ đổi mới, bộ đội không quân tuy còn rất nhiều khó khăn nhưng đã có những nỗ lực rất to lớn, phát huy những truyền thống quí báu của cha anh đi trước. Chúng tôi đang tập trung nghiên cứu để làm tham mưu cho cấp trên xây dựng, tổ chức lực lượng không quân trong thời kỳ mới; xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, đặc biệt là phi công đáp ứng những yêu cầu của chiến tranh hiện đại. Trong tình hình hiện nay, phẩm chất bộ đội không quân tiếp tục được phát huy, đó là trí tuệ, dũng cảm, sáng tạo. Điều này được biểu hiện trong từng chuyến bay, làm chủ phương tiện khoa học kỹ thuật mới, hiện đại, cố gắng hoàn thành được nhiều nhiệm vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
    PV: Vậy quân chủng đã có những nội dung cụ thể nào để giáo dục truyền thống đối với các chiến sĩ trẻ, thưa Thiếu tướng?
    Thiếu tướng Phạm Phú Thái: Chúng tôi thường xuyên chăm lo, giáo dục cho bộ đội, truyền thụ những kinh nghiệm chiến đấu, kinh nghiệm xây dựng con người về tâm lý, ý chí, quyết tâm, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh xả thân vì Tổ quốc.
    Trước đây, mỗi lần xuất kích chiến đấu với không quân Mỹ, chúng tôi có cảm nhận là phải cảm tử vì luôn phải đối địch với lực lượng không quân mạnh gấp bội so với lực lượng nhỏ bé của ta. Không quân Việt Nam đạt hiệu suất chiến đấu rất cao. Đồng thời giáo dục cho những người chỉ huy, lãnh đạo các cấp biết sử dụng không quân như thế nào để dùng ít thắng nhiều, quyết chiến, quyết thắng.
    Mỗi chiến sĩ trẻ khi vào quân chủng đều được học tập, nghe lại truyền thống của từng đơn vị, binh chủng, của các loại hình binh chủng như bộ đội không quân tiêm kích, bộ đội tiêm kích ném bom, không quân vận tải, không quân trực thăng, các loại binh chủng khác như tên lửa, pháo cao xạ, ra đa, để từ đó xây dựng trong các chiến sĩ trẻ lòng tự hào và tinh thần trách nhiệm truyền thống quí báu mà lớp lớp cha anh đã để lại.
    PV: Thưa Thiếu tướng, được biết ông trưởng thành từ chiến sĩ. Vậy theo ông phẩm chất nào là cần thiết nhất đối với một người chiến sĩ không quân?
    Thiếu tướng Phạm Phú Thái: Phẩm chất và yêu cầu đối với người chiến sĩ trẻ không quân là tận tâm, tận lực và hết lòng vì công việc của mình, tự mình phải nghiên cứu, rèn luyện cả về phẩm chất chính trị, ý chí và đặc biệt với phi công là kỹ thuật bay. Đây là những bài học mà chúng tôi đúc kết được từ khi còn là chiến sĩ đi học tập ở nước Nga, còn trong độ tuổi 15-20 và đã làm nên những thành tích, chiến công. Chúng tôi nghĩ rằng phải tiếp tục giáo dục và truyền thụ lại cho lớp trẻ có ý chí, nghị lực như những lớp người đi trước.
    Tất cả các chiến sĩ không quân, tiêu biểu là những phi công trong con người họ đã mang một tinh thần ý chí, lòng dũng cảm. Họ luôn sẵn sàng đến những nơi biên giới, hải đảo xa xôi, nguy hiểm để làm nhiệm vụ. Lái máy bay chiến đấu không có nhiều phương tiện kỹ thuật hỗ trợ như máy bay dân dụng. Người lái máy bay dân dụng thường theo biểu đồ sẵn có, được sự hỗ trợ rất nhiều của kỹ thuật, máy móc. Còn phi công lái máy bay chiến đấu phải sử dụng bàn tay, khối óc của mình để điều khiển trực tiếp máy bay, làm các động tác kỹ thuật phức tạp để đánh được địch ở mọi điều kiện khác nhau. Những người phi công chiến đấu như vậy luôn được tôn trọng và kính nể trên toàn thế giới.
    Tôi chỉ là một đại diện nho nhỏ của đội ngũ phi công anh hùng của quân chủng. Chúng tôi đã xuất kích đánh Mỹ với tinh thần cảm tử. Tôi cho rằng việc truyền thụ những tinh thần đó cho lớp phi công trẻ hiện nay là rất cần thiết. Bản thân chúng tôi, cũng được kế thừa tinh thần quả cảm của những chiến sĩ giải phóng quân, chiến sĩ biệt động của miền Nam. Họ trực tiếp hàng ngày, hàng giờ nằm trong lòng địch mà vẫn đánh giỏi, chiến thắng giòn giã. Đó luôn là nguồn cổ vũ, động viên chúng tôi không bao giờ và đừng bao giờ ngại hy sinh, gian khổ.
    PV: Xin cảm ơn Thiếu tướng!./.
    V.H (thực hiện)




  8. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Chẳng biết post vào đâu. http://www.vov.org.vn/ Tớ mượn tạm chỗ này.
    ?oTrung đoàn tuổi 30 - 4? năm ấy...
    Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, ta thu được rất nhiều vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại của địch, trong đó có cả hàng trăm máy bay các loại. Năm ấy, đường xe lửa chưa thông suốt, đường ô tô chưa đáp ứng đủ, nhu cầu chuyên chở quân đội và hàng hoá quân sự từ Bắc vào Nam và ngược lại. Thêm vào đó, phía biên giới Tây Nam, tàn quân nguỵ và Fulro, cấu kết với các băng nhóm ********* vẫn tụ tập quấy phá, ta rất cần những chiếc máy bay chiến đấu loại nhỏ, dễ len lách trinh sát, săn tìm trên địa hình rừng núi để tiêu diệt chúng... Trung đoàn 18 vận tải quân sự ra đời trong bối cảnh ấy và được thành lập ngay sau ngày giải phóng tại Tân Sơn Nhất, nên bà con ở thành phố mang tên Bác cứ gọi là "Trung đoàn tuổi 30 - 4"...
    Những năm ấy, tôi được báo Quân đội nhân dân cử vào thành phố mới giải phóng để viết về tình hình làm chủ trang bị kỹ thuật thu được của địch và bảo vệ an ninh xã hội của bộ đội ta, nên thường xuyên qua lại với trung đoàn. Đơn vị lớn mạnh nhanh lắm, mỗi lần trở lại, tôi thấy khác trước nhiều, đến nỗi tôi phải thốt lên: "Quả là những cánh bay Phù Đổng"...
    Ngày đầu thành lập, cả chỉ huy, phi công, thợ máy, toàn trung đoàn chỉ có 37 người. Vậy mà chỉ sau 6 tháng nghiên cứu, huấn luyện bay chuyển loại và phát triển lực lượng, các anh đã làm chủ 6 loại máy bay thu được của Mỹ - nguỵ: C130, C119, C47, C7A, ĐC4, ĐC6, với đội ngũ khá hùng hậu: 15 tổ bay và 100 thợ máy, đến tháng thứ 7 đã có thể tham gia vào bay thực hiện các nhiệm vụ vận chuyển và chiến đấu. Việc học tập không dừng lại ở đấy. Năm 1979, yêu cầu mới đặt ra, trung đoàn lại bước vào đợt bay huấn luyện chuyển loại lần thứ 2 sang máy bay AN26 của Liên Xô, và cũng chỉ sau 4 tháng, các anh đã đào tạo được 7 tổ bay cho loại máy bay này. Những năm tiếp theo, vừa thực hiện nhiệm vụ, vừa xen kẽ huấn luyện, trung đoàn vẫn nâng được số tổ bay lên nhanh chóng, tới năm 1985, đã có 40 tổ bay cho loại AN26 này. Cùng với sự lớn lên về lực lượng, về năng lực tổ chức chỉ huy, trình độ kỹ thuật bay với kỹ năng kỹ xảo của phi công và chuyên môn kỹ thuật của các cán bộ và thợ máy cũng trưởng thành. Nhiều người lái được 2, 3 loại máy bay, có người lái tới 4, 5 loại; nhiều anh em từ phi công cấp 3, đã vươn tới phi công cấp 1, có thể bay được trong mọi điều kiện thời tiết phức tạp cả ban ngày và ban đêm. Những năm ấy, Đại tá - trung đoàn trưởng Nguyễn Xuân Hiển (sau này là Tổng giám đốc Tổng công ty Hàng không Việt Nam) và các anh Nguyễn Văn Nhượng, Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Thành Trung, Phạm Hữu Hùng, Nguyễn Như Nghi, Mai Chí Lưu, Đoàn Hồng Quân, Nguyễn Hồng Hải, Trần Văn Quang, Nguyễn Văn Cao, Đặng Văn Lự, Duy Vận, Nguyễn Văn Hiền, Đức Anh, Cao Phúc... là những cánh bay giỏi, những cánh bay đầu đàn trong huấn luyện, vận tải, cũng như trong chiến đấu. Các anh bảo yêu cầu của không quân phải như thế, khắc nghiệt lắm, phi công giỏi, thợ máy cũng phải giỏi, mà đã giỏi, mới làm chủ được máy bay, làm chủ được kỹ thuật, làm chủ được bầu trời, làm chủ được mọi tình thế để đánh thắng, và như thế, cũng là làm chủ được an toàn bay...
