1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Phùng Quán - Lời Mẹ Dặn

Chủ đề trong 'Văn học' bởi hoangvan09, 03/05/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    To Trai tim soi da:
    Rất hân hạnh được làm quen với cháu nội nhà thơ PQ. Bắt tay 1 cái nhé. Tớ rất hâm mộ PQ và rất thích bài "lời mẹ dặn" của PQ. Khí phách của ông đáng để cho tất cả chúng ta phải khâm phục. Tiếc là cuộc đời ông sao mà buồn khổ quá. Chữ tài liền với chữ tai 1 vần. Đây là chân dung PQ của nhà thơ Xuân Sách:
    Phùng Quán
    Hồn đã vượt Côn đảo
    Thân xác ở trong lao
    Bởi nghe lời mẹ dặn
    Nên suốt đời lao đao.
  2. TraiTimSoiDa

    TraiTimSoiDa Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/03/2004
    Bài viết:
    1.407
    Đã được thích:
    0
    lolz....đính chính lại di hoangvan..mình ứ fải là cháu nội nhà thơ PQ đâu...Mình cũng mong thế mà hông đươc.....Mình chỉ là cháu hàng xóm và mến mộ tài năng cũng nhơ thơ ca của ông thôi...Lần đầu đọc thơ ông là mình đọc Lời mẹ dặn đó....Công nhận bài thơ đó tuyệt vời thật...Thân
  3. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    To TTSD: Nghe thoáng qua cứ tưởng cháu đích tôm của PQ cơ đấy, sorry.
    Hình như KimLien cũng trích dẫn từ cùng 1 site như tớ, vì vậy cũng sai tựa đề bài Tình tuyệt vọng, mà ko thấy TTSD sửa sai? Chịu khó post thêm thơ PQ cho mọi người thưởng thức nha. Đúng là tìm đọc thơ PQ ko dễ.
    Chúc vui vẻ.
  4. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Cỏ hoa Phùng Quán-Ngô Minh
    Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932- 1995) là một chiến sĩ vệ Quốc đoàn bản lĩnh, xông xáo và nhiệt huyết với lý tưởng cách mạng mà anh đã chọn, đã đi theo từ thuở chăn trâu ở làng Thủy Dương, Huế. Những tác phẩm văn xuôi như Vượt Côn Đảo, Tuổi thơ dữ dội..., những bài thơ Di chúc chiến sĩ, Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo, Chống tham ô lãng phí, Lời mẹ dặn, Đêm Nghi Tàm đọc thơ Đỗ Phủ cho vợ nghe... của anh bây giờ đọc lại vẫn hừng hực lửa chiến đấu. Có lẽ vì thế mà anh rất ít thời giờ để làm thơ thưởng hoa vịnh nguyệt.
    Tôi đọc trong số hàng trăm bài thơ anh đề lại, chỉ đếm được có hơn chục bài viết về hoa lá, cây, cỏ, quả, như các bài Cây vạn niên thanh, Cây xương rồng, Cây dứa, Hoa sen, Cây mận ở Vĩnh Linh, Hoa *** lợn v.v... Phùng Quán ngắm hoa lá cỏ cây theo cách riêng của mình. Anh chàng ca ngợi vẻ đẹp, màu sắc, hương thơm quyến rũ như trước một giai nhân đơn thuần của cỏ hoa, mà chủ yếu là anh phát hiên và xưng tung sự hữu ích, sự hy sinh, lòng nghĩa khí của cây cỏ. Với anh, nhiều loại cây cỏ có phẩm chất của một chiến sĩ cách mạng! Bởi vậy nhà thơ coi những cây vạn niên thanh, cây xương rồng, cây dứa... là những bậc thầy của mình về bản lĩnh sống, nên phải xưng bằng "Anh" , bằng "Người" - "Cả một đời tôi chỉ khiếp phục anh", bởi vì:
    Anh uống độc khí trời
    Anh xơi độc nước lã
    Anh vẫn tràn trề sức lực tươi xanh
    Vẫn tặng cho đời chất thơ của sắc lá!
    (Cây Vạn niên thanh)
    hay:
    Xương rồng ơi xương rồng!
    Anh có thật xương rồng!
    Hay xương người nghĩa khí
    Ngã xuống rồi hóa thân?..."
    (Cây xương rồng)
    Dứa ơi
    Người hãy dạy tôi
    Cách chát lọc từ khô căn sỏi đá
    Chất mật mát lành dịu nắng lửa trăm cơn
    (Cây dứa)
    Cây cỏ mọc trên đổi, trổ lá cho người lợp nhà, "che cho mình dăm tàu lá nhỏ/ Che cho đời nghìn tán lá xanh... " (Cây Cọ)... Phùng Quán tìm thấytrong cây cỏ hoa là bao điều tâm đắc, ước nguyện của mình về thơ về bản lĩnh sống. Cái chất thơ trong cỏ hoa ấy là chính chất Phùng Quán trăm phần trăm "Với tôi thơ mới là tất cả. Thơ là lý lịch là mạng sống đời tôi" ..
    Gây ấn tượng nhất đối với tôi là câu chuyện về bài thơ "Trường ca cây cà". Sinh thời một lần "vi hành" vào Huế, nhà thơ Phùng Quán thường tá túc tại nhà tôi, nhà anh Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Bến Ngự hoặc nhà thầy giáo Lê Gia Ninh ở bến Cống Lương Y. Mỗi sáng, ạnh dậy sớm xỏ chân vào đôi dép dày cộp nặng như cùm tự anh cắt đục từ lốp ô tô cũ, mặc chiếc áo chàm cũ, đeo chiếc bị cói và dắt chiếc xe trâu cao lêu nghêu ra đường, bắt đầu một ngày đi đọc thơ "phục vụ nhân dân" như anh thường nói. Đến tận khuya anh mới ngất ngưởng về. Lần ấy, cả một tuần liền anh không về ngủ. Thì ra anh vào Đà Nẵng, Quảng Nam đọc thơ tít mù từ phố xuống huyện, xã. Đúng ngày Đại hôi Văn nghệ Bình Trị Thiên (cũ) lần thứ ba (1989), anh xuất hiện ở Huế, nét mặt rạng rỡ, khệ nệ mang một chồng báo Quảng Nam - Đà Nẵng cuối tuần có in bài thơ Trường ca cây cà ký tặng bạn bè. Đó là mùa đông năm 1987, lần đầu tiện sau 30 năm anh lại được báo in bài thơ tâm huyết. Anh lấy nhuận bút bằng mấy trăm tờ báo để tặng! Gặp lại tôi anh cao hứng đọc: "Chính cây cà quê mùa lao lực/ Đã dạy anh dũng khí bền gan". Đúng như thơ anh từng viết: "Có những phút ngã lòng/ Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy!". Tôi mừng cho anh và đọc đến thuộc Trường ca cây cà. Bài thơ gọi là trường ca có tới 6 chương, nhưng chỉ 56 câu thơ. Có chương chỉ có 2 câu, 5 câu. Bài thơ súc tích, chặt chẽ với những ý tưởng lớn và rất cảm động. Cây cà Việt Nam:
    Thân lao lực màu quê...
    Mặc cho sâu róm đầy cành
    Rễ còn bám đất
    Còn khôn nguôi tím nguôi xanh...
    Bạc tóc trồng cà
    Tôi mới hiểu ra
    Vì sao Gióng
    Trước khi lên ngựa sắt
    Vung roi trừ giác
    Chỉ ăn cơm cà... ,
    Người Nghệ
    Muối một vại cà
    Ăn một năm
    Sử kháng chiến ngàn trang
    Người Nghệ ưa vắn tắt:
    - Đánh Pháp hết chín vại cà
    Đánh Mỹ hết hai chục vại...
    Bài thơ cuốn hút bởi tính hình tượng sinh động đầy sức thuyết phục về sức mạnh Việt Nam, lại dân dã dễ đọc dễ hiệu, dễ nhớ!
    Phùng Quán nhiều đêm kể cho tôi nghe rằng, anh đã từng sống một mình trong cái lán lợp lá mía ở trại tăng gia bên bờ con suối có tên là Linh Nham, vùng núi Thái Nguyên suốt ba năm ròng. Mùa mưa lũ, không ai dám vượt suối, nên anh như Robinson Crusoe trên đảo. Quanh lán mọc đầy cỏ dại và cây trinh nữ. Bàn ghế là rễ cậy khô ghép lại. Giường nằm là cây cổ thụ bị bão xô giật gốc lũ cuốn về, lấy rìu vạt bằng phía trên, rồi đục lõm xuống như cái áo quan. Anh sống với một con chó, một con heo, một bầy gà. Người với vật cùng ăn sắn, bắp, rau lang, ốc suối và cá tôm tự đánh bắt lấy. Anh đã tự đào một cái huyệt ngay trước mặt lán, dài hai mét, rộng một mét, sâu mét rưỡi, đề phòng khi kiệt sức, bên mình không có ai! Một lần anh mắc phải chứng dị ứng lở loét toàn thân, tưởng không sống nổi. May mắn được một vị sư nữ già chùa Tăng Cấu cứu khỏi bệnh nhờ mấy nắm lá tên là lá khổ sâm mọc trên đồi. Ơn cây ơn người cứu mạng, sau đó anh làm bài thơ Lá khổ sâm. Bài thơ buồn đau như một vết cắt. Phải trải nghiệm và yêu cuộc đời lắm mới viết được những câu thơ da diết cõi lòng:
    Tôi phải lên rừng
    Hái lá khổ sâm
    Tự mình cất lấy ly rượu sống
    Ôi rượu khổ sâm đắng lắm
    Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian...
    Bạn hữu thân thiết ơi!
    Xin đừng trách cứ tôi
    Sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng...
    Cỏ cây hoa lá trong thơ Phùng Quán là những biểu tượng của cuộc sống tâm linh anh muốn gửi đến và chia sẻ với độc giả của mình.
    Ngay cả trong tình yêu, Phùng Quán cũng có cách thể hiện thơ khác người đời. Sinh nhật người yêu không phải năm bông hồng, mà anh tặng qủa bí xanh! Bài thơ Quả bí xanh là một bài thơ tình với nhiều sự tích thú vị. Năm 1984, sau ba mươi năm anh lại được vào Huế quê nội. Anh mồ côi cha từ năm lên hai. Lớn lên năm tuổi đã giúp mẹ chăn trâu, cắt cỏ ở làng Thủy Dương xứ Huế. Suốt ngày người đen nhẻm và nồng mùi bùn đất. 13 tuổi anh trốn mẹ đi theo Vệ Quốc Đoàn đánh Pháp. Cho nên anh nhớ và yêu quê hương tha thiết. Những ngày ấy, anh bị "tiếng sét tình yêu" của một thiếu phụ Huế đài các và từng trải hớp hồn. Nàng thì áo dài tím thướt tha. Còn anh thì áo chàm sờn, dép lốp cao su, mũ nan, bị cói như một già làng miền ngược! Biết thế nhưng anh vẫn luôn ghé thăm nàng như một niềm si mê đơn độc. Ngày sinh nhật nàng, anh rủ tôi đạp xe xuống Thủy Dương quê anh, đến nhà ông chú ruột thỉnh một trái bí to, da căng mọng màu ngọc bích. Rồi anh cầm chiếc đinh mười căm cụi đề thơ lên bí. Xong chúng tôi lấy bao tải, quần áo cũ bọc trái bí cẩn thận, xong anh ôm bí ngồi xích lô lên Huế. Trưa hôm ấy, hàng trăm người ngac nhiên trước món quà tặng bất ngờ của thi sĩ Phùng Quán: Đó là một quả bí xanh lớn có bài thơ đề trên da bí mà anh gọi là khối thiên thần màu ngọc bích! Anh nâng tặng vật nặng trĩu trên tay, nói trong tiếng thở gấp: "Tặng vật tôi mang từ quê nội tặng sinh nhật em đây!". Nàng thơ bước vội ra sau tấm màn gió, cầm ra chiếc gối còn dính vài sợi tóc của nàng để làm gối cho anh đặt "trái bí thơ":
    Trên da bí
    Màu men ngọc lý
    Tôi tạc câu thơ
    Buồn như lửa
    Hỏa táng trái tim...
    Quà sinh nhật tặng người tình như thế tôi chưa thấy bao giờ! Nó vừa ngộ nghĩnh, xa xót mà sâu sắc như chính bản chất hồn nhiên chứa chan của cuộc sống.
    Cho đến những ngày bị bệnh nặng sắp từ giã cõi đời viết thư cho bè bạn anh vẫn kể chuỵện về cây cỏ: "Nếu chết, anh sẽ hóa thành một cậy cỏ dại, cùng cỏ cây xanh tốt đất này". Anh bảo, đời anh từ nhỏ cho đến khi đã thành nhà văn rồi vẫn chỉ là ngọn cỏ. Bao đêm viết... "văn chui", rồi vén cỏ ra bờ Hồ Tây ngồi cậu trộm cá để nuôi con, để sống qua những ngày gian khó. Bao đêm lót lá rừng mơ giấc mơ chiến sĩ. Cỏ hoa trong thơ Phùng Quán không phải là thứ trạng sức mà là biểu tượng của phẩm giá mọc lên từ niềm tâm tưởng của một đời chiến sĩ...
  5. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    Tớ rất cảm bài này của PQ .
    Vô đề -PQ
    Có những phút lòng sao kinh hãi thế
    Đến cả thơ cũng không ấm được nỗi lòng
    Đến cả rượu cũng không nguội đắng cay phiền muộn
    Và mắt người yêu cũng không vợi bớt cô đơn
  6. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    Và 2 câu này nữa:
    Có những phút ngã lòng
    Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy !
    1965
    Nhà thơ PHÙNG QUÁN coi đó như một châm ngôn sống của ông...Ông dán 2 câu thơ đó trên Vọng Ba Lâu ( chòi ngắm sóng ở Hồ Tây nhà ông)
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nhớ ông Quán​
    Phạm Xuân Nguyên
    Nếu còn sống đến năm Nhâm Ngọ này ông đã lên lão bảy mươi. Ông giã biệt thơ, giã biệt thế gian đã bảy năm nay (ngày 22.1.1995) đưa ông đi tôi có đôi dòng : " Vượt Côn Đảo không quên lời mẹ dặn, Dẫu tuổi già vẫn dữ dội tuổi thơ ". Nay mừng ông thất thập nơi khuất bóng, tôi nhớ ông.
    Tôi gặp ông lần đầu tại Huế.
    Năm 1987 tôi từ Hà Nội vào Huế công tác. Một buổi trưa, anh em văn nghệ cố đô tập trung rất đông tại một quán nước trên vỉa hè xế trước cổng trụ sở Hội văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên hồi đó ở số 6 Lê Lợi. Ngẫu nhiên lúc đầu chỉ có vài ba anh em ngồi với nhau, rồi thấy người này người khác ngang qua gọi với vào, một lúc quán đã đông chật, đủ mặt văn tài xứ "đẹp và thơ": Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khắc Phê, Ngô Minh, Nguyễn Quang