1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

PHÒNG KHÔNG KHÔNG QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM - Phần 12

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi aviator007, 11/10/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Đây là một dãy các mõ xóa đi liên tục, mình post lại 3 lần rồi, để các bạn xem những đứa nào căm thu sự phát triển của topic, bõ, và cái ttvnol này. Điểm mặt chó, đầu tiên là con chó mõ Hoàng.
    ====================

    Bạn gorko đã viết tên là đúng rồi. Ngiuwowif ta dùng một dãy các ăng ten vô hướng để so pha đọc hướng. So pha đọc hướng ở đây không càn phải mã hóa thành số gửi đi xa như các đài Tamara, mà làm trực tiếp trong ống dẫn sóng bằng giao thoa, nên so được từng pha dao động băng X, tức là 2 nửa băng X đến 1/20 tỷ giây. Trong khi đó các đài thụ động mặt đất dùng đồng bộ GPS chỉ được tối đa 1/50 triệu giây. Cùng một nguyên lý, nhưng các đài mặt đất vướng khâu truyền dẫn xa như thế.

    Cách làm này cũng giống như nguyên lý mặt mảng pha, nhưng các ăng ten khác nhau và đầu thu đặt không liên tục, để đáp ứng nhiều chức năng, nhiều loại sóng, và gọn nhẹ xếp xen kẽ trên khung vỏ các thiết bị khí động. Nhược điểm của nó là búp chùm không được đẹp, đi không xa, công suất không mạnh... so với mặt mảng pha các phần tử xếp liền nhau.

    Như vậy, câu hỏi radar đuôi của Su-30 ở đâu các bạn đã hiểu. Và câu hỏi tại sao Tamara phải đặt xa 30 km còn các ăng ten vô hướng của Su-30 đặt gần, thì các bạn cũng đã đóng góp.

    Câu hỏi: ăng ten đuôi Su-30 đặt ở đâu. Câu trả lời là, đó là các thiết bị thu phát rải rác khắp các điểm xa nhau nhất của máy bay, đầu-đuôi dọc thân, 3 đầu mút cánh, trên các cạnh cánh. Thiết bị phát chính là radar mảng pha đường kính nhỏ trên hai đầu mút cánh. CHức năng của cả bộ này là đối kháng điện tử, phát hiện đài radar chiếu đến , trả lời máy hỏi, đo hướng đài radar chiếu đến, nhận dạng radar chiếu đến (và so cường độ để biết tầm), gây nhiễu radar địch chiếu đến, đo đạc vị trí vận tốc các vật thể ở gần, ưu tiên báo động đạn bắn đến, dẫn bắn, chỉ thị mục tiêu (tức là dẫn bắn)... Băng tần của hệ thống này từ 1,2 đến 18 GHz, từ L đến hết Ku.

    Với câu hỏi: Tại sao Tamara so thời điểm nhận tín hiệu phải đặt xa hàng 30km, mà ăng ten Su đặt gần. Câu trả lời là. Tamara đồng bộ qua GPS chỉ được 1/50 triệu giây, và phải mã hóa thành số mới giửi mẫu đi so. Còn Su-30 so pha tín hiệu tương tự trực tiếp trên ống dẫn sóng được 1/20 tỷ giây. Các làm này cũng như là một mặt mảng pha thường, chỉ khác là các phần tử đặt rời rạc không thành mặt.

    Thêm một câu hỏi nữa. Trên thế giới thì hệ thống đối kháng điện tử lớn như thế có trên những máy bay nào. Câu trả lời là. Không có trên máy bay nào. Máy bay gần nhất của phương Tây là EF2000 Typhoon. Nhưng EF2000 chỉ phát triển đọc hướng radar chiếu đến-trả lời máy hỏi-gây nhiễu có hướng, không phát triển chức năng radar. Việc phát triển chức năng radar yêu cầu các ăng ten lọc sạch nhậy cao, chúng ta đã nhìn thấy L-150 dùng xoắn lò so là loại lọc xoắn sạch nhất. Các máy bay khac, đặc biệt tởm lợm là máy bay Mỹ, thì như MiG-21, chỉ đọc tín hiệu radar chiếu đến vô hướng và gây nhiễu vô hướng.

    Cái diễn đàn này thì chỉ có mấy thằng mó đểu như Hoàng là phá hoại mấy nă/m nay thôi. Kệ chó, chúng ta vẫn tiếp tục.


    Lại nhớ đến các lợn quân sử trưng một cái bàn giấy ra bảo đó là bàn đạc !!!! vãi các loại chó thi nhau sủa. Thậm chí thế này. Liên Xô có một chiến dịch hết sức bí mật, dùng tầu ngầm hạt nhân ủng hộ ta năm 1972. Liên Xô cử các tầu ngầm từ Vladivostok tến về Nam Thai Bình Dương. Làm như là dàn trận cho một cuộc đại chiến thế giới, ngăn cản ý định Mỹ có thể đổ bộ ra Bắc trong thời điểm dữ dội nhất của chiến tranh.

    Các lợn quân sử dám đơn đặt , dùng cái nghĩa cử đó để viết một tác phẩm so sánh tầu ngầm Liên Xô rất ồn, bị theo dõi suốt ngày.... Qua hai cuốn hồi ký Xô-Mỹ về cùng một hành trình hai bên theo đuổi nhau.

    Việc này cũng không có gì lạ. Gần đây cám tầu mà các chó dại buôn về có đoạn Tầu phán "Liên Xô bị đóng trong các biển kín", trong khi Liên Xô và Nga độc quyền bắc Băng Dương, địa bàn chiến đấu tốt nhất của các tầu ngầm. Đó là vì, Vladivostok bị đóng kín biển Nhật Bản.

    Sự thật chúng ta đã bàn, căn cứ của hạm đội Thái Bình Dương không ở Vladivostok, là ở Petropavlovsk-Kamchatsky, ở đây có khu hậu cần tàu ngầm hạt nhân, nhà máy sửa chữa tầu, hầm ngầm chỉ huy, và túc trực kỳ hạm của hạm đội. Liên Xô đã dùng các tầu ngầm cổ cái thời tầu ngầm còn chưa có dáng tròn đều, từ Vladivostok đi qua cửa biển hẹp Eo Đối Mã Tsushima , nơi các tầu Mỹ luôn túc trực sẵn, để khua chiêng gõ trống giúp chúng ta. Một nghiã cử như thế nhưng đám chó dại quân sử biến thành một đám cám chó với mục đích như vậy.

    =====




    Bạn hiểu sai về radar nhiều, nhưng bạn có hướng suy ngĩ rất đúng, phải nói rằng, bạn nào có suy nghĩ, có nhận thức, thì mới có những sai như bạn. Những cái sai đó cũng dễ sửa.

    Người ta không theo dõi vị trí mục tiêu để xác định vận tốc bằng radar không chiến bạn ạ. Điều đó chỉ dùng cho các radar dẫn đường hàng không dân sự, tầm xa, thời gian theo dõi lâu. Bởi vì độ phân giải góc củ radar mảng pha bằng tỷ số bước sóng và kích thước ăng ten. Ví dụ Su-30 3cm và 90 cm là trần 2 độ, đạt thực 2,8 độ. Như thế, Su-30 không thể phân biệt được các vị trí khác nhau trong vòng 1km ở xa 30 km. Người ta đếm số mục tiêu trong đó bằng đếm mẫu bạn ạ. Vì không đo được ở mức đó nên không thể đo được vị trí-và tốc độ.

    Người ta đo tốc độ mục tiêu bằng Doppler. Doppler chỉ cho tốc độ tiến đến gần nhau, nhưng căn cứ vào mẫu người ta sẽ các định được hướng mục tiêu và cho ra tốc độ thực. Nếu chính xác hơn, thì sẽ có nhiều đài xa nhau đo tốc độ tiến đến gần từ đài.


    Bạn làm đo đạc thì chắc biết GPS. Phương pháo so lệch thời điểm nhận tín hiệu có độ chính xác rất cao. Các vệ tinh GPS cách mặt đất 20 ngàn km, nhưng cho độ chính xác đến 6 mét. Điều này vượt xa vời độ phân giải chùm sóng truyền thống của Su-30. Vì vậy, đưa lại ưu thế xa với của radar có các corect hướng bằng ăng ten vô hướng ở xa. Các L-500 hoạt động không phải là thụ động, mà thật ra nó là một bộ radar hoàn chỉnh, dùng ăng ten có hướng mảng pha, nhưng làm đúng (corect) hướng bằng mạng các ăng ten vô hướng.

    Các đài radar kết hợp một ăng ten thu-phát có hướng và các ăng ten vô hướng ở xa là mô hình tiên tiến nhất hiện nay. Nó chủ động tín hiệu chứ không như Tamara, và có độ chính xác rất cao so với các ăng ten lấy chùm hướng truyền thống.

    ===

    Bây giờ mình giải thích cho câu hỏi của bạn tại sao Tamara phải đặt các đài thu cách nhau 30km.

    SAI thời điểm, lệch thời điểm nhận được tín hiệu, không phải là giao hội bạn ạ.

    Giao hội là khí tài trinh sát điện tử thời ww2. Người đo hướng sóng ở các điểm xa nhau, kẻ đường giao nhau về một điểm=giao hội. Bạn sẽ thấy trong phim Đức đặt ăng ten lên nóc xe ô tô. Ngày nay Tu-142 cũng thế, nó sẽ đi lòng vòng đảo hướng để săn tầu ngầm đang liên lạc radio. Đó là vì Tuy-142 đắt, không thể văng cả đàn ra dò 1 tầu ngầm, nên dùng cách của ww2.

    Các đài Tamara của Czech phải xa nhau bởi vì nó không phát sóng chủ động. Việc phân tích mẫu để xác định được nhiều đài cùng thu được đúng mẫu ấy, là không đơn giản. Các đài dùng máy tính nhận ra một đoạn mẫu không trùng lặp với các đoạn mẫu khác trong một thời gian dài, mã hóa mẫu đó cùng với thời gian-thời điểm thu được, truyền vào mạng. Các đài so thông tin trên mạng nếu như nhiều đài cùng thu được mẫu đó ở các thời điểm khác nhau, sẽ tính ra vị trí phát.

    Các đài thụ động như Tamara dùng GPS như Navstar Mỹ, Galileo Âu hay Glonass Nga...., để đồng bộ không-thời gian. Độ chính xác không gian là 6 mét, độ chính xác thời gian là 50 phần triệu giây. Có nghĩa là nó không thể so mẫu pha X hay L một phần 10 tỷ giây.