    Có nhiều người lái và thợ máy giỏi, có cả một tập thể đoàn kết, kỷ luật, say mê học tập và công tác, nên những năm ấy, trung đoàn 18 luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Trong nhật ký vận chuyển của đơn vị còn ghi lại: Càng những năm sau, cường độ vận chuyển càng lớn. Có năm - như năm 1984, khối lượng chuyên chở gấp 6 lần cả hai năm 1979, 1980. Chỉ tính đến giữa năm 1984, toàn trung đoàn đã bay tới 31.298 lần chiếc cho nhiệm vụ vận chuyển, chở 147.487 người và 37.215 tấn hàng. Nhưng đấy chỉ là những chuyến bay chở người, chở hàng đơn giản, chiến đấu mới là nhiệm vụ trung tâm, hàng đầu của trung đoàn thời điểm này. Những năm ấy, ở biên giới Tây Nam, tàn quân nguỵ và Fulro còn ẩn náu, cướp phá; nghĩa vụ quốc tế trước nạn diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt - Iêng-xa-ri trên đất Campuchia cũng được đặt ra cho quân đội ta, trong đó có trung đoàn 18. Muốn đánh thắng địch thì phải tập luyện. Nhiều anh em đã từng ?okhông chiến? với máy bay Mỹ khi chúng ra ném bom miền Bắc, song giờ đây, vẫn như phải học lại từ đầu cách sử dụng súng đạn, nhất là những vũ khí đặc thù trên máy bay vận tải, và đánh với kẻ thù dưới mặt đất... Tiếp đến là học từ ?ođộng tác chiến đấu cá nhân? nhỏ lẻ, đến tác chiến trong đội hình đông, cường độ lớn, với nhiều cách đánh, trên nhiều địa hình và tình huống phức tạp. Ngày ấy, nhiều cán bộ ở Bộ Tổng tham mưu và Bộ tư lệnh Quân chủng Không quân luôn có mặt ở trung đoàn. Các anh hướng dẫn luyện tập cơ bản, rồi tổ chức các đợt diễn tập theo phương án chiến đấu trên thực địa. 5 lần diễn tập, thì cả 5 lần trung đoàn đều đạt khá, giỏi. Những trận chiến đấu tiếp ngay sau đó. Trận đầu tiên, Nguyễn Xuân Hiển trực tiếp chỉ huy. Cũng như ở bộ binh, phải trinh sát nắm chắc địch, anh lên một chiếc máy bay bay tới trận địa. Từ trên cao, Nguyễn Xuân Hiển nhận rõ các mục tiêu nằm bên một con sông gấp khúc, rất nhiều mái lều mới dựng, và nhiều đường mòn từ các vạt rừng dồn lại, chứng tỏ địch tập trung ở đây khá đông. Trở về căn cứ, sau khi phân tích địa hình, triển khai phương án tác chiến, anh nhận tiêu diệt mục tiêu 2, Nguyễn Thành Trung tiêu diệt mục tiêu 3. Ngay chiều hôm đó, 4 biên đội với 12 chiếc máy bay xuất kích. Nguyễn Xuân Hiển dẫn 2 biên đội đầu, các biên đội sau do anh Minh, anh Ngữ phụ trách. Tới vùng địch thì một tình huống xảy ra: Bên một số mục tiêu có nhiều dân chúng đang đi qua và mây mù kéo đến che khuất vùng địch đóng. Nguyễn Xuân Hiển vội truyền đi một mệnh lệnh: ?oBất kỳ giá nào cũng phải bảo đảm an toàn cho dân" và anh phải bay vòng lần thứ hai mới hạ lệnh được cho biên đội mình "phóng pháo", còn biên đội của Tham mưu trưởng Nguyễn Hồng Sơn phải bay vòng lại lần thứ 3 mới đánh được. Nguyễn Xuân Hiển lại gọi cho Nguyễn Thành Trung: ?oNếu dân vẫn chưa đi qua mục tiêu 3, thì quay sang đánh mục tiêu 1". Một tiếng đáp lại: "Anh yên tâm" và Nguyễn Thành Trung kiên trì bay đến vòng thứ 4 thì diệt được mục tiêu 3 của địch khi đồng bào đã cách xa nơi bom nổ... Từ trận đầu đánh thắng, nhiều kíp chiến đấu sau đã xuất quân và hoàn thành tốt nhiệm vụ, mặc dầu cũng phải xử trí nhiều tình huống khác nhau, phải bay không có người bảo vệ, không có đội hình lớn, nhiều khi còn bay đêm, chỉ có một mình, đánh xong, lại tự xác định lấy đường về...
    Những năm ấy, thực hiện nghiêm túc chỉ thị ?oThu hồi, quản lý, sử dụng tốt các cơ sở vật chất kỹ thuật lấy được của địch? của Quân ủy Trung ương, trung đoàn 18 vận tải quân sự ?otrung đoàn tuổi 30 - 4" như bà con miền Nam thân thiết đặt cho - là như vậy. Niềm vui đất nước thống nhất, Bắc - Nam liền một dải, đã cho các anh sức mạnh đó. Sự nỗ lực này đã được Đảng, Nhà nước và Quân đội ghi công: Trung đoàn mới 4 tuổi, 28 tập thể và cá nhân đã được tặng thưởng huân chương Chiến công và tròn 10 tuổi, đã được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân./.
    Sự kiện và Nhân chứng

    Không quân Việt Nam: bản lĩnh-trí tuệ-sáng tạo
    Thiếu tướng Phạm Phú Thái

    Trong kháng chiến chống Mỹ, không quân làm nhiệm vụ tác chiến phòng không, bảo vệ miền Bắc XHCN và chi viện cho miền Nam. Trong thời kỳ hiện nay, yêu cầu xây dựng lực lượng không quân đòi hỏi lớn hơn trước rất nhiều vì đây là lực lượng tiến công, yểm trợ, bảo vệ, chi viện cho các chiến trường, các binh đoàn trên bộ, trên biển. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải xây dựng và phát huy truyền thống quí báu của các thế hệ đi trước đã xây dựng lên.
    Nói về việc kế thừa, phát huy những truyền thống quí báu của Không quân Việt Nam trong thời kỳ mới, Thiếu tướng Phạm Phú Thái-Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân khẳng định: 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển của không quân đã xây dựng nên truyền thống vô cùng quí giá. Đó là xây dựng được đội ngũ cán bộ có phẩm chất, trung thành, dũng cảm, khiêm tốn, ngoan cường, luôn sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Không quân Việt Nam đã làm nên chiến thắng vô cùng vẻ vang trước không quân Mỹ - không quân hàng đầu của thế giới, xây dựng nên truyền thống trung thành vô hạn, tiến công kiên quyết, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể.
