1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Phong cách ăn uống Việt Nam..

Chủ đề trong 'Ẩm thực' bởi vmdmanowar, 04/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. xoatanmandem

    xoatanmandem Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    701
    Đã được thích:
    0
    Khéo ăn thì no
    Việt Nam có dân số khá đông, đất canh tác còn ít, kinh tế kém phát triển vì thế mà...khéo ăn thì mới no..các cụ ngày xưa dạy như vậy.. Các bác thử nghĩa xem, với 200g thịt bò, Tây nó làm một suất bip_tết cho 1 người ăn, nhưng ở mình thì người đem thái mỏng xào chung với đậu,su hào..v.v.v làm một món ăn cho gia đình khoảng 4 người ( ý tôi muốn nói là cái phong cách xứ Việt không ai "ngốn" một lúc 200g thịt bò như vậy, lãng phí lắm)
    Ngoài ra còn xương xẩu là thứ bỏ đi nhưng bên ta tận dụng tốt, kho cá thì kho già lửa ăn cả xương,xương cá giàu canxi va 2 khoáng chất tốt cho cơ thể, xương heo xương bò dùng làm nước súp...v.v.
    Cơm không rau như đau không thuốc
    Rau đối với bữa cơm thường nhật là không thể thiếu, trong các món ăn Việt Nam đặc trưng thì vị ngon có đến 40% là nhờ dùng đúng rau,như ăn phở bò phài có ngò gai,,,hay ăn chả giò phài có bạc hà,tía tô,kinh giới để giảm bớt cái mùi dầu mỡ.
    Trong sách y của Lê Hữu Trác khuyên nên ăn rau thường xuyên phòng tránh bệnh tật, y học hiện đại ngày nay cũng công nhận điều này
    Râu tôm nấu với ruột bầu
    Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

    Đó là yếu tố tình cảm trong bữa ăn của người Việt mình, thấy người ta nói như vậy nhưng vì em chưa có vợ nên không biết...bác nào lập gia đình rồi phát biểu đi vậy !

    ĐÓI QUÁ !!
  2. sugar_salt

    sugar_salt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/05/2003
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Phản đối,iem thì nhất quyết cho rằng nước chấm là fải chấm chung.Đổ nưóc chấm vào bát thì chết mặn ,không chết vì mất VS mà chết vì bệnh sỏi thận.Còn nước chấm mà mỗi người 1 bát,hic,chỉ khổ cái thằng fải rửa bát thôi.
    Các bác cứ chê mất VS,thế các bác có hay đi ăn hàng không?Các bác chắc là không biết những chuyện nấu ăn mất vệ sinh kinh khủng hoảng mà em được nghe ,hic không muốn kể ra nữa.Nếu không thì mất ngay cái mùi thơm tho của Box ẩm thực này.
    Hôm nay ăn thịt heo,mai cũng ăn heo,kia cũng thế,la la
  3. witch141v

    witch141v Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/06/2002
    Bài viết:
    5.882
    Đã được thích:
    0
    Râu tôm nấu với ruột bầu
    Chồng chan vợ húpgật đàu khen ngon
    theo tui thi chắc chắn phải ngon rùi , bởi vì thứ 1 nếu là người vợ nấu thì chắc chắn chồng phải khen , vì các bác cứ thử chê đi bác sẽ biết hậu wả như thế nào mà
    còn thứ 2 nếu là ông chông nấu thì chắc chắn vợ phải khen ngon để chồng còn phát huy những ngày sau còn đi nấu tiếp chứ nhẩy( lại còn khen cực nhiệt tình là cái chẵc , điển hình là tui nếu chồng tui mà nấu tui còn khen cho mũi nở hết cỡ thì thui ấy chứ, cho chồng sướng hôm sau nấu tiếp cho tui ăn nữa chứ, tội gì tui chuui vào bếp)
    linh
  4. vmdmanowar

    vmdmanowar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2003
    Bài viết:
    652
    Đã được thích:
    0
    Cái chuyên vệ sinh hay không không cần biết, mình thấy ngon là được, đời này ai chả chết, chết trong khi ăn cũng vui, miễn đừng sớm quá là được.
    Stand and fight
    Live by your heart
    Always one more try
    I'm afraid to die
  5. xoatanmandem

    xoatanmandem Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    701
    Đã được thích:
    0
    Trong Kho tàng ca dao tục ngữ có câu:
    "Họa từ mồm ra, bệnh từ mồm vào"

    ĐÓI QUÁ !!
  6. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Một topic hay thế này mà bị trôi xuống thật tiếc.
    Bản sắc nền ẩm thực Việt Nam