    Vì thế, các căng ten trên cùng một thiết bị có lợi hơn nhiều. Chúng không cần mã hóa tín hiệu thành số, mà nối ống dẫn sóng trực tiếp đến nhau bạn ạ. Vì thế, chỉ cần một kích thước như ăng ten trước của Su-30, nhưng không cần cả mảng pha, mà các ăng ten vô hướng rời nhau... cũng đủ độ phân giải góc như ăng ten trước, chỉ có thiều công suất thu-phát không cao.

    Chính vì thế, việc nối các ăng ten vô hướng ở đuôi và mút cánh với radar lớn sẽ làm tăng độ phân giải góc của ăng ten trước lên, khi ứng phó với những mục tiêu đơn lẻ.

    Việc so mẫu cũng thuận tiện hơn nhiều, vì mẫu này là do chính ta chủ động phát ra, chủ động nhảy tần, chủ động xếp xung số nhận dạng, công suất bức xạ cực lớn so với radar gây nhiễu ở xa.

    Mình ví dụ thế này. Một chuỗi các ăng ten vô hướng được xếp vòng tròn có một đường kính nằm trên phương truyền sóng (để đo hướng sóng đến). Đương nhiên, tín hiệu sẽ cộng hưởng mạnh nhất ở hai ăng ten nằm trên đường kính vuông góc với phương truyền sóng. Với cái vòng 90 phân bạn ngay lập tức có độ phân giải 2 độ.

    Điều này cũng như mặt mảng pha thôi, có điều không để sát các phần tử vào nhau


    Để đo hướng, người ta sẽ nối ống dẫn sóng từ các ăng ten xa nhau vào một thiết bị so lệch tương tự. Nguyên lý của nó hoàn toàn khác đài Tamara so số. So số chỉ được như trên, rất xa vời so với nối trực tiếp ống dẫn sóng vào nhau. Người ta sẽ trích ống dẫn sóng từ một ăng ten ra thành nhiều nhánh rẽ có độ dài tiến tuần tự. Sẽ có nhánh hoàn toàn giao thoa trừ và hoàn toàn giao thoa cộng , với ống dẫn sóng từ ăng ten vô hướng khác. Từ đó sẽ so ra hướng sóng phản xạ và sóng đến.

    Và mình nhắc lại, Sorbtsiya-S là có hướng, cho dù là gây nhiễu có hướng không có chức năng radar, thế thì cái gì đo hướng cho nó.

    Và đã đo hướng cho nó rồi, thì sao không phải là một radar hoàn chỉnh có chức năng thu-phát-đo hướng ?

    Chỉ tại đám lợn nhưng phóng sit nên các bạn mới hoang mang về điều này mà thôi. Thế ra thế giớ này người ta bốc phét cả, chỉ có chó lợn như phóng sit mới đúng.



    Giải thích thêm cho mèo ú chút mình quên ở trên về khái niệm đa búp của phóng sịt. Nó như là việc bạn chiếu ánh sáng vào một cái kính như kính vạn hoa, sẽ xòe ra nhiều chùm. Các chùm này có độ sáng khác nhau, khi ở xa độ sáng này giảm đi, giảm đến mức nào đó thì radar mất tác dụng, mỗi chùm có hình dáng được xác định bằng ranh giới mất tác dụng đó, trông như một cái búp.

    Nếu như một ăng ten mảng pha có số lượng phần tử lớn vô cùng liền nhau, mỗi phần tử cách nhau bước sóng, thì đương nhiên sẽ chỉ có 1 chùm, 1 búp. Ở đây ta giả sử ăng ten ngang 3 mét, bước sóng 3 cm, chỉ có 2 phần tử ở 2 đầu, giữa không có. Thế thì, đương nhiên có một búp là thẳng pháp tuyến. Ví dụ thêm một búp nữa là lệch 1/100 radian thì vẫn đồng pha=vẫn thu phát được. Khi đó đỉnh chu kỳ sau của một bên sẽ nhập với đỉnh chu kỳ trước của một bên. Như vậy, có nhiều chùm được tạo ra chứ không phải một. Đa búp xuất hiện ở các ăng ten nhỏ so với bước sóng, chỉ có 10 hay vài chục phần tử cách nhau một bước sóng. Đa búp được ứng dụng trong cả đo hướng và gây nhiễu. Ví dụ như cái ăng ten xoắn của Kh-31 trên. Ngoài ra người ta dùng các gương và các thấu kính để tạo đa búp. Khi chiếu chùm mảng pha qua một hấu kính đa búp và liếc chùm với tốc độ cao, thì các búp sáng-tối sẽ lắc qua mục tiêu với tần suất rất cao, thuận tiện cho cả gây nhiễu và cảnh giới tầm gần.
    Lần cập nhật cuối: 12/01/2014
    suhomangLarvaNH thích bài này.
  2. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Đây là một dãy các mõ xóa đi liên tục, mình post lại 3 lần rồi, để các bạn xem những đứa nào căm thu sự phát triển của topic, bõ, và cái ttvnol này. ........
    .............

    =====================
    Chúng ta đã xem xét cái ăng ten lắc chảo của F-15, radar AN/AGP-70 và các anh em của nó trên các máy bay khác như F-18, F-16...

    Đó là các ăng ten không hề liếc được góc chùm so với mặt ăng ten, gọi là ăng ten mảng sử lý pha dịch pha cố định, mảng pha tĩnh, static phased array. Nó có một đầu thu phát duy nhất, truyền dẫn sóng qua các ống dẫn sóng rẽ nhánh hình cây, do đó chiều dài từ gốc đến mỗi lá bằng nhau chằn chặn, do đó các phần tử trên mặt ăng ten đồng pha chính xác, sóng phát theo hướng pháp tuyến mặt ăng ten.
    [​IMG]
    [​IMG]


    Ăng ten của radar AN/AGP-70 của máy bay F-15 hoàn toàn phải lắc mặt chảo để dò hướng. Mỗi một hướng nó bao quát được một chùm 4 độ góc hướng, phân biệt các mục tiêu trong đó bằng đếm các xung. Với từng mục tiêu, radar này có thể quan tâm toàn phần thời gian để đo hướng chính xác hơn bằng cách lắc chảo xung quanh vị trí hướng mục tiêu đó, tìm ra góc sáng nhất.

    Vì tốc độ lắc cái chảo 70 phân không thể nhanh, và mỗi mục tiêu cần rất nhiều lần lắc, nên bảo ăng ten này quan tâm đến 5-10 mục tiêu cùng lúc, dẫn bắn 5-10 mục tiêu cùng lúc.... là hoàn toàn bố láo.

    Các ăng ten này hoàn toàn giống ăng ten chảo. Thậm chí, các ăng ten chảo còn đặt nhiều đầu thu phát sát nhau, do đó quan tâm đến cùng lúc nhiều hướng sog song, điều này không thể thực hiện trên mảng pha.

    Các ăng ten như của AN/AGP-70 vẫn như thời MiG-15P. MiG-15P trang bị radar đầu tiên cho máy bay không chiến. Bản thân máy bay MiG-15 khi mới ra đời vắn là súng-mắt thường. Sau đó mới cải tiến có radar. CHính vì thế, MiG-15 và MiG-21 đều không đủ chỗ chứa radar, nó làm các ăng ten rất nhỏ. Nhưng MiG-15P vẫn có 2 ăng ten, một quan tâm đến mục tiêu toàn phần thời gian như trên, một scan cảnh giới. Như thế, nó còn nhanh nhẹn hơn F-15, mặc dù tầm rất gần.


    Tại sao lại chuyển từ chảo sang mảng pha tĩnh ?.

    Đó là vì, chảo parabol không đảm bảo đồng pha. Với ánh sáng đậm tính chất hạt thì không thành vấn đề. Nhưng với sóng đậm chất sóng thì khác. Quãng đường từ mục tiêu đến tâm chảo dài ngắn không đều nhau, tạo giao thoa làm mờ sóng. Cụ thể hơn như hình dưới đây, không thể có công thức chiều dài bằng nhau (Q1-P1-F)=(Q2-P2-F)=(Q3-P3-F). Chính vì điều này, ăng ten mảng pha tính có sóng tốt hơn chảo parabol. Nhưng ăng ten mảng pha tĩnh đắt đỏ, nó được đúc lưới ống dẫn sóng bằng hợp kim Mg cho nhẹ, mặt phủ lớp fero phản xạ.
    [​IMG]




    Cả AN/AGP-70 của F-15 và N011 của Su-30 đều là các radar có ăng ten PESA = Passive electronically scanned array. Các đồng chí chó thường nhấn mạnh diều này. Nhưng thật ra, Su-30 là dịch pha động, dynamic phased array. Trong 1/200 giây Su-30 nhảy chùm đến bất cứ góc nào trong vùng nhìn.

    so với ăng ten radar AN/AGP-77 của máy bay F-22. F-22 là AESA Active electronically scanned array. Đến đây Mỹ mới có dịch pha động dynamic phased array, thay thế dịch pha tĩnh static phased array = AN/AGP-70 của F-15 .

    Rõ ràng là, F-22 có thể nhảy góc nhanh hơn Su-30, nhưng điều đó chỉ dùng được ở tầm ngắn mới lợi ích không đáng kể, mà tầm ngắn thì F-22 quá ù lỳ để không chiến với Su-30. Ngược lại, chưa tính về chất lượng, F-22 buộc phải dùng các linh kiện chưa đủ chất lượng. Cụ thể là transistor chưa đủ 10 GHz, vậy nên phát sinh điện dung mạnh, mà sóng bị tòe cả pha và tần. Điểm quá kém của F-22 là góc. Khi biết liếc chùm so với mặt chảo, thì F-22 lại bỏ lắc chảo. Vì thế cả độ phân giải, độ nhậy, góc... của F-22 đều quá kém so với SU-30.

    Như chúng ta đã bàn, không tính khả năng lắc chảo, chỉ ở góc trước, thì Su-30 làm đúng phép đo góc bằng các ăng ten vô hướng bố trí trên cánh máy bay. Do đó ở góc hẹp chính trước máy bay, thì độ chính xác của ăng ten Su-30 rất lớn.


    Về chất lượng linh kiện, thì AN/AGP-77 của F-22 sử dụng các máy phát sóng độc lập ở mỗi phần tử, tách sóng đi-về , truyền sóng về vào mạng cây ống dẫn được dịch pha. Đó là vì họ không cách ly được công suất lớn gấp hàng tỷ lần giữa sóng đi và sóng về. Điều này dẫn đến radar không hoàn toàn đồng bộ tần số và pha. Nếu nói cụ thể, thì F-22 tách sóng đi-về bằng chuyển đổi phân cực thẳng thành xoắn, khi phản xạ thì xoắn đối chiều phân cực. Họ chuyển đổi bằng phương pháp đặt miếng điện môi dọc ống dẫn sóng, phương pháp này rất nhiễu và hao sóng.

