1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Phố cổ Hà Nội xưa và nay

Chủ đề trong 'Public Hà Nội' bởi roma, 19/01/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. roma

    roma Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/01/1970
    Bài viết:
    761
    Đã được thích:
    3
    Phố cổ Hà Nội xưa và nay

    Phố cổ Hà Nội xưa và nay

    Trên bản đồ Hà Nội, các nhà quy hoạch ngày nay khoanh một vòng khép kín, giới hạn bằng các phố Trần Nhật Duật, Phùng Hưng, Cầu Gỗ, Hàng Đậu, đặt tên là khu phố cổ, còn gọi là khu 36 phố phường. Khu phố cổ được biết đến hiện nay được thiết kế và quy hoạch theo phong cách kiến trúc Pháp với mạng lưới đường hình bàn cờ. Xưa kia, đây là khu thành cũ của kinh đô từ thời Lý. Vào thế kỷ XIII, những người thợ thủ công, thường sau khi bị bắt lính ra định cư tại cửa ngõ của hoàng thành để sản xuất và bán các mặt hàng truyền thống của địa phương mình. Trong phường, tên gọi các phố là tên hàng hóa được sản xuất và bán ở đây. Ví dụ phố Hàng Trống làm và bán các loại trống, phố Hàng Gai bán các sản phẩm bằng sợi thừng hay sợi đay, Hàng Bạc bán đồ trang sức bằng bạc... Mỗi phường xóm trước đây đều có đền, đình riêng của mình. Khi thực dân Pháp đặt chân lên Hà Nội năm 1883, Hà Nội được chọn đặt trụ sở của Toàn quyền Pháp tại Đông Dương, kiến trúc và quy hoạch khu phố cổ bắt đầu thay đổi. Nhà ở với các đặc trưng truyền thống như mái dốc, các bức tường hồi nhô ra và chiều cao rất thấp của mái nhà theo quan niệm kiến trúc phong kiến nhà dân phải thấp hơn kiệu vua đã dần được thay thế bằng các kiểu nhà mới kết hợp với các chi tiết của kiến trúc phương Tây. Do đó, các nhà cổ nhất có thể thấy trong khu vực này hiện nay có từ cuối thế kỷ XIX. Từ năm 1945 đến nay, con số phố xá đã vượt xa số 36, các mặt hàng cũng phong phú hơn. Đây cũng là nơi tập trung nhiều di tích lịch sử và là trung tâm buôn bán lớn nhất của Hà Nội hiện nay. Cùng với sự phát triển của đất nước qua mỗi giai đoạn lịch sử, khu phố cổ Hà Nội mang dấu ấn văn hóa của nhiều thời kỳ, cũng là nơi hội tụ của cư dân khắp mọi miền trên đất nước. Cũng vì vậy, khu phố cổ Hà Nội có nguồn di sản văn hóa phi vật thể phong phú đa dạng. Nhiều công trình còn lưu giữ được phong cách kiến trúc thời Lê trung hưng.

    Đầu thế kỷ XX, dưới thời Pháp thuộc, khu phố cổ Hà Nội chưa được xem là một loại di tích cần phải bảo tồn. Thời gian gần đây, nhiều tổ chức trong và ngoài nước đã cùng bắt tay vào việc bảo tồn phố cổ. Bộ Xây dựng đã ban hành điều lệ xây dựng trong khu phố cổ, UBND TP. Hà Nội đã thành lập riêng một ban quản lý khu phố cổ. Nhiều tổ chức, nhà khoa học tâm huyết đã có những đề xuất nhằm giữ gìn khu phố cổ mặc dù trong đó di sản kiến trúc còn lại chưa thật tương xứng với tuổi tác và tầm vóc của thủ đô. Trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, công trình bảo tồn, tôn tạo thí điểm hai ngôi nhà cổ 87 Mã Mây và 38 Hàng Đào đã được khánh thành. Tuy nhiên, với diện tích 100ha, 76 phố chính và hơn 1.000 nhà cổ, nhà cũ, việc gìn giữ, bảo tồn xem ra không dễ dàng. Khu phố cổ Hà Nội có đặc trưng là nơi tập trung dân cư, với trên 10 vạn người đang sinh sống. Điều kiện sống tối thiểu trong khu phố cổ thật khó tin nổi: diện tích phụ bình quân1m2/người, trên 50% số nhà không có hố xí riêng, 20% số nhà không có bếp, trên 50% số hộ có 6 người ở trong một buồng, mật độ vi khuẩn trong một mét khối môi trường nhiều gấp 5 lần tiêu chuẩn môi trường sạch, trung bình có 4 đến 5 hộ ở trong một "ống nhà" mà trước kia là của một gia đình ở... Cùng với mật độ dân số tăng nhanh là sự xuống cấp của nhà ở đã được xây dựng hơn 100 năm. Hiện nay, số nhà cần phải sửa chữa là 80%, 20% trong số đó bị hư hỏng nặng. Không chỉ có vậy, trong khu phố cổ có tới 60 công trình tôn giáo, tín ngưỡng (đình, đền, miếu...) mà công trình nào hiện cũng bị lấn chiếm, xuống cấp.