    Một số nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực kết luận rằng, nền văn hóa ẩm thực Việt Nam xây dựng trên cơ sở âm dương. Vậy còn sự khác nhau giữa khoa ẩm thực của ta và Tàu? Vả lại, đối chiếu một vài cách chế biến món ăn Việt, e rằng khó giải thích bằng thuyết âm dương. Ví dụ: thịt bò, thịt chó, có tính ấm được coi là "dương". Nhưng gia vị chủ yếu đi với chúng là gừng, riềng, lá lốt, sả, đều có vị cay, mùi thơm, tính ấm, cũng tức là "dương". Vậy mà dương cộng với dương đem lại sự hòa hợp, hài hòa đặc sắc trong "bò nướng lá lốt", "lẩu dê"...
    Giải thích sao đây? Vậy có phải địa lý kinh tế, thổ ngơi, sản vật cộng với tài hoa và cá tính của con người đã làm nên những món ăn mang quốc hồn, quốc túy chăng? Vậy, bản sắc của nền văn hóa ẩm thực Việt Nam là gì? Chưa dám rút ra những lý thuyết, chỉ xin dò theo những dấu hiệu thực tế:
    Mắm! Vị hoàng đế đầu tiên
    Đất nước ta giàu có nông, lâm, thủy, hải sản. Đó là cơ sở vật chất thuận lợi để phát triển một nền văn hóa ẩm thực phong phú. Người Trung Quốc cũng có tất cả những thứ chúng ta có, nhưng nhân dân của đất nước khổng lồ ấy chủ yếu sinh sống ở lục địa. Có lẽ vì vậy mà nước chấm (món ăn cơ bản sơ khai) của họ từ muối đi lên tương, xì dầu chứ không phải là nước mắm. Còn chúng ta có "tương cà gia bản" nhưng lại có nước mắm là "quốc bản". Sự khác nhau này cực kỳ quan trọng, bởi nước chấm là món gia vị đầu bản để chế biến các món ăn khác.
    Bậc thầy của nền ẩm thực Hoa Kỳ, ôgn Jacques Pepin đã rất tinh khi nhận xét các món ăn Việt là: "Nhiều hương vị đặc biệt mà chủ soái là thứ nước măm nổi tiếng vừa được dùng để làm tăng mùi vị, vừa để nêm".
    Chúng ta có cả một "hệ thống măm" để chế biến các món ăn: mắm tôm, mắm ruốc, mắm cá đồng... Vua bếp Trần Văn Nghĩa rất có lý khi đúc kết: "Hương vị được coi là bản sắc Việt Nam gồm có: mắm tôm, lá chanh, thìa là, riềng, mẻ, sả, cà cuống...".
    Nồi nước dùng "bác học"
    Tinh hoa ăn uống Việt Nam còn thể hiện ở nồi nước dùng mà nhà thơ Hải Như có lần gọi là "nồi nước dùng bác học". Kể cũng không ngoa vì đó là thức nước "cơ bản" của các món ăn lỏng nước như: phở, bún thang, bún bò Huế, hủ tiếu và các món canh.
    Xương heo, xương gà (ít dùng xương bò vì có mùi hơi gây) cho vào nồi, đun sôi thì bớt lửa, chỉ để cháy liu riu, lom dom, nồi nước sôi lăn tăn. Người nấu luôn tay hớt bọt, cho đến khi nước trong veo như nước mưa và sau đó trên mặt nước hiện ra thoang thoảng vàng nhưng chưa thành màu. Sự huyền ảo ẩn chứa nơi thứ nước ngọt thâm trầm, mê hoặc. Lọc thứ nước ấy, gia thêm tôm tươi hoặc tôm khô để có thêm chất ngọt đánh mạnh vào vị giác và khứu giác. Jaques Pepin cũng rất tinh khi cảm nhận các món ăn có nước của Việt Nam là "một thứ nước dùng rất trong". Nhưng có lẽ ông chưa có dịp tìm hiểu cái bí quyết của người chế biến nằm trong một "tinh". Phương Tây nấu xương thường dùng nồi áp suất để "đốt cháy giai đoạn" làm rục nhanh các loại xương ống, cho các chất dưỡng tan vào nước dùng. Nước dùng của họ do vậy không trong, thường có màu đục và phảng phất hơi vôi, khác hẳn khẩu vị thật tinh tế đã được "di truyền" từ Nguyễn Trãi, đến Tản Đà, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng...
    Ở mỗi món khác nhau, gia vị cho nồi nước dùng cũng có những thứ nêm thích hợp: nước phở có thứ bột làm dậy mùi, bún thang có mắm tôm, bún bò Huế có mắm ruốc, hủ tiếu Nam Vang có một muỗng tỏi ngâm giấm...
    Rau và măng
    Thực khách nước ngoài có chung một nhận xét: bữa ăn Việt Nam có nhiều loại rau và họ cho rằng đó là "tính hiện đại" trong khoa học ăn uống ngày nay.
    Thực đơn Việt có nhiều món canh, hoặc xào với các loại quả (bí, bầu, cà, mướp, thơm, đu đủ, đậu su...) các loại rau xanh và cả hoa nữa (hoa bí, thiên lý, so đũa, lẻ bạn, bắp chuối, kim châm, bông hẹ, sầu đâu...). Nhiều món ăn kèm theo rau sống, rau thơm và đồ chua (dưa kiệu, dưa giá, đu đủ, cà rốt ngâm giấm) như bún thịt nướng, bánh xèo. Từng món ăn đi kèm một vài loại rau nhất thiết không thể thiếu: bánh xèo phải có cải xanh, bún thịt nướng phải có rau húng láng, rau muống chẻ; lẩu mắm có hơn 20 loại rau, trong đó có rau đắng, rau nhút, bông súng; gỏi cá mè phải có lá đinh lăng, vọng cách... Người Việt Nam còn có món canh rau tập tàng, gồm không biết bao nhiêu là loại rau, có lẽ khắp vùng quanh đây có thứ lá gì ăn được đều có trong nồi canh.
    "Đói ăn rau, đau uống thuốc" dân ta sống theo phương ngôn của nếp sống thanh đạm. Nó cũng tất yếu như một câu phương ngôn khác "Cơm không rau như đám ma nhà giàu không kèn trống".