    Một cái radar AESA hoàn chỉnh chúng ta đã bàn, nó khác cấu hình của F-22. Nó vẫn dùng đầu thu phát duy nhất. Nhưng chiều dài dây dẫn sóng được thay đổi nhờ các cầu dao đóng ngắt bằng các transistor cao tần-và chịu đường cùng cũng như cách ly được sóng đi-về. Điều này sẽ làm radar đồng bộ hoàn toàn về tần số, và đồng bộ hơn về pha so với phương án F-22. Nhưng vào thời điểm F-22 ra đời, thì các transistor chưa đủ chất lượng.

    Thực chất, nguyên lý AESA đã được Liên Xô và châu Âu dùng trước Mỹ. Nhưng họ trước tiên dùng trên các dải tần số thấp. Họ chưa vội vàng cho lên băng X của radar không chiến. Mỹ buộc phải dùng do lắc chảo quá lạc hậu của F-15 dùng AN/AGP-70.

    Nối tiếp F-117. Chương trinh F-22 cũng như A-12/F-12/SR-71/MD-12, là một chương trình rửa tiền. F-22 làm mất của nước Mỹ một số tiền khổng lồ cùng với 20 năm phát triển máy bay. Và lại như trước đây, F-15 copy MiG-25, thì T-50 PAK FA lại được copy.

    Trước đây, titan là một nguyên liệu lý tưởng để làm máy bay, Mỹ đã đi tiên phong trong việc làm máy bay toàn bộ bằng titan, 98% khối lượng rỗng, 90% khối lượng khô của A-12/F-12/SR-71/MD-12 làm bằng titan do ... Liên Xô gia công, chế tạo thành cái ****** 50 năm qua thọc cực khoái các chó dại. A-12/F-12/SR-71/MD-12 có đẳng kỹ thuật của MiG-21, với các đặc điểm điển hình: thân trụ, cánh tam giác, mũi hút gióp chóp nón. Điểm kỹ thuật của A-12/F-12/SR-71/MD-12 còn kém MiG-21, tỷ số nén của A-12/F-12/SR-71/MD-12 là 5, của MiG-21 là 8,9. Thời đó tăng tỷ số nén là tăng hiệu suất nhiệt-công mà chưa có các giới hạn khác. Các máy bay này khi bay hết tốc độ không bằng MiG-25/31, vì khi đó chúng chỉ có thể bay thẳng tắp như viên đạn với khoảng cách khoảng 500km. Ví dụ, ngày 31-5-1967, F-12 bay trinh sát Việt Nam, bay từ Okinawa đến Vịnh Bắc Bộ tiếp dầu, sang Thái Lan tiếp dầu, ra biển Quảng Trị tiếp dầu, về Okinawa. Do đó, các máy bay này không thể bay quá nhanh khi trinh sát Liên Xô, do đó chúng bị các MiG-25/31 bám sát chỉ chờ chạm vạch là bắn. Thực tế các máy bay này chưa bao giờ bước chân vào biên giới Liên Xô như các chó dại thường xóc lọ. Đến nay Boeing đã chuyển khâu sản xuất-thiết kế sang Nga, vì Nga độc quyền titan ở Mỹ.

    Ngày nay, máy bay tàng hình cũng như vậy. Chúng ta đã so với Su-30, bây giờ so với T-50 PAK FA.


    Trước tiên, phì ra cười với các ... buôn cám tầu. Chúng thường bảo PAK FA đặt ống máy đẩy bên ngoài không tàng hình, bằng cớ là ống máy đẩy PAK FA cháy đen sì. Dạy cho các chó dại rằng, PAK FA dùng máy turbofan, máy này có đường khí nguội đi bên ngoài, nên không có chuyện vỏ ống bị cháy đen. Đó là người ta thích sơn cái màu đó, giúp tản nhiệt hồng ngoại nhanh, như của A-12/F-12/SR-71/MD-12 .

    Đây là hình máy đẩy turbofan. Vỏ ống máy đẩy cách ly với vùng nóng bởi dòng khí fan rất nguội, cái cám tầu này lợn như thế nhưng mà cũng đã có chó dại buôn vào box này:
    [​IMG]







    Bây giờ, chúng ta bàn đến AESA. Như đã nói trên, F-22 dùng AESA như là dùng PESA. Nó chỉ khắc phục tính không có khả năng liếc góc của F-15.

    Với một AESA hoàn chỉnh thì cấu tạo ăng ten hoàn toàn khác.

    Ưu điểm của AESA là radar mỏng, gồm các phần tử mỏng. Vì vậy, ưu thế của AESA là: dán theo vỏ khí động của máy bay, không cần đặt trong khoang radar. Như thế, ăng ten máy bay có kích thước rất lớn.

    Như chúng ta đã bàn, độ chính xác góc của ăng ten bằng tỷ số của bước sóng và kích thước ăng ten. Như vậy, ăng ten càng lớn thì góc chùm càng nhỏ, càng chính xác. AESA cũng có thế mạnh là tạo hình chùm nhanh, tòe chùm cụp chùm trong 1/1000 giây.

    Mặt khác, chúng ta đã bàn rằng, vỏ tàng hình hấp thụ của F-22 sẽ bị vô hiệu hóa bởi các bước sóng dài. Càng sóng dài, càng tốc váy được máy bay tàng hình. Cùng một vật liệu tàng hình thì bước sóng tăng gấp đôi yêu cầu lớp hấp thụ dầy gấp đôi. Các vỏ hấp thụ máy bay chỉ có thể che mắt được radar không chiến và radar nhỏ trên đầu đạn dùng băng X mà thôi. Từ băng L, nếu đeo đủ vỏ tàng hình thì máy bay quá nặng.

    Nhưng băng L lại có bước sóng to, từ 150-300mm, tương ứng cái ăng ten có độ chính xác như mũi Su-30 phải có kích thước 4,5 mét đến 9 mét. Như vậy, băng L như là dành riêng cho S-300 và S-400, máy bay không chiến nhỏ như T-50 PAK FA không thể mang được cái ăng ten tối thiểu 4,5 mét chảo.

    À, nhưng nhờ có AESA, nên PAK FA mang được cái ăng ten 14 mét. Chúng ta xem sơ đồ.
    [​IMG][​IMG]
    1 là mặt AESA cố định ưu tiên trước. 2 là các mặt phụ ôm sát vỏ khí động,m dùng băng X chính xác cao như cũ. Nhờ vậy, ăng ten không hề cần lắc chảo cơ học tí nào, nhưng tầm quét góc trước vẫn rộng như Su-30. Băng Ka không được dùng nhiều vì dễ bị hấp thụ.
    3 là ăng ten băng L.

    Như vậy, PAK FA sở hữu một ăng ten 2d băng L rất lớn. Để có 3D thì nó chỉ cần vặn mình một cái. Kích thước của cái ăng ten này là 14 mét, đạt độ chính xác góc 2d còn lớn hơn cả ăng ten mũi của Su-30. Khi nhìn góc lệch thì cái ăng ten này còn 6 mét, cũng kha khá. Điều đương nhiên là các tín hiệu 2d này đi cả trước lẫn sau, ưu triên trước.

    Như vậy, cái ăng ten cánh của PAK FA nó coi F-22 hoàn toàn trần truồng. F-22 là một mục tiêu rất lớn bị PAK FA phát hiện từ 400km. Từ đây, PAK FA hoàn toàn có thể dẫn đạn con đến gần, khi đã gần thì đạn con nhận được đủ cường độ phản xạ từ lớp hấp thụ F-22 để xác định chính xác mục tiêu.

    Điều này phát triển tính chiến đấu độc lập so với MiG-31. MiG-31 phải đi theo đàn mới có cái chảo chiều ngang tối đa 800km (tám trăm kilomet, các máy bay dùng liên lạc qua mảng pha băng mm để nối mạng sử lý tín hiệu sóng dài). Bây giờ, chỉ cần một PAK FA đã đủ tốc váy máy bay tàng hình.

    Như thế, Mỹ dùng AESA nhưng dùng như PESA, không hề khai thác thế mạnh của AESA. Đó là vì Mỹ không chủ động kỹ thuật, chỉ học mót lại của Âu-Nga. Khi có các phần tử AESA chưa đủ chất lượng đã buộc phải thay thế lắc chảo. Chúng ta chỉ thấy, ứng dụng đầu tiên của AESA trên máy bay không chiến bên Nga đã hoàn toàn khác biệt so với ăng ten truyền thống: đó là ăng ten bám sát vỏ khí động của máy bay, không cần gò bó trong khoang radar truyền thống.

    Trên kia là ảnh chứng minh khoang dù được cải tiến từ Su-32/34/35... PAK FA dùng cái khấu đuôi để đặt thiết bị điện tử chụp radome. Kích thước lớn của cái radome này thừa sức nhét một cái mảng pha AESA nữa.


    Trước đây, việc mang băng L lên máy bay không chiến là chuyện không thể. Người ta vẫn dùng băng L trên cánh Su-30 chúng ta biết rồi, nhưng nó có hiệu quả chức năng radar rất yếu, phần lớn chỉ để làm nhiễu, chức năng radar vẫn dựa trên băng X.

    Đương nhiên, việc cải tiến các máy bay khác để dùng băng L này cũng là điều nên làm. Như vậy, chúng ta có thể thấy một ngày nào đó có SU-30MK4 chẳng hạn, quay phim F-22 trần truồng chiếu lên cho các chó dại quay tay thỏa thích. Đó mới là ứng dụng AESA

    Và chúng ta trông chờ một nguyên tắc khác, hệ định vị toàn cầu dễ nhiễu, nhưng các máy bay tấn công mục tiêu từ tầm xa hàng trăm km cơ mà, máy gây nhiễu trên mục tiêu đáng mấy. Mặt khác, các ăng ten mảng pha thu sóng vệ tinh cũng không cần lắc chảo, dễ dàng corect tín hiệu vệ tinh định vị xem đó là giả hay thật, và chống nhiễu. Như vậy, các máy bay sẽ truyền cho nhau vị trí chính xác đến 6 mét. Điều này thuận tiện cho việc các máy bay nhỏ rẻ như MiG-21 bay đội hình thành chảo hàng trăm km như MiG-31, nhưng với máy móc nhỏ rẻ, cũng tốc váy máy bay tàng hình.

    Mặc khác, những cái chảo hàng chục hàng trăm km ấy có độ chính xác rất cao so với radar truyền thống, vậy nên chúng có thể dẫn đạn vào thật là gần, để nhìn thật là rõ máy bay tàng hình.