    Trong cuộc tọa đàm thường niên đã tổ chức tới lần thứ tư về chủ đề "Cuộc sống ở các khu phố cổ - Phố cổ Hà Nội, không gian văn hóa và không gian sống" do Viện Goethe Hà Nội, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Kiến trúc sư Việt Nam... tổ chức cuối tháng 11-2001 vừa qua đã bàn đến việc bảo tồn, trùng tu các công trình có giá trị cao về lịch sử, văn hóa. Rất nhiều ý kiến tâm huyết được đưa ra, cả những định hướng, ý tưởng bảo tồn, tôn tạo của những người có trách nhiệm đều với một mong muốn làm đẹp và làm đậm nét sắc màu truyền thống ngàn năm của thủ đô Hà Nội. Đề xuất một số biện pháp bảo tồn phố cổ trong tình hình hiện nay, tiến sĩ Nguyễn Quốc Hùng, Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn bảo tàng - Bộ Văn hóa - Thông tin, cho rằng: nguyên tắc chung của việc bảo tồn phải không gây phương hại đến cuộc sống vốn có của cư dân, không gây mất không khí sôi động, thanh lịch vốn có của khu phố cổ, tạo điều kiện để nơi đây phát triển bền vững. Việc bảo tồn phải được coi là trách nhiệm chung của mọi tổ chức, cá nhân sống trong khu vực, trước hết là nhận thức của trên 10 vạn dân hiện cư trú trong phố cổ về tầm giá trị lịch sử, văn hóa của khu 36 phố phường xưa đối với Hà Nội hôm nay, mai sau. Cần có sự phối hợp liên ngành, trung ương - địa phương, nhà nước - nhân dân, trong nước - ngoài nước, chú ý bảo tồn cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Và việc bảo tồn không thể nóng vội, cần có bước đi phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đất nước và mức sống của cư dân phố cổ.