    Măng cũng là một thứ rau. Bác Hồ gọi là rau măng. "Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng". Cùng với thần thoại Thánh Gióng nhổ cả bụi tre làm vũ khí, dân tộc ta sống gắn bó với cây tre: cột nhà, vách phên bằng tre, bồ đựng lúa bằng tre, giường ngủ tre, rổ rá tre... Chống Pháp bằng tầm vông vạt nhọn, đánh Mỹ với chông tre. Và măng tre chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong nền văn hóa ẩm thực Việt Nam suốt mấy ngàn năm dụng nước và giữ nước.
    Mâm cỗ ngày giỗ, ngày Tết của người Việt từ cổ chí kim, từ Bắc chí Nam đều phải có món măng. Miền Bắc có măng khô lưỡi lợn ninh thịt gà, thịt lợn. Miền Trung có măng khô kho giò heo. Miền Nam có măng hầm thịt heo, gà và ưa dùng măng tươi hơn.
    Măng có thể ăn tươi (luộc, xào, nấu canh) có thể ngâm chua để dành xào, nấu và phơi khô trữ trên giàn bếp dùng quanh năm. Măng tươi có đặc tính làm an mùi vị tanh của các loại thịt vịt, chim, cò. Do vậy mà con cò đi ăn đêm có lời xin: "Nếu có lòng nào ông hãy xáo măng". Còn bún vịt mà không có măng tươi nấu nước dùng thì coi như hỏng!
    Măng khô có đặc tính thu hút hết chất ngọt, béo của thịt làm cho "miếng măng ngon hơn miếng thịt".
    Còn gì nữa?
    Giò, chả, nem, những phẩm vật của muôn đời
    Theo cụ Nguyễn Tuân thì tất cả các dân tộc ăn thịt lợn trên hành tinh này, duy nhất "chỉ có người Việt đã nghĩ ra và làm ra giò lụa", món ngon của quê hương. "Là một miếng thịt chín thơm lành, sạch sẽ, dành cho người tài giỏi đủ điều".
    Ngày nay, món ngon này phổ biến rộng khắp, thành một món trong thực đơn dân tộc. Tuy nhiên, có một nơi chứng minh được là đã có truyền thống lâu đời nhất của nghề làm giò, chả. Đó là xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nơi còn giữ tục hội xuân dâng cúng đặc sản này tại đình thờ danh tướng Lữ Gia, vị anh hùng dân tộc chống giặc Hán xâm lược năm 113 trước Công nguyên.
    Các công đoạn pha chế giò lụa là một công trình khoa học của người Việt ở thiên nhiên kỷ thứ nhất. Đầu tiên là khâu chọn con heo: không ốm bệnh thịt bị hoi, không gầy hếu để thịt không xơ, không non nhỏ quá thịt nhão, không già quá thịt khô, không béo bệu quá, nạc không căng. Kế tiếp là chọn thịt. Giã giò chỉ chọn thịt nạc mông, thăn, thịt mới xẻ ra còn nóng hôi hổi, khi thái thấy miếng thịt như nhảy trên thớt, phải khéo chứ kẻo bị đứt tay! Cho thịt vào cối là phải giã thật thần tốc, giã liên tục bằng loại chày nặng 6-9 kg. Không giã mạnh quá chỉ cần nện như bật bông. Khi thịt quánh đầu chày, nhuyễn mịn thì cho 1 kg thịt giò 2 thìa nước mắm loại 1. Gói giò bằng lá chuối tây, chuối hột. Lá nõn vàng màu lụa gói ở lần trong, lá bánh tẻ ở lần giữa, lá già gói ngoài cùng.
    Có lẽ từ giò, chả đi đến những "biến thể" nem chua, tré. Cuối cùng là món nem Sài Gòn (tức chả giò), nay đã gia nhập mạnh mẽ vào thực đơn quốc tế.
    Người nước ngoài khen món ăn Việt Nam gia vị không quá gắt mạnh, nồng đậm. Điều ấy thể hiện một phần đức khoan hòa, tế nhị của dân ta chăng?
    Văn hóa ẩm thực cũng góp phần quan trọng để chúng ta tự hào và trân trọng gìn giữ cái bản sắc, cái hồn, đã từng hậu thuẫn cho cụ Nguyễn Trãi viết những lời đại cáo: "Bờ cõi sông núi đã riêng. Phong tục Bắc, Nam cũng khác".
    (sưu tầm)
    Được nore sửa chữa / chuyển vào 16:07 ngày 31/05/2003
  7. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Món Huế, ai mà không khoái?
    Món ăn Huế là một trong những sản vật ở đất thần kinh xưa được xem là có tiếng, được kinh doanh nhiều nhất tại các thành phố lớn trong cả nước.
    Bún bò Huế: Món chủ lựcMón Huế nhất, thông dụng nhất ở đây không phải là món chi cao sang khó làm khó kiếm: ấy chính là bún bò Huế mà công thức nấu, cách pha chế mỗi nơi có khác. Cái hơn nhau của tô bún bò xứ Huế chỉ đọng lại có hai thứ: Miếng giò và nước dùng. Muốn ăn được tô bún ngon, cục giò vừa phải không quá "khủng bố", hầm không quá mềm, nước dùng vừa phải, ngọt xương chứ không ngọt đường. Có nhiều trường phái bún bò Huế lắm: tiếng là bún bò Huế nhưng thịt bán chủ yếu vẫn là thịt heo. Người Huế gốc thì thích ăn bò tái "trụng" trong tô bún, người miền Nam lại muốn ăn thịt bò đã luộc sẵn, xắt lát xếp hàng hàng lớp lớp trên tô bún. Có chỗ lại cho một đĩa rau ú ụ, có chỗ năn nỉ không có một cọng cho khách ăn.
    Bèo - nậm - lọcBánh bèo, bánh nậm đều làm bằng bột gạo, ăn không khô, không ngấy như các loại bột khác. Ăn các loại bánh này cốt thưởng thức cho biết chứ không cốt no. Nếu ăn bánh bèo mà ngang bụng, phải "làm" chừng 30 cái. Nghe thì nhiều vậy chứ mỗi cái bánh bèo như miếng nấm nhĩ, mỏng và thanh. Ở trên có rắc một ít tôm chấy và miếng da heo phơi khô rồi chiên phồng lên. Cũng như miếng bánh nậm, hơn nhau nơi cái nhụy. Một ít thịt băm chung với tôm và cả chục thứ gia vị khác, miếng bánh chín còn nóng hổi mà không quá khô, ăn vào rất béo.
  8. Lissette