    Trong thời kỳ đổi mới, bộ đội không quân tuy còn rất nhiều khó khăn nhưng đã có những nỗ lực rất to lớn, phát huy những truyền thống quí báu của cha anh đi trước. Chúng tôi đang tập trung nghiên cứu để làm tham mưu cho cấp trên xây dựng, tổ chức lực lượng không quân trong thời kỳ mới; xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, đặc biệt là phi công đáp ứng những yêu cầu của chiến tranh hiện đại. Trong tình hình hiện nay, phẩm chất bộ đội không quân tiếp tục được phát huy, đó là trí tuệ, dũng cảm, sáng tạo. Điều này được biểu hiện trong từng chuyến bay, làm chủ phương tiện khoa học kỹ thuật mới, hiện đại, cố gắng hoàn thành được nhiều nhiệm vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
    PV: Vậy quân chủng đã có những nội dung cụ thể nào để giáo dục truyền thống đối với các chiến sĩ trẻ, thưa Thiếu tướng?
    Thiếu tướng Phạm Phú Thái: Chúng tôi thường xuyên chăm lo, giáo dục cho bộ đội, truyền thụ những kinh nghiệm chiến đấu, kinh nghiệm xây dựng con người về tâm lý, ý chí, quyết tâm, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh xả thân vì Tổ quốc.
    Trước đây, mỗi lần xuất kích chiến đấu với không quân Mỹ, chúng tôi có cảm nhận là phải cảm tử vì luôn phải đối địch với lực lượng không quân mạnh gấp bội so với lực lượng nhỏ bé của ta. Không quân Việt Nam đạt hiệu suất chiến đấu rất cao. Đồng thời giáo dục cho những người chỉ huy, lãnh đạo các cấp biết sử dụng không quân như thế nào để dùng ít thắng nhiều, quyết chiến, quyết thắng.
    Mỗi chiến sĩ trẻ khi vào quân chủng đều được học tập, nghe lại truyền thống của từng đơn vị, binh chủng, của các loại hình binh chủng như bộ đội không quân tiêm kích, bộ đội tiêm kích ném bom, không quân vận tải, không quân trực thăng, các loại binh chủng khác như tên lửa, pháo cao xạ, ra đa, để từ đó xây dựng trong các chiến sĩ trẻ lòng tự hào và tinh thần trách nhiệm truyền thống quí báu mà lớp lớp cha anh đã để lại.
    PV: Thưa Thiếu tướng, được biết ông trưởng thành từ chiến sĩ. Vậy theo ông phẩm chất nào là cần thiết nhất đối với một người chiến sĩ không quân?
    Thiếu tướng Phạm Phú Thái: Phẩm chất và yêu cầu đối với người chiến sĩ trẻ không quân là tận tâm, tận lực và hết lòng vì công việc của mình, tự mình phải nghiên cứu, rèn luyện cả về phẩm chất chính trị, ý chí và đặc biệt với phi công là kỹ thuật bay. Đây là những bài học mà chúng tôi đúc kết được từ khi còn là chiến sĩ đi học tập ở nước Nga, còn trong độ tuổi 15-20 và đã làm nên những thành tích, chiến công. Chúng tôi nghĩ rằng phải tiếp tục giáo dục và truyền thụ lại cho lớp trẻ có ý chí, nghị lực như những lớp người đi trước.
    Tất cả các chiến sĩ không quân, tiêu biểu là những phi công trong con người họ đã mang một tinh thần ý chí, lòng dũng cảm. Họ luôn sẵn sàng đến những nơi biên giới, hải đảo xa xôi, nguy hiểm để làm nhiệm vụ. Lái máy bay chiến đấu không có nhiều phương tiện kỹ thuật hỗ trợ như máy bay dân dụng. Người lái máy bay dân dụng thường theo biểu đồ sẵn có, được sự hỗ trợ rất nhiều của kỹ thuật, máy móc. Còn phi công lái máy bay chiến đấu phải sử dụng bàn tay, khối óc của mình để điều khiển trực tiếp máy bay, làm các động tác kỹ thuật phức tạp để đánh được địch ở mọi điều kiện khác nhau. Những người phi công chiến đấu như vậy luôn được tôn trọng và kính nể trên toàn thế giới.
    Tôi chỉ là một đại diện nho nhỏ của đội ngũ phi công anh hùng của quân chủng. Chúng tôi đã xuất kích đánh Mỹ với tinh thần cảm tử. Tôi cho rằng việc truyền thụ những tinh thần đó cho lớp phi công trẻ hiện nay là rất cần thiết. Bản thân chúng tôi, cũng được kế thừa tinh thần quả cảm của những chiến sĩ giải phóng quân, chiến sĩ biệt động của miền Nam. Họ trực tiếp hàng ngày, hàng giờ nằm trong lòng địch mà vẫn đánh giỏi, chiến thắng giòn giã. Đó luôn là nguồn cổ vũ, động viên chúng tôi không bao giờ và đừng bao giờ ngại hy sinh, gian khổ.
    PV: Xin cảm ơn Thiếu tướng!./.
    V.H (thực hiện)




  9. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Ðánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (1965-1968)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền bắc luôn phải đối mặt với âm mưu và hành động chống phá của Mỹ. Âm mưu và hành động đó chủ yếu bằng biện pháp quân sự, từ bí mật đến công khai và ngày càng trở nên ác liệt theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh trên bộ mà Mỹ tiến hành ở miền nam.