    Tất cả những điều đó là cả một thế hệ phát triển mới dựa trên AESA, nhưng người Mỹ chỉ dùng AESA như PESA.
    Last edited by a moderator: 12/01/2014
    suhomangLarvaNH thích bài này.
  3. gorko

    gorko Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2013
    Bài viết:
    1.224
    Đã được thích:
    2.439
    Thế là cả nhà nhất trí là tên lửa hồng ngoại hổng có dẫn bắn được bằng bộ RWR thu tín hiệu vô tuyến thụ động Pastel L 150 nhỉ .
    Đề nghị cho 3 lần vỗ tay và trịnh trọng đề nghị nên nhịn cười .
    kuyomuko thích bài này.
  4. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    L-150 có chức năng chỉ thị mục tiêu, muốn có chỉ thị mục tiêu phải biết mục tiêu ở đâu. Còn đạn nào đó được dẫn như thế nào thì không đơn giản.

    Ví dụ, đạn hồng ngoại truyền thống khi bắn mục tiêu nằm ngoài góc nó bám được khi chưa xuất phát, thì nó được lái bởi radar máy bay mẹ và sẽ tìm kiếm mục tiêu theo chỉ thị của mẹ trên đường bay cho đến khi lock được. Những đạn hồng ngoại siêu cổ bắn trược tiếp thời MiG-21 thì phải lock lúc chưa xuất phát, điều khiển đơn sơ của chúng chỉ bẻ cánh lái để giữ mục tiêu luôn ở trong tâm cảm biến.

    Đạn radar thì có ăng ten nhỏ, nên không thể nhìn thấy mục tiêu ở xa, chúng được mẹ lái vào gần cho đến khi chúng đủ sức nhìn thấy mục tiêu.

    Do đó, các đầu đạn S-300 và S-400 dùng băng sóng X tần số cao (lên đến Ku), nhưng được dẫn bằng băng L của mẹ.


    Để xác định hướng của mục tiêu phía sau bằng ăng ten vô hướng, nhiều loại máy bay đặt các ăng ten vô hướng thành một dãy. Nó như là ăng ten của thuyền đánh cá Sloted Antenna. Mỗi một hàng cảm biến như thế tạo thành một mảng pha 2d. 2 cái như thế là 3d.

    Trong máy bay thì không thể quay được thanh đục lỗ như thuyền đánh cá, nên người ta làm khác. Người ta chia sóng từ các lỗ thu sóng vào các ống dẫn sóng dài ngắn khác nhau. Những ống dẫn từ nhiều lỗ với chiều dài ngắn khác nhau sẽ nhập vào một thu-phát, tạo thành hướng. Nó cũng như là một mặt mảng pha chia ra nhiều đầu thu-phát khác nhau làm việc song song nhiều hướng.

    Mỗi cái ăng ten như thế rất rẻ. vậy nên các máy bay châu ÂU cũng dùng phương pháp này để làm thành một "nửa radar". Vì họ dùng các cảm biến không được sạch, ví dụ như đổi xoắn-thẳng bằng tấm điện môi đặt dọc ống dẫn sóng, nên chỉ dùng đo hướng các tín hiệu mạnh như radar chiếu đến, và gây nhiễu có hướng.

    Từ đó để có chức năng radar hoàn chỉnh, thì cần tăng độ nhậy các cảm biến lên, vì so với mặt mảng pha hay chảo, thì công suất thu được từ các cảm biến vô hướng là yếu. L-150 dùng chóp là loại ăng ten lọc phân cực rất sạch đã biết. Và thêm nữa nó phát sóng khá mạnh để phản hồi cũng mạnh.
  5. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    =============


    Giải thích thêm cho mèo ú chút mình quên ở trên về khái niệm đa búp của phóng. Nó như là việc bạn chiếu ánh sáng vào một cái kính như kính vạn hoa, sẽ xòe ra nhiều chùm. Các chùm này có độ sáng khác nhau, khi ở xa độ sáng này giảm đi, giảm đến mức nào đó thì radar mất tác dụng, mỗi chùm có hình dáng được xác định bằng ranh giới mất tác dụng đó, trông như một cái búp.

    Nếu như một ăng ten mảng pha có số lượng phần tử lớn vô cùng liền nhau, mỗi phần tử cách nhau bước sóng, thì đương nhiên sẽ chỉ có 1 chùm, 1 búp. Ở đây ta giả sử ăng ten ngang 3 mét, bước sóng 3 cm, chỉ có 2 phần tử ở 2 đầu, giữa không có. Thế thì, đương nhiên có một búp là thẳng pháp tuyến. Ví dụ thêm một búp nữa là lệch 1/100 radian thì vẫn đồng pha=vẫn thu phát được. Khi đó đỉnh chu kỳ sau của một bên sẽ nhập với đỉnh chu kỳ trước của một bên. Như vậy, có nhiều chùm được tạo ra chứ không phải một. Đa búp xuất hiện ở các ăng ten nhỏ so với bước sóng, chỉ có 10 hay vài chục phần tử cách nhau một bước sóng. Đa búp được ứng dụng trong cả đo hướng và gây nhiễu. Ví dụ như cái ăng ten xoắn của Kh-31 trên. Ngoài ra người ta dùng các gương và các thấu kính để tạo đa búp. Khi chiếu chùm mảng pha qua một hấu kính đa búp và liếc chùm với tốc độ cao, thì các búp sáng-tối sẽ lắc qua mục tiêu với tần suất rất cao, thuận tiện cho cả gây nhiễu và cảnh giới tầm gần.
    ===========





    Mình tổng kết lại những gì bên trên chút.


    bây giờ so sánh các PESA N011 của Su-30 và AN/AGP-70 của F-15.

    Một là ăng ten trước của Su-30. Su-30 dùng ăng ten mảng pha dịch tần động, dynamic phased array. Còn radar AN/AGP-70 của F-15 là static phased array=mảng các sử lý pha dịch pha tĩnh.
    Nguyên lý của các mảng pha tĩnh là nó hoàn toàn không liếc được góc chùm so với mặt chảo, nên hoàn toàn lái chùm bằng lắc mặt chảo. Cấu tạo đó dù có hoàn thiện đến mấy thì vẫn không khác gì MiG-15P, là loại radar không chiến đầu tiên trang bị cho máy bay không chiến.

    Nguyên lý của mảng pha tĩnh như sau. Bởi vì chảo parabol tạo ra không hội tụ về pha , nên người ta thay chảo đó bằng mảng pha tĩnh. Mảng pha tĩnh có các ống dẫn sóng hình cây, gốc là đầu thu-phát duy nhất, chia nhánh đến các lá là các phần tử trên mặt. Do đó, chiều dài ống dẫn sóng từ gốc đến các lá bằng nhau chằn chặn, toàn bộ các lá đồng pha.

    Ăng ten mảng pha dịch pha tĩnh có hai nhược điểm lớn sau: một là, buộc phải lắc chảo rất chậm. Hai là, tạo hình chùm là cố định, chùm không thể xòe ra cụp vào. Các con số F-15 cùng lúc theo dõi được en nờ mục tiêu, tấn công en nờ mục tiêu.... là tầm bậy chỉ vào não lợn.
    [​IMG]



    So sánh với ăng ten N011 của Su-30, mini AWACS
    [​IMG]





    Su-30 sử dụng ăng ten mảng pha dịch pha động. Nhưng N011 của SU-30MK điều khiển dịch pha bằng cơ học, chưa điều khiển dịch pha bằng điện tử. Ở ăng ten mảng pha dịch pha động cơ học, đầu thu phát vẫn là duy nhất, nhưng mỗi phần tử mảng có riêng một ống dẫn sóng đến đầu thu phát. Sóng đi qua một cái trống quay với tốc độ hàng trăm vòng mối giây, chiếu vào các đầu ống dẫn sóng trong, tạo thay đổi lệch pha sau mỗi vòng quay, mỗi vòng quay ăng ten hướng đến bất kỳ hướng nào trong vùng nhìn. Do tốc độ sóng đi về ở 150km là 1/1000 giây, nên tốc độ nhảy góc vài trăm giây một lần là đảm bảo, quá nữa không cần.

    NGoài liếc chùm so với mặt chảo, Su-30 còn lắc được mặt chảo. Su-30 có đường kính ăng ten trước hơn 90cm, liếc chùm được 60 độ thì còn một nửa, lắc mặt chảo thêm 60 độ. Như vậy, Su-30 có góc nhìn trước là 120 độ mỗi bên, 240 độ toàn vùng. Ở góc liếc-lắc hết cỡ 120 độ mỗi bên, thì độ chính xác và độ nhậy giảm còn một nửa. Ở góc 30 độ chính trước máy bay thì độ chính xác tăng vọt do sự hỗ trợ của các ăng ten vô hướng hiệu chỉnh độ chính xác góc mục tiêu.

    Nếu như so sánh. F-15 không liếc được chùm, chỉ lắc được mặt, được 60 độ mỗi bên là 120 độ. Đường kính ăng ten F-15 là 70 phân. Khi Su-30 liếc chùm hết cỡ thì độ phân giải bằng 2/3 F-15, độ nhậy bằng nhau, cường độ của Su-30 cao hơn nhiều. Còn khi không liếc thì Su-30 có độ phân giải gấp rưỡi, độ nhậy gấp đôi, góc lắc chảo hai máy bay bằng nhau.

    Tóm lại, ăng ten của F-15 quá cổ lỗ như là MiG-15P, chỉ to xác hơn.

    Ăng ten của Su-30 cũng tạo được hình chùm, nhưng tạo hình chùm đơn giản, chụm-xòe chùm với những phép đo khác nhau ở mức độ nhỏ.


    Bây giờ chỉ so sánh cấu hình ăng ten của SU-30 và F-22, chưa so chất lượng .
    F-22 cũng là ăng ten mảng sử lý pha dịch pha động, dynamic phased array. Nhưng ăng ten AN/AGP-77 của F-22 là dịch pha điện tử, AESA. Nó cho phép tạo hình chùm từ bán cầu sang hẹp nhất, nhảy đến bất cứ góc nào trong vùng nhìn, chỉ trong 1/1000 giây.

    Điều đầu tiên thấy là. Mỹ quá tụt hậu so với Su-30MKI. Vậy nên buộc phải có dymamic phased array, mặc dù cho đến nay AESA còn chưa đủ chất lượng.

    F-22 có mặt ăng ten cố định, chữ thập, 90 phân. Kích thước ngang của nó gần bằng Su-30, nhưng diện tích nhỏ hơn nhiều. Như thế nếu như cùng một chất lượng thì độ nhậy giảm đi so vơi Su-30 nhưng độ phân giản thì ngang.