    Thanh Hòa


    [​IMG]
    Roma@
  2. HuongSoai

    HuongSoai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    742
    Đã được thích:
    0
    Chữ "hàng" gợi cảm
    Hà Nội ba mươi sáu phố phường, mỗi phố là một phường hay mỗi phường là một phố? Không hẳn thế. Bởi mỗi nghề còn giữ lại trên tên phố Hà Nội nay đã qua bao thay đổi, còn đến hơn sáu mươi phố bắt đầu bằng chữ Hàng như Hàng Đào, Hàng Tre, Hàng Sắt, Hàng Mành, Hàng Bún, Hàng Bè... trong hơn ba trăm sáu mươi phố của Hà Nội hiện nay. Hà Nội lớn lên không ngừng. Gương mặt từng phố ngày mỗi đổi thay và hẳn trong lòng nó, trong lòng mỗi phố, trong lòng mỗi căn nhà và mỗi con người Hà Nội. Cuộc đời là một dòng sông chảy đi bất tận, mang lớp lớp phù sa mới bồi đắp vào cuộc đời mình. Có những phố nguyên có chữ Hàng nhưng đã được mang tên mới như Hàng Cỏ (Trần Hưng Đạo), Hàng Đẫy (Nguyễn Thái Học), Hàng Giò (Bà Triệu phía trên), Hàng Lọng (Đường Nam Bộ rồi Lê Duẩn), Hàng Nâu (Trần Nhật Duật), Hàng Kèn, (Quang Trung), Hàng Bột (Tôn Đức Thắng) v.v...
    Trong ký ức của những người Hà Nội, một căn nhà, một góc phố, một gốc cây, có khi chỉ là một âm thanh, một làn hương, một màu sắc... cũng hiện lên bao hình ảnh thân yêu, gợi cảm. Đương nhiên cái mới phải sinh ra, phải vươn lên, cái cũ phải nhường chỗ. Măng thay tre. Con sông tiếp nhận những dòng suối. Nhưng cây măng chớ quên bụi tre đã ôm ấp che chở mình. Dòng sông hình thành sao được nếu không có những con suối cần cù năm tháng trong rừng sâu im vắng? Người Hà Nội hôm nay đi quanh Hồ Gươm, đi vòng Hồ Tây, đi thuyền trên hồ Thống Nhất, thả hồn trên đường Thanh Niên có hoa phượng hoa ban tím , vào bảo tàng Hồ Chí Minh, ngắm vườn hồng đường Bắc Sơn, ra Điện Biên nhìn lại Cột Cờ cổ kính, vòng về chợ Đồng Xuân, rẽ ra bờ sông Cái có cầu Chương Dương, bước lên con đê xanh... có bao giờ quên được những tên phố thân thương, gợi nhớ cả một thời xa xưa oanh liệt và trữ tình. Hà Nội có những nghề cổ truyền, có đám, có phường, có những món ăn thanh lịch, những cảnh trí thơ mộng và cả những niềm vui mộc mạc giản dị của một vùng quê Bắc Bộ. Hàng Bài không còn là bài lá, tam cúc, tổ tôm có những cây xe hồng, tịnh vàng xuất hiện trên ổ rơm những ngày tết ấm cúng trong bao gia đình, những cây bát sách, cửu vạn mà câu ca dao đã phải thốt lên: "Làm trai biết đánh tổ tôm, uống trà mạn hảo, xem nôm Thúy Kiều" là ba cái thú, ba sự lịch lãm một thời; những quân bài đã thành kỷ niệm in trong ký ức bao thế hệ. Nay ở đây có trường Trưng Vương, nhà triển lãm, hiệu bán sách khoa học, bán băng nhạc, có cửa hàng bách hóa lớn nhất Thủ đô. Hàng Bạc không còn những cô gái kiêu kỳ kiểu công chúa cấm cung, ăn cái giá đỗ cũng phải ngắt làm đôi, cái phố từng sản xuất những vòng, xuyến, kiềng vàng cho lớp giàu sang, sản xuất những đôi khuyên vàng và tích bạc cho cô dâu về nhà chồng, cho những vùng xa về kinh kỳ kẻ chợ sắm cưới; chỉ còn rạp Tố Như cũ (rạp Chuông Vàng-Văn Lang) nơi sinh ra Trung đoàn Thủ đô bất tử trong những ngày kháng chiến oanh liệt của Liên khu Một năm 1946.
    Nhà cô Bé Tý đã thay đổi hoàn toàn, không còn ai nhớ đến nữa, đình Hàng Bạc cũng hoang tàn, những người thợ bạc Châu Khê (Cẩm Bình Hải Hưng) có đình thờ riêng, nay lang bạt đi đâu, hiệu thuốc cam có Con Hươu, còn đấy, nhưng em bé nào còn ăn thứ thuốc cam ấy (có đến bốn năm hiệu cùng có Con Hươu, cũng hơi phiền). Hàng Chuối từng có những bãi chuối bạt ngàn để chăn đàn voi cho nhà vua phủ chúa, nay là một phố dài cây xanh rợp bóng, những biệt thự yên lặng như vầng trán trầm tư trong tịch mịch. Cái màu xanh đất bãi ấy mất đi chăng? Không, nó lại hồi sinh trong màu lá hai bên đường cây, để xuân về, óng ả, tơ non, tạo ra cái mái nhà xanh của thủ đô rất Hà Nội. Trụ sở Hội Phụ nữ lúc nào cũng có bóng cây dịu mát, cái dịu mát của cây hay của người phụ nữ Việt Nam? Bàn tay nào khéo léo, tâm hồn nào giàu rung động, để đã từ một ống tre, một quả bầu khô, một miếng da rắn... tạo ra cây nhị cây hồ nhất là cây đàn bầu bất hủ. Hàng Đàn hẳn một thời náo nhiệt những giai nhân tài tử, nghệ sĩ đến so dây, nắn phím. Những trái tim ấy đã ra đi nhưng tài hoa còn lại với đất nước nghìn năm văn vật. Hẳn họ cũng đã quá bước tạt sang Hàng Quạt bên cạnh để thửa cái quạt thước, chiếc quạt tím trang kim, chiếc quạt gỗ đàn hương thoảng gió thơm, chiếc quạt gỗ trầm ngào ngạt, khiến yêu cái quạt yêu cả người cầm quạt, nói như nữ sĩ Xuân Hương: "Mười bẩy hay là mười tám đây Cho ta yêu dấu chẳng rời tay...
    ... Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày..." Quạt tạo ra gió mát, quạt còn che nửa mặt hoa cho khỏi rám má hồng trưa nắng, làm duyên cho tao nhân... Hàng Nón sao lại không từng tặng liền anh liền chị đất Kinh Bắc những chiếc nón thúng quai thao để: "Yêu nhau gửi nón cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay..." Những chiếc nón ấy đã ở lại mãi mãi với câu ca say đắm lòng người, trường tồn với dân tộc tài hoa và tha thiết. Hàng Khay có những người thợ khảm trứ danh. Từ mảnh gỗ đơn sơ, từ chiếc vỏ con trai chẳng giá trị gì, họ đã tạo ra những tác phẩm thực sự, óng ánh, bảy sắc cầu vồng; những đường nét, phong cảnh, tưởng như đang hiển hiện trước mắt mà ta đang bước vào đó trên đoạn đường ta đang đi dạo. Bến sông Nhị Hà xưa còn ăn sâu vào đất liền hơn bây giờ nhiều. Từ rừng núi, theo những con ngựa thồ, những chiếc xe thô sơ và cả những con thuyền lớn... những củ nâu xù xì nhưng bền bỉ sắc màu dân dã quê hương đã về đây để nhuộm cho mẹ cho chị những tấm áo che một nắng mấy sương. Dọc Hàng Nâu xuống Hàng Chĩnh, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Tre. Nước Mắm Nghệ, muối chợ Cồn Văn Lý, ang chĩnh Thổ Hà, tre vầu rừng Bắc... đã theo những mảnh buồm, những bè nổi lênh đênh về với kinh kỳ. ôi những con thuyền đã rong ruổi bao dặm trường sóng nước, neo vào bến Cầu Đất, gửi cho Hà Nội những món quà bền chắc, nồng mặn đậm đà, để mà nhớ nhau mãi mãi như câu ca dao: "Gừng cay muối mặn xin đừng..."
    Người Hà Nội tài hoa, tao nhã, hiếu học, Hàng Giấy, Hàng Bút còn đó. Những khoa thi nào, anh khóa, cậu tú, bác cử đi chọn giấy bút để tung hoành trên trường văn trận bút. Cái "công danh xa mã" ấy từng đã làm khổ bao người, những anh đồ dài lưng tốn vải, những người phụ nữ ước mơ võng anh đi trước võng nàng theo sau, lụi cụi cả một đời cho tuổi trẻ trôi qua lúc nào không biết. Tuy nhiên chúng ta cũng tự hào còn lưu lại được nhiều áng thơ văn thiên cổ kỳ tài, những tuổi tên còn khắc đầy trên hơn tám chục tấm bia đá nơi Văn Miếu kia. Còn cuộc đời thường của người dân lao động với những nhu cầu không thể thiếu được thì đã có Hàng Gạo, Hàng Cá, Hàng Đường, Hàng Khoai, Hàng Đậu, Hàng Dầu, Hàng Bột (Tôn Đức Thắng). Muốn sắm sửa thì lên Hàng Bát Đàn, Bát Sứ, Hàng Đũa (Ngô Sĩ Liên). Cha già mẹ héo cần một cỗ áo thì đã có Hàng Sũ gần kia. Tháng chín tháng mười giở trời, đau cả xương cốt, món rươi của vùng Hải Đông (Hải Dương Hải Phòng ngày nay) đổ về kinh kỳ không ít. Khen ai là người đầu tiên đã biết chọn vỏ quýt làm gia vị cho món chả rươi, quả là tài tình, quả là nghệ thuật. Cái lưỡi con người tinh tế đến thế là cùng. Hàng Rươi cũng là nơi họp chợ hoa ngày tết. Cô gái đi mua hoa, cành đào hay cành mận, nhánh hải đường hay bông vạn thọ, cô có thể sắm thêm gương lược mà điểm trang cho thêm nhan sắc, cho đẹp cả mùa xuân, có Hàng Lược đó. Hà Nội có một cái dốc khá cao. Đó là Hàng Than. Cái thời chưa có điện, chưa có than đá, than quả bàng, hẳn ở đây luôn luôn bận rộn những hàng bán than hoa để thơm lừng vị chả nướng, để ấm nồng những ***g ấp, để thanh tao những chén trà của các cụ đồ trong sương sớm. Sau này, Hàng Than còn nổi tiếng với món bánh cốm ngon lạ thường, một món quà đặc biệt, chỉ Hà Nội mới có tài làm ngon đến thế. Cốm xanh biếc, nhân đỗ xanh vàng hươm, cùi dừa trắng tinh, điểm vài viên hạt sen nhừ tơi; được gói trong lá chuối tươi, lại một màu xanh óng chuốt của quê hương đồng bãi, buộc chặt bằng chiếc lạt đỏ cánh sen, gợi mùa cưới chan chứa ân tình. "Nằm đất với chị hàng hương"...
    Hàng Hương cô hàng, người thơm tho gỗ hoàng đàn, thoảng mùi xạ, phảng phất hương trầm... Tết, ngày giỗ mà không có hương sao còn gọi là tết, là giỗ? Ngôi chùa cổ Việt Nam, ngôi đình làng trang nghiêm sao có thể thiếu được những nén hương đen, những cuộn hương vòng, những cây hương sào thắp một ngày chưa hết, phố Hàng Hương tuy nhỏ nhưng thực sự là một phố mang lại cái cần thiết cho Hà Nội, cho cả vùng về đây mà mua mà cất, một cái duyên riêng vậy. Màu sắc óng ánh trong chiếc thắt lưng hoa lý, hoa đào, hồ thủy, thiên thanh, dải yếm đỏ, áo đổi vai nâu non... cứ phấp phới lên trên phố Hàng Đào, nhất là những ngày phiên chợ tơ. Các thứ lụa tơ từ Ba La Trinh Tiết của tỉnh Đơ, của Đồng Tỉnh Huê Cầu của tỉnh Bắc... mang đến. Còn Hàng Vải thâm là nơi đi về của người dân áo vải. Cô gái Đình Bảng, Cầu Lim mặc váy cửa võng cạp điều mang vải về đây nhuộm hoặc trả cho khách hẳn từng làm xao xuyến bao chàng trai kinh thành. Trung thu, tiếng trống ếch rộn ràng. Trường học nào cần bưng lại mặt trống da trâu để kịp khai trường, đình làng nào cần một chiếc trống đẽi để vào đám giêng hai, Hàng Trống sẵn sàng chờ đón. Phố này đến nay vẫn còn mấy nhà có nghề làm trống cổ truyền, dựng tang trống, thuộc da, lên mặt trống... đều bằng phương pháp thủ công nhưng chiếc trống hàng chục năm vẫn kêu vang, không hỏng. Hà Nội đã sống gần ngàn năm dưới chế độ vua quan. Có bao cái đẹp và cũng có bao cái phải mất đi nhường cho cái mới. Hàng Lọng (phố Lê Duẩn) có ga Hàng Cỏ tấp nập ngày đêm, đón và đưa những con tàu Nam Bắc, ra cảng Hải Phòng, lên tỉnh có chè ngon nổi tiếng Thái Nguyên... Với trên sáu mươi phố mang chữ Hàng, vẻ xa xưa chưa hết, Hàng Mành vẫn làm mành. Hàng Hòm vẫn đóng hòm, va li gỗ, Hàng Thiếc làm thùng tôn, ống máng, cắt kính, làm đồ chơi trung thu cho trẻ, chỉ tiếc đồ chơi ít thay đổi, không theo kịp sự phát triển của xã hội và lớn nhanh của tâm lý thiếu nhi. Hàng Mã vẫn làm đèn ***g hoa giấy. Hàng Bông vẫn còn nhiều nhà làm cốt chăn bông. Bên cạnh đó nhiều phố mang tên cũ nhưng không còn một ai làm nghề cũ ấy nữa: Hàng Gà, Hàng Cá, Hàng Gai, Hàng Bún, Hàng Cót, Hàng Bồ... Vẫn cảm động khi bước chân đến những khu nhà khấp khểnh như tranh Bùi Xuân Phái: Hàng Cân, Hàng Chỉ, Hàng Chai, Hàng Hành, Hàng Bè, Hàng Giấy, Hàng Vôi, Hàng Cháo...
    Hương Soái !

Chia sẻ trang này