    Lissette Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/04/2001
    Bài viết:
    2.619
    Đã được thích:
    0
    Thật ra, tôi rất ngại khi cầm viết ghi lại những câu hỏi đã trả lời cho những bạn bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi:
    Người Việt Nam ăn uống thế nào ? Hay là cách nấu ăn của người Việt có khác người Trung Quốc hay chăng? Vì đó chỉ là những phần nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu giải đáp kịp thời chớ không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn trong báo Tuổi Trẻ thấy nhận sét sơ bộ của tôi có phần nào lý thú, nghe vui tai nên nhờ tôi ghi ra thành văn bản. Nể lời các bạn, tôi xin gởi đến các bạn đọc vài mẩu chuyện có thật về cách ăn và nấu ăn của người Việt chúng ta, và xin các tay nghề nấu ăn trong nước đừng cười tôi dốt hay nói chữ, dám múa búa trước cửa Lỗ Bang, đánh trống trước cửa nhà Sấm.
    Trong một buổi tiệc, một anh bạn Pháp hỏi tôi:
    -Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nàỏ
    -Tôi rất ngại so sánh . . . tôi trả lời . . . vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai yếu tố để so sánh.
    Thỉnh thoảng tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao biết cách ăn của người Pháp bằng người Pháp chính cống như anh. Tôi thì có thể nói qua cách ăn uống của người Việt chúng tôị Để cho anh dễ nhớ, tôi chỉ đưa ra ba cách nấu ăn của người Việt, rồi anh xem người Pháp có ăn như vậy chăng?
    Người chúng tôi ăn toàn diện, ăn khoa học, ăn dân chủ.
    1. Ăn toàn diện: Chúng tôi không chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng ngũ quan. Trước hết ăn bằng con mắt, và do đó có nhiều món đem dọn lên, nhiều màu sắc chen nhau như món gỏi sứa chúng tôi chẳng hạn: có giá màu trắng, các loại rau thơm màu xanh, ớt màu đỏ, tép màu hồng, thịt luộc và sứa màu sữa đục, đậu phộng rang màu vàng nâu v. v. . . Có khi lại tạo ra hình con rồng, con phụng, trong những món ăn nấu đãi đám hỏi, đám cướị Sau khi nhìn cái đẹp của món ăn, chúng tôi thưởng thức bằng mũi, mùi thơm của các loại rau thơm như húng quế, ngò, hoặc các mùi đặc biệt của nước mắm, của cà cuống. Răng và nứu đụng chạm với cái mềm của bún, cái dai của thịt luộc và sứa, cái giòn của đậu phộng rang để cho xúc cảm tham gia vào việc thưởng thức món ăn sau thị giác và khứu giác. Rồi lỗ tai nghe tiếng lốc cốc của đậu phộng rang, hay tiếng rào rào của bánh phồng tôm, hay tiếng bánh tráng nướng nghe rôm rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những vị khác nhau, hòa hợp trong món ăn: lạt, chua, mặn, ngọt, chát, the, cay v. v. Chúng tôi ăn uống bằng năm giác quan, về cái ăn như thế gọi là ăn toàn diện.
    2. Ăn khoa học: Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở Nhật Bổn thường hay sắp các thức ăn theo " âm" và " dương" .
    Nói một cách tổng quát thì những món nào mặn thuộc về dương, còn chua và ngọt thuộc về âm. Người Việt thường trộn mặn với ngọt làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt nướng, luôn luôn có pha một chút đường; mà ăn ngọt quá như chè, ăn dưa hấu hay uống nước dừa xiêm thì cho một chút muối cho âm dương tương xứng. Người Tây khi ăn bưởi thật chua lại cho thêm đường, đã âm lại thêm âm thì âm thịnh dương suy, không đúng theo khoa học ăn uống. Người Việt phần đông không nghiên cứu về thức ăn, nhưng theo truyền thống của cha ông để lại thành ra ăn uống rất khoa học. Người Việt chẳng những để ý đến quân bình âm dương giữa các thức ăn mà còn để ý đến quân bình âm dương giữa người ăn và thức ăn. Khi có người bị cảm, người nấu cháo hỏi: cảm lạnh ( bị mắc mưa, đêm ra ngoài bị cảm sương) thì nấu cháo gừng vì cảm lạnh ( âm) vào người phải đem gừng ( dương) vào chế ngự. Nếu cảm nắng ( bị mặt trời làm cho sốt) thì dương đã vào người phải nấu cháo hành ( âm) . Lại nghĩ đến âm dương giữa người ăn và môi trường; mùa hè thời tiết có dương nhiều nên khi ăn có canh chua ( âm) hoặc hải sâm ( âm) ; mùa đông thời tiết có âm nhiều nên ăn thịt nướng. Ta có câu: mùa hè ăn cá sông, mùa đông ăn cá biển
