1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Phim về dân tộc Do Thái(Jews)

Chủ đề trong 'Điện ảnh (MFC)' bởi moitoanh, 02/09/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. moitoanh

    moitoanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2004
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Phim về dân tộc Do Thái(Jews)

    1 dân tộc thiên tài, 1 dân tộc chịu nhiều đau khổ nhất trên TG, 1 dân tộc ko có quốc gia hàng nghìn năm và cuối cùng là 1 dân tộc gây nhiều tranh cãi nhất giữa cái ác và cái thiện là 1 chủ đề khai thác ko biết mệt của fim ảnh. Đó chính là dân tộc Do Thái. Để hiểu các fim về Do Thái, bạn cần fải hiểu vể lịch sử, văn hoá và tôn giáo của dân tộc này. Bắt đầu từ "lịch sử của dân tộc Do Thái":

    Lịch sử của dân tộc Israel bắt đầu từ khi Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham rời bỏ quê hương của mình là Ur (Iraq hiện nay) để đi vào đồng vắng.

    Áp-ra-ham sinh ra Y-sác khi đã trên 90 tuổi.

    Y-sác sinh ra Gia-cốp.

    Gia-cốp sinh ra Giô-sép. Giô-sép bị anh em mình bán qua Ai-cập (Egypt).

    Do Đức Chúa Trời cho biết trước nạn hạn hán 7 năm, Giô-sép được Pha-ra-ôn trọng dụng. Sau đó ông hoà giải lại với gia đình và đem họ qua Ai- cập sinh sống. Vua Pha-ra-ôn lúc này ưu đãi dân Do Thái do công lao của Giô-sép.

    Vua Pha-ra-ôn mới lên không biết công lao của Giô-sép. Vì thấy dân Do Thái sinh sôi nẩy nở rất đông, vua mới ra lệnh tiêu diệt dân này. Đức Chúa Trời dấy Môi-se lên để lãnh đạo dân Ngài vượt thoát Ai-cập đi vào đồng vắng, sau hơn 400 năm sống nô lệ tại Ai-cập. Sau 40 năm lang thang trong sa mạc, thế hệ của Môi-se chết hết trừ hai người: Giô-suê và Ca-lép.

    1- 1250 BC: Giô-suê kế thừa Môi-se dẫn dân Do Thái chinh phục đất Ca-na-an

    2- 1000 - 587 BC: Thời đại của các vua
    Hai vị vua nổi tiếng của Do thái là David (1010 - 970 BC), người xây Jerusalem là thủ đô của Do Thái và Solomon (970 -931 BC), người xây đền thánh thứ nhất.

    3- 721 BC: Israel (vương quốc phía Bắc) mất vào tay đế quốc Assari

    Sau khi Solomon qua đời nước Do thái bị phân chia thành hai: Israel phía bắc có thủ đô là Samari, và Judea phía nam có thủ đô là Jerusalem. Năm 721 BC, Israel (vương quốc phía Bắc) mất vào tay đế quốc Assari.


    [​IMG]


    Hình 1.- Đế quốc Assari


    Năm 626 BC, đế quốc Assari bị mất vào tay người Babylon

    4- 587 BC: Vua Babylon là Nebuchadnezzar xua quân chiếm thành Jerusalem, phá đền thánh và đày dân Do Thái qua Babylon. Năm này là năm bắt đầu của một thời đại lâu dài của Do Thái dưới sự cai trị của các thế lực ngoại bang.


    [​IMG]


    Hình 2.- Đế quốc Babylon


    5- 538-333 BC: Do Thái chịu sự đô hộ của đế quốc Persia
    Từ Babylon, dân lưu đày Do Thái trở về cố quốc xây đền thánh thứ hai (520-515 BC).


    [​IMG]


    Hình 3.- Đế quốc Persia


    6- 333-63 BC: Do Thái chịu sự đô hộ của đế quốc Hy lạp (Macedon)
    Vua Alexandre the Great xua quân chiếm Do Thái năm 333 BC. Vua để cho nước Do Thái tự trị, nhưng vào thời vua Antiochus IV, đền thánh bị vua làm ô uế (desecrated). Vì biến cố này, Maccabes (người Do Thái) khởi nghĩa (168 BC) thành công đem lại độc lập cho đất nước mình. Hiện bây giờ người Do Thái kỷ niệm cuộc khởi nghĩa này trong ngày lễ Hanukah.


    [​IMG]


    Hình 4.- Đế quốc Macedon trong triều đại Alexandre the Great


    7- 63 BC - 313 AD: Do Thái chịu sự cai trị của đế quốc La Mã
    Tướng Titus của La Mã xua quân chiếm Do Thái vào năm 70 AD, phá hủy đền thánh toàn diện, đúng theo lời tiên tri của Chúa Jesus. Sau đó, người Do Thái bị đi đày nhiều nơi. Năm 132 AD, Bar Kokhba làm cách mạng để lật đổ người La Mã, nhưng bị tử trận tại Bethar. Vì cuộc nổi loạn này nên người La Mã chia vụn cộng đồng Do Thái ra, đổi tên Jerusalem là Aelia Capitolina và Judae là Palaestina với mục đích đem nước Do Thái vào quên lãng. Sau cuộc lưu đày do người La-Mã, người Do Thái di dân khắp nơi tại Âu Châu và Bắc Phi.


    [​IMG]

    Hình 5.- Đế quốc Roma (La Mã)


    8- 313-636: Đất Do Thái bị đế quốc Byzantine chiếm hữu


    [​IMG]


    Hình 6.- Đế quốc Byzantine


    9- 636-1099: Đất Do Thái bị người Ả rập chiếm hữu
    Caliph Abd el-Malik xây đền thờ Hồi Giáo, Dome of the Rock (vẫn còn cho đến ngày hôm nay) trên mãnh đất của đền thánh cũ.

    10- 1099-1291: Đất Do Thái bị quân thập tự chiếm hữu
    Giáo Hoàng Urban II xua quân thập tự (crusaders) từ Âu Châu chiếm đất thánh. Quân thập tự tàn sát những người không phải là Công Giáo. Sau đó, dân số Do Thái tại Jerusalem gia tăng do người Do Thái tại Âu Châu hồi hương.

    11- 1291-1516: Do Thái bị người Mamluk chiếm hữu

    12- 1516-1918: Do Thái bị đế quốc Ottoman chiếm hữu.
    Trong triều đại Sultan Suleiman the Magnificent (1520-1566), các tường thành của Cố Đô Jerusalem được tái thiết. Dân số Do Thái tại Jerusalem từ từ gia tăng thêm nữa.


    [​IMG]


    Hình 7.- Đế quốc Ottoman


    13- 1917-1948: Do Thái bị đế quốc Anh chiếm hữu
    Trước khi Israel tuyên bố độc lập, đất Israel và nước Jordan bây giờ nằm trong thuộc địa Palestine của Anh. Người sống trong thuộc địa này gọi là người Palestine.

    Ngày 14, tháng 5, năm 1948, ngày mà người lính Anh cuối cùng rời bỏ Israel, cộng đồng người Do Thái tại Do Thái, dưới sự lãnh đạo của David Ben-Gurion tuyên ngôn độc lập. Quốc gia mới này được sự công nhận của Mỹ. Ba ngày sau đó Israel được sự công nhận của Liên Bang Xô Viết.

    14- Chiến tranh với người Ả rập:

    14.1- Chiến tranh độc lập (1948): Chiến tranh xẩy ra ngay sau khi Do Thái tuyên bố độc lập. Năm nước Ả Rập xua quân tấn công Do Thái là Egypt, Syria, Transjordan, Lebanon and Iraq. Quân đội Do Thái thắng cuộc chiến tranh này.

    14.2- Chiến tranh bán đảo Sinai (1956): Anh, Pháp và Israel liên hiệp chống lại Egypt về quyền sử dụng kinh đào Suez. Nga hăm dọa sẽ đứng vào phe Egypt. Vì sợ chiến tranh lan rộng, Mỹ ép Anh, Pháp và Israel rút lui. Sau vụ này, thủ tướng Anh quốc, Anthony Eden từ chức. Trong cuộc chiến tranh này, Egypt dành phần thắng về mặt ngoại giao.

    14.3- Chiến tranh 6 ngày (1967): Chiến tranh giữa Israel và Egypt, Jordan và Syria. Do Thái lấy Gaza từ tay Egypt, lấy Đông Jerusalem và Bờ Tây từ Jordan, và lấy Golan Heights từ Syria. Đây là lần đầu tiên sau năm 1948, Israel lấy lại phần đất của đền thánh cũ (nay có đền thờ Hồi Giáo, Dome of the Rock) để thống nhất Jesuralem. Jerusalem ngày nay là một thành phố thống nhất về chính trị, là thủ đô của Quốc Gia Israel. Về tôn giáo và văn hoá, đó là nơi gặp gỡ của ba tôn giáo lớn: Do Thái Giáo, Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo. Tuy nhiên, khu đất trên đó đền thánh Jerusalem được vua Solomon xây, bị vua Babylon phá hủy, được xây lại, rồi bị quân La Mã phá hủy, nay là đền Hồi Giáo, Dome of the Rock.

    14.4- Chiến tranh Yom Kippur (1973): Vào ngày 6 tháng 10, Egypt và Syria tấn công Israel một cách bất ngờ. Mặc dù chiến thắng trên chiến trường, Israel kể như thua cuộc về mặt quân sự và ngoại giao.

    15- Rút quân khỏi giãi Gaza (ngày 12, tháng 9, năm 2005):
    Do sức ép của các cường quốc trong đó có Mỹ, Do Thái rút quân khỏi Gaza mà họ chiếm trong trận chiến tranh sáu ngày.
  2. moitoanh

    moitoanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2004
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    DO THÁI GIÁO
    CHÚA TỂ LÀ MỘT
    Toàn thế giới biết đến người Do Thái. Cuộc đời nay đây mai đó mang họ đi khắp trái đất. Họ mang theo tôn giáo của họ mà hầu hết những người Do Thái trung thành mãnh liệt với tôn giáo của họ. Khi mặt trời lặn vào lúc bắt đầu lễ Sabbath, nhiều triệu người Do Thái bắt đầu ngày nghỉ và thờ phượng. Số người của họ không nhiều so với tổng dân số trên thế giới. Nhưng thành công mà người Do Thái đã tạo dựng trên thế giới lại rất rộng lớn và có ý nghĩa đáng kể.
    Do Thái Giáo là "tôn giáo mẹ" của cả Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo. Ba tôn giáo này là những tôn giáo chính của thế giới Tây Phương. Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo thừa hưởng những khái niệm tôn giáo, luân lý và tu tập từ Do Thái Giáo. Nếu một sử gia không lưu ý đến việc đóng góp của người Do Thái vào việc phát triển văn minh Tây Phương, thì sử gia ấy không thể viết về quá khứ của nó và hiểu biết hiện tại của nó.
    Do Thái không thuộc một giống người nào. Đời sống lang thang khắp trái đất của họ khiến cho việc này không thể xẩy ra. Hàng ngàn năm qua, họ là một nhóm các bộ lạc, gọi là Hê Brơ (Hebrews). Bây giờ từ "Do Thái" áp dụng đúng cho bất cứ ai là người có niềm tin Do Thái. Nói về mặt quốc gia, người Do Thái là người Đức, Ả Rập, Mỹ, và hầu hết mọi thứ người khác.
    Mặc dù quê hương dân tộc trải rộng, người Do Thái vẫn giữ được nhiều thời đại ý thức gần gũi nhau Họ đã làm việc này bằng cách thực hiện cẩn thận giới luật tôn giáo của họ. Họ đã làm việc này do nhấn mạnh có một mục đích duy nhất chân lý mà họ gọi là Shema: "Hãy nghe đây này người Do Thái, Vị Chúa tể Thượng Đế chúng ta, Chúa tể là Một". Đây là điểm chính yếu trong mỗi khóa lễ tôn giáo Do Thái. Hơn thế nữa, nó là điểm mấu chốt của Do Thái Giáo.
    MỘT THƯỢNG ĐẾ
    Những người Hebrews thời cổ tìm cách hiểu ý nghĩa và mục đích cuộc đời, giống như những nhà hiền triết cổ Ấn Độ và Trung Hoa. Vì băn khoăn đó, người Hebrews từ lâu cảm thấy sự quan hệ đặc biệt với trung tâm vũ trụ. Truyền thống Do Thái nói người ấy là Abraham. Abraham tin vào thượng đế riêng. Ngài đặc biệt quan tâm đến số phận và mơ ước của mình. Người Do Thái vẫn tôn kính người huyền thoại này như người cha dân tộc. Những người khác tiếp nhận niềm tin của Ngài và tìm thấy trong đó những câu trả lời cho những câu hỏi riêng của họ về thế giới.
    Cuối cùng, xuất hiện một nhân vật vĩ đại, Moses. Ngài làm rõ ràng và sáng tỏ khái niệm về một thượng đế riêng. Ngài tin rằng thượng đế đã đồng ý đặc biệt với Abraham và với tất cả những người nối dõi. Những người này đã hứa trung thành và tận tâm. Đổi lại, Thượng Đế tạo cho họ một quốc gia hùng mạnh.
    Dân Do Thái theo truyền thống vẫn tin rằng Thượng Đế đã tiết lộ những qui luật lệ của đời sống cho Moses tại Núi Sinai. Họ coi Moses là người sáng lập ra tôn giáo của họ. Họ công nhận Moses có công cho họ những thâu thập quan trọng về những luật lệ tu tập, đối xử và ăn uống theo tôn giáo. Moses là nhà lãnh đạo được Thượng Đế chọn để giải thoát người Hebrews khỏi sự nô lệ ở một nước xa lạ thành đất của chính họ.
    Những niềm tin như vậy căn cứ vào chuyện cổ tìm thấy trong Sách Genesis (Cuốn "Chúa Tạo Ra Thế Giới") và Exodus (Sự rời khỏi Ai Cập của người Do Thái). Như nhiều học giả Do Thái lúc nào cũng sẵn sàng lưu ý, những chuyện này không thể được cho là lịch sử theo nghĩa đen. Những huyền thoại này cuối cùng được viết lại sau nhiều thế kỷ tồn tại trong ký ức của người Hebrews, những người đã kể lại chúng hết từ thế hệ này đến thế hệ khác. Những huyền thoại cho thấy lúc đầu Thượng Đế là một thượng đế thuộc bộ lạc, người bảo vệ và ân nhân của người Hebrews, con cháu Abraham. Thượng Đế được biết đến và được thờ phượng bởi Abraham, người con Isaac và người cháu Jacob sau này được gọi là Israel (Do Thái).
    Dần dà Người Hebrews - Do Thái tin chắc thượng đế bộ lạc ấy chỉ là một Thượng Đế duy nhất của tất cả sáng tạo. Đương nhiên, tiến trình này mất nhiều thời gian hết thế kỷ này đến thế kỷ khác, qua những thời kỳ của những nhà lãnh đạo lớn người Hebrews -- những người cha bộ lạc, Moses, David và những hoàng đế khác, Isaiah và phần còn lại của các nhà tiên tri. Dần đà dân chúng đạt đến một quan niệm toàn diện có lẽ đã không có lúc khởi thủy khi còn là những bộ lạc lang thang nay đây mai đó.
    Nhưng bây giờ, qua 2500 năm, sự khẳng định quan trọng nhất của Do Thái Giáo đã là: "...Vị Chúa tể Thượng Đế của chúng ta, Vị Chúa tể là Một." Sự phát triển thờ phượng một Thượng Đế phản ảnh những kinh nghiệm và tính khí độc đáo của người Do Thái. Trong đường lối riêng, họ đi đến kết luận mà tất cả những tôn giáo hiện tiền ngày nay chia sẻ: nằm dưới sự đa dạng vô tận mà chúng ta thấy trong đời sống là một mục tiêu, một thực tại.
    Đã từ lâu, Người Do Thái thấy chẳng có gì quan trọng trong việc thảo luận về bản chất của Thượng Đế. Thượng Đế hiện hữu, Ngài là Một, Ngài là thực tại. Cả đến ngày nay, không có lấy một tín ngưỡng mô tả những đặc tính của Thượng Đế. (Chân lý) Shema là đủ.
    Tuy nhiên một số giáo sĩ Do Thái và triết gia đã lưu ý đến việc mô tả những đức tính của Thượng Đế dù rằng không một người Do Thái nào đã từng đòi hỏi xác nhận khái niệm này. Thượng Đế ngay thẳng. Ngài là Đấng Sáng Tạo. Ngài là tinh thần. Thượng Đế là người sẵn sàng giúp đỡ con người, cung cấp phương tiện cho con người có thể tự cứu mình khỏi những hạn chế của ngu muội và tội lỗi. Thượng Đế đã tạo ra con người như con Ngài; bởi vậy, họ phản ảnh bản chất của Ngài.
    CHÍNH TRỰC
    Không một người Do Thái nào có thể nói là yêu Thượng Đế, trừ phi người ấy có quan hệ thương yêu với người láng giềng. Người láng giềng gồm cả người thuộc chủng tộc khác hay người lạ trên đất nước của mình, người xa lạ này được đối xử như người Do Thái đối xử với người đồng chủng. Hơn thế nữa, người Do Thái được đòi hỏi phải làm:"... thương yêu người láng giềng như thương yêu chính mình".
    Sau đó rất lâu khi điều này được viết ra, một người nào đó đã đưa ra thách thức tới giáo sĩ nổi tiếng Hillel sống và dạy học vào cùng thời với Jesus. Người thách thức đòi giáo sĩ hãy nói tất cả những gì quan trọng về Do Thái Giáo trong khoảng thời gian một con người có thể đứng bằng một chân. Giáo sĩ Hillel tuyên bố:"Cái có hại cho ngươi, không có hại cho người láng giềng. Đây là toàn bộ học thuyết. Phần còn lại chỉ là lời dẫn giải. Bây giờ hãy tiến lên và học hỏi".
    Ngay thẳng quan trọng đối với người Do Thái đến nỗi chúng ta có thể nói người Do Thái có hai mối quan tâm giống nhau -- tính chất duy nhất của Thượng Đế và tính ngay thẳng của con người. Không khó khăn gì đối với con người khi đi theo luật lệ và ý Thượng Đế. Được tạo ra theo hình ảnh của Thượng Đế, chúng ta có khả năng tự nhiên học hỏi về điều thiện. Người Do Thái nói rằng không làm được điều phải, là chối bỏ bản chất của chính bạn.
    LUẬT LỆ
    Thường thường người Do Thái coi Thượng Đế như người đưa ra luật cho dân tộc họ. Luật lệ mà Thượng Đế ban ra được gọi là Torah, có nghĩa là lời "giáo huấn". Torah gồm có năm cuốn đôi khi được gọi là Pentateuch (Năm quyển đầu của Kinh Cựu Ước). Những cuốn này là Genesis (Chúa Sáng Tạo Ra Thế Giới), Exodus (Sự Rời Khỏi Ai Cập), Leviticus (Phép Tắc của Tu Sĩ), Numbers (Kinh Điển Do Thái và Cơ Đốc), và Deuteronomy (Luật Moses và Chuyện Kể). Tất cả những người Do Thái đều được khuyến khích nghiên cứu những cuốn sách ấy. Toàn bộ Torah thường được đọc đều đặn mỗi năm trong những giáo đường Do Thái, và một phần trơng mỗi lễ Sabbath.
    Torah chứa đựng những huyền thoại về nguồn gốc của chính nó. Theo những huyền thoại này, Thượng Đế trao Luật cho Moses tại núi Sinai, trong khi người Hebrews cắm trại tại vùng hoang dã sau khi thoát khỏi Ai Cập. Tại đây người Hebrews khẳng định lại với Thượng Đế, hứa tuân theo luật của Ngài. Truyền thống kể thêm rằng Thượng Đế nói về Mười Điều Răn mà người ta tìm thấy ở Chương hai mươi trong Exodus.
    Có rất nhiều điều răn, chắc chắn là hơn sáu trăm cả thảy. Những điều răn nói về nhiều đề tài: chế độ ăn uống, tội ác và hình phạt, tu tập, ngày lễ, và sự quan hệ của con người. Nhiều người Do Thái là những người đầu tiên khẳng định những luật này không thể được làm cùng một nơi và một lúc. Thực tế họ có một tập sưu tầm về luật mà người Hê Brơ - Do Thái trình bày có hệ thống một thời kỳ nhiều năm cùng chung sống.
    Trong Kinh Thánh Do Thái, phần hai được gọi là "Những nhà Tiên Tri". Nhiều người tin rằng đỉnh cao của tư tưởng và hiểu biết Do Thái đã đạt được trong giáo huấn của những nhà tiên tri. Những nhà tiên tri không nói trước tương lai; họ "có nói" cho Thượng Đế. Trước nhất họ là phát ngôn viên cho Thượng Đế, cảnh báo những hậu quả tàn khốc nếu ý Thượng Đế không được tuân theo.
    Chính những nhà tiên tri này cố gắng trình bày cho người dân thấy sự tận tâm với Thượng Đế không chỉ nằm trong việc đi theo luật trong chi tiết nhỏ nhất. Tại sao con người phải bận tâm về về việc tuân thủ chi tiết hơn sáu trăm luật? Sự tận tâm nằm trong việc gìn giữ tinh thần của Luật.
    Theo Isaiah, đây là thuộc tính của người đã cân nhắc tinh thần của luật. Đó là:
    - Người bước thẳng và nói thành thực
    - Khinh miệt lợi lộc giành được bằng áp bức
    - Không nhúng tay vào của đút lót
    - Không chịu nghe tiếng chém giết
    - Không chịu đứng nhìn tội lỗi.
    Nhà tiên tri Micah rút gọn những luật lệ quan trọng thành ba trong lời tuyên bố nổi tiếng về nhiệm vụ tinh thần của một người:
    Ngươi đã được bảo, này con người, thế nào là thiện
    Và Chúa đòi hỏi gì ở nơi ngươi:
    Chỉ thực hiện sự công bằng, và yêu điều tốt đẹp
    Và khiêm tốn đi cùng với Thượng Đế của ngươi.
    Với Amos, (nhà tiên tri người Hê Brơ ở thế kỷ 8 trước Công Nguyên), tinh thần của Luật là: "Hãy tìm Chúa, Bạn có thể sống".
    Tuy vậy Chương Ba của Kinh Thánh Do Thái ai cũng biết là "Những Tác Phẩm". Nó gồm có những sách sử kể lại những cuộc phiêu lưu của người Hê Brơ-Do Thái và hiểu biết thế giới ngày càng tăng của họ. Nó cũng gồm có những bài thánh ca và những tập thi văn khác. Trong khi những thứ này không được coi là Luật căn bản như năm cuốn đầu, chúng vẫn nằm trong tinh thần của Luật.
    Những người Do Thái đương đại không chỉ dựa vào ba chương này trong tác phẩm thiêng liêng của họ. Có một số tác phẩm khác không phải là một phần của Thánh Kinh, nhưng được tôn thờ sau Kinh Thánh. Đó là Talmud. Talmud trên thực tế chính là sự mở rộng của Torah được viết trong nhiều thế kỷ sau khi các tác phẩm khác được hoàn tất. Talmud xuất hiện để đáp ứng những điều kiện mà người Do Thái phải đương đầu trong những thời kỳ sau này. Khi chỗ ở và môi trường chung quanh thay đổi, nhu cầu tôn giáo và văn hóa thay đổi. Luật lệ gia tăng vì nhu cầu mới. Những điều này được truyền miệng từ thế hệ này đến thế hệ kia. Thỉnh thoảng, những giáo sĩ có học thức bình luận về những luật truyền khẩu này và những luật thành văn trước đó, tìm cách giải thích lại chúng vì thời buổi thay đổi.
    Do sự bình luận không ngừng như vậy về truyền thống quá khứ và những luật dưới ánh sáng của tình thế mới, Luật của Do Thái Giáo vẫn còn tồn tại. Người Do Thái đương đại có thể thích nghi một cách sáng tạo trước những đòi hỏi không bao giờ tưởng tượng được bởi Moses hay những bậc thầy lớn khác thời thượng cổ.
    PHẬN SỰ CỦA NGƯỜI DO THÁI
    Truyền thuyết cổ về sự đồng ý đặc biệt giữa Thượng Đế và người Hê Brơ đã làm nhiều người Do Thái tin là Thượng Đế đã chọn họ là những người được ưa chuộng hơn tất cả các dân tộc khác trên trái đất. Họ cảm thấy họ có đặc quyền, và một số coi những dân tộc khác như hạ cấp. Tuy nhiên, những vị thầy sau này đã giải thích khái niệm "chọn lựa" theo một cách khác. Họ nói rằng người Do Thái được chọn lựa để phụng sự Chúa và dạy người khác về một Thượng Đế của tất cả thế giới.
    Vẫn còn có một số Do Thái khăng khăng nghĩ về tính độc quyền. Điều này khiến các nhà tiên tri rất quan tâm. Hãy nghe một nhà tiên tri xa xưa cố sửa chữa những khái niệm lầm lẫn của họ:
    "Phải chăng bạn không giống những người Ethiopians dưới mắt tôi,
    Này những người Do Thái "; phải chăng lời tiên tri của Chúa.
    "Ta đã không nuôi dưỡng người Do Thái từ đất nước Ai Cập,
    Cũng như người Philistines từ Caphtor và người Syrians từ Kir?"
    Một nhà tiên tri vô danh trình bày Thượng Đế của họ là Thượng Đế của tất cả các dân tộc. Nhà tiên tri này trích dẫn lời Thượng Đế nói: "Diễm phúc thay Ai Cập dân tộc của ta, và Assyria tác phẩm của bàn tay ta, và Do Thái di sản của ta". Nhiều người Do Thái thời ấy cho rằng toàn bộ cuốn Jonah chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và khái niệm "dân tộc được chọn lựa"
    Lúc nào cũng có nhiều người Do Thái hành động theo sự nhấn mạnh của những nhà tiên tri. Những người Do Thái này không bao giờ tin họ là những người được chọn lựa một cách thiêng liêng hơn các dân tộc khác. Có người Do Thái truyền thống khoan dung với những tín đồ tôn giáo khác. Tính kiên nhẫn và sự chịu đựng của họ trong vấn đề tôn giáo rất gần gũi với quan điểm của người Ấn Giáo và Phật Giáo thành thật.
    Về khái niệm Thương Đế và Luật của họ, người Do Thái tìm thấy giá trị quý nhất của họ. Vì những điều ấy, họ cảm thấy được nhiều may mắn. Nhưng hầu hết không tin rằng sự phù hộ chỉ dành riêng cho họ. Những người khác cũng tìm thấy giá trị trong ý niệm của riêng họ, và người Do Thái chấp nhận khác biệt này cho thêm phong phú. Về phần họ, người Do Thái không mong muốn thuyết phục người khác về tôn giáo của họ. Đó không phải là cách cứu rỗi. Đó là lối sống. Và tuy có nhiều người đổi sang Do Thái Giáo, nhưng người Do Thái không bao giờ tích cực trong công việc đổi đạo người khác.
  3. moitoanh

    moitoanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2004
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    ĐẠO DO THÁI(tiếp)
    VƯƠNG QUỐC CỦA THƯỢNG ĐẾ
    Người Do Thái bao giờ cũng quan tâm đến tính ngay thẳng. Họ không bao giờ cảm thấy chính phủ hay đoàn thể như người ta biết về chúng, tốt bằng họ. Cho nên người Do Thái hy vọng sau này mọi người sẽ ngay thẳng và gia đình và xã hội sẽ phản ảnh tính ngay thẳng đó. Theo truyền thống những người Do Thái gọi thời tương lai này là "Vương Quốc của Thượng Đế". Sẽ đến lúc luật ngay thẳng của Thượng Đế mở rộng khắp thế giới.
    Những người Do Thái hiện đại và truyền thống có ý kiến khác nhau về việc điều đó sẽ đến như thế nào và điều đó sẽ là gì. Người Do Thái truyền thống vẫn nhắc tới Messiah, Đấng Cứu Tinh được chọn bởi Thượng Đế để đưa vào Vương Quốc này vì con người cho đến nay không thể làm việc đó một mình được.
    Những người Do Thái phóng túng thích nghĩ rằng mỗi người là một đấng cứu thế, người này làm bất cứ gì có thể để thúc đẩy sự nghiệp về tính ngay thẳng tiến bộ. Dần dần, Vương Quốc này sẽ tới.
    Niềm hy vọng của người Do Thái và Thiên Chúa Giáo về một trật tự đạo đức thế giới rất giống nhau -- dù rằng chúng được diễn đạt bằng những từ ngữ khác nhau. Và những người Do Thái tuyên bố rằng điều đó sẽ là cho tất cả mọi người vì họ tin rằng sự ngay thẳng của mọi quốc gia góp phần trong thế giới tương lai.
    Quan tâm nhiều đến cách sống đúng hiện nay và làm cho thế giới tốt lên của người Do Thái đã giảm bớt lo lắng về đời sống bên kia thế giới. Ngay trong số những người Do Thái cũng có những người không đồng ý về vấn đề này. Một số người Do Thái truyền thống vẫn tin vào đời sống bên kia thế giới gồm có thưởng phạt, phục sinh và tính vĩnh viễn trong Thiên đường hay Địa ngục Những người Do Thái phóng khoáng hơn lại không coi những đức tin này là quan trọng. Dù họ tin rằng đặc tính của cá tính (hay linh hồn) không thể chết, nhưng họ cũng không cần lo tạo ra những lý thuyết về việc ấy. Đối với họ, cuộc đời này là cách sống, cái đó mới chính là quan trọng. Làm điều phải ngay bây giờ có giá trị hơn là tin vào cái gì. Nhiều người Do Thái cảm thấy hối cải và những hành vi tốt trong một giờ ở thế giới này còn tốt hơn là toàn bộ đời sống ở thế giới tương lai.
    MIỀN ĐẤT HỨA
    Người Do Thái được thế giới biết đến là nhừng người nay ở chỗ này mai ở chỗ khác. Hơn hai ngàn năm trước đây, những biến chuyển trên thế giới khiến họ không có một ngôi nhà vĩnh viễn và họ bị đẩy đi lang thang trên trái đất. Bất kỳ họ định cư nơi nào, họ vẫn tiếp tục truyền thống của họ và sự thờ phượng Thượng Đế. Thường thường họ cùng nhau sống trong cộng đồng của họ, để họ có thể duy trì tốt hơn những ngày lễ và những luật lệ về chế độ ăn uống.
    Người khác thấy người Do Thái sống khác và đôi khi khó hiểu. Những dị biệt khiến một số người phàn nàn, và thậm chí ngược đãi người Do Thái. Người Do Thái đã bị đối xử rất khắc nghiệt bởi những người láng giềng hơn bất cứ một tôn giáo nào khác. Đặc biệt người Thiên Chúa Giáo kết tội người Do Thái đã giết chết Đức Jesus -- và đã phạm tội ngược đãi như vậy. Đến tận ngày nay, có những nhà lãnh đạo không đắn đo biến người Do Thái trở thành kẻ dơ đầu chịu, gây hận thù đối với người Do Thái. Tại sao người Do Thái lại bi cư xử như thế là một vấn đề nghiêm trọng vẫn còn liên quan đến những người học lịch sử, xã hội học, nhân chủng học, và tôn giáo.
    Họ buộc phải chịu sự cô lập, và sự ngược đãi bởi láng giềng qua nhiều năm khiến người Do Thái phải dựa vào lẫn nhau và dựa vào truyền thống nhiều hơn. Hơn hai ngàn năm, họ đã nhớ lời hứa xa xưa của Thượng Đế về mảnh đất phải là của họ. Đó là huyền thoại về miền đất hứa được tìm kiếm bởi những người Hê Brơ bỏ Ai Cập dưới sự lãnh đạo của Moses. Mảnh đất này đã một thời gian là của họ, nhưng đã bị xâm chiếm bởi hết quốc gia này đến quốc gia khác, chỉ để rồi cuối cùng bị đuổi ra khỏi miền đất này.
    Nhiều người Do Thái vẫn tiếp tục hy vọng một lần nữa đất của Palestine sẽ là của họ. Để giúp mang hòa bình cho mảnh đất tranh chấp gây ra bạo động giữa những người Do Thái cực đoan nhất gọi là Zionist (người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái), và những kẻ thù truyền kiếp của của họ, người Ả Rập, vào năm 1948 Liên Hiệp Quốc chấp thuận chia một phần Palestine cho Do Thái và một phần Jordan cho người Ả Rập. Đương nhiên, những biên giới độc đoán này đã không thể giải quyết hoàn toàn sự thù địch lâu đời, trở nên phức tạp hơn bởi sự kiện cả hai quốc gia đều tuyên bố Jerusalem là của mình, thành phố thần thánh của Hồi Giáo, cũng như Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo. Liên Hiệp Quốc chấp thuận nghị quyết quốc tế hóa thị xã này nhưng không được Do Thái lẫn Jordan ủng hộ. Rồi, thành phố này vẫn cón là mảnh đất bị phân chia. Lý do để cay đắng hơn là nhiều người Do Thái phải bỏ nhà trên phần biên giới Jordan, và nhiều người Ả Rập phải di chuyển từ phần đất Do Thái khi vùng này bị chia cắt. Hiện nay hồ như có một sự hòa bình không thân thiện giữa các quốc gia; nhưng căng thẳng càng sâu xa.
    Do Thái đã mở cửa cho tất cả những người Do Thái trên thế giới. Tuy nhiên có thể còn quá sớm để thấy điều gì sẽ ảnh hưởng đến Do Thái Giáo đã từ bao thế kỷ dài không có quê hương cho chính mình. Nhiều người Do Thái không coi quốc gia mới thực sự quan trọng đối với tôn giáo, vì họ tin rằng đời sống tôn giáo của họ có thể sống được ở bất kỳ nơi đâu mà họ là người biết mình. Sự thờ phượng Do Thái không dựa vào tổ quốc.
    GIÁO ĐOÀN DO THÁI
    Không có một nhà lãnh đạo trung tâm nào trong Do Thái Giáo. Mỗi giáo đoàn đều tự trị. Giáo sĩ là những cư sĩ - không phải là thầy tu. Các giáo sĩ dạy dân và cố gắng làm sáng tỏ Luật. Giáo sĩ không nói với Thượng Đế hộ người dân. Dân chúng là các thầy tu của chính họ, họ thờ phượng Thượng Đế cho chính họ.
    Trong một thời gian dài, tất cả những người Do Thái đều là "chính thống" nghĩa là họ đều tuân theo những luật lệ ghi trong kinh thánh theo sự hiểu biết và khả năng tốt nhất của họ. Nhưng những sức ép và thay đổi trong đời sống hiện đại đã làm điều đó ngày càng khó khăn. Một số tin là nhận thức thế giới hiện đại đòi hỏi thay đổi biểu hiện cá nhân trong tu tập tôn giáo. Cho nên, ở thời đại tương đối hiện đại, nhiều người Do Thái đã rời bỏ những giải thích nghiêm ngặt về niềm tin, luân lý, và cách tu tập của cha ông.
    Do Thái Giáo Chính Thống: Những ai vẫn cố gắng trung thành với truyền thống cổ để được giải thích một cách nghiêm ngặt, được coi là người Do Thái "Chính Thống". Họ coi toàn bộ kinh Torah đã được thôi thúc một cách tuyệt diệu và được tiết lộ bởi Thượng Đế cho Moses. Họ giữ tất cả những luật của Moses, gồm có những hạn định về ăn uống và những hạn chế nghiêm ngặt trong lễ Sabbath. Họ dùng tiếng Hebrews trong tất cả những buổi lễ tại giáo đường Do Thái. Những trường học đặc biệt do họ hỗ trợ dạy con cái họ về lịch sử Do Thái và nguồn gốc của tiếng Hebrew. Nhiều người Do Thái Chính Thống vẫn trông chờ Messiah đích thân xuất hiện.
    Do Thái Giáo Bảo Thủ: Những người Do Thái "Bảo Thủ" là những người tôn trọng và tôn kính Torah, nhưng họ tin vào sự giải thích Torah qua sự nghiên cứu uyên bác thời hiện đại về kinh thánh để hiểu rõ hơn. Họ tin rằng tiếp tục dạng thờ phượng truyền thống là quan trọng với sự dùng tiếng Hebrew trong các buổi lễ. Vào ngày lễ Sabbath, họ chỉ làm việc thật cần thiết, và họ cố gắng làm cho nó trở thành ngày cầu nguyện.
    Do Thái Giáo Cải Cách: Một phong trào hiện đại của Mỹ Quốc đã lôi cuốn nhiều người Do Thái vào xứ này. Đó là Do Thái Giáo Cải Cách và nó là kết quả của sự cố gắng áp dụng Do Thái Giáo vào đời sống Tây Phương ở thế kỷ hai mươi này. Những người Do Thái Giáo cải cách đọc Kinh Torah với sự đánh giá chân lý của nó như đã được xác định bằng sự đồng ý với lẽ phải và kinh nghiệm. Toàn bộ truyền thống của dân tộc là điều họ kính trọng. Sự thờ phượng cũng giống như các nhà thờ Thiên Chúa Giáo Tin Lành. Các gia đình cùng nhau ngồi trong các buổi lễ gồm nhạc đàn ống và các đội hợp ca, với nghi thức tế lễ bằng tiếng Hebrew, nhưng thuyết giảng bằng Anh ngữ. Cả trai lẫn gái đều được làm lễ kiên tín.
    NHỮNG BÀI HỌC CỦA DO THÁI GIÁO
    Những bậc thầy lớn của Do Thái Giáo đã góp phần to lớn vào tư tưởng tôn giáo của con người. Họ dạy thương yêu Thượng Đế và cùng đi với người đồng loại. Đời sống là một giống như Thượng Đế chỉ có một. Tự do, phẩm giá, và trách nhiệm của mỗi người có gốc rễ ở chính bản chất của vũ trụ. Bởi vậy chắc chắn là, nếu đời sống của ta được đáp ứng thỏa mãn thì ta phải thương yêu người láng giềng như chính mình. Có được điều này là do thương yêu Thượng Đế "với tất cả tâm ý, với tất cả linh hồn, và với tất cả những gì mà bạn có thể".
    Người Do Thái tán thành là chúng ta không thể biết câu trả lời cuối cùng về những điều huyền bí của đời sống và Thượng Đế. Nhưng người Do Thái tuyên bố rằng trong cái thiện của các lối sống ngay thẳng, cái thiện của Thượng Đế được biết như sau:
    Ôi lạy Chúa, làm sao chúng tôi có thể biết Người? Nơi đâu tôi có thể tìm thấy Người? Người gần gũi với chúng tôi như hơi thở nhưng Người cũng xa chúng tôi hơn ngôi sao tít đàng xa. Người huyền bí như sự tịch mịch mênh mông trong đêm trường nhưng Người cũng thân thuộc với chúng tôi như ánh sáng mặt trời. Đối với nhà tiên tri thời cổ, Người không nói: Người không thể nhìn thấy mặt tôi, nhưng tôi sẽ làm cho tất cả điều thiện của tôi đến trước mặt Người. Dù vậy Người làm cho điều thiện đến trước chúng tôi trong lĩnh vực của thiên nhiên và trong hàng loạt kinh nghiệm về đời sống của chúng tôi. Khi công lý bừng cháy giống như ngọn lửa mãnh liệt trong lòng chúng tôi, khi tình thương yêu đem lại sự sẵn sàng hy sinh của chúng tôi, và để đánh giá thật đầy đủ sự tận tâm quên mình khi chúng tôi tuyên bố niềm tin của chúng tôi vào chiến thắng cuối cùng của chân lý và công bình, chúng tôi không cúi chào trước vẻ đẹp lạ thường về điều thiện của Người? Người sống trong tâm chúng tôi như Người đã tỏa khắp thế giới và chúng tôi bằng sự ngay thẳng chiêm ngưỡng sự hiện diện của Người.
  4. moitoanh

    moitoanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2004
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    CHỦ NGHĨA BÀI DO THÁI
    Năm -> Biến cố
    70 -> Quân La-Mã tiến chiếm Jerusalem, phá hủy đền thánh
    135 -> Bar Kokhba, làm cách mạng lật đổ người La-mã, bị giết. Người La-mã tàn sát người Do Thái, số sống sót chạy qua các nước Ả- rập, hoặc bị bán làm nô lệ đi các nước khác
    138-161-> Dưới triều đại vua La-mã Antoninus Pius, sự bắt bớ dân Do Thái chấm dứt
    211-217 -> Dưới triều đại vua La-mã Caracalla, dân Do Thái được quyền công dân
    306-337 -> Sau khi Constatine "cải đạo" các quyền tự do của người Do Thái bắt đầu bị hạn chế dần dần. Constantine cấm chủ nhân Do Thái cắt bì cho nô lệ/đầy tớ người Công Giáo
    337-350 -> Vua Constans I ra luật tử hình người Do Thái nào kết hôn với người Công giáo
    518 -> Vua Byzantine ra luật chống Do Thái rất mạnh mẽ
    517 -> Dưới triều vua Sigismund, nước Burgundy, sự thù hằn người Do Thái bắt đầu xuất hiện
    554 -> Vua Childebert I (Pháp) cấm người Do Thái đi ra đường trong mùa Phục Sinh
    581 -> Chilperic bắt người Do Thái phải chịu phép rửa tội của Công Giáo
    629 -> Dagobert bắt người Do Thái phải chịu phép rửa tội của Công Giáo, nếu không bị trục xuất
    Cuối thế kỷ thứ 7 Vua Bồ Đào Nha cấm dân Do Thái mua đất và nhà, hoặc buôn bán với người Công giáo
    842-1056 -> Người Do Thái lại bị bắt bớ bởi các vua Byzantine và lãnh đạo Hồi giáo Abasside Caliph al-Motawakel
    855 -> Vua Louis II ra lệnh đuổi tất cả người Do Thái
    909-1171-> Dưới triều đại Hồi Giáo Fatimite (Bắc Phi, Ai cập và Syria), người Do Thái bị bắt bớ nặng nề
    1002-1024 -> Vua Henry II đuổi tất cả người Do Thái từ chối không chịu nhận lễ rửa tội của Công Giáo
    1096 -> Thập tự chinh quân (lần I, tổ chức bởi giáo hoàng Urban II) trên đường tiến về Jerusalem đã tàn sát người Do Thái tại Trier, Worms, Mainz, Cologne, Đức quốc và tận Hungary
    15/7/1099 -> Thập tự chinh quân tàn sát người Do Thái sau khi chiếm được Jerusalem
    1147-1149 -> Thập tự chinh quân (lần II) tàn sát người Do Thái tại Cologne, Mainz, Worms, Speyer và Strasburg. St. Giáo hoàng Eugenius II phản đối tội ác này.
    1171 -> Nhiều người Do Thái bị đốt sống tại Blois
    1179 -> Công đồng Lateran III tuyên bố bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của Do Thái
    1189-1192 -> Thập tự chinh quân (lần III) tàn sát người Do Thái lần nữa
    1212 -> Thập tự chinh quân (lần IV) tàn sát người Do Thái tại Toledo
    1215 -> Công đồng Lateran IV ra nhiều sắc luật bài Do Thái, như cấm người Do Thái làm việc trong các văn phòng công cộng, và bắt họ mang thẻ bài riêng
    1254 -> Tại Pháp, vua St. Louis đuổi gần hết người Do Thái
    1348-1349 -> Trong trận dịch "Tử Thần Đen" người Do Thái tại Âu Châu bị tàn sát vì bị đổ thừa là đổ thuốc độc trong các giếng nước của người Công Giáo
    Thế kỷ thứ 15 - > Người Do Thái tại Âu Châu bị tàn sát nhiều nơi tại Âu Châu
    1543 -> Martin Luther Xuất bản cuốn sách "The Jews and Their Lies" trong đó hằn học rủa sả người Do Thái không hết lời
    1555 -> Giáo hoàng Paul IV hồi phục các đạo luật trước kia cấm người Do Thái thực hành y khoa, buôn bán và mua bất động sản, phải ở trong vùng Do Thái, và mang thẻ bài
    1700 -> Từ năm 1700 trở đi, trong khoảng hai thế kỷ, người Do Thái không phải chịu các trận tàn sát như xưa, nhưng vẫn bị khinh dễ và bị đổ thừa cho mọi vấn đề xã hội
    1939-1945 -> Trong thế chiến thứ II, khoảng sáu triệu người Do Thái bị giết bởi Đức Quốc Xã.
    7/2004 -> Giáo hội Trưởng Lão Hoa Kỳ bỏ phiếu đồng thuận để rút tiền đầu tư ra khỏi các công ty đang làm ăn tại Israel.
  5. moitoanh

    moitoanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2004
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Một số nhân vật bài Do Thái nổi tiếng
    Tư tưởng bài Do Thái được thể hiện qua Martin Luther (1483?"1546), là nhà thần học Đức đã khởi xướng Phong trào Cải cách Đức, có tầm ảnh hưởng sâu rộng từ tôn giáo đến chính trị, kinh tế, giáo dục và ngôn ngữ, khiến cho ông trở thành một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Châu Âu. Tư tưởng của ông manh nha ý bài xích Do Thái tuy không dữ dội như xu hướng đả kích Thiên chúa giáo của ông. Tuy thế, giáo hội Lutheran mang tên ông không mang tư tưởng bài Do Thái.
    Tiến sĩ Karl Lueger (1844?"1910), chính trị gia và thị trưởng (1897?"1910) thủ đô Wien nước Áo, có những chính sách bài Do Thái và phân biệt chủng tộc. Lueger trở nên chính trị gia có ảnh hưởng mạnh nhất ở Áo lúc bấy giờ do tư cách có văn hóa và trình độ tri thức đáng kể. Những người chống đối ông, kể cả người Do Thái, phải công nhận ông là người tề chỉnh, có tinh thần hiệp sĩ, khoáng đạt và dễ dung thứ. Ngay cả nhà văn nổi tiếng Áo gốc Do Thái, Stefan Sweig, cũng có ý kiến thiện cảm về ông. Vì thế, có thể nói tư tưởng bài Do Thái của Lueger đạt mức độ tinh tế từ cảm quan của cá nhân, dễ thuyết phục người khác.
    Người bị thuyết phục mạnh mẽ nhất là Adolf Hitler khi ông này sống lang thang ở Wien trong thời tuổi trẻ. Chính Hitler nhìn nhận rằng tư tưởng bài xích người Do Thái manh nha từ những ngày ông ta sống ở Wien. Ông cho rằng người Do Thái là mầm mống của tệ nạn mại dâm và mua bán nô lệ da trằng. Ông bị ảnh hưởng sâu xa bởi sách báo ở Wien bài xích người Do Thái. Nhưng Hitler đưa tư tưởng bài Do Thái lên mức độ cao hơn khi cho rằng Lueger quá khoan dung và không thấy rõ vấn đề về chủng tộc của người Do Thái.
    Tư tưởng bài Do Thái được Đảng Lao động Đức, tiền thân của Đảng Quốc xã, thể hiện một cách chính thức trong cương lĩnh của đảng công bố ngày 24 tháng 2 năm 1920. Sau này, bản cương lĩnh trở nên chương trình hành động chính thức của Đảng Quốc xã.
    Trong quyển Mein Kampf, tư tưởng bài Do Thái của Hitler được trình bày rất rõ nét. Ông ta ngược dòng lịch sử để đánh giá cao sự vinh quang của Đế quốc Đức do Otto von Bismarck thiết lập năm 1871, nhưng phê phán rằng một trong những lý do khiến cho đế quốc này sụp đổ là việc dung dưỡng người Do Thái.
    Tuy thế, Hitler không phải là người đơn độc bài Do Thái một cách mù quáng. Nhiều nhân vật chủ chốt lúc đầu của Đảng Lao động Đức đã sẵn có tư tưởng này trong khi Hitler còn là nhân vật vô danh. Ví dụ điển hình là Dietrich Eckart, thường được xem là nhà sáng lập tinh thần của Quốc xã, cũng mang tư tưởng này ngay từ đầu. Tư tưởng bài Do Thái trở nên mù quáng và hàm hồ hơn khi trung ương đảng Lao động Đức, vì muốn tranh giành quyền lực với Hitler, năm 1921 đã kết án Hitler là người thân Do Thái!
    Vào thời kỳ này, nước Đức đã rộ lên phong trào bài Do Thái, điển hình là vào năm 1920, đảng Lao động Đức mua lại một tờ báo chuyên bài xích Do Thái và biến nó thành tờ báo tiếng nói chính thức của đảng. Vì thế, tư tưởng có tính cộng hưởng: xu hướng bài Do Thái của nhiều người Đức được Hitler lợi dụng khai thác, và đến phiên Hitler nhờ tài hùng biện lôi kéo thêm nhiều người Đức đi theo đường lối này.
    Suốt đời, Hitler vẫn là người bài xích Do Thái mù quáng và quá khích. Di chúc của ông, viết ra vài giờ trước khi chết, chứa đựng lời công kích cuối cùng đối với người Do Thái, cho là họ có trách nhiệm đối với cuộc chiến mà ông ta phát động.
  6. YoutaMoutechi

    YoutaMoutechi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2003
    Bài viết:
    967
    Đã được thích:
    0
    Bạn này nhầm box thì phải ? hay LSVH lại bị đóng cửa nhỉ ? Hay ở đấy cấm quote không ghi rõ nguồn văn bản ?
  7. taisa

    taisa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2005
    Bài viết:
    84
    Đã được thích:
    0
    There was a conspiracy between England, France, and Russia to slap down Germany. There isn''t one historian in the world who can find a valid reason why those three countries decided to wipe Germany off the map politically.
    When Germany realized that the Jews were responsible for her defeat, they naturally resented it. But not a hair on the head of any Jew was harmed. Not a single hair. Professor Tansill, of Georgetown University, who had access to all the secret papers of the State Department, wrote in his book, and quoted from a State Department document written by Hugo Schoenfelt, a Jew whom Cordell Hull sent to Europe in 1933 to investigate the so-called camps of political prisoners, who wrote back that he found them in very fine con***ion. They were in excellent shape, with everybody treated well. And they were filled with Communists. Well, a lot of them were Jews, because the Jews happened to comprise about 98 per cent of the Communists in Europe at that time. And there were some priests there, and ministers, and labor leaders, and Masons, and others who had international affiliations.
    Some background is in order: In 1918-1919 the Communists took over Bavaria for a few days. Rosa Luxemburg and Karl Liebknecht and a group of other Jews took over the government for three days. In fact, when the Kaiser ended the war he fled to Holland because he thought the Communists were going to take over Germany as they did Russia and that he was going to meet the same fate as the Czar. So he fled to Holland for safety, for security. After the Communist threat in Germany was quashed, the Jews were still working, trying to get back into their former status, and the Germans fought them in every way they could without hurting a single hair on anyone''s head. They fought them the same way that, in this country, the Prohibitionists fought anyone who was interested in liquor. They didn''t fight one another with pistols. Well, that''s the way they were fighting the Jews in Germany. And at that time, mind you, there were 80 to 90 million Germans, and there were only 460,000 Jews. About one half of one per cent of the population of Germany were Jews. And yet they controlled all the press, and they controlled most of the economy because they had come in with cheap money when the mark was devalued and bought up practically everything.
    The Jews tried to keep a lid on this fact. They didn''t want the world to really understand that they had sold out Germany, and that the Germans resented that.
    The Germans took appropriate action against the Jews. They, shall I say, discriminated against them wherever they could. They shunned them. The same way that we would shun the Chinese, or the Negroes, or the Catholics, or anyone in this country who had sold us out to an enemy and brought about our defeat.
    After a while, the Jews of the world called a meeting in Amsterdam. Jews from every country in the world attended this meeting in July 1933. And they said to Germany: "You fire Hitler, and you put every Jew back into his former position, whether he was a Communist or no matter what he was. You can''t treat us that way. And we, the Jews of the world, are serving an ultimatum upon you." You can imagine what the Germans told them. So what did the Jews do?
    In 1933, when Germany refused *****rrender to the world conference of Jews in Amsterdam, the conference broke up, and Mr. Samuel Untermyer, who was the head of the American delegation and the president of the whole conference, came to the United States and went from the steamer to the studios of the Columbia Broadcasting System and made a radio broadcast throughout the United States in which he in effect said, "The Jews of the world now declare a Holy War against Germany. We are now engaged in a sacred conflict against the Germans. And we are going to starve them in*****rrender. We are going to use a world-wide boycott against them. That will destroy them because they are dependent upon their export business." And it is a fact that two thirds of Germany''s food supply had to be imported, and it could only be imported with the proceeds of what they exported. So if Germany could not export, two thirds of Germany''s population would have to starve. There was just not enough food for more than one third of the population. Now in this declaration, which I have here, and which was printed in the New York Times on August 7, 1933, Mr. Samuel Untermyer boldly stated that "this economic boycott is our means of self-defense. President Roosevelt has advocated its use in the National Recovery Administration," which some of you may remember, where everybody was to be boycotted unless he followed the rules laid down by the New Deal, and which was declared unconstitutional by the Supreme Court of that time. Nevertheless, the Jews of the world declared a boycott against Germany, and it was so effective that you couldn''t find one thing in any store anywhere in the world with the words "made in Germany" on it. In fact, an executive of the Woolworth Company told me that they had to dump millions of dollars worth of crockery and dishes into the river; that their stores were boycotted if anyone came in and found a dish marked "made in Germany," they were picketed with signs saying "Hitler," "murderer," and so forth, something like these sit-ins that are taking place in the South. At a store belonging to the R. H. Macy chain, which was controlled by a family called Strauss who also happen to be Jews, a woman found stockings there which came from Chemnitz, marked "made in Germany." Well, they were cotton stockings and they may have been there 20 years, since I''ve been observing women''s legs for many years and it''s been a long time since I''ve seen any cotton stockings on them. I saw Macy''s boycotted, with hundreds of people walking around with signs saying "murderers," "Hitlerites," and so forth. Now up to that time, not one hair on the head of any Jew had been hurt in Germany. There was no suffering, there was no starvation, there was no murder, there was nothing.
    Naturally, the Germans said, "Who are these people to declare a boycott against us and throw all our people out of work, and make our industries come to a standstill? Who are they to do that to us?" They naturally resented it. Certainly they painted swastikas on stores owned by Jews. Why should a German go in and give his money to a storekeeper who was part of a boycott that was going to starve Germany in*****rrendering to the Jews of the world, who were going to dictate who their premier or chancellor was to be? Well, it was ridiculous.
    The boycott continued for some time, but it wasn''t until 1938, when a young Jew from Poland walked into the German embassy in Paris and shot a German official, that the Germans really started to get rough with the Jews in Germany. And you found them then breaking windows and having street fights and so forth.
    Now I don''t like to use the word "anti-Semitism" because it''s meaningless, but it means something to you still, so I''ll have to use it. The only reason that there was any feeling in Germany against Jews was that they were responsible for World War I and for this world-wide boycott. Ultimately they were also responsible for World War II, because after this thing got out of hand, it was absolutely necessary for the Jews and Germany to lock horns in a war to see which one was going *****rvive. In the meanwhile, I had lived in Germany, and I knew that the Germans had decided that Europe is going to be Christian or Communist: there is no in between. And the Germans decided they were going to keep it Christian if possible. And they started to re-arm. In November 1933 the United States recognized the Soviet Union. The Soviet Union was becoming very powerful, and Germany realized that "Our turn was going to come soon, unless we are strong." The same as we in this country are saying today, "Our turn is going to come soon, unless we are strong." Our government is spending 83 or 84 billion dollars for defense. Defense against whom? Defense against 40,000 little Jews in Moscow that took over Russia, and then, in their devious ways, took over control of many other countries of the world.
    For this country now to be on the verge of a Third World War, from which we cannot emerge a victor, is something that staggers my imagination. I know that nuclear bombs are measured in terms of megatons. A megaton is a term used to describe one million tons of TNT. Our nuclear bombs had a capacity of 10 megatons, or 10 million tons of TNT, when they were first developed. Now, the nuclear bombs that are being developed have a capacity of 200 megatons, and God knows how many megatons the nuclear bombs of the Soviet Union have.
    What do we face now? If we trigger a world war that may develop into a nuclear war, humanity is finished. Why might such a war take place? It will take place as the curtain goes up on Act 3: Act 1 was World War I, Act 2 was World War II, Act 3 is going to be World War III. The Jews of the world, the Zionists and their co-religionists everywhere, are determined that they are going to again use the United States to help them permanently retain Palestine as their foothold for their world government. That is just as true as I am standing here. Not alone have I read it, but many here have also read it, and it is known all over the world.
    What are we going to do? The life you save may be your son''s. Your boys may be on their way to that war tonight; and you don''t know it any more than you knew that in 1916 in London the Zionists made a deal with the British War Cabinet to send your sons to war in Europe. Did you know it at that time? Not a person in the United States knew it. You weren''t permitted to know it. Who knew it? President Wilson knew it. Colonel House knew it. Other insiders knew it.
    Did I know it? I had a pretty good idea of what was going on: I was liaison to Henry Morgenthau, Sr., in the 1912 campaign when President Wilson was elected, and there was talk around the office there. I was "confidential man" to Henry Morgenthau, Sr., who was chairman of the finance committee, and I was liaison between him and Rollo Wells, the treasurer. So I sat in these meetings with President Wilson at the head of the table, and all the others, and I heard them drum into President Wilson''s brain the graduated income tax and what has become the Federal Reserve, and I heard them indoctrinate him with the Zionist movement. Justice Brandeis and President Wilson were just as close as the two fingers on this hand. President Woodrow Wilson was just as incompetent when it came to determining what was going on as a newborn baby. That is how they got us into World War I, while we all slept. They sent our boys over there to be slaughtered. For what? So the Jews can have Palestine as their "commonwealth." They''ve fooled you so much that you don''t know whether you''re coming or going.
    Now any judge, when he charges a jury, says, "Gentlemen, any witness who you find has told a single lie, you can disregard all his testimony." I don''t know what state you come from, but in New York state that is the way a judge addresses a jury. If that witness told one lie, disregard his testimony.
    What are the facts about the Jews? (I call them Jews to you, because they are known as Jews. I don''t call them Jews myself. I refer to them as so-called Jews, because I know what they are.) The eastern European Jews, who form 92 per cent of the world''s population of those people who call themselves Jews, were originally Khazars. They were a warlike tribe who lived deep in the heart of Asia. And they were so warlike that even the Asiatics drove them out of Asia into eastern Europe. They set up a large Khazar kingdom of 800,000 square miles. At the time, Russia did not exist, nor did many other European countries. The Khazar kingdom was the biggest country in all Europe -- so big and so powerful that when the other monarchs wanted to go to war, the Khazars would lend them 40,000 soldiers. That''s how big and powerful they were.
    They were phallic worshippers, which is filthy and I do not want to go into the details of that now. But that was their religion, as it was also the religion of many other pagans and barbarians elsewhere in the world. The Khazar king became so disgusted with the degeneracy of his kingdom that he decided to adopt a so-called monotheistic faith -- either Christianity, Islam, or what is known today as Judaism, which is really Talmudism. By spinning a top, and calling out "eeny, meeny, miney, moe," he picked out so-called Judaism. And that became the state religion. He sent down to the Talmudic schools of Pumbe***a and Sura and brought up thousands of rabbis, and opened up synagogues and schools, and his people became what we call Jews. There wasn''t one of them who had an ancestor who ever put a toe in the Holy Land. Not only in Old Testament history, but back to the beginning of time. Not one of them! And yet they come to the Christians and ask us *****pport their armed insurrections in Palestine by saying, "You want to help repatriate God''s Chosen People to their Promised Land, their ancestral home, don''t you? It''s your Christian duty. We gave you one of our boys as your Lord and Savior. You now go to church on Sunday, and you kneel and you worship a Jew, and we''re Jews." But they are pagan Khazars who were converted just the same as the Irish were converted. It is as ridiculous to call them "people of the Holy Land," as it would be to call the 54 million Chinese Moslems "Arabs." Mohammed only died in 620 A.D., and since then 54 million Chinese have accepted Islam as their religious belief. Now imagine, in China, 2,000 miles away from Arabia, from Mecca and Mohammed''s birthplace. Imagine if the 54 million Chinese decided to call themselves "Arabs." You would say they were lunatics. Anyone who believes that those 54 million Chinese are Arabs must be crazy. All they did was adopt as a religious faith a belief that had its origin in Mecca, in Arabia. The same as the Irish. When the Irish became Christians, nobody dumped them in the ocean and imported to the Holy Land a new crop of inhabitants. They hadn''t become a different people. They were the same people, but they had accepted Christianity as a religious faith.
    These Khazars, these pagans, these Asiatics, these Turko-Finns, were a Mongoloid race who were forced out of Asia into eastern Europe. Because their king took the Talmudic faith, they had no choice in the matter. Just the same as in Spain: If the king was Catholic, everybody had to be a Catholic. If not, you had to get out of Spain. So the Khazars became what we call today Jews. Now imagine how silly it was for the great Christian countries of the world to say, "We''re going to use our power and prestige to repatriate God''s Chosen People to their ancestral homeland, their Promised Land." Could there be a bigger lie than that? Because they control the newspapers, the magazines, the radio, the television, the book publishing business, and because they have the ministers in the pulpit and the politicians on the soapboxes talking the same language, it is not too surprising that you believe that lie. You''d believe black is white if you heard it often enough. You wouldn''t call black black anymore -- you''d start to call black white. And nobody could blame you.
    That is one of the great lies of history. It is the foundation of all the misery that has befallen the world.
    Do you know what Jews do on the Day of Atonement, that you think is so sacred to them? I was one of them. This is not hearsay. I''m not here to be a rabble-rouser. I''m here to give you facts. When, on the Day of Atonement, you walk into a synagogue, you stand up for the very first prayer that you recite. It is the only prayer for which you stand. You repeat three times a short prayer called the Kol Nidre. In that prayer, you enter into an agreement with God Almighty that any oath, vow, or pledge that you may make during the next twelve months shall be null and void. The oath shall not be an oath; the vow shall not be a vow; the pledge shall not be a pledge. They shall have no force or effect. And further, the Talmud teaches that whenever you take an oath, vow, or pledge, you are to remember the Kol Nidre prayer that you recited on the Day of Atonement, and you are exempted from fulfilling them. How much can you depend on their loyalty? You can depend upon their loyalty as much as the Germans depended upon it in 1916. We are going *****ffer the same fate as Germany suffered, and for the same reason.
  8. taisa

    taisa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2005
    Bài viết:
    84
    Đã được thích:
    0
    Bài này dài quá không tớ không có thời gian dịch ra được. Hy vọng mọi người sẽ có thêm nhiều thông tin về dân tộc thú vị này.
    Benjamin Freedman Speaks:
    A Jewish Defector Warns America
    by Benjamin H. Freedman
    Introductory Note:
    Benjamin H. Freedman was one of the most intriguing and amazing individuals of the 20th century. Mr. Freedman, born in 1890, was a successful Jewish businessman of New York City who was at one time the principal owner of the Woodbury Soap Company. He broke with organized Jewry after the Judeo-Communist victory of 1945, and spent the remainder of his life and the great preponderance of his considerable fortune, at least 2.5 million dollars, exposing the Jewish tyranny which has enveloped the United States. Mr. Freedman knew what he was talking about because he had been an insider at the highest levels of Jewish organizations and Jewish machinations to gain power over our nation. Mr. Freedman was personally acquainted with Bernard Baruch, Samuel Untermyer, Woodrow Wilson, Franklin Roosevelt, Joseph Kennedy, and John F. Kennedy, and many more movers and shakers of our times. This speech was given before a patriotic audience in 1961 at the Willard Hotel in Washington, D.C., on behalf of Conde McGinley''s patriotic newspaper of that time, Common Sense. Though in some minor ways this wide-ranging and extemporaneous speech has become dated, Mr. Freedman''s essential message to us -- his warning to the West -- is more urgent than ever before. --
    K.A.S.
    Here in the United States, the Zionists and their co-religionists have complete control of our government. For many reasons, too many and too complex to go into here at this time, the Zionists and their co- religionists rule these United States as though they were the absolute monarchs of this country. Now you may say that is a very broad statement, but let me show you what happened while we were all asleep.
    What happened? World War I broke out in the summer of 1914. There are few people here my age who remember that. Now that war was waged on one side by Great Britain, France, and Russia; and on the other side by Germany, Austria-Hungary, and Turkey.
    Within two years Germany had won that war: not only won it nominally, but won it actually. The German submarines, which were a surprise to the world, had swept all the convoys from the Atlantic Ocean. Great Britain stood there without ammunition for her soldiers, with one week''s food supply -- and after that, starvation. At that time, the French army had mutinied. They had lost 600,000 of the flower of French youth in the defense of Verdun on the Somme. The Russian army was defecting, they were picking up their toys and going home, they didn''t want to play war anymore, they didn''t like the Czar. And the Italian army had collapsed.
    Not a shot had been fired on German soil. Not one enemy soldier had crossed the border into Germany. And yet, Germany was offering England peace terms. They offered England a negotiated peace on what the lawyers call a status quo ante basis. That means: "Let''s call the war off, and let everything be as it was before the war started." England, in the summer of 1916 was considering that -- seriously. They had no choice. It was either accepting this negotiated peace that Germany was magnanimously offering them, or going on with the war and being totally defeated.
    While that was going on, the Zionists in Germany, who represented the Zionists from Eastern Europe, went to the British War Cabinet and -- I am going to be brief because it''s a long story, but I have all the documents to prove any statement that I make -- they said: "Look here. You can yet win this war. You don''t have to give up. You don''t have to accept the negotiated peace offered to you now by Germany. You can win this war if the United States will come in as your ally." The United States was not in the war at that time. We were fresh; we were young; we were rich; we were powerful. They told England: "We will guarantee to bring the United States into the war as your ally, to fight with you on your side, if you will promise us Palestine after you win the war." In other words, they made this deal: "We will get the United States into this war as your ally. The price you must pay is Palestine after you have won the war and defeated Germany, Austria-Hungary, and Turkey." Now England had as much right to promise Palestine to anybody, as the United States would have to promise Japan to Ireland for any reason whatsoever. It''s absolutely absurd that Great Britain, that never had any connection or any interest or any right in what is known as Palestine should offer it as coin of the realm to pay the Zionists for bringing the United States into the war. However, they did make that promise, in October of 1916. And shortly after that -- I don''t know how many here remember it - - the United States, which was almost totally pro-German, entered the war as Britain''s ally.
    I say that the United States was almost totally pro-German because the newspapers here were controlled by Jews, the bankers were Jews, all the media of mass communications in this country were controlled by Jews; and they, the Jews, were pro-German. They were pro-German because many of them had come from Germany, and also they wanted to see Germany lick the Czar. The Jews didn''t like the Czar, and they didn''t want Russia to win this war. These German-Jew bankers, like Kuhn Loeb and the other big banking firms in the United States refused to finance France or England to the extent of one dollar. They stood aside and they said: "As long as France and England are tied up with Russia, not one cent!" But they poured money into Germany, they fought beside Germany against Russia, trying to lick the Czarist regime.
    Now those same Jews, when they saw the possibility of getting Palestine, went to England and they made this deal. At that time, everything changed, like a traffic light that changes from red to green. Where the newspapers had been all pro-German, where they''d been telling the people of the difficulties that Germany was having fighting Great Britain commercially and in other respects, all of a sudden the Germans were no good. They were villains. They were Huns. They were shooting Red Cross nurses. They were cutting off babies'' hands. They were no good. Shortly after that, Mr. Wilson declared war on Germany.
    The Zionists in London had sent cables to the United States, to Justice Brandeis, saying "Go to work on President Wilson. We''re getting from England what we want. Now you go to work on President Wilson and get the United States into the war." That''s how the United States got into the war. We had no more interest in it; we had no more right to be in it than we have to be on the moon tonight instead of in this room. There was absolutely no reason for World War I to be our war. We were railroaded into -- if I can be vulgar, we were suckered into -- that war merely so that the Zionists of the world could obtain Palestine. That is something that the people of the United States have never been told. They never knew why we went into World War I.
    After we got into the war, the Zionists went to Great Britain and they said: "Well, we performed our part of the agreement. Let''s have something in writing that shows that you are going to keep your bargain and give us Palestine after you win the war." They didn''t know whether the war would last another year or another ten years. So they started to work out a receipt. The receipt took the form of a letter, which was worded in very cryptic language so that the world at large wouldn''t know what it was all about. And that was called the Balfour Declaration.
    The Balfour Declaration was merely Great Britain''s promise to pay the Zionists what they had agreed upon as a consideration for getting the United States into the war. So this great Balfour Declaration, that you hear so much about, is just as phony as a three dollar bill. I don''t think I could make it more emphatic than that.
    That is where all the trouble started. The United States got in the war. The United States crushed Germany. You know what happened. When the war ended, and the Germans went to Paris for the Paris Peace Conference in 1919 there were 117 Jews there, as a delegation representing the Jews, headed by Bernard Baruch. I was there: I ought to know. Now what happened? The Jews at that peace conference, when they were cutting up Germany and parceling out Europe to all these nations who claimed a right to a certain part of European territory, said, "How about Palestine for us?" And they produced, for the first time to the knowledge of the Germans, this Balfour Declaration. So the Germans, for the first time realized, "Oh, so that was the game! That''s why the United States came into the war." The Germans for the first time realized that they were defeated, they suffered the terrific reparations that were slapped onto them, because the Zionists wanted Palestine and were determined to get it at any cost.
    That brings us to another very interesting point. When the Germans realized this, they naturally resented it. Up to that time, the Jews had never been better off in any country in the world than they had been in Germany. You had Mr. Rathenau there, who was maybe 100 times as important in industry and finance as is Bernard Baruch in this country. You had Mr. Balin, who owned the two big steamship lines, the North German Lloyd''s and the Hamburg-American Lines. You had Mr. Bleichroder, who was the banker for the Hohenzollern family. You had the Warburgs in Hamburg, who were the big merchant bankers -- the biggest in the world. The Jews were doing very well in Germany. No question about that. The Germans felt: "Well, that was quite a sellout."
    It was a sellout that might be compared to this hypothetical situation: Suppose the United States was at war with the Soviet Union. And we were winning. And we told the Soviet Union: "Well, let''s quit. We offer you peace terms. Let''s forget the whole thing." And all of a sudden Red China came into the war as an ally of the Soviet Union. And throwing them into the war brought about our defeat. A crushing defeat, with reparations the likes of which man''s imagination cannot encompass. Imagine, then, after that defeat, if we found out that it was the Chinese in this country, our Chinese citizens, who all the time we had thought were loyal citizens working with us, were selling us out to the Soviet Union and that it was through them that Red China was brought into the war against us. How would we feel, then, in the United States against Chinese? I don''t think that one of them would dare show his face on any street. There wouldn''t be enough convenient lampposts to take care of them. Imagine how we would feel.
    Well, that''s how the Germans felt towards these Jews. They''d been so nice to them: from 1905 on, when the first Communist revolution in Russia failed, and the Jews had to scramble out of Russia, they all went to Germany. And Germany gave them refuge. And they were treated very nicely. And here they had sold Germany down the river for no reason at all other than the fact that they wanted Palestine as a so-called "Jewish commonwealth."
    Now Nahum Sokolow, and all the great leaders and great names that you read about in connection with Zionism today, in 1919, 1920, 1921, 1922, and 1923 wrote in all their papers -- and the press was filled with their statements -- that the feeling against the Jews in Germany is due to the fact that they realized that this great defeat was brought about by Jewish intercession in bringing the United States into the war. The Jews themselves admitted that. It wasn''t that the Germans in 1919 discovered that a glass of Jewish blood tasted better than Coca-Cola or Muenschner Beer. There was no religious feeling. There was no sentiment against those people merely on account of their religious belief. It was all political. It was economic. It was anything but religious. Nobody cared in Germany whether a Jew went home and pulled down the shades and said "Shema'' Yisroel" or "Our Father." Nobody cared in Germany any more than they do in the United States. Now this feeling that developed later in Germany was due to one thing: the Germans held the Jews responsible for their crushing defeat.
    And World War I had been started against Germany for no reason for which Germany was responsible. They were guilty of nothing. Only of being successful. They built up a big navy. They built up world trade. You must remember that Germany at the time of the French Revolution consisted of 300 small city-states, principalities, dukedoms, and so forth. Three hundred separate little political entities. And between that time, between the times of Napoleon and Bismarck, they were consolidated into one state. And within 50 years they became one of the world''s great powers. Their navy was rivaling Great Britain''s, they were doing business all over the world, they could undersell anybody, they could make better products. What happened as a result of that?
    .....
  9. moitoanh

    moitoanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2004
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Cuối cùng là những fim ko thể ko xem về người Do Thái, tất cả đều là những fim kinh điển.
    1. Danh sách của Schindler(giải Oscar 1993), đạo diễn Steven Spieldberg.
    2. Cuộc sống tươi đẹp(giải Oscar 1998), đạo diễn Roberto Benigni.
    3. Kẻ nói dối Jacob(1999), đạo diễn Frank Beyer.
    4. The sunshine(1999), đạo diễn Szabó István.
    5. The Pianist(Oscar 2002), đạo diễn Roman Polanski.
    Được moitoanh sửa chữa / chuyển vào 14:34 ngày 03/09/2006
  10. moitoanh

    moitoanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2004
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nếu bạn ko hiểu đôi chút về lịch sử và văn hoá Do Thái, bạn xem fim về họ bạn cũng chả hiểu gì đâu!
    Fim ảnh thường rất hay lấy ý tưởng từ lịch sử cho nên để hiểu thấu đáo 1 fim ta cũng cần fải bỏ công ra tìm hiểu lịch sử, ko chỉ của quê hương mình mà còn cả các dân tộc khác.
    Có 1 cuốn nhật ký đã nổi tiếng toàn thế giới của 1 em bé Do Thái viết trong quãng thời gian trốn tránh quân Đức là cuốn "Nhật ký của Anna Frank". Các bạn nên tìm đọc, nó đã đc xếp vào World Classic!
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này