    Sau một loạt hành động chống phá và khiêu khích (nã pháo vào các đảo và một số vùng bờ biển miền bắc, bắt ngư dân, tung biệt kích, thám báo vào sâu trong nội địa, dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ lấy cớ cho việc tăng cường và mở rộng chiến tranh...), từ đầu năm 1965, Mỹ sử dụng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc. Ðây là một bộ phận khăng khít của chiến lược chiến tranh cục bộ, hỗ trợ cho hoạt động của lục quân Mỹ trên chiến trường miền nam.
    Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư Ðảng lần thứ 11 (khóa III), tháng 3-1965, quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền bắc từ thời bình sang thời chiến nhằm bảo đảm cho miền bắc có đủ sức mạnh đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ và làm tròn vai trò, nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền nam.
    Chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, các cơ quan Ðảng, Nhà nước và hệ thống chính quyền các cấp gấp rút chấn chỉnh, sắp xếp, kiện toàn về tổ chức; sửa đổi lề lối và tác phong làm việc, thực hiện đúng chức năng, giản tiện hóa các thủ tục hành chính, kịp thời giải quyết các vấn đề của cuộc sống và chiến đấu đặt ra. Chuyển hướng về kinh tế, miền bắc tập trung xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương; thúc đẩy khu vực này phát triển nhanh hơn tốc độ bình thường, làm cho mỗi vùng, miền phát huy đầy đủ tiềm năng và khả năng hiện có, ổn định và giữ vững đời sống của nhân dân, đáp ứng hậu cần tại chỗ của cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không và đất đối biển. Nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân cũng nhanh chóng đuợc tăng cường. Nhà nước quyết định thành lập một số binh đoàn chủ lực trang bị hiện đại và một số quân chủng mới. Quốc hội khoá III, kỳ họp thứ 2, thông qua Luật sửa đổi và bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân theo yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu. Tháng 5-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh động viên một bộ phận sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị và một bộ phận công dân thuộc ngạch dự bị vào lực lượng vũ trang. Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm đặt kế hoạch động viên cục bộ và chỉ đạo quá trình thực hiện kế hoạch này theo phương hướng tăng cường khả năng quốc phòng miền bắc đến mức cần thiết, đáp ứng yêu cầu chiến trường, bảo đảm sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế hậu phương thời chiến.
    Từ khắp nơi trên miền bắc, các phong trào "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Cử người đi đánh Mỹ", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"... dấy lên mạnh mẽ, sôi nổi và rộng khắp ở mọi địa phương. Năm 1965, gần 290.000 thanh niên tình nguyện gia nhập quân đội. Chỉ một thời gian ngắn, 68.874 thanh niên và quân nhân chuyển ngành hoặc phục viên được tuyển vào quân đội, hàng chục nghìn người khác được gọi vào thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến. So với đầu năm, đến cuối năm 1965, khối chủ lực miền bắc tăng gấp hai lần - từ 195.000 quân lên 400.000 quân. Các quân chủng, binh chủng cũng tăng nhanh về lực lượng và tăng cường về vũ khí, trang bị kỹ thuật. Ðến cuối năm 1965, quân số các quân chủng, binh chủng tăng gấp ba lần so với năm 1964, riêng Quân chủng Phòng không - Không quân, nhiều đơn vị được gấp rút xây dựng, trong đó có các đơn vị tên lửa phòng không, pháo phòng không, ra-đa cảnh giới, không quân tiêm kích. Bên cạnh bộ đội phòng không chủ lực, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương cũng phát triển với tốc độ nhanh, được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, nhiều đại đội; dân quân, tự vệ hình thành hàng nghìn đơn vị trực chiến. Dân quân, tự vệ là lực lượng nòng cốt phát triển phong trào toàn dân bắn máy bay và tàu chiến Mỹ, làm công tác phòng không nhân dân và bảo đảm giao thông vận tải, bảo vệ trị an, xung kích trong sản xuất và công tác ở những địa bàn địch thường xuyên đánh phá ác liệt.
    Vùng ven biển, lực lượng phòng thủ bao gồm các đơn vị pháo binh bờ đối biển của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ nhanh chóng được tăng cường. Ngoài ra, ở các làng xã vùng ven biển, hàng trăm đội tuần tra được tổ chức, tăng cường canh gác, kịp thời phát hiện và đập tan mọi hoạt động đột nhập, phá hoại của biệt kích, thám báo.
    Các lực lượng vận tải và bảo đảm giao thông như công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước, vận tải nhân dân..., theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh, cũng ngày càng lớn mạnh. Trên tuyến đường Trường Sơn, lực lượng vận tải quân sự phát triển thành đoàn hậu cần chiến lược, bảo đảm việc đánh địch, mở đường, vận chuyển và bảo đảm hành quân chi viện chiến trường.
    Với quyết tâm cao, cơ cấu, tổ chức, bố trí lực lượng và thế trận hợp lý; với vũ khí, trang bị, phương tiện bảo đảm ngày càng được cải tiến và tăng cường; với nghị lực và sức sáng tạo được phát huy cao độ của con người Việt Nam, lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển và lực lượng bảo đảm giao thông vận tải ba thứ quân miền bắc thật sự là nòng cốt phát động toàn dân tham gia chống chiến tranh phá hoại. Vì vậy, suốt những năm chiến tranh, phong trào toàn dân bắn máy bay, đánh tàu chiến Mỹ bằng mọi thứ vũ khí, ở mọi nơi và trong mọi lúc phát triển rộng khắp các địa phương. Tự vệ các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình; dân quân các làng bản, xóm thôn đều tổ chức các tổ bắn máy bay để vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Khắp nơi, khẩu hiệu "Tay cày, tay súng", "Tay búa, tay súng" trở thành phương châm hành động của giai cấp công nhân, nông dân...