    Quân bình trong âm dương còn thể hiện qua điếu thuốc làọ Thuốc lá phơi và đóm lửa (dương) hít một hơi cho khói qua nước lã trong bình ( âm) để hơi khói thuốc vào cơ thể, nguồn hút có cả dương và âm, không kể nước đã lọc bớt chất nicotine có hại cho buồng phổị Chẳng những cân đối về âm dương mà còn hàn nhiệt nữa: thịt vịt hay thịt cá trê - hàn - thì chấm với nước mắm gừng - nhiệt -. Cách ăn của người Việt Nam khoa học vì phù hợp với nguyên tắc âm dương tương xứng hành nhiệt điều hòạ Ngoài ra trong một món ăn thường đã có chất bột, chất thịt, chất rau làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng.
    3. Ăn dân chủ: Trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng chúng tôi có thể những món chúng tôi thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của chúng tôị Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của chúng tôi, chớ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổị Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ.
    Anh bạn người Pháp thích chí cười to: ăn toàn diện, chúng tôi chưa nghĩ đến là về thính giác, ăn mà nghe tiếng động là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học, thì chúng tôi chỉ nghĩ đến calory mà không biết âm dương và hàn nhiệt. Còn ăn dân chủ, thì hoàn toàn thiếu sót vì đến nhà chúng tôi có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no cũng phải cố gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan nghinh cách ăn của người Việt Nam.
    Về cách ăn uống Việt Nam lại có thêm:
    4. Ăn cộng đồng: Thức ăn đầy bàn mà có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơị
    5. Ăn lễ phép: Con lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mợ Học ăn là trước nhứt, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng.
    6. Ăn tế nhị: Ăn ớt cử cách cắn trái ớt, có khi phải ăn ớt xắt từng khoanh, ớt bằm, ớt làm tương. Nước chấm nhứt là ở miền Trung rất tinh tế ăn món chi phải có nước chấm đặc biệt: bánh bèo, bánh lá, bánh khoái đều có nước chấm khác.
    7. Ăn đa vị: Một miếng nem nướng đã có vị thịt, riềng, muối, tỏi, hành cuốn vào bánh tráng lạt lạt, có chút bún, rau thơm, ớt (cay) , chuối sống (chát) , khế (chua) , tương ( ngọt, mặn cay) có pha hột điều hay đậu phộng xay ( béo) . Ăn có năm vị chánh: ngọt, mặn, chua, cay, béo, có cả ngũ sắc đen (tương) , đỏ (ớt) , xanh (rau) , vàng (khế chín) , trắng (bánh tráng, bún) . Ăn một miếng mà thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị và có khi hơn thế nữạ
    Một lần khác, một anh bạn của tôi khai trương một tiệm ăn lớn tại Paris. Anh có mời đài phát thanh và báo chí đến để cho biết rằng tiệm của anh có cả thức ăn Trung Quốc và Việt Nam. Các phóng viên muốn biết Việt Nam và Trung Quốc nấu ăn có khác nhau như thế nàỏ Hai đầu bếp Việt Nam và Trung Quốc được mời ra để báo chí hỏi thì hai người đều khẳng định là cách nấu ăn rất khác, nhưng phải xuống bếp coi mới thấỵ
    Nhà bếp nhỏ không chứa được mấy chục phóng viên, và ai cũng ngại hôi dầu hôi mỡ nên ông chủ tiệm nhờ tôi tìm câu trả lời cho các nhà báọ Tuy không phải là một chuyên gia về nghệ thuật nấu bếp, nhưng tôi cũng phải tìm câu trả lời thế nào để cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới nói rằng, tôi không đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra ba điểm khác nhau trong cơ bản.