    Tuy nhiên, F-22 chỉ có liếc chùm không có lắc chảo. Nó chỉ được 60 độ mỗi bên là 120 độ. Góc này bằng với F-15. Khi liếc hết cỡ 60- độ, thì F-2 có độ phân giải và diện tích giảm một nửa. Diện tích F-22 khi liếc hết cỡ bằng F-15. Còn kích thước=độ phân giải khi đó chỉ bằng 2/3 F-15. Ưu thế duy nhất của F-22 là tạo hướng chùm nhanh.

    Tốc độ liếc của F-22 cao gấp 5 lần Su-30. Nhưng, như nói trên, phải đợi sóng đi về và sử lý, nên ở tầm xa điều này là vô ích. Còn ở tầm gần thì F-22 hơn cả tạo chùm rất rộng và liếc nhanh. Thế nhưng máy bay F-22 không phải là máy bay không chiến mạnh ở tầm gần, nó có sức cơ động rất kém.


    F-15 chỉ lắc chảo không liếc chùm được mối bên 60 độ là 120 độ.
    F-22 chỉ liếc chùm không lắc chảo cũng 120 độ như vậy.
    Su-30 vừa có công suất mạnh, vừa lắc chảo 60 độ, vừa liếc chùm 60 độ, 120 độ mỗi bên là 240 độ.


    Nhưng quan trọng hơn với F-22 là chất lượng AESA từ từng phần tử chưa hoàn thiện. Nó bị tòe cả tần, cả đồng bộ=tòe hình chùm, tòe cả phân cực.

    F-22 dùng phân cực xoắn. Nó convert xoắn - thẳng bằng miếng điện môi đặt học ống dẫn sóng. Tại sao nó làm như thế. Đó là vì, khi phản xạ thì phân cực xoắn đảo lại, L thành R và ngược lại. Do đó, sẽ tách sóng đi về thành hai kênh khác nhau, nó sẽ phát ở một phân cực thẳng, chuyển thành một xoắn, truyền đi, phản xạ đảo xoắn, về chuyển thành một thẳng vuông góc với thẳng đã phát.

    Đó là vì, F-22 chưa cách ly được công suất cực mạnh khi phát với các máy thu. Nó làm việc như một "AESA mảng pha giả". Tức là, mỗi phần tử mảng có máy phát riêng, do đó không chụm cả pha lẫn tần.

    Có nhiều hãng đã bán các radar phân cực xoắn. Nhưng trước đây các hãng đều không ai dùng tqachs đi-về củ chuối của F-22. Người ta dùng luôn hai mặt thu-phát khác nhau, hoặc để tiết kiệm không gian trên máy bay thì sóng đi hay về sẽ được phản xạ đảo phân cực một lần.

    Chúng ta có thể hình dung một mảng pha hoàn chỉnh thế này. Đó là, người ta dùng các switch (cầu dao) để đóng nối các đoạn dây dẫn dài ngắn khác nhau, do đó chỉnh được chiều dài truyền sóng, dịch được pha theo mệnh lệnh. Và ăng ten vẫn thu phát bằng một đầu thu phát duy nhất như trước đây.

    Các cầu dao dó đương nhiên là các transistor cao tần. Với băng L trở xuống (2 GHz đổ xuống), thì các transistor to ấy bây giờ rất rẻ trong các máy thu vệ tinh gia đình. Nhưng ở Ku 10 GHz thì hoàn toàn khác. Khi sử dụng các đèn chưa đủ chất lượng, thì sẽ sinh ra điện dung, làm méo sóng lệch tần. Vì thế, thật ra AESA là Liên Xô và châu Âu dùng từ lâu, nhưng chưa vội tương lên ăng ten nhỏ băng X của máy bay.

    Thay cho các switch đó, F-22 sử dụng các máy phát nhỏ rời nhau ở mỗi phần tử, do đó nó quá tòe. Đến mức F-22 bỏ lưới lọc tần truyền thống của Tây đi vì quá tòe tần. Tòe tần sẽ làm đục thủy tinh thể, dễ gây nhiễu, yếu. Còn tòe pha sẽ làm lệch hướng, bị loạn thị cận thị.


    Việc chuyển xoắn - thẳng bằng miếng điện môi đặt dọc ống dẫn sóng cũng rất nhiễu, chỉ dùng cho máy thu vệ tinh gia đình. Nó vừa nhiễu vừa làm hao sóng, hao đi cả 1/2 sóng. Cũng là xoắn AESA, các ăng ten của Nga hiện nay dùng cho hệ thông ABM đặt ở Kamchatka mới dùng 2 mảng pha, dùng lọc lò xo cực sạch, một bên thu và một bên về. Nhưng đương nhiên đó là bước sóng dài hơn X nay đã đủ chất lượng.

    Đó là nói các vũ khí đã trang bị. Còn các vũ khí sắp ra đời thì cái transistor băng X đã đẹp rồi. Vì vây đương nhiên T-50 sẽ dùng AESA, nhưng cấu hình ăng ten hoàn toàn khác F-22.
    Last edited by a moderator: 12/01/2014
    suhomanghalosun thích bài này.
  6. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    ===============







    ================


    "Để phát hiện hướng và góc của nguồn phát sóng của cả mục tiêu trên không lẫn trên mặt đất, các máy bay chiến đấu của Nga như Su-24M2 và Su-30 sửdụng Pastel L-150. Để định tầm và định vị mục tiêu thì chúng có thể sử dụng:
    1 - Radar của máy bay được chỉ định hướng và góc quét bởi Pastel L-150,"



    Mình cópy lại chút

    Hệ thống các ăng ten vô hướng của Su-30 là PRGS-L-150 - Airborne Multifunctional, Radar Warning, Targeting and Control System
    Airborne=trên máy bay
    Multifunctional=đa năng
    Radar Warning= chức năng cơ bản, nhận biết radar chiếu đến
    Targeting=chức năng radar, đo vị trí và tốc độ mục tiêu, nhận biết loại mục tiêu, dẫn bắn.
    Control System= điều khiển, ví dụ nó trả lời máy hỏi, cung cấp thông tincho ECM...

    Trong đó chức năng "Radar Warning= chức năng cơ bản, nhận biết radar chiếu đến" là chức năng cơ bản, nước nào cũng có, Mỹ cũng có. Ít nhất nó phải nhận biết được radar ta và trả lời máy hỏi của radar ta
    .


    PRGS-L-150 là ăng ten vô hướng. Như vậy, quan trọng là PRGS-L-150 nó đọc hướng như thế nào. Cái này mình đã nói rồi. Trong hệ thống thu-pháp của Su-30, các đồng chí nghiện sách tây thường nói Sorbtsiya-S chỉ là gây nhiễu, không phải radar. Mình đã nói rồi, nếu chỉ để gây nhiễu thì người ta làm thu mà làm gì, có hướng mà làm gì, và làm đến những 2 bộ thu-phát ở hai vị trí xa nhau nhất về chiều ngang máy bay mà làm gì.

    Cái ăng ten mảng pha và quả dừa chất điện môi của nó rất nặng, cồng kềnh. Đành rằng gây nhiễu có hướng cường độ sẽ mạnh hơn. Nhưng cái chùm của radar này rất tòe, nên chỉ mạnh hơn được chục lần. Trong khi đó, thay 2 cái ăng ten mảng pha ấy bằng cái máy phát vô hướng thì công suất phát lại mạnh hơn gấp nhiều chục lần.

    Tại sao lại gọi Sorbtsiya-S là ECM=đối kháng điện tử. Bởi vì nó tham gia vào chức năng này. Nhưng không chỉ chức năng này. Cũng như PRGS-L-150 đương nhiên là đối kháng điện tử ECM, nhưng nó cũng tham gia vào các công việc khác.





    L-150 là cái gì ?


    Thứ nhất, nó không phải là một thiết bị, mà là một seri các bộ thiết bị. Mỗi bộ thiết bị trang bị cho một máy bay, như Mi-28 hay Su-30, MiG-29 hay Su-27, Su-24 hay Su-25... Các bộ thiết bị đó đương nhiên là hiện đại hóa khác nhau tùy vào tuổi máy bay.


    Thứ 2, mỗi bộ thiết bị đó cũng bao gồm nhiều thiết bị được nối với máy tính trung tâm.


    Thêm nữa, các thiết bị ECM của Nga đều phải đáp ứng dải rộng 1-10 GHz (X đến L), điều đõ cũng còn chưa đủ vì ngày nay các bước sóng ròn rộng nữa. Thực chất Nga không phân X-L... như Tây, mặc dù quảng cáo thương mại của họ cũng tương thích. Ví dụ L-150 hiện đại đảm nhận các tần số 1,2 GHz (L) đến 18 GHz (Ku), bao gồm trọn bộ L-S-C-X-Ku theo tên Tây. Điều này vẫn chưa đủ để đối phó với Radar Liên Xô và Nga, vì còn thiếu VHF-UHF. Chức năng gây nhiễu VHF-UHF sử dụng trên các máy khác (tận dụng luôn máy liên lạc radio, các xung truyền tin xen kẽ các xung gây nhiễu). VHF-UHF là các băng từ 150 MHz đến 1000 MHz, nhóm sóng TV. (tùy ngành mà người ta chia chính xác khác nhau, ví dụ ngành vệ tinh truyền hình thì ranh giới UHF-L là 950 MHz). Không gây nhiễu băng mm (bên Tây có các Ka-Q-U-V-E-W-F-D... ), vì các bước sóng ngắn này bị hấp thụ bởi vỏ tàng hình rất mạnh, dễ tàng hình sạch.


    Như vậy, với các radar tây thì L-X là quá đủ.


    Có thể quan sát ảnh của nó và chức năng của nó trên trang của hãng sản xuất.

    http://eng.ktrv.ru/production_eng/323/529/530/

    [​IMG]
    Các đời cũ hơn của L-150 của Su-27
    [​IMG]
    Đây là bộ L-500 của Mi-28, nhớ mặt các chóp nón ta sẽ bàn ở cuối post
    [​IMG]




    Mình định nghĩa một chút.

    Một là . L-150 có chức năng trên, lợn nào không muốn gọi nó là radar thì tùy.

    Hai là. Nó toàn ăng ten vô hướng. Vậy thìL-150 Pastel đo hướng thế nào. Cái này mình đã nói rồi.



    Mình giải thích lại đôi điều.


    Đầu tiên là, chức năng thu radio vô hướng các sóng radar là chức năng cơ bản của tác chiến điện tử trên máy bay. Máy bay nước nào cũng có. Ít nhất, nó cần nhận biết radar của ta và trả lời máy hỏi. Máy hỏi của radar là thiết bị truyền tín hiệu hỏi mật khẩu qua sóng radar, mục tiêu không trả lời được là bắn.


    Thứ hai là, chuyện các ăng ten có hướng (mảng pha và chảo) được làm đúng hướng (tức là đọc hướng chính xác hơn tỷ số kích thước mảng pha chia cho bước sóng, corect hướng), bằng các ăng ten vô hướng, là chuyện bình thường, được áp dụng từ lâu ở các radar hệ Liên Xô.


    Thứ ba là, hệ thống trinh sát điện tử được phát triển từ thời ww2 ở cả Đức và Nga, ban đầu chỉ là để dò gián điệp biệt kích, và các trung tâm chỉ huy ở phía sau chiến tuyến. Ngày nay đã phát triển thành các radar thụ động diện rộng.




    Tại sao lại lỉnh kỉnh nhiều đầu thu-phát thế cho một cái Pastel L-150 ? Câu trả lời dó là các phân cực. Bảo anh phóng sịt anh ấy giải thích cho bà con phân cực như thế nào. Nhưng anh ấy chỉ biết phân biệt cám nó thế nào.
    Các bạn có thể tham khảo điểu này ở đây
    https://sites.google.com/site/angte...inh-ve-tinh/low-noise-block-downconverter-lnb
    Bang L là băng truyền từ ăng ten vệ tinh vào máy thu, băng X là Ku


    Phân cực thì học phổ thông ai cũng biết sơ. Sóng âm là sóng dọc không có phân cực. Nhưng sóng ngang thì có phân cực. Hai phân cực thẳng là hai phân cực sóng ngang vuông góc với nhau. Thường chia ra đứng và ngang (vertical và horizontal polarization), các vệ tinh địa tĩnh là Bắc-Nam và Đông Tây, chiều phân cực được đặt tên theo chiều dao động điện trường, vuông góc với chiều dao động từ trường. Những máy thu đơn giản cần tránh phân cực nên các đài phát VOV sẽ phát linh tinh phân cực. Nhưng với vệ tinh cần tiết kiệm tối đa băng tần thì cần chia phân cực. Ví dụ, vệ tinh Thaicom-5 phát mỗi tần số Ku hai phân cực thẳng (linear polarization), như 12272H và 12272V. Khi thu, cần vặn ăng ten (gọi là góc xoắn LNB, LNB skew viết tắt là góc S, LNB là cái cục ở tâm chảo) nếu vặn hoàn toàn ở hướng H thì không thu được V và ngược lại, vì thế, một tần số nhưng phát được 2 sóng hoàn toàn khác nhau. Nếu như vặn LNB ở giữa hai phân cực thì sẽ bị trộn nhiễu sang nhau (trong thực tế LNB dùng 2 kim thu đặt vuông góc cho 2 phân cực thẳng, sóng đi qua kim thu thư snhaats lấy 1 phân cực, sau đó được một thanh lọc lọc sạch phân cực đã thu-và phản hồi về trước cho kim thu vừa nói, còn lại kim thu 2 chỉ còn một phân cực sạch).

    Phân cực thẳng (linear polarization) sẽ bị vặn khi phản xạ ở các mặt khác nhau, nhờ vậy tạo thành các đặc trưng góp vào mẫu để nhận dạng mục tiêu. Kỹ thuật tàng hình của F-117 và B-2 là các lưới lọc phân cực, là cái mành gồm những sợi dây dẫn điện mảnh chăng song song trên một mặt phẳng, nó biến tuốt tuồn tuột các phân cực thẳng xoắn thành một phân cực thẳng duy nhất và hắt về một hướng duy nhất vuông góc với mặt, kỹ thuật này quá hề và đó là thảm họa với quân Mỹ khi đầu tư nhố nhăng. F-22 dùng kỹ thuật hoàn toàn khác là vỏ hấp thụ,học theo châu Âu và Nga.



    Nhưng có điều khó hiểu hơn so với phổ thông là phân cực xoắn Circular Polarization. Phân cực xoắn là phân cực mà chiều dao động điện trường quay tròn một vòng sau mỗi chu kỳ. Nó chia ra làm 2 là R và L, thuận và ngược chiều kim đồng hồ.

    [​IMG][​IMG]


    Phân cực xoắn có những ưu nhược gì ?

    Nếu nhìn ở trên, dễ thấy là ăng ten quay như thế nào cũng được. Chính vì thế, nó tiện cho thông tin di động. Vệ tinh KASAT-1 và các VIASAT dùng đài của nó như vậy, chỉ cần hướng ăng ten chảo vào mục tiêu, không cần xoắn LNB, là thu phát được.

    Phân cực xoắn được biến đổi xuôi ngược thành phân cực thẳng bằng nhiều cách. Người ta có thể đặt một cục điện môi ở trước mặt Sorbtsiya-S. Đây là chức năng chính của quả dừa này, nó tạo thành phân cực xoắn mà cái anh lợn phóng sit anh ấy bảo là búp sóng, vì anh ấy nhìn sơ đồ đồ thị điện từ trường. Một phần phân cực thẳng của mảng pha được biến thành xoắn. Mà cái loại lợn quân sử mọc ở đâu ra, máy gây nhiễu không gây nhiễu được xoắn thì người thoải mái dùng xoắn à.

    Phân cực thẳng đi qua miếng điện môi thích hợp sẽ thành xoắn và ngược lại

    [​IMG]Đơn giản nhất các ăng ten vệ tinh dùng là đặt một miếng chất điện môi trong ống dẫn sóng. Khi mua một LNB xịn thì bạn sẽ thấy trong hộp miếng này. Vì vệ tinh ở ta toàn thẳng nên việc đầu tiên ứng dụng là ném nó đi. Một chiều xoắn sẽ chuyển thành một chiều phân cực thẳng, hai xoắn thành 2 thẳng.

    [​IMG]
    Các lỗ, chốt, tấm dẫn điện hay điện môi bậc thang
    [​IMG]

    Chốt to ngoài trời http://www.hamtv.com/oal.html

    [​IMG]



    Các bạn có thể quan sát ăng ten phân cực xoắn lò xo , ăng ten lò xo có nhược điểm là chỉ thu=phát duty nhất một phân cực xoắn.


    vệ tinh nhắn tin-định vị Parus. Tầu ngầm 636 nếu là của Nga dùng sẽ có cái ăng ten này để liên lạc với các vệ tinh trên toàn cầu. Có 2 ăng ten phân cực xoắn 2 chiều ở phía trước tháp 636.
    http://space.skyrocket.de/doc_sdat/parus.htm
    [​IMG]
    Một trong những đầu dẫn của Kh-31, L112E
    [​IMG]






    Ekran là vệ tinh DTH đầu tiên trên thế giới. DTH= direct to home, truyền hình trực tiếp đến từng gia đình không qua các trạm tiếp sóng. Công suất mỗi TP của hệ thống là 200w, Mỹ lúc đó là 13 w, dùng mảng pha xoắn lò xo đơn giản.
    [​IMG]







    Trong radar, khi phản xạ thì xoắn đổi chiều. Một đặc điểm của phân cực xoắn là ăng ten lò xo lọc hai xoắn cực kỳ sạch (nhưng mỗi lò xo lại chỉ chùng được cho một xoắn, còn tấm điện môi thì cùng lúc thu 2 xoắn). Và Xoắn ít có trong nhiễu thiên nhiên. Vì thế, mục tiêu bị phân cực xoắn phản xạ rất chói rõ.


    Máy bay F-22 cũng xoắn. F-22 xoắn bằng tấm điện môi đặt dọc tube dẫn sóng như ăng ten vệ tinh nói trên, nó lọc không sạch, 1 xoắn đi và 1 xoắn về (khi phản xạ thì đổi chiều). Nó làm như thế vì không cách ly được công suất cực mạnh của phát so với thu trên cùng một đường dẫn sóng, nên khi phản xạ đổi chiều xoắn sẽ cách ly hai đường, và cùng một mặt mảng pha không dùng được lò xo lọc sạch vì mỗi lò xo chỉ cho một chiều xoắn đi qua, trong khi tấm điện môi sẽ convert 2 phân cực xoắn thành hai phân cực thẳng ở các góc +- 90 độ so với tấm. Cái radar AN/AGP-77 của F-22 là một thảm họa của quân Mỹ. Nó làm nước Mỹ mất 20 năm phát triển máy bay.

    Trạm radar đánh chặn ABM mới của Nga ở Kamchatka cũng xoắn nhưng một mảng pha thu và một mảng pha phát rời nhau (cấu hình mảng pha twin plat, rất hay được dùng cho các radar phân cực xoắn).



    Cái vấn đề ta cần bàn ở L-150 là hai cái chóp nón trên ảnh Mi-28 trên. Nhìn các ăng ten kia, các bạn đã biết đó là phân cực xoắn lò xo, gồm một dây dẫn điện lò xo chóp nón đúc kín trong chất điện môi mạnh. Nó không đơn giản như miếng điện môi nhét LNB ăng ten gia đình, và càng không đơn giản như quả dừa "thấu kính phóng sịt". Đó là ăng ten phân cực xoắn lọc rất sạch, 2 ăng ten xoắn 2 chiều. Trên các máy bay khác thi đương nhiên cũng có nhưng chúng được đúc trong các cục điện môi có hình dáng vỏ ngoài khác nhau nên không lấy làm ví dụ.

    Như vậy, tuy là ăng ten vô hướng, nhưng không phải một cái râu là thu được tất cả các phân cực. Điều này càng phức tạp hơn với yêu cầu từ L đến X, và điều này lại càng phức tạp hớn nữa với yêu cầu lọc sạch. Đó là lý do vì sao L-150 lại lắm ăng ten đến thế.


    Tóm lại, L-500 là một bộ thiết bị thu-phát vô hướng, lọc rất sạch, bố trí dọc thân máy bay, đáp ứng đủ các phân cực và tần số L-X.


    Giải thích thêm cho mèo ú chút mình quên ở trên về khái niệm đa búp của phóng sịt. Nó như là việc bạn chiếu ánh sáng vào một cái kính như kính vạn hoa, sẽ xòe ra nhiều chùm. Các chùm này có độ sáng khác nhau, khi ở xa độ sáng này giảm đi, giảm đến mức nào đó thì radar mất tác dụng, mỗi chùm có hình dáng được xác định bằng ranh giới mất tác dụng đó, trông như một cái búp.

    Nếu như một ăng ten mảng pha có số lượng phần tử lớn vô cùng liền nhau, mỗi phần tử cách nhau bước sóng, thì đương nhiên sẽ chỉ có 1 chùm, 1 búp. Ở đây ta giả sử ăng ten ngang 3 mét, bước sóng 3 cm, chỉ có 2 phần tử ở 2 đầu, giữa không có. Thế thì, đương nhiên có một búp là thẳng pháp tuyến. Ví dụ thêm một búp nữa là lệch 1/100 radian thì vẫn đồng pha=vẫn thu phát được. Khi đó đỉnh chu kỳ sau của một bên sẽ nhập với đỉnh chu kỳ trước của một bên. Như vậy, có nhiều chùm được tạo ra chứ không phải một. Đa búp xuất hiện ở các ăng ten nhỏ so với bước sóng, chỉ có 10 hay vài chục phần tử cách nhau một bước sóng. Đa búp được ứng dụng trong cả đo hướng và gây nhiễu. Ví dụ như cái ăng ten xoắn của Kh-31 trên. Ngoài ra người ta dùng các gương và các thấu kính để tạo đa búp. Khi chiếu chùm mảng pha qua một hấu kính đa búp và liếc chùm với tốc độ cao, thì các búp sáng-tối sẽ lắc qua mục tiêu với tần suất rất cao, thuận tiện cho cả gây nhiễu và cảnh giới tầm gần.



    Chỉ một chút đó thôi để thấy những phức tạp kinh khủng của radio. Việc bàn luận về nó không hề đơn giản. Nếu chỉ đọc sách tiếng Nga bởi những cái đầu lợn, thì thấy đồ thị biến đổi thẳng-xoắn thành búp sóng.







    ===



    Không phải là một con chó dại con, mà với các tiến sỹ, giáo sư... đàng hoàng của ngành vũ khí Việt Nam


    Lần đầu tiên mình ấn tượng các giáo sư tiến sỹ ngành vũ khí Việt nam là con sán khi gặp Nguyễn Hoa Thịnh. Hắn luyên thuyên trước đám trẻ con chúng mình suốt 2 tiếng đồng hồ về những tác phẩm của hắn: tên lửa rải truyền đơn, máy dò mìn phi kim loại.... Tên lửa rải truyền đơn thì ai cũng biết là tác phẩm của.... ww2 . Còn máy dò mìn phi kim loại thì đến lúc đó mình nói thẳng vào... mặt các bạn mình, vì mình chưa đủ tư cách để chỉ mặt con sán Thịnh. Rằng đó là huyễn tưởng. Nguyên lý siêu âm và radar không thể dùng được ở bãi mìn lổn nhổn sỏi đá. Còn nguyên lý duy nhất đáp ứng được là cộng hưởng X quang , đếm thành phần nguyên tố để xác định chất nổ ( nhưng không phân biệt được thịt sữa và thuốc nổ), thì ngày nay nó vẫn là cái máy to hơn cái ô tô.


    Nguyễn Hoa Thịnh đi mua cái máy siêu âm Hàn Xẻng về làm "công trình nghiên cứu khoa học". Nó khởi đầu cho các loại vũ khí giun sán giòi bọ nhập về ồ ạt gần đây. Đó là sự cộng sinh của sán lợn và thực dân.



    Lâu rồi, mình có việc va với Đại tá Nguyễn Xuân Anh, nguyên Chủ nhiệm Khoa Vũ khí, HVKTQS. Hồi đó con sán này chưa là nguyên, mà là đương chức. Hắn trình bầy một siêu phát minh của ngành vũ khí Việt Nam. Một giàn phóng lựu đạn. Lựu đạn ném tay được rút chốt, xếp mỏ vịt, đẩy nối tiếp vào một cái ống nhựa. Chỉ cần đến thế mình đã phải cố không nhịn được cười bằng cách xin phép vào toa lét.... thủ dâm, để các nhà khoa học, các giáo sư, các tiến sỹ.... thông ass nhau và thông ass quan khách được tự nhiên.

    Không thể tưởng tượng ở một nước 4 ngàn năm lịch sử, 2 ngàn năm văn hiến, lại có trò hề đến thế được một giáo sư, tiến sỹ, chủ nhiệm, đại tá.... và các tước khác thực hiện, trước hội đồng lớn và được chế thử bằng ngân sách. Đó là chân dung hết sức tường minh của sán lợn.

    Mình phì cười thẽ thọt nói thầm (nói to vỡ mẹt), với một đồng chí, khi viên lựu đạn đầu tiên ra khỏi nòng, thì các viên sau vẫn đang được đẩy, sẽ đẩy bắn viên đầu lệch đi và có vận tốc thấp... Như thế sẽ rải lựu đạn có viên ngay trước mũi súng, có viên bắn sang hàng xóm, có viên lên trời.... Đồng chí này lắc đầu ra hiệu.

    Nhưng như thế không phải độ lợn nhất của Nguyễn Xuân Anh và cái ngành vũ khí Việt Nam trong súng đó. Hắn ta dùng thuật đẩy khí động phản lực. Tức là, dòng khí đốt ở buồng đốt phía sau, qua tuye tăng tốc, phụt vào đuôi viên đạn, lộn lại phun ra ngoài qua tuye hướng sau. Đây là thuật phóng trong khó tính nhất trong các thuật phóng trong. Không sao, giáo sư tiến sỹ mà, lại còn chủ nghiệm, lại con đại tá. Và đặc biệt là nòng làm bằng composite, tích hợp đủ mọi siêu hiện đại.

    Mình cũng bẵng đi, 2 năm sau mới gặp người quen hỏi về cái Siêu Súng Nguyễn Xuân Anh. Có thông tin mà mình chẳng còn lạ ngay từ lúc đầu tiên nhìn thấy siêu súng, là bắn thử một nòng đã hỏng. Sau đó, mình lại có dịp biết chi tiết tiến trình phát triển siêu súng Nguyễn Xuân Anh.

    Trời đất !!! Mình biết là siêu súng là trò hề ngay từ lúc nhìn thấy nó, chưa cần đặt bút tính toán, nên đương nhiên nó không thể nào qua thử. Nhưng đến lúc được xem lại kết quả mình mới thấy cái độ lợn của ngành vũ khí Việt Nam không dừng ở đó.


    Do không tính toán được chuyển động của dòng khí, nên siêu súng giật rất mạnh, đáng ra là không giật. Một bó nòng như thế tung lên ngay từ phát bắn đầu tiên, thậm chí nòng văng đi khi đạn chưa ra khỏi nòng.

    Nhưng tại sao lại giật mạnh !!!! À, liếm đít Mỹ.

    Tiền bối dòng sán lợn nhà ta là Tạ Quang Bửu, cái đồng chí đi Pháp học 6 năm lấy duy nhất một bằng nhảy đầm. Thậm chí ông còn bắt thử súng thủ công làm hai công nhân chết tại trận. Sau này, Trần Đại Nghĩa bỏ thiết kế Bazooka, bởi vì thiết kế đó ngu xuẩn. Cái nòng của Bazooka nặng nhất súng-đạn, nhưng lại không được dùng làm ống chịu áp, mà có buồng đốt riêng. Do đó Đạn Bazooka là quả tên lửa có đầy đủ các bộ phận, cái nòng của nó chỉ là ray phóng. Đương nhiên, điều đó xuất hiện do Mỹ không tính toán được tốc độ cháy với các cỡ buồng đốt khác nhau. Lúc đó Mỹ vẫn dùng thuốc nổ dẻo cor***e làm thuốc súng , không điều khiển tốc độ cháy như thuốc tạo hình viên, vẫn là thuốc nổ có tính chất như thuốc nổ đen cổ truyền. Chúng ta biết sau đó chúng ta dùng SKZ, súng có cấu tạo như Panzerfaust Đức, như B40 sau này, là lấy nòng súng làm buồng đốt và ống phụt tên lửa, đạn chỉ là đầu cái tên lửa không có động cơ, vì thế không tốn khối lượng vô ích cho cái ray phóng kiểu Mỹ. Thế nhưng Bazooka vẫn được la liếm cho đến nay theo di truyền dòng sán lợn.


    Nếu như các bạn muốn chung cảm giác với mình khi đọc kết quả thử siêu súng Nguyễn Xuân Anh thì cần biết một chút về thuật phóng. Thuật phóng đạn ra khỏi nòng có phần chính là điều khiển tốc độ cháy cửa từng loại đạn-nòng. Người ta làm điều đó bằng thuốc viên rắn tạo hình. Viên rắn bền chắc không truyền phản ứng cháy vào bên trong, chỉ cháy ở bề mặt, nên tốc độ cháy bão hòa tỷ lệ thuận với tổng diện tích các viên thuốc. Vì thế, người ta thay đổi diện tích này để điều khiển tốc độ cháy. Viên to thì diện tích bé, viên bé thì diện tích to. Viên trụ tròn rỗng thường dùng cho đạn pháo, cháy trong ra ngoài vào ít giảm diện tích. Viên dẹt dùng cho súng trường vì dễ làm, nhưng dẹt dễ gãy vỡ tăng diện tích, nên cần cứng chắc, bào mòn nòng súng.

    Siêu súng Nguyễn Xuân Anh đã dùng thuật phóng không giật khó tính toán nhất quả đất, là khí động phản lực. Siêu súng Nguyễn Xuân Anh lại dùng vật liệu làm nòng siêu đẳng nhất quả đất, là composite. Vậy nên đương nhiên siêu súng này dùng thuốc súng cực kỳ nhất quả đất, đương nhiên là thuốc súng Mỹ.

    Có người hỏi, tại sao hình dáng viên siêu thuốc Mỹ nó phi khoa học thế. Siêu giáo sư tiến sỹ Nguyễn Xuân Anh trả lời. Trông hình dáng nó thế, nhưng bên ngoài nó thấm chấy làm chậm tốc độ cháy, không cháy nhanh tăng áp vỡ nòng đâu !!!!

    Mình không lạ gì thuốc súng Mỹ cả. Mình đã kể cho các bạn và lịch sử thuốc súng. Vào 186x, Nga-Đức đi tiên phong trong việc chuyển đổi thuốc nổ đen cổ truyền. Họ pha bông thuốc súng nitrô-xen-lu-lo-z đã nghiền mịn với thuốc nổ đen cổ truyền, thành "thuốc nổ nâu". Lứa pháo như M1867m M1870 của Nga và Đức trở thành lứa pháo hiện đại đầu tiên với đầy đủ các cấu tạo. Trong thuốc súng đó, thì nitrô-xen-lu-lo-z cháy chậm, làm áp suất không tăng vọt lên , nên có thể nhồi nhiều, bắn xa, nòng dài. Còn thuốc nổ đen cháy nhanh làm mồi cho tính thất thường của nitrô-xen-lu-lo-z . Sau đó, công ty Nobel đã giầu ự lên vì bán thuốc súng. Nobel chế ra "thuốc súng đường đạn", là thuốc gồm nitrô-xen-lu-lo-z , nitrô-gly-xê-rin, trộn với nhau và kết dính bằng long não, tạo hình viên. Mỗi loại súng-đạn sẽ tạo viên khác nhau để điều chỉnh tốc độ cháy. Thuốc súng được mồi bằng thuốc nổ đen. Nobel đặt các đại lý nhưở thủ đô Nga và Phổ để thửa thuốc theo yêu cầu các nhà khoa học chế súng. Nước nào cũng phải sản xuất thuốc súng bên trong nước, nên Nobel không bán thuộc súng, mà bán trí tuệ thiết kế viên thuốc súng, ông sẽ thiết kế thuê theo đơn đặt hàng của các đại lý.

    Hất sang Đông Âu , Nga Đức Ý Ao Thụy Điển... đều dùng "thuốc súng đường đạn".

    Tuy nhiên, bên Tây thì khác. Pháp thắc mắc tại sao bọn Đông Âu lại dùng nitrô-xen-lu-lo-z. Đó là một chất nổ yếu. À, chúng làm thế để không khói. Thế là Pháp nhồi "thuốc trắng", toàn nitrô-xen-lu-lo-z nguyên chất.

    Thằng Anh Quốc thì bảo, nitrô-xen-lu-lo-z không khói nhưng yếu, cho thêm nitrô-gly-xê-rin để mạnh. Thế là cor***e cũng có cả 2 như "thuốc đường đạn". Vấn đề là, cor***e không tạo viên rắn bằng keo hóa hợp kết dính, mà là trộn với chất gây nhão vadelin. Vadelin là mỡ gốc dầu mỏ, có tác dụng gây nhão, làm thuốc rất dễ đùn sợi. Nhưng vadelin nó biến cor***e thành thuốc nổ dẻo mà công binh thường dùng ngoài dã chiến. Thuốc nổ dẻo là bột mịn đặt trong một chất lỏng. Tổng diện tích bề mặt rất lớn, nó có tính chất như thuốc nổ đen cổ truyền. Ngoài dã chiến, thuốc nổ dẻo cháy nhanh, cháy hết trước khi bay đi, vì dã chiến không có cái nòng đóng kín.

    Thằng Anh Quốc nó không ngu, vì nó bán siêu thuốc súng cho Mỹ. Trong cả hai thế chiến, Mỹ vẫn dùng thuốc súng cổ truyền như là thời thuốc nổ đen. Sau đó Đức bảo thà tao theo Stalin còn hơn theo lợn, nên NATO 7,62x51 dùng thuốc Nobel. Nhưng hài hước là khi thu nhỏ lại thì M16A1 không có thuốc gì hơn là NATO 7,62x51. Súng bé nhồi thuốc súng to, nên nòng M16A1 phải dùng cái nòng NATO 7,62x51 dài hết cỡ. Bình thường, khi thu bé nòng, thì hợp lý hơn cả là thu ngắn đạn, gia tốc lớn, nòng ngắn, tốc độ cháy cao, và như thế cần loại viên thuốc khác-chí ít là bé hơn. Đến M16A2 198x thì đó là FN SS109 của châu Âu.

    Và như thế, tất cả mọi kết quả đo đạc và thử nghiệm tính toán của Siêu súng Nguyễn Xuân Anh đều là giả mạo. Đó là thực sự của đám sán lợn như siêu giáo sư Nguyễn Xuân Anh, di truyền hủ nho từ thời Tạ Quang Bửu. Đám sán lợn đó không có bất cứ con đường nào khác là liếm đít thực dân.

    Anh phóng sit ạ. Anh về bên quân sử ấy, anh hỏi cái đám lợn bên ấy, có thằng nào thật sự làm trong ngành vũ khí, thì đương nhiên sẽ biết Siêu Giáo Sư Tiến Sỹ Đại Tá Chủ Nhiệm... và các tước khác, mang tên Nguyễn Xuân Anh. Và đương nhiên sẽ biết Siêu Súng Nguyễn Xuân Anh. Lúc biết cái Siêu Súng Nguyễn Xuân Anh thì anh sẽ bớt cái độ chó lợn hơn một chút, vì có cái giáo sư chó lợn làm gương cho anh.






    Có một lần, mình cũng a lê phê rồi. Mới to tiếng. D-44 là pháo săn tăng ww2 ai cũng biết. Đã là pháo săn tăng thì cần bắn rất chính xác vào chỗ hiểm. Mà súng bắn chính xác thì có một tính chất cao sang là: thả nòng trôi tự do khi đạn chưa ra khỏi nòng, vì thế hướng súng không nhảy làm lệch đường đạn.

    Mình đọc quy trình bảo dưỡng súng pháo của ngành vũ khí Nguyên Hoa Thịnh, lúc đó làm cục trưởng cục quân khí. Người ta đổ đầy nước hãm vào máy lùi, rồi rút ra một lượng, rồi đóng kín máy lùi lại, hoàn thành.

    Còn bên Liên Xô. Người ta đổ lượng đong bằng bình chuyên dụng nước hãm vào máy lùi, hút chân không.

    Đến đây thì trẻ con cũng biến nguyên lý thả nòng trôi tự do của D-44 hoạt động thế nào. Đây là đặc trưng cho các thiết kế Nga, cực kỳ đơn giản nhưng hiệu quả. Máy lùi D-44 có một khoang hơi nước bão hòa, nó không tăng áp khi nén lại, do đó chưa hãm nòng khi thụt chưa hết khoang này.

    Nhưng còn D-44 ở ta, thì Nguyễn Hoa Thịnh đã ăn cắp cái tính chất đặc biệt quý của súng bắn chính xác đó. Thay cho hơi nước bão hòa, D-44 Nguyễn Hoa Thịnh lèn không khí, nó tăng áp rất nhanh khi bị nén.

    Đấy là sán lợn trong quân sự của ta, nên Su-27 nhà ta mới chảy nước vàng như thế, vũ khí bâu quá nhiều giun sán giòi bọ, chứ không chỉ con lợn phóng sit này. ***** của sán lợn là Tạ Quang Bửu, giáo sư đu Tây học 16 năm lấy duy nhất cái bằng nhảy đầm.
    Last edited by a moderator: 12/01/2014
  7. kuyomuko

    kuyomuko Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/04/2011
    Bài viết:
    19.977
    Đã được thích:
    29.069
    Bài toán căn bản nhất của parabol trong SGK lớp 12 còn chưa học

    [​IMG]
    Parabol là tập hợp những điểm mà khoảng cách từ điểm đó đến 1 đường thẳng cho trước và 1 điểm cho trước là bằng nhau. Đường thẳng đó gọi là đường chuẩn còn điểm đó gọi là tiêu điểm.
    Tạm thế đã. Còn cả đống thứ cám khác.
    Nhưng các cụ cần phải cám ơn HP là hắn viết về cái D44 và cái radar mảng pha thụ động đúng đấy. Cái mà trước nay các cụ đều ngộ độc là mảng pha thì phần tử gắn tùm lum. Nhưng người ta thay chảo parabol bằng cái anten phẳng không phải vì lý do HP đưa ra.
    @ALPHA3 : tớ thất hứa với lão rồi. Đành vậy. Chứ đến nước này thì có mà ngợp.
    Last edited by a moderator: 12/01/2014
  8. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047

    Dạ thưa lợn, về hình học thì tùy, nhưng lợn chưa biết phản xạ sóng.

    Ví dụ, hai phần cực thẳng phạ xạ từ 2 bên tiêu điểm sẽ có hướng ngược nhau và dập nhau khi hội tụ. Nếu như phân cực thẳng đó nằm theo hướng bán kính, con lợn ạ.

    Khi bản xạ sóng, thì đầu thu-phát thường làm bằng đúng bước sóng, ví dụ LNB của Ku ăng ten vệ tinh. Khi đó, thì chênh lệch độ dài từ điểm phát đến kim thu sẽ lệch nhau tối đa là một bước sóng, tùy theo chúng va vào điểm nào trên feed horn. COn lợn ạ.

    Ăng ten phản xạ sóng vô tuyến parabol nó không như cái hình vẽ phổ thông của lợn. Nó gồm môtkj mặt parabol, phản xạ vào một cái phễu. Miệng phễu bằng bước sóng, đáy phễu thu nhỏ lại tùy theo mạch thu. Cái phễu đó là feed horn. Cái phễu đó được nối với ống dẫn tube. ĐOạn ống này tuyệt đỗi nhẵn thẳng. Trên ống có thể có converter của phân cực. Đáy ông là kim thu

    Người ta không hội tụ sóng vào đúng một điểm con chó dại ạ, vì sóng không thể hội tự quá bước sóng. Vì vậy đừng lấy kiến thức của lợn ra sủa như chó.
    Lần cập nhật cuối: 12/01/2014
    LarvaNH thích bài này.
  9. kuyomuko

    kuyomuko Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/04/2011
    Bài viết:
    19.977
    Đã được thích:
    29.069
    Lại lươn sang chuyện điểm thu và điểm phát không phải là 1 điểm. Thôi mày cứ hốc cái đống cám ấy đi. Cái hình và cái biểu thức chiều dài truyền sóng là do mày tự vẻ ra chứ tao đâu có rỗi. Tao chỉ vẻ ra đính chính để anh em khỏi ngộ độc cám. Nhưng tao công nhận cái mảng pha thụ động mày viết đúng nguyên lý. Thế đã, đang bận...

    Cái Sorbtsiya-S cũng vậy. Mịe, muốn phát nhiễu trượt thì phải thu mẫu xung. Nên có cái đầu thu. Copy và chỉnh pha để mô phỏng cái xung phản xạ. Sau đó chuyển qua cho cục bên kia nó phát ra cái xung phản xạ copy ấy qua cái thấu kính quả lê ra hội tụ thành nhiều điểm phát xung phản xạ giả ngoài máy bay để đánh lừa radar của TL bay vào đó thay vì bay vào máy bay. Có thế thôi lại hoạ ra tùm lum thứ um sùm lên rồi thì nó có thu có phát mảng pha suy ra nó mần radar được...ối trời đất thánh thần ơi.
    Lần cập nhật cuối: 12/01/2014
  10. maxttien

    maxttien Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2011
    Bài viết:
    3.453
    Đã được thích:
    1.222
    (Q1-P1-F)=(Q2-P2-F)=(Q3-P3-F)
    Em thấy 3 cái này nó bằng nhau đấy chứ bác phuc :D
    [​IMG]

Chia sẻ trang này