    Bên cạnh phong trào đánh máy bay và tàu chiến, các địa phương còn phát động phong trào toàn dân tham gia bảo đảm giao thông vận tải, toàn dân giúp đỡ bộ đội, phục vụ chiến đấu, toàn dân làm công tác phòng không. Các đội thuyền nan, bè, mảng, xe thồ của nhân dân với phương thức vận chuyển thô sơ nhưng phù hợp, ngày đêm bền bỉ vận chuyển hàng hóa qua những vùng trọng điểm địch thường xuyên đánh phá.
    Chỉ riêng việc phục vụ chiến đấu như tiếp đạn, kéo pháo, đào đắp công sự, cứu chữa và chăm sóc thương binh..., những năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhân dân miền bắc đã đóng góp hàng trăm triệu ngày công. Tính ra, trung bình mỗi ngày, trên miền bắc, có tới 92.000 lao động theo nghĩa vụ thời chiến, chiếm tới 10,5% tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động của miền bắc.
    Trong điều kiện miền bắc phải liên tục động viên thanh niên vào lực lượng vũ trang, vào thanh niên xung phong; trên ruộng đồng, trong nhà máy, lao động nữ là chủ yếu. Những con số trên phản ánh nỗ lực cao của hậu phương lớn, chứng tỏ sự tham gia tích cực, rộng rãi và hiệu quả của quần chúng nhân dân, tạo ra lực lượng vật chất và tinh thần to lớn, góp phần quan trọng bảo đảm cho miền bắc có đủ sức mạnh đương đầu và đánh trả liên tục, có hiệu quả nhiều thủ đoạn đánh phá, vô hiệu hóa nhiều loại vũ khí hiện đại của Mỹ.
    Vì thế, dù chiến tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, tác động lên toàn bộ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội... nhưng miền bắc vẫn vững vàng trong lửa đạn, ngẩng cao đầu đánh Mỹ, trừng trị đích đáng lực lượng không quân và hải quân Hoa Kỳ trên vùng trời, vùng biển. Trong bốn năm, lưới lửa phòng không miền bắc bắn rơi 3.243 máy bay (có cả máy bay B52 và F111), bắn chìm, bắn cháy 143 tàu chiến Mỹ.
    Sản xuất, về cơ bản, không bị ngưng trệ mà tiếp tục được duy trì, hơn nữa, trên một số mặt như năng suất lúa, kinh tế địa phương... còn có bước phát triển. Ðời sống nhân dân, kể cả vùng tuyến lửa khu 4, không bị đảo lộn lớn. Dưới bom đạn đánh phá của kẻ thù, học sinh vẫn mũ rơm đội đầu, ngày đêm tới lớp. Gian khổ, thiếu thốn, mất mát, hy sinh, nhưng phong trào "Tiếng hát át tiếng bom" xuất hiện và phát triển khắp nơi trên mọi nẻo đường chiến tranh.
    Giữa những ngày Mỹ leo thang đánh phá, nhân dân ta vẫn tổ chức trọng thể lễ Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Ðại thi hào dân tộc Nguyễn Du (tháng 11-1965). Ðó là một biểu hiện về trình độ của một dân tộc văn minh, chứng tỏ tư thế của hậu phương lớn miền bắc thời đánh Mỹ.
    Trên mặt trận bảo đảm giao thông, mặc dù toàn bộ hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy, cầu cống, bến cảng, kho tàng thường xuyên bị uy hiếp, bị đánh phá, nhưng nhịp độ và khối lượng vận chuyển vẫn không ngừng tăng lên, đáp ứng kịp thời, liên tục và ngày càng đầy đủ yêu cầu của cuộc chiến trên hai miền nam, bắc.
    Leo thang đánh phá miền bắc, mục tiêu hàng đầu của Mỹ là uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Thế nhưng, trải qua bốn năm chống chiến tranh phá hoại, quân dân miền bắc đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết một lòng, giáng trả đích đáng không quân, hải quân Mỹ, gây cho chúng những hao tổn nặng nề về người lái và máy bay, tàu chiến; làm suy giảm ý chí xâm lược của giới lãnh đạo cao cấp Mỹ trong cuộc chiến tranh cục bộ.
    Thắng lợi đó chứng tỏ trên thực tế sức mạnh và tính bền vững của một hậu phương được tổ chức chặt chẽ do chế độ ưu việt được thiết lập và củng cố vững chắc, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng được chăm lo, mở rộng, tăng cường, nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Trong khi đó, chính nước Mỹ bên kia bờ đại dương lại bị rung động, nội bộ chia rẽ bởi những thất bại ngày càng nặng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ðiều đó chứng tỏ, một dân tộc chiến đấu vì sự nghiệp chính nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản chân chính, toàn dân đoàn kết, xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh, tiền tuyến kiên cường, bền lòng kháng chiến, thì nhất định chiến thắng kẻ thù xâm lược.
    Ðại tá TS HỒ KHANG
    (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)


  10. kqndvn

    kqndvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    1.117
    Đã được thích:
    0
    Ðánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (1965-1968)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền bắc luôn phải đối mặt với âm mưu và hành động chống phá của Mỹ. Âm mưu và hành động đó chủ yếu bằng biện pháp quân sự, từ bí mật đến công khai và ngày càng trở nên ác liệt theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh trên bộ mà Mỹ tiến hành ở miền nam.
    Sau một loạt hành động chống phá và khiêu khích (nã pháo vào các đảo và một số vùng bờ biển miền bắc, bắt ngư dân, tung biệt kích, thám báo vào sâu trong nội địa, dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ lấy cớ cho việc tăng cường và mở rộng chiến tranh...), từ đầu năm 1965, Mỹ sử dụng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc. Ðây là một bộ phận khăng khít của chiến lược chiến tranh cục bộ, hỗ trợ cho hoạt động của lục quân Mỹ trên chiến trường miền nam.
    Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư Ðảng lần thứ 11 (khóa III), tháng 3-1965, quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền bắc từ thời bình sang thời chiến nhằm bảo đảm cho miền bắc có đủ sức mạnh đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ và làm tròn vai trò, nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền nam.
    Chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, các cơ quan Ðảng, Nhà nước và hệ thống chính quyền các cấp gấp rút chấn chỉnh, sắp xếp, kiện toàn về tổ chức; sửa đổi lề lối và tác phong làm việc, thực hiện đúng chức năng, giản tiện hóa các thủ tục hành chính, kịp thời giải quyết các vấn đề của cuộc sống và chiến đấu đặt ra. Chuyển hướng về kinh tế, miền bắc tập trung xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương; thúc đẩy khu vực này phát triển nhanh hơn tốc độ bình thường, làm cho mỗi vùng, miền phát huy đầy đủ tiềm năng và khả năng hiện có, ổn định và giữ vững đời sống của nhân dân, đáp ứng hậu cần tại chỗ của cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không và đất đối biển. Nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân cũng nhanh chóng đuợc tăng cường. Nhà nước quyết định thành lập một số binh đoàn chủ lực trang bị hiện đại và một số quân chủng mới. Quốc hội khoá III, kỳ họp thứ 2, thông qua Luật sửa đổi và bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân theo yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu. Tháng 5-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh động viên một bộ phận sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị và một bộ phận công dân thuộc ngạch dự bị vào lực lượng vũ trang. Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm đặt kế hoạch động viên cục bộ và chỉ đạo quá trình thực hiện kế hoạch này theo phương hướng tăng cường khả năng quốc phòng miền bắc đến mức cần thiết, đáp ứng yêu cầu chiến trường, bảo đảm sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế hậu phương thời chiến.
    Từ khắp nơi trên miền bắc, các phong trào "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Cử người đi đánh Mỹ", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"... dấy lên mạnh mẽ, sôi nổi và rộng khắp ở mọi địa phương. Năm 1965, gần 290.000 thanh niên tình nguyện gia nhập quân đội. Chỉ một thời gian ngắn, 68.874 thanh niên và quân nhân chuyển ngành hoặc phục viên được tuyển vào quân đội, hàng chục nghìn người khác được gọi vào thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến. So với đầu năm, đến cuối năm 1965, khối chủ lực miền bắc tăng gấp hai lần - từ 195.000 quân lên 400.000 quân. Các quân chủng, binh chủng cũng tăng nhanh về lực lượng và tăng cường về vũ khí, trang bị kỹ thuật. Ðến cuối năm 1965, quân số các quân chủng, binh chủng tăng gấp ba lần so với năm 1964, riêng Quân chủng Phòng không - Không quân, nhiều đơn vị được gấp rút xây dựng, trong đó có các đơn vị tên lửa phòng không, pháo phòng không, ra-đa cảnh giới, không quân tiêm kích. Bên cạnh bộ đội phòng không chủ lực, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương cũng phát triển với tốc độ nhanh, được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, nhiều đại đội; dân quân, tự vệ hình thành hàng nghìn đơn vị trực chiến. Dân quân, tự vệ là lực lượng nòng cốt phát triển phong trào toàn dân bắn máy bay và tàu chiến Mỹ, làm công tác phòng không nhân dân và bảo đảm giao thông vận tải, bảo vệ trị an, xung kích trong sản xuất và công tác ở những địa bàn địch thường xuyên đánh phá ác liệt.
    Vùng ven biển, lực lượng phòng thủ bao gồm các đơn vị pháo binh bờ đối biển của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ nhanh chóng được tăng cường. Ngoài ra, ở các làng xã vùng ven biển, hàng trăm đội tuần tra được tổ chức, tăng cường canh gác, kịp thời phát hiện và đập tan mọi hoạt động đột nhập, phá hoại của biệt kích, thám báo.
    Các lực lượng vận tải và bảo đảm giao thông như công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước, vận tải nhân dân..., theo nhịp độ gia tăng của chiến tranh, cũng ngày càng lớn mạnh. Trên tuyến đường Trường Sơn, lực lượng vận tải quân sự phát triển thành đoàn hậu cần chiến lược, bảo đảm việc đánh địch, mở đường, vận chuyển và bảo đảm hành quân chi viện chiến trường.
    Với quyết tâm cao, cơ cấu, tổ chức, bố trí lực lượng và thế trận hợp lý; với vũ khí, trang bị, phương tiện bảo đảm ngày càng được cải tiến và tăng cường; với nghị lực và sức sáng tạo được phát huy cao độ của con người Việt Nam, lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển và lực lượng bảo đảm giao thông vận tải ba thứ quân miền bắc thật sự là nòng cốt phát động toàn dân tham gia chống chiến tranh phá hoại. Vì vậy, suốt những năm chiến tranh, phong trào toàn dân bắn máy bay, đánh tàu chiến Mỹ bằng mọi thứ vũ khí, ở mọi nơi và trong mọi lúc phát triển rộng khắp các địa phương. Tự vệ các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình; dân quân các làng bản, xóm thôn đều tổ chức các tổ bắn máy bay để vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Khắp nơi, khẩu hiệu "Tay cày, tay súng", "Tay búa, tay súng" trở thành phương châm hành động của giai cấp công nhân, nông dân...
    Bên cạnh phong trào đánh máy bay và tàu chiến, các địa phương còn phát động phong trào toàn dân tham gia bảo đảm giao thông vận tải, toàn dân giúp đỡ bộ đội, phục vụ chiến đấu, toàn dân làm công tác phòng không. Các đội thuyền nan, bè, mảng, xe thồ của nhân dân với phương thức vận chuyển thô sơ nhưng phù hợp, ngày đêm bền bỉ vận chuyển hàng hóa qua những vùng trọng điểm địch thường xuyên đánh phá.
    Chỉ riêng việc phục vụ chiến đấu như tiếp đạn, kéo pháo, đào đắp công sự, cứu chữa và chăm sóc thương binh..., những năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhân dân miền bắc đã đóng góp hàng trăm triệu ngày công. Tính ra, trung bình mỗi ngày, trên miền bắc, có tới 92.000 lao động theo nghĩa vụ thời chiến, chiếm tới 10,5% tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động của miền bắc.
    Trong điều kiện miền bắc phải liên tục động viên thanh niên vào lực lượng vũ trang, vào thanh niên xung phong; trên ruộng đồng, trong nhà máy, lao động nữ là chủ yếu. Những con số trên phản ánh nỗ lực cao của hậu phương lớn, chứng tỏ sự tham gia tích cực, rộng rãi và hiệu quả của quần chúng nhân dân, tạo ra lực lượng vật chất và tinh thần to lớn, góp phần quan trọng bảo đảm cho miền bắc có đủ sức mạnh đương đầu và đánh trả liên tục, có hiệu quả nhiều thủ đoạn đánh phá, vô hiệu hóa nhiều loại vũ khí hiện đại của Mỹ.
    Vì thế, dù chiến tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, tác động lên toàn bộ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội... nhưng miền bắc vẫn vững vàng trong lửa đạn, ngẩng cao đầu đánh Mỹ, trừng trị đích đáng lực lượng không quân và hải quân Hoa Kỳ trên vùng trời, vùng biển. Trong bốn năm, lưới lửa phòng không miền bắc bắn rơi 3.243 máy bay (có cả máy bay B52 và F111), bắn chìm, bắn cháy 143 tàu chiến Mỹ.
    Sản xuất, về cơ bản, không bị ngưng trệ mà tiếp tục được duy trì, hơn nữa, trên một số mặt như năng suất lúa, kinh tế địa phương... còn có bước phát triển. Ðời sống nhân dân, kể cả vùng tuyến lửa khu 4, không bị đảo lộn lớn. Dưới bom đạn đánh phá của kẻ thù, học sinh vẫn mũ rơm đội đầu, ngày đêm tới lớp. Gian khổ, thiếu thốn, mất mát, hy sinh, nhưng phong trào "Tiếng hát át tiếng bom" xuất hiện và phát triển khắp nơi trên mọi nẻo đường chiến tranh.
    Giữa những ngày Mỹ leo thang đánh phá, nhân dân ta vẫn tổ chức trọng thể lễ Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Ðại thi hào dân tộc Nguyễn Du (tháng 11-1965). Ðó là một biểu hiện về trình độ của một dân tộc văn minh, chứng tỏ tư thế của hậu phương lớn miền bắc thời đánh Mỹ.
    Trên mặt trận bảo đảm giao thông, mặc dù toàn bộ hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy, cầu cống, bến cảng, kho tàng thường xuyên bị uy hiếp, bị đánh phá, nhưng nhịp độ và khối lượng vận chuyển vẫn không ngừng tăng lên, đáp ứng kịp thời, liên tục và ngày càng đầy đủ yêu cầu của cuộc chiến trên hai miền nam, bắc.
    Leo thang đánh phá miền bắc, mục tiêu hàng đầu của Mỹ là uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Thế nhưng, trải qua bốn năm chống chiến tranh phá hoại, quân dân miền bắc đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết một lòng, giáng trả đích đáng không quân, hải quân Mỹ, gây cho chúng những hao tổn nặng nề về người lái và máy bay, tàu chiến; làm suy giảm ý chí xâm lược của giới lãnh đạo cao cấp Mỹ trong cuộc chiến tranh cục bộ.
    Thắng lợi đó chứng tỏ trên thực tế sức mạnh và tính bền vững của một hậu phương được tổ chức chặt chẽ do chế độ ưu việt được thiết lập và củng cố vững chắc, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng được chăm lo, mở rộng, tăng cường, nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Trong khi đó, chính nước Mỹ bên kia bờ đại dương lại bị rung động, nội bộ chia rẽ bởi những thất bại ngày càng nặng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ðiều đó chứng tỏ, một dân tộc chiến đấu vì sự nghiệp chính nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản chân chính, toàn dân đoàn kết, xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh, tiền tuyến kiên cường, bền lòng kháng chiến, thì nhất định chiến thắng kẻ thù xâm lược.
    Ðại tá TS HỒ KHANG
    (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)


Chia sẻ trang này