    1. Cách dùng bột: Người Việt Nam thường dùng bột gạo trong khi người Trung Quốc thích dùng bột mì, cho nên Việt Nam có phở, hủ tiếu, bún thang, bún bò, bún riêu; mà người Trung Quốc thì chuyên về mì nước, mì khô, mì sợi nhỏ, mì sợi lớn, mì vịt tiềm. Người Việt làm bánh đùm, bánh xếp, bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc thì bánh baọ Chả giò người Việt Nam cuốn bằng bánh tráng bột gạo; còn người Trung Quốc thì cuốn tép trong bánh bằng bột mì.
    2. Nước chấm cơ bản của người Việt nam là nước mắm là bằng cá; còn nước chấm của người Trung Quốc là xì dầu làm bằng đậu nành.
    3. Người Việt thì thường pha mặn ngọt; ngườ Trung Quốc thích chua ngọt.
    Chỉ nói đại khái như vậy mà các phóng viên đã hài lòng; về viết bài tường thuật nêu lên những điểm khác nhau ấỵ Ông giám đốc tạp chí Đông Nam Á, sau lời nhận xét đó, cho phóng viên đến phỏng vấn tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu tố nào khác đáng kể khi nói về cách nấu ăn của người Việt khác người Trung Quốc ở chỗ nàỏ Tôi trả lời cho phóng viên trong 40 phút. Hôm nay tôi chỉ tóm tắt cho các bạn những điểm chính sau đâỵ
    a) Về rau: người Việt tuy có ăn rau luộc, hay xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà người Trung Quốc không ưa ăn rau sống, cải sống, giá sống.
    b. Về cá: Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt Nam. Nhưng người Trung Quốc có cá mặn không làm mắm như người Việt. Có rất nhiều cách làm mắm và ăn mắm: mắm thái, mắm nêm, mắm ruốc, mắm tôm v. v. . . Các nước Đông Nam Á cũng có làm mắm nhưng không có nước nào biết làm nhiều loại mắm như người Việt.
    c. Về thịt: Người Trung Quốc biết quay, kho, luộc xào, hầm như người Việt, mà không biết làm nem, bì và các loại chả như chả lụa, chả quế v. v. . .
    d. Người Trung Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong một món ăn như người Việt. Khi chúng ta ăn một món ăn như nem nướng thì có biết bao nhiêu vị: lạt lạt của bánh tráng, bún, hơi mát mát ngọt ngọt như dưa leo, và đặc biệt của giá sống trộn với khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng cà bùi bùi, và có tương mặn và ngọt. Người Việt trong nghệ thuật nấu ăn rất thích lối đa vị và tất cả các vị ấy bổ sung cho nhau, tạo ra một vị tổng hợp rất phong phú .
    Cái ăn chiếm phần khá quan trọng trong đời sống của chúng tạ Khi dậy dỗ một trẻ em thì phải cho nó học ăn, học nói, học gói, học mở để biết ăn, nói với người tạ Ra đường phải biết " ăn bận" hay " ăn mặc" cho phải cách phải thế. Đối với mọi người không nên " ăn thua" làm chi cho bận lòng. Làm việc gì phải cẩn thận " ăn cây nào, rào cây nấy" . Trong việc tiêu tiền phải biết " liệu cơm, gắp mắm" và dẫu cho nghèo đi nữa " khéo ăn thì no, khéo co thì ấm" . Không nên ham ăn quá độ vì " no mất ngon, giận mất khôn" . Ra làm ăn phải quyết tâm đừng " cà lơ xích xui" chạy theo " ăn có" người khác. Phải biết " ăn chịu" với người làm việc nghiêm túc thì công việc khỏi bị " ăn trớt" . Không nên " ăn gian, ăn lận" hay bỏ lỡ cơ hội thì " ăn năn" cũng muộn. Trong cuộc sống nên tìm việc làm hữu ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước đừng để mang tiếng " ăn hại" " ăn bám" người khác. Khi đàn chơi phải biết lên dây đàn cho " ăn" với giọng ca, hòa đàn cũng phải " ăn" với nhau, " ăn ý" , " ăn rơ" thì mới haỵ Các bạn thấy chăng? Cái " ăn" cũng khá quan trọng nên mới lọt vào một số từ ngữ của tiếng nói Việt Nam.
    Tuy chúng ta không như người Trung Quốc " dĩ thực vi tiên" nhưng phải có ăn mới làm nên việc vì có " thực mới vực được đạo"
    nguồn: dactrung
    I remember youFeels like it was yesterdayI remember you
  9. duyk6

    duyk6 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/12/2003
    Bài viết:
    1.164
    Đã được thích:
    0
    Một vài cách ăn thời trước của người Hà Nội
    Hà Nội là nơi thanh lịch, con người ở đây phải thanh lịch từ cách sống tới ẩm thực.
    Hà Nội gạo trắng nước trong,
    Ăn ngon mặc đẹp thoả lòng lứa đôi.

    Trong ăn uống, người Hà Nội không quá xem trọng các món ăn đắt tiền mà xem trọng cách ăn uống, nhất là trọng cỗ bàn, tiệc tùng, cách ăn uống này đôi lúc khiến cho nhiều người ở miền quê khi được mời dự các đám giỗ, đám tiệc ở Hà Nội phải lúng túng bỡ ngỡ.
    Trong mâm cỗ cưới hay khao vọng tại các gia đình sang trọng, ngoài những món sơn hào hải vị còn có một bát kiểu bằng sứ Tàu, trên miệng bát bưng kín bằng giấy hồng điều loại tốt, giữa có dán một hoa chữ thọ bằng giấy trang kim, nếu không phải là người Hà Nội quảng giao, ngồi vào mâm cỗ sẽ không hiểu là món gì lại có sự trang trí kiểu cách như vậy. Người không biết chỉ ngồi nhìn không dám hỏi, khi miếng giấy hồng điều dán hoa lật ra, đây chỉ là một cái bát không, thực khách nếu ngạc nhiên cứ chờ sẽ hiểu: đây là cái bát dùng để đựng xương.
    Khi tiệc gần tan, đồ tráng miệng, một đĩa đào nguyên trái được bưng lên, ít nhất là năm trái cho mỗi mâm cỗ bốn người, bên đĩa đựng trái đào còn thấy một đĩa cơm nếp trắng phau, nóng hổi khói bốc nghi ngút. Thực khách không quen lại phải chờ để hiểu, không lẽ đào ăn với cơm nếp! Thì ra không phải: đào thường có lông như lông măng, cứ để vậy ăn, rát lưỡi mất ngon, lấy dao cạo đi thì dao đâu đủ dùng cho số đông tân khách, phải cầu kỳ lấy trái đào lăn vào cơm nếp nóng, nhờ sức nóng và chất dính của cơm nếp, lông trái đào dính hết vào cơm nếp, như vậy ăn mới mát miệng và mới tận hưởng được hương vị của đào.
    Hoặc thay vì cơm nếp với đào sẽ là một thứ tráng miệng cầu kỳ khác, thí dụ như mâm bánh ngọt để lẫn với một vài thứ trái cây, kèm theo một chén nước mắm loại ngon, bên cạnh có bốn, năm cái tăm bông, tăm bằng tre dài chừng 10 phân đầu to đuôi nhọn, phía đầu có quấn chỉ ngũ sắc, chỗ chỉ ngũ sắc này còn được dán thêm một hình con phượng ngậm một bao thư mầu đỏ, mệnh danh "Phượng hàm thư". Chiếc tăm này sau bữa ăn khách có thể mang về làm kỷ niệm.
    Trước mọi thứ dọn ra như vậy, người khách miền quê khỏi sao bỡ ngỡ, bánh ngọt hay trái cây ăn chấm nước mắm chăng? Không! Ðây là muốn để khách được tận hưởng vị ngon của món ăn tráng miệng: nếu khách thích ăn bánh ngọt trước trái cây, thì lúc ăn trái cây, lấy tăm bông nhúng vào nước mắm, mút đầu tăm để chất mặn làm biến hết chất ngọt, như vậy ăn trái cây mới được thưởng thức hết chất ngon, nhất là chất ngọt của trái cây. Trái lại nếu khách ăn trái cây thì cũng làm như vậy để không cảm thấy bánh ngọt quá.
    Theo Xưa và Nay
  10. kitty85

    kitty85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/12/2003
    Bài viết:
    389
    Đã được thích:
    0
    Bữa cơm gia đình truyền thống người Việt​
    Bữa cơm gia đình - đó là chuyện thường ngày lâu đời dưới mỗi mái nhà. Thế nhưng trong thời đại công nghiệp hiện nay, chuyện thường ngày đó dường như đã bị đảo lộn trong nếp sống thành thị.
    Nhiều người quen dùng bữa trưa tại cơ quan, đơn vị hay hàng quán gần nơi làm việc và chiều đến do giao tiếp, bạn bè rủ rê nên cũng xa dần các buổi cơm tại nhà... Sự đảo lộn đó là một tất yếu hay ngược lại cần phải ?ocứu lấy? bữa cơm gia đình?
    Văn hóa gia đình đóng góp vai trò hết sức quan trọng, tạo nên những nét độc đáo của văn hóa VN, đặc biệt trong phong tục, thường gọi là gia lễ, gia phong, và trong cuộc sống như văn hóa giao tiếp, văn hóa ăn uống...
    Trong thời đại công nghiệp hiện nay ai lúc nào cũng vội vã, bận rộn và có thời gian biểu riêng, tiệc tùng thường xuyên. Trong gia đình ít khi gặp nhau chứ đừng nói hằng ngày lại có dịp ăn cơm gia đình như trước nữa.
    Trong khi đó, nhiều gia đình lớn đã mất đi cái nếp nhà, những cô gái trẻ không còn thích chuyện nữ công gia chánh. Tại học đường cũng không quan tâm đến dạy nữ công gia chánh như trước nữa! Có nguy cơ nhiều món ăn độc đáo trong gia đình bị thất truyền.
    Trong bối cảnh trên, chúng ta phải làm gì? Phải cứu lấy những món ăn độc đáo trong các gia đình lớn. Trước hết, chúng ta cần phải có kế hoạch sưu tầm những món ăn từ những gia đình có truyền thống lâu đời về ăn uống. Nếu được, xây dựng một website 3.000 món ăn truyền thống VN.
    Những quê hương nổi tiếng như Kinh Bắc, Thăng Long - Hà Nội, Ninh Bình, Nghệ An, Huế, Quảng Nam, Biên Hòa, Bình Dương, Gia Định, Mỹ Tho, Gò Công, Sa Đéc, Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá... mà hiện nay rất nhiều gia đình đang lưu lạc tại đất Sài Gòn, khiến tại đây có khả năng sưu tầm và lưu truyền những món ăn đặc sắc của VN.
    Ngoài cỗ giỗ, cỗ tết, cỗ cưới chứa đựng biết bao món ăn đặc sản ba miền, còn có bữa cơm thường ngày gia đình VN, thể hiện nét đặc sắc của văn hóa VN.
    Cấu trúc bữa cơm VN ít nhất gồm ba món. Món thứ nhất là mặn tức các loại kho như thịt, cá, đậu, củ hay trái... Món thứ hai là xào hay luộc đủ loại từ rau, củ, quả với thịt, cá... Món thứ ba là canh đủ loại từ rau, đậu, củ, quả với cá, thịt... Với cấu trúc món ăn như thế, thường thực phẩm được xắt thành miếng nhỏ, vừa mặn như kho hay nhạt như canh hoặc xào, thuận lợi cho việc ăn tập thể hơn là cá nhân riêng rẽ, rất khó chia thành phần riêng (ration).
    Thường thêm đũa thêm bát, món ăn chỉ có vậy mà đông người thêm cũng không sao! Món ăn lại ít thịt, chủ yếu là rau và cơm nên người ta hay nói bữa cơm VN là ?ocơm rau? hay ?ocơm canh?. Đặc biệt món canh rất độc đáo, hầu như trên thế giới chỉ có người VN có cách ăn canh chan vào cơm.
    Bữa cơm VN còn không thể thiếu các loại mắm nước hay mắm cái, dưa cà.
    Anh đi anh nhớ quê nhà
    Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương!
    Món ăn như thế nhiều vị, nhiều chất rất cân bằng âm dương, vừa ngon vừa lành, ít gây tật bệnh. Chính vì vậy mà khi ăn cơm gia đình như thế, người ta rất dễ chịu, không nặng bụng như khi đi ăn nhà hàng hay ăn tiệc.
    Bữa cơm gia đình VN còn rất ấm cúng, trò chuyện thân mật. Mọi người mời nhau, nhường nhịn nhau. Học ăn, học nói, học gói, học mở - Ăn trông nồi, ngồi trông hướng... Ăn uống cũng là bài học, là nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc!
    (www.tuoitre.com.vn)

Chia sẻ trang này