1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

PHÒNG KHÔNG KHÔNG QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM - Phần 12

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi aviator007, 11/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huyphongvvs

    huyphongvvs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/12/2011
    Bài viết:
    803
    Đã được thích:
    975
    Tổ hợp tên lửa phòng không 90Zh6E2 của Đoàn 93 đang chiếm lĩnh trận địa
    [​IMG]

    Cảnh trao Quân kỳ quyết thắng cho 2 trung đoàn mới thành lập 64 (trên) và 93 (dưới) - soha.vn
    [​IMG]

    [​IMG]
  2. huyphongvvs

    huyphongvvs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/12/2011
    Bài viết:
    803
    Đã được thích:
    975
    Nhân đọc bài đăng trên QĐND phía dưới về sở chỉ huy tự động hoá (ASU), các tồng chí có biết bộ đội PKKQ của ta đã từng được trang bị những tổ hợp ASU nào từ trước tới nay hay không?
    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/6...-luc-luong-phong-khong-khong-quan/288624.html

    ------

    Sở chỉ huy tự động hóa trong lực lượng phòng không, không quân

    QĐND - Thứ sáu, 21/02/2014 | 18:9 GMT+7

    QĐND - Khả năng của các lực lượng phòng không, không quân (PK-KQ) đóng vai trò quan trọng trong năng lực phòng thủ của bất kỳ quốc gia nào. Sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện tấn công đường không hiện đại đã đặt ra yêu cầu ngày càng cao về khả năng của các hệ thống phòng không.

    Tác chiến phòng không trong môi trường chiến tranh hiện đại đòi hỏi rất cao về khả năng phản ứng trước những diễn biến nhanh và phức tạp trong tác chiến, khả năng bảo đảm thông tin liên lạc và hiệp đồng chặt chẽ giữa các đơn vị không quân, tên lửa và pháo phòng không. Trong những điều kiện đó, để bảo đảm hiệu quả chiến đấu cao, các sở chỉ huy PK-KQ sử dụng hai phương pháp chỉ huy tác chiến chính, đó là phương pháp chỉ huy trên tiêu đồ và phương pháp tự động hóa.

    Phương pháp chỉ huy PK-KQ trên tiêu đồ được ứng dụng từ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Bản chất của phương pháp này là thông tin về mục tiêu do ra-đa trinh sát thu thập được thông báo về sở chỉ huy (SCH) và thể hiện trên tiêu đồ tại SCH trung tâm. Chỉ huy dựa trên tiêu đồ đánh giá tình hình và trực tiếp chỉ đạo hoạt động tác chiến của các đơn vị thuộc quyền. Việc hợp đồng tác chiến chủ yếu được lên kế hoạch từ trước qua các khu vực, góc đảm nhiệm của từng đơn vị. Đây là phương pháp đơn giản và tin cậy, tuy nhiên khối lượng thông tin có thể thể hiện tiêu đồ rất hạn chế, độ chính xác và tính kịp thời không cao.

    [​IMG]



    Với phương pháp chỉ huy bằng tiêu đồ, trong nhiều trường hợp, để bảo đảm kịp thời tiêu diệt mục tiêu, chỉ huy các phân đội được quyền khai hỏa mà không đợi chỉ thị của cấp trên. Điều này gây ra không ít trường hợp khi bị tấn công với mật độ dày, nhiều phân đội hỏa lực cùng tiêu diệt một mục tiêu không quan trọng, trong khi đó để lọt mục tiêu quan trọng. Những trường hợp như vậy đã đặt ra yêu cầu về một phương pháp chỉ huy cho phép SCH trung tâm trực tiếp chỉ huy, điều phối hoạt động tác chiến một cách nhanh chóng, chính xác.

    Năm 1961, những máy tính điện tử đầu tiên được Liên Xô sử dụng trong chỉ huy tác chiến phòng không. Khả năng xử lý thông tin của máy tính đã cho ra đời phương pháp chỉ huy PK-KQ mới - chỉ huy tự động hóa. Phương pháp này sử dụng tổ hợp thiết bị hỗ trợ chỉ huy còn được gọi là ASU (Automatizirovannaya Sistema Upravleniya - tự động hóa chỉ huy). Tổ hợp ASU đầu tiên mang tên hiệu K-1 có khả năng điều khiển hỏa lực các tổ hợp tên lửa S-75, Kub và Krug.

    Trong các tổ hợp ASU hiện đại, các thao tác chỉ huy và điều khiển được sở chỉ huy ASU thực hiện bằng các chương trình máy tính. Thông tin về mục tiêu được xử lý tự động trên trạm ra-đa và gửi về SCH trung tâm. Tại SCH, thông tin mục tiêu và tình hình tác chiến chung được tiếp nhận, xử lý và hiển thị trên màn hình. Các thao tác như phân phối lực lượng hỏa lực, chỉ thị mục tiêu cho các đơn vị được máy tính thực hiện tự động qua các thuật toán chiến đấu được lập trình từ trước. Qua các màn hình hiển thị, kíp chiến đấu SCH có thể theo dõi toàn bộ hoạt động của máy tính và khi cần thiết có thể can thiệp, thay đổi phương án tác chiến do máy tính đề nghị. Phương pháp chỉ huy này tăng đáng kể hiệu suất chiến đấu nhưng đòi hỏi trang thiết bị liên lạc và điện toán hiện đại, đồng bộ của cả hệ thống phòng không và đòi hỏi khả năng chống chế áp điện tử cao của hệ thống mạng truyền tin, liên lạc.

    Với mức độ phát triển của vũ khí tấn công đường không hiện nay, phương pháp tiến công trên không phổ biến là sử dụng lực lượng không quân và tên lửa hành trình dày đặc tấn công tiêu diệt các mục tiêu chiến lược và quân sự quan trọng của đối phương. Trong điều kiện đó, mật độ trung bình phương tiện bay trong một chiến dịch tiến công đường không có thể tới 2-3 máy bay trong 1 phút. Như vậy, để bảo đảm hiệu quả chỉ huy tác chiến, các tổ hợp tự động hóa cấp sư đoàn PK-KQ phải có khả năng xử lý cùng lúc hàng trăm mục tiêu trên không.

    Để đáp ứng nhu cầu về tự động hóa chỉ huy của các đơn vị PK-KQ, năm 1999, Nga đưa vào sử dụng tổ hợp tự động hóa chỉ huy cấp khu vực phòng thủ PK-KQ Universal-1 có khả năng xử lý đồng thời 300 mục tiêu trên không trong vòng bán kính 3.200km, có chức năng điều khiển hoạt động tác chiến của các lực lượng hiệp đồng tên lửa phòng không, ra-đa, máy bay tiêm kích và tác chiến điện tử. Universal-1 có thể tự động hóa những hoạt động chỉ huy chính như: Chuyển cấp SSCĐ, kiểm tra trạng thái SSCĐ của các đơn vị thuộc quyền, kiểm soát không lưu, trực ban chiến đấu; nhận và xử lý thông tin ra-đa, theo dõi và đánh giá tình hình, xác định mức độ quan trọng của các mục tiêu và tính toán phân phối tối ưu hỏa lực phòng không; trực tiếp chỉ huy và tổ chức hiệp đồng chiến đấu các đơn vị không quân, tên lửa và tác chiến điện tử; dẫn đường cho máy bay tiêm kích, bảo đảm an toàn cho không quân khi di chuyển trong các trận địa phòng không.

    Để thực hiện những nhiệm vụ tác chiến cụ thể trong các binh chủng PK-KQ, SCH các đơn vị được trang bị thiết bị tự động hóa tương ứng, được chuẩn hóa và có thể hoạt động đồng bộ với nhau, tăng khả năng hiệp đồng chiến đấu. Các đơn vị của từng binh chủng PK-KQ được trang bị những SCH đặc chủng như: Fundament - trung đoàn ra-đa, Baikal - trung đoàn tên lửa, Rubezh - trung đoàn không quân tiêm kích.

    Trong hệ thống phòng không, SCH Fundament của các trung đoàn ra-đa đóng vai trò là thành phần chính bảo đảm thông tin cho tác chiến của các đơn vị khác. Thông tin ra-đa sau khi được xử lý tại đây được truyền trực tiếp đến SCH cấp trên và các đơn vị không quân, tên lửa, tác chiến điện tử.

    Các trung đoàn không quân tiêm kích được trang bị tổ hợp tự động hoá Rubezh. Trong các tình huống chiến đấu, tổ hợp Rubezh có thể tự động phân phối lực lượng máy bay tiêm kích, gửi mệnh lệnh đến đài chỉ huy mặt đất và tự động dẫn đường tối đa 21 máy bay tiêm kích thông qua các trạm dẫn đường.

    Hỏa lực các đơn vị tên lửa được điều khiển tự động bằng tổ hợp Baikal hoặc Senhezh. Biến thể mới nhất của Baikal là Baikal-1ME có thể tự động phân phối lực lượng và chỉ thị mục tiêu cho trung đoàn (lữ đoàn) tên lửa phòng không hỗn hợp bao gồm tối đa 24 tổ hợp tên lửa S-200 và S-300. Baikal cũng hỗ trợ điều khiển các tổ hợp tên lửa tầm ngắn như S-125, S-75, Buk-M1-2, Buk-M2. Hệ thống siêu máy tính cho phép Baikal xử lý 500 mục tiêu trên không cùng lúc, thời gian xử lý được rút ngắn giúp hệ thống có thể xử lý và kịp thời chỉ thị mục tiêu cho các tổ hợp tên lửa với những mục tiêu có tốc độ tối đa lên tới gần 5 Mach.

    Các tổ hợp tự động hóa chỉ huy giảm đáng kể thời gian và khối lượng công việc trên các SCH. Đồng thời, khả năng cơ động, triển khai SSCĐ nhanh và xử lý thông tin kịp thời của các hệ thống này đóng vai trò sống còn trong chiến tranh hiện đại. Trong những năm gần đây, các nước phát triển sử dụng rộng rãi công nghệ điện toán và truyền tin công nghệ cao trong các SCH. Các hệ thống SCH này hiện nay đang được chú trọng phát triển theo hướng tăng tính ổn định, khả năng kháng nhiễu, khả năng xử lý thông tin và khả năng sinh tồn của các hệ thống trước những đòn tấn công của đối phương.

    Bài và ảnh: PHÙNG KIM PHƯƠNG
    longmuonhieu thích bài này.
  3. huyphongvvs

    huyphongvvs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/12/2011
    Bài viết:
    803
    Đã được thích:
    975
    Trong đội hình phân đội tổ hợp tên lửa phòng không 90Zh6E của hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU1 như hình dưới luôn có 1 Xe trinh sát trận địa (Топопривязчик) 1T12M2 - chiếc dẫn đầu.
    [​IMG]

    Xe này sử dụng hệ thống định vị quán tính có hiệu chuẩn tín hiệu định vị vệ tinh GLONASS/GPS và các máy đo quang để xác định các tham số toạ độ bố trí trận địa, vật chuẩn, góc cấm phóng cũng như định tuyến tiếp cận và thoát li trận địa cho tổ hợp tên lửa phòng không 90Zh6E.

    Clip giới thiệu xe trinh sát trận địa


    Trong quá trình nâng cấp tổ hợp tên lửa phòng không từ 90Zh6E (hệ thống S-300PMU1) lên 90Zh6E2 (hệ thống S-300PMU2), bên cạnh việc nâng cấp phần mềm điều khiển ta còn phải nâng cấp hệ thống truyền dữ liệu chiến đấu song công tầm xa và hệ thống tự động định vị vệ tinh GLONASS/GPS cho từng xe chiến đấu trong tổ hợp (xe điều khiển và chiếu xạ 30N6E, xe phóng 5P85SE) để giúp tự động hoá và rút ngắn công tác triển khai trận địa chiến đấu cho phân đội.

    Hình dưới là hệ thống ăng ten của đài định vị vệ tinh "Orientir" trang bị cho các xe chiến đấu trong tổ hợp TLPK 90Zh6E nâng cấp hoặc từ 90Zh6E2 trở đi.
    [​IMG]

    [​IMG]

    Tất nhiên khi nâng cấp với hệ thống định vị vệ tinh này thì ta đã có trong tay mã khử sai số P mà chú Én từng lo lắng và đề cập rồi:D
  4. huyphongvvs

    huyphongvvs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/12/2011
    Bài viết:
    803
    Đã được thích:
    975
    Thông tin về hệ thống chỉ huy tự động hóa đầu tiên của bộ đội phòng không:

    Bộ đội phòng không VN lần đầu tiên được trang bị Hệ thống chỉ huy tự động hóa ASU (АСУ = Автоматизированная система управления) ASURK-1M (АСУРК-1М) trong năm 1982 cùng với thời điểm thành lập 2 lữ đoàn TLPK cơđộng là Lữ đoàn TLPK 236 thuộc f361 “Cận vệ đỏ” Hà Nội và Lữ đoàn TLPK 255 thuộc f363 Hải Phòng. Mỗi lữ đoàn TLPK này được trang bị hỗn hợp gồm 4 tổ hợp TLPK S-75M và 4 tổ hợp TLPK S-125M, cùng các đơn vị bảo đảm chiến đấu khác. Kĩ thuật viên nòng cốt vận hành hệ thống ASU này được gửi đi đào tạo tại Khoa "các hệ thống chỉ huy tự động hóa và máy tính điện tử của binh chủng tên lửa phòng không" của Trường cao đẳng kĩ thuật tên lửa phòng không Minsk.

    Hệ thống chỉ huy tự động hóa ASURK-1M gồm tập hợp các khí tài thông tin chỉ huy và tính toán tự động hóa phục vụ tổ chức chiến đấu tập trung và cận thời gian thực cho cấp lữ đoàn tên lửa phòng không trang bị hỗn hợp các tổ hợp S-75 và S-125. Hệ thống ASURK-1M cung cấp tham số tọa độ và quản lí đồng thời 10 mục tiêu ở chế độ bán tự động, phân công mục tiêu thủ công, tự động truyền tình báo mục tiêu đã phân công và mệnh lệnh chiến đấu cho các sở chỉ huy phân đội hỏa lực.

    Hệ thống ASURK-1M gồm 1 xe Sở chỉ huy tự động hóa AKP (АКП = Автоматизированный командный пункт) phục vụ chỉ huy tham mưu lữ đoàn, 9 xe thông tin tiếp sức truyền phát thông tin chỉ huy giữa xe AKP với các xe điều khiển UV của các phân đội hỏa lực, các xe phát điện và chở ăng ten đài vô tuyến tiếp sức.

    Một số hình minh họa về các xe khí tài của hệ thống ASU ASURK-1M:

    Sở chỉ huy tự động hóa - xe AKP và xe đài thông tin chỉ huy tiếp sức “Tsikloida” ("Циклоида") được thiết kế trên xe thùng kéo OdAZ-828 và xe đầu kéo Zil-131
    [​IMG]

    Cột ăng ten 1L81 “Unzha” (1Л81 "Унжа") cao 52m của đài thông tin chỉ huy tiếp sức “Tsikloida” với cụm ăng ten loại “2 trứng” 5Ya62 (5Я62) trên đỉnh
    [​IMG]

    Cụm ăng ten loại “3 trứng” 5Ya63 (5Я63) của đài thông tin chỉ huy tiếp sức “Tsikloida”
    [​IMG]
  5. huyphongvvs

    huyphongvvs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/12/2011
    Bài viết:
    803
    Đã được thích:
    975
    Hình bổ dưới này là xe sở chỉ huy tự động hóa AKP của hệ thống ASU "Fundament-MAE" dành cho cấp trung đoàn ra đa.
    [​IMG]
    Bộ đội PKKQ nước ta đã được trang bị các đài ra đa thế hệ mới, nên việc đầu tư sắm thêm các hệ thống chỉ huy tự động hóa cấp trung (lữ) đoàn ra đa như loại trên để cung cấp tình báo trên không thời gian thực cho các lực lượng PKKQ quản lí vùng trời là hết sức cần thiết.

    [​IMG]

    [​IMG]
    Connuocvietkaorimuraji2014 thích bài này.
  6. SuperSukhoi

    SuperSukhoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/04/2013
    Bài viết:
    2.703
    Đã được thích:
    7.575
    [​IMG]
    Đẳng cấp mới của máy bay ném bom chiến thuật

    1.Hoàn cảnh ra đời :


    [​IMG]

    Đầu những năm 80 , Không quân Soviet nhận thấy cần một mẫu máy bay ném bom chiến thuật mới có tốc độ cao , tải trọng nặng và nhất là khả năng ném bom chính xác các mục tiêu tầm dài nhằm đáp ứng học thuyết quân sự mới của mình . Điều này khả dĩ có thể thực hiện được với những bước tiến công nghệ về động cơ , hệ thống điện tử và khí động học . Phòng chế tạo Sukhoi ( OKB Sukhoi ) được giao trọng trách phát triển mẫu tiêm kích bom mới vào giữa những năm 80 dựa trên nền tảng dự án T-10 ( dòng họ Su-27 ) , khởi điểm dự án Su-34 bắt đầu .
    Nhằm thay thế các máy bay ném bom chiến thuật (tactical bomber ) Su-24M Fencer đã bắt đầu lỗi thời , mẫu tiêm kích bom T-10V được phát triển . Tổng công trình sư của phòng thiết kế Sukhoi khi ấy là Mikhail P. Simonov đã giao trọng trách phát triển T-10V cho kỹ sư trưởng dự án Roland G. Martirosov
    Hỗ trợ cho chương trình T-10V , Phòng chế tạo NPO Leninets lãnh đạo bởi G N. Gromov ( VNIIRA – All Union Avionics Research Institute – Viện nghiên cứu kỹ thuật điện tử Liên Bang nay trở thành công ty cổ phần Leninets ) được giao phát triển radar và hệ thống điện tử , 3 phòng phát triển khác cũng tham gia phát triển dự án gồm Vympel MKB , Zvezda OKB và Raduga MKB phụ trách mảng vũ khí
    19/5/1986 , Bộ quốc phòng Liên Xô thông qua dự án T-10V , mã máy bay Furore , tên NATO Fullback ( Hậu Vệ ) , Sukhoi bắt đầu chế tạo mẩu thử nghiệm đầu tiên

    II. Các mẫu thử nghiệm :
    [​IMG]
    Mẫu T-10V-1
    Mẩu thử nghiệm đầu tiên của Su-34 ( lúc này định danh là Su-27IB ) T-10V-1 ( Mã đuôi – Tail Number : 42 ) bay thử nghiệm chế tạo tại nhà máy của Sukhoi tại Moscow dựa trên mẫu huấn luyện Su-27UB , bay thử nghiệm lần đầu vào ngày 13/4/1990 lái bởi phi công Anatoly Ivanov , từ 1990-1991 đã thử nghiệm khoảng 108 lần bay . 1991 thì Liên Bang Soviet tan rã đi kèm theo là cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng , kinh phí cho dự án T-10V nhanh chóng cắt đứt . Các cuộc thử nghiệm của T-10V-1 dừng lại : 1992 chỉ 29 lần bay thử nghiệm , đến năm 1993 thì dừng bay .

    Giữa năm 1990 thì 2 mẫu T-10V được chuyển đến trung tâm huấn luyện bay AVMF Flight Test Centre tại sân bay Novofyodorovka ở Saki , bán đảo Crimea , các phi công nhận thấy đây ko phải là mẩu thử nghiệm Su-27K hải quân như mình đang lái . Cuối cùng cũng ra ánh sáng : Gorbachov đã đến thăm tàu sân bay SNS Tbilisi ( nay là Kuznetsov ) thì lãnh đạo OKB Sukhoi quyết định gây ấn tượng với tổng thống bằng cách cho 1 mẩu T-10V đáp xuống sàn tàu , A. Kremko , 1 phóng viên ITAR-TASS đã chụp được ảnh mẫu T-10V này ( vẩn đang gọi là Su-27IB ) .
    [​IMG]
    Các cơ quan tình báo phương Tây vẫn nghĩ là Tbilisi đang thử nghiệm các mẩu máy bay chiến đấu hải quân T-10K ( Su-27K ) nhưng với ảnh của Kremko thì phát hiện đây là mẩu máy bay mới
    Khả năng bảo mật của Soviet khá tồi , sau này có 1 số điều chỉnh trong bảo mật thông tin : như Mig-29M ra đời đã cố tình sơn vạch đen giả làm khe hút gió phụ như Mig-29A để tránh rò rỉ hình ảnh .

    Su-34 ( Su-27IB ) chính thức được thế giới biết đến khi được giới thiệu trong cuộc họp của CIS tại Belarus ( Các quốc gia độc lập ) , lúc này có cả Tổng thống Nga Boris Yelsin với hy vọng nhận được tài trợ để trở thành mẫu máy bay chiến đấu mới của CIS
    Sau đó các mẩu thử nghiệm được quay lại với vai trò thử nghiệm kỹ thuật , chuyến bay đầu tiên với hệ thống tác chiến điện tử L-175V Khibiny-V diễn ra vào ngày 18/1/1995 , và các cuộc thử nghiệm kéo dài đến 2005
    [​IMG]
    OKB Sukhoi sau khi Soviet tan rã trở thành công ty hàng không Sukhoi với 3 nhà máy chính : KnAAPO , Irkut ( IAPO ) và NAPO ( Novosibirsk Aircraft Production Associations ) . NAPO được biết đến là nơi sản xuất máy bay ném bom chiến thuật Su-24 , mẩu thử nghiệm T-10V-2 được NAPO sản xuất ( Tail-Number : 43 , series number : 00-01 ) , bay thử nghiệm lần đầu vào 18/12/1993 . Điểm khác biệt so với T-10V-1 là phần trần buồng lái ( hump ) được thiết kế cao hơn và phần đuôi máy bay kéo dài thêm , đi kèm là bánh mũi máy bay thiết kế dạng đôi song song ( twin tadem wheels ) . T-10V-2 thử nghiệm khí động học , góc tấn ( AoA ) , trong chuyến bay ngày 26/2/1997 với vận tốc 675knot ( 1250km/h ) , gia tải 4.5G-Load thì 1 phần kính của buồng lái bung ra khi bay . Sau khi sửa chữa thì máy bay quay lại chương trình , 2 mẩu T-10V-0 và T-10V3 không bay mà chỉ thử nghiệm mặt đất ( test-bed )

    [​IMG]
    T-10V-2
    Khi trình diễn T-10V-2 vào 1994 , thì Su-34 được giới thiệu chính thức là phiên bản thay thế mẩu gốc Su-27IB và không có sự tham gia thiết kế của không quân Nga . Trong kế hoạch của NAPO thì Su-34 sẽ sản xuất khoảng 66 chiếc cung cấp cho quân đội , mẩu xuất khẩu Su-32 cũng được giới thiệu
    Mẩu T-10V-5 ( Series Number : 01-01 , Tail Number : 45 ) bay vào 28/12/1994 . Vào tháng 4 /1995 , máy bay đáp xuống sân bay Pushkin gần St.Petersburg , nơi công ty Leninets sở tại . Tại đây mẫu T-10V-5 được trang bị mẩu radar V004 và tháo ra , đến 10/1998 thì radar trang bị
    31/10/2000 lần đầu tiên , T-10V-5 sử dụng radar V004 để điều hướng tên lửa chống tàu Kh-31A diệt 1 mục tiêu tại Biển Đen . Lần thử nghiệm cuối cùng vào tháng 3/2002 , T-10V-5 đã gặp tai nạn khi cắt 1 quả KAB-1500 dẫn đến hỏng 1 mấu cứng , sau tai nạn này máy bay không sửa chữa
    Ngược lại với T-10V-5 thì T-10V-4 được sản xuất 2 năm sau đó , bay thử nghiệm lần đầu 25/12/1996 . Sau những thử nghiệm thành công cấp độ nhà máy thì từ 1/1998 đến 11/2002 , T-10V-4 cuối cùng cũng tham gia thử nghiệm cấp nhà nước tại sân bay Akhtubinsk bao gồm các hạng mục : tiếp nhiên liệu với IL-78 , bay trình diễn , thử nghiệm ổn định các hệ thống đi kèm và sử dụng vũ khí . Mẫu T-10V-4 dừng lại vào 11/2002
    T-10V-6 (01-02 , Bort 46 ) bay lần đầu vào 27/12/1997 . Đến 1999 thì máy bay trang bị radar V004 và hệ thống quang ảnh Platan ( laser/TV targeting ) , đây là mẫu thử nghiệm đầu tiên trang bị hệ thống này . Cuối năm 2001 thì máy bay trang bị đầy đủ hệ thống điện tử và đưa đến sân bay Akhtubinsk để thử nghiệm ( 5/2011 thì 46 được tặng cho học viện kỹ thuật hàng không Voronezh để làm khí cụ trực quan dạy học )
    Sau đó , Su-34 ra mắt mẫu T-10V-7 khá trễ (01-04 , 47 ) bay vào 21/12/2000 , đây là mẩu thử nghiệm trang bị hệ thống khí tài quan sát quang ảnh Platan và hệ thống chiến đấu điện tử Khibinyl-V đã hoàn thành
    Mẫu cuối cùng T-10V-8 (01-05 , 48 ) bay vào 2003 và đến 2004 thì gia nhập sân bay Akhtubinsk

    III. Chi tiết :
    a) Thiết kế khí động học và khung sườn :

    [​IMG]
    Mẫu T-10V thực chất là bản thiết kế lại của dự án máy bay huấn luyện hải quân T-10KM-2 , nhưng có 1 số thay đổi gồm 2 cánh canard đằng trước và ghế ngồi phi công dạng side-by-side . Vẫn trung thành với thiết kế bất đối xứng trục dọc như Su-27 nhưng T-10V có điểm khác biệt với thiết kế mũi khá dẹp như SR-71 BlackBird và đi kèm với lường cánh ( LERX ) kéo dài đến mũi máy bay nằm tạo sức nâng và khả năng cơ động , do vậy T-10V nhìn khá giống thú mỏ vịt ( platypus – hay tiếng Nga Ootkonos )
    [​IMG]
    Thiết kế trên khá tương đồng với kiểu Blended Wing Body ( BWB ) làm giảm RCS đáng kể cho máy bay , Sukhoi khẳng định RCS của Su-34 nhỏ hơn các máy bay ném bom cùng loại như F-111 , Su-24 hay Tornado IDS
    Ngoài ra khung sườn tăng tỉ lệ composit và titanium khiến máy bay nhẹ hơn làm gia tăng tải trọng và khoảng cách chiến đấu
    b) Buồng lái và hệ thống điện tử :
    Su-34 có điểm đặc biệt để nhận ra đó là buồng lái (canopy ) lớn khác thường nhằm gia tăng góc nhìn của phi công và được bảo vệ khá cẩn thận bằng cách bọc giáp titanium dày đến 17mm (0.67 inch ) , điều này khá dễ hiểu vì Sukhoi rất có kinh nghiệm trong việc phát triển các mẫu cường kích và ném bom tầm trung ( low-flying attack : bomber , attacker ) . Các chi tiết khác như động cơ , khoang nhiên liệu cũng được bọc giáp titanium , lớp giáp này nặng đến 1.480kg ( 3.252 lbs )


    Khoang lái rất rộng rãi , thậm chí Tư lệnh không quân Nga khi đó là Pyotr S.Deynekin đã thốt lên “ nó còn rộng hơn cả Tu-160 “
    HUD ( heat up display ) được trang bị phía bên phi công lái còn phi công điều khiển vũ khí ( WSO ) không trang bị , tuy vậy WSO cũng được trang bị cần HOTAS để điều khiển vũ khí và hỗ trợ bằng 1 màn hình MFD ( multi fundtion display ) riêng để hiển thị mục tiêu .
    Tổng cộng có 5 MFD trang bị cho 2 phi công , lúc đầu các mẫu thử nghiệm T-10V trang bị sử dụng chung 4 màn MFD nhưng các block Su-34 sau này chia thành 2 phần : 2 màn MFD cho phi công lái và 3 MFD cho WSO
    [​IMG]
    ****pit của Su-34 mới
    http://i1284.photobucket.com/albums/a564/leonidas2507/NAPO-Su-34-Demonstrator-****pit-1S_zps3c8df395.jpg
    ****pit của Su-34 cũ
    [​IMG]
    ****pit của Su-32FN

    Buồng lái T-10V khác hẳn so với các dòng T-10 khác là ko gắn bản lề để gắn thang lên cho phi công mà thay vào đó lối lên ở dưới mũi máy bay , như vậy phần kính buồng lái được gắn chết , chỉ khi mở khi phi công thoát khỏi máy bay bằng ghế phóng ( eject )
    [​IMG]
    Do phần đầu rất nặng nên phần bánh mũi được gia cố bằng 2 bánh xe KN-27 ( bán kính 680mm ) chịu được áp lực cao , điểm khác biệt giữa Su-27IB và Su-34
    Bánh lái chính được tăng cường 4 bánh xe KT-206 (950x400mm ) thiết kế khá giống Saab JAS-37 Viggen , nhờ vậy máy bay có thể chịu áp lực sàn lớn khi đáp xuống đường băng với tải trọng lớn ( kể cả MTOW )
    Phần đuôi máy bay trang bị hệ thống cảnh báo sớm radar ( RWR ) NIIP N-102 , ngoài khả năng cảnh báo sớm thì RWR còn tích hợp khả năng dẫn đường cho tên lửa dẫn đường bằng radar như R-77/RVV-AE để tên lửa bắn về phía sau . Điều này lúc này phương Tây chưa thể làm được , là 1 bước tiến tương tự như cú slam-shot của R-73 bắn ngược về sau nhờ HMS ( hetmet mounted signt )
    Hệ thống điện tử chính Sh-141 được thiết kế và chế tạo bởi CNPO Leninets . Sh-141 bao gồm radar mảng pha thụ động V004 và hệ thống tác chiến điện tử L-175V Khibinyl-V
    [​IMG]
    Hệ thống Platan của UOMZ
    Radar PESA V004 khởi đầu từ thành quả phát triển radar cho mẫu máy bay chiến đấu ném bom tầm xa Sukhoi T-60S
    [​IMG]
    (còn tiếp )
    Lần cập nhật cuối: 05/03/2014
  7. SuperSukhoi

    SuperSukhoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/04/2013
    Bài viết:
    2.703
    Đã được thích:
    7.575
    Phần 2 :
    Giống như Su-35 , Su-34 cũng được trang bị hệ thống lái điều khiển điện tử FBW ( fly by wire ) , tuy nhiên chiến đấu cơ này cũng trang bị thêm tính năng hệ thống lái tự động an toàn ( AFSS - active flight safely system ) , với khả năng này máy bay hoàn toàn có thể bay ổn định bám địa hình và mọi thời tiết với cơ động ở độ cao sát mặt biển ( sea level ) với vận tốc tối đa 1350km/h ( 875 knots ) trong việc áp sát tiêu diệt mục tiêu
    Yếu tố này cực kỳ quan trọng , theo 1 số nguồn Nga thì máy bay có thể bám địa hình ( high-lo-lo ) ở độ cao khoảng 500-600m liên tục nhằm loại bỏ radar cảnh báo sớm
    Phi công hoàn toàn có thể đưa tự động máy bay lên bất cứ độ cao nào nhờ 1 nút bấm " panic button " gắn trên thanh điều kiển đa năng HOTAS , hệ thống AFSS cung cấp các tham số tự động như nhiên liệu , chỉ số máy bay hiện lên màn hình MFD cho phi công tham khảo , cũng như tự động đáp về sân bay
    Việc tự động đáp về sân bay không phải có gì mới lạ , đây là kỹ thuật phát triển từ Mig-29 , 1 chiếc Mig-29 mang đến Israel thử nghiệm chiến đấu cũng từng đề cập khả năng này ( hỗ trợ phi công bệnh Vertigo )
    [​IMG]
    Tương tự Su-27IB thì Su-34 cũng được trang bị cần tiếp dầu IRF như Su-27K , Su-30 và Su-35 , cũng như có thể tiếp liệu bằng bình dầu phụ gắn dưới bụng buddy-buddy pod UPAZ-1A thường thấy ở Su-33
    Với khoang nhiên liệu trong ( internal fuel ) rộng ở cánh và thân thì Su-34 hoàn toàn có khả năng đạt đến 4000km ( 2.484 miles ) , nếu 1 lần tiếp dầu thì khoảng cách tăng đến 7000km ngang những máy bay ném bom tầm trung như Tu-16 hay Tu-22
    Khả năng hải chiến / chống bức xạ ( martime / AWS aircraft ) của Su-34 là tuyệt vời nhất mà không quân Nga RuAF từng sỡ hữu theo tuyên bố của kỹ sư trưởng huyền thoại của OKB Sukhoi lúc đó là ngài Mikhail P.Simonov , hệ thống điện tử cực mạnh có thể săn tàu ngầm , tấn công mặt đất hoàn hảo
    Radar PESA V004 có thể phát hiện 1 mục tiêu tàu chiến cỡ 3.000m2 RCS hoặc sóng tạo ra của tàu ngầm khi di chuyển ở khoảng cách 150km ( 93miles ) nhờ tính năng khẩu độ tổng hợp ( SAR )
    V-004 mạnh hơn 25-30% radar tương tự của Mỹ khi đó là AN/APS-137
    Máy tính cũng nâng cấp với hệ thống máy tính Argon hỗ trợ đa luồng và nhiều nhân xử lý , Argon cũng là máy tính trang bị cho Mig-31
    Nhằm tăng sức mạnh săn ngầm hơn nữa , Su-34 ở phiên bản hải quân cũng có khả năng rải phao thủy âm ( sonobuoy ) giống các loại SSQ-53B , SSQ-75 hoặc SSQ-77A của Mỹ
    Chưa kể , các tàu ngầm Mỹ duy trì thông tin nhờ sóng cực ngắn AVLF ( Very Low Frequency ) như Ohio SSBN vẫn duy trì 1 con A6 Hermes sẽ có nhiệm vụ lởn vởn nhận AVLF phát ra từ tàu ngầm và data-link cho đất liền , do vậy trang bị thiết bị thu thập điện tử ( ELINT ) cũng là 1 tính năng nổi bật của Su-34 nhằm đánh chặn thông tin bức xạ và tiến hành truy kích ngược , thậm chí máy phát hiện từ trường ( MAD magnetic anomaly detector ) cũng được Sukhoi đưa lên và gắn vào đuôi thay radar NIIP N-102
    3. Khả năng chiến đấu :
    Với 12 mấu cánh kéo dài 6 dưới cánh , 2 dưới động cơ , 2 dưới thân và 2 wing-tip ( chỉ đeo R-73 hoặc Khibiny pod )
    Su-34 có khả năng mang 2 quả 3M80 Moskit ( ASM-MSS ) trong khi Su-33 chỉ giới hạn 1 quả , 3M80 nặng 4000 kg và bay siêu âm Mach 3.0 ở khoảng cách 250km ( 155 miles ) , ngoài ra Su-34 cũng có thể trang bị 3 tên lửa Alpha ASM ( ??? ) của phòng chế tạo NPO Mashinostroyeniya với khoảng cách chiến đấu 300km và bay hành trình với vận tốc Mach 2.5-3.0
    So sánh với tiêm kích - bom thế hệ cũ Su-24M thì Su-34 không những tải trọng lớn hơn khoảng 8 tấn tối đa và còn hơn khoảng 20% bán kính chiến đấu
    Không chiến , Su-34 trang bị pháo 30mm GSh-301 150 viên , tên lửa dẫn đường bằng radar chủ động R-77 ( RVV-AE ) và tên lửa hồng ngoại tầm ngắn R-73
    Khả năng tấn công mặt đất
    [​IMG]
    Nếu bay ở độ cao thấp với 4 tấn vũ khí thì Su-34 có thể tấn công mục tiêu ở khoảng cách 600km ( 324nm )
    Nếu bay ở độ cao lớn cũng cùng tải trọng thì Su-34 có thể tấn công mục tiêu ở khoảng cách 1100km ( 594nm ) và 2 bình nhiên liệu rời 1150 lít thì tăng bán kính chiến đấu lên 30%
    4.Trinh sát và đối kháng điện tử :
    Khoảng 100 chiếc trong các đơn vị Su-24 là phiên bản trinh sát Su-24MR , như vậy nhiệm vụ trinh sát cũng được đặt ra cho Su-34 là 1 trong những nhiệm vụ quan trọng nhất
    Su-34R ( phiên bản trinh sát ) được trang bị hệ thống trinh sát BKR-3 ( Bazovyi Kompleks Razvedki hay mã hiệu izd. M400 ) gắn trên pod UKR Sych ( tên tiếng Nga : Cú nhỏ ) , phiên bản Su-34R được nghiên cứu và trình diễn dưới chương trình tên gọi Syuzhet và các hệ thống trinh sát vẫn đang tiến hành thử nghiệm
    Cảm biến chính của hệ thống trinh sát là radar quét ngang M402 Pika ( phiên bản xuất khẩu Abstruktsiya ) phát triển bởi công ty điện tử NII Kulon đặt tại Moscow . Radar hoạt động ở băng tầng X (7.7Ghz ) có thể quét 1 khu vực với diện tích lên đến 60km2 hoặc diện tích mặt nước khoảng 120km2 với độ phân giải 50dm
    Một hệ thống trinh sát khác được phát triển là hệ thống quang ảnh UKR-OE bao gồm camera-TV Antrakt và cảm biến quét ảnh nhiệt M433 RadugaVM có khả năng ghi nhận sự thay đổi nhiệt mức 0.3 độ C , tất cả đều phát triển bởi viện kỹ thuật CNIRTI
    Một phiên bản đặc biệt của Su-34 khác là máy bay đối kháng điện tử Su-34P được thiết kế khá giống nhiệm vụ của E6-B Prowler với hệ thống đối kháng điện tử Kavkaz ( Caucasus ) , tuy nhiên hồi năm 2000 thì chương trình Su-34P với hệ thống đối kháng điện tử Kavkaz bị dừng lại vì quá đắt đỏ và Sukhoi quyết định thay thế bằng hệ thống đối kháng điện tử L175V Khibiny-V với Tarantula L700 pod
    Su-34 đã tham gia thử nghiệm bí mật trong các cuộc xung đột như mẫu thử nghiệm T-10V-1 đã sử dụng hệ thống đối kháng điện tử Khibiny nhằm bảo mật tín hiệu điện từ phát ra từ Su-24M trong cuộc tập trận Ashuluk 2000 , hoặc thử nghiệm ở Checnya 2002 cũng như chiến tranh Gruzia thì 2 mẫu thử nghiệm T-10V7 và T-10V8 đã tham gia chiến đấu đánh hạ 1 đài radar cảnh báo sớm của địch
    5.Sản xuất hàng loạt :
    Trong năm 2005 , bộ trưởng quốc phòng Nga đã kí hợp đồng với Sukhoi mua 18 chiếc Su-34 giao 2 chiếc năm 2006 , 6 vào 2007 và 10 vào 2008
    Ngày 15/12/2006 thì RuAF chính thức nhận 2 chiếc Su-34 đầu tiên vào biên chế , Bort 01 và 02 từ nhà máy NAPO nhưng thực tế chỉ có Bort 01 hoàn thiện và đưa vào trực chiến tại Lipetsk vào tháng 4/2007 , các kế hoạch giao nhận trong 2 năm kế tiếp đều thất bại
    Chiếc Bort 03 giao vào tháng 12/2008 và 2 chiếc 04 , 05 vào tháng 12/2009 . Năm chiến đấu cơ Su-34 đều phục vụ trong trung tâm huấn luyện chiến đấu số 4 ( 4th Centre for Combat Training and Aircrew Conversation ) tại Lipetsk , sau đó 2 chiếc số 01 và 02 được điều chuyển sang Trung tâm thử nghiệm chiến đấu 929 tại Akhtubinsk
    Hợp đồng mua 18 chiếc Su-34 bị hủy bỏ sau khi giao nhận 5 chiếc Su-34 , tuy nhiên tháng 11/2008 thì BQP quyết định ký lại hợp đồng mới với Sukhoi mua 32 Su-34 chuyển giao từ 2010-2013 , tất cả máy bay sẽ gửi đến căn cứ không quân 7000 tại Voronezh và trực chiến chung với Su-24M , trung đoàn không quân Su-34 đầu tiên thành lập với đầy đủ 10 chiến đấu cơ vào 2010 và đến nay khoảng 22 chiếc Su-34 đã có mặt tại Voronezh
    Không dừng tại , bộ trưởng quốc phòng Nga Sergei Shogu đã kí hợp đồng với NAPO việc mua thêm 1 số lượng lớn Su-34 khoảng 94 chiếc trong chương trình hiện đại hóa quân đội Nga 2020 nhằm tăng lên 129 chiếc
    giá thành của 1 chiếc Su-34 trong 2010 là 1,158 triệu rúp còn trong 2011 thì 1,110 triệu rúp quy đổi sang khoảng 34-35.5 triệu $ , hợp đồng mua 92 chiếc Su-34 khoảng 140 tỉ rúp với giá thành mỗi chiếc khoảng 49tr$
    Tương lai Su-34 sẽ thay thế hoàn toàn 250 chiếc Su-24M tại 8 sân bay quân sự : Voronezh , Monchegork , Marinovka , Morozovsk , Chernyahovsk , Chelyabinsk , Khurba và Varfolomeyevka cũng như sân bay Gvardeyskoye tại căn cứ Crimea , Ukraine

    6. Nâng cấp :
    Ở các máy bay chiến đấu Su-34 gần nhất trang bị cho RuAF thì có 3 chiếc mã hiệu 02 , 05 và 10 Bort đã trang bị hệ thống cung cấp điện APU ( auxiliary power unit ) TA-14-130 gắn ở đuôi máy bay nhằm cung cấp điện 1 chiều A/C cho hệ thống điện tử và làm mát máy bay ngay tại chỗ , điều này thuận lợi vì máy bay có thể khởi động nhanh động cơ và tác chiến kịp thời
    [​IMG]
    Động cơ nâng cấp AL-31F-M1 turbofan đạt lực đẩy 29.762lbs ( 13.500kg ) đang thử nghiệm cho chiếc Su-34 mã Bort 01 ở lô sản xuất gần nhất
    Hãng KNIRTI cũng phát triển thành công hệ thống chiến đấu Khibiny-M tương tự loại đang sử dụng cho Su-35 , việc nâng cấp radar V004 cũng đang bắt đầu triển khai
    Việc quan trọng nhất của Su-34 là trang bị các loại vũ khí tiên tiến như bom dẫn đường vệ tinh KAB-500S được Su-34 thử nghiệm lần đầu vào 2005 hoặc tên lửa chống bức xạ Kh-31PM thử nghiệm 2006 đến tên lửa chống tàu Kh-35U thử nghiệm 2010
    Đặc biệt tên lửa không đối đất Kh-38M cũng được thử nghiệm vào 2010 là loại thay thế Kh-25M và dòng họ Kh-29 , Kh-38M có tầm bắn tối đa 40km và dẫn đường bằng laser


    Tham khảo tài liệu :
    1.Su-34 Fullback đăng trên tạp chí AIR International 2010 viết bởi Piotr Butowski
    2.Sukhoi Su-27 Famous Russia Aircraft của Yefim Gordon
    Lần cập nhật cuối: 05/03/2014
  8. SKVN

    SKVN Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    19/06/2012
    Bài viết:
    3.522
    Đã được thích:
    2.884
    Có thắc mắc gửi đến bác @SuperSukhoi là Su-33 làm sao mang và sử dụng được Kh-41 Moskit khi bản chất nó là Su-27S trên hạm?

    Bằng chứng duy nhất về việc Su-33 mang Kh-41 là ảnh chụp ở MAKS năm nào đấy, nhưng theo mình biết thì đó chỉ là mock-up và Su-33 hoàn toàn không có khả năng mang tên lửa chống hạm.

    Cái này cần làm rõ này :D
  9. bigradeon

    bigradeon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/10/2008
    Bài viết:
    268
    Đã được thích:
    135
  10. SKVN

    SKVN Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    19/06/2012
    Bài viết:
    3.522
    Đã được thích:
    2.884
    Thế tớ mới bảo là nghi vấn cần lời giải đáp. Vì Su-33 nó là bản Su-27S có chỉnh sửa cho hoạt động trên tàu sân bay, hệ thống điện tử và điều khiển vũ khí chuyên cho đối không + khả năng đối đất/hải giới hạn ở bom ngu và rocket không điều khiển mà.

Chia sẻ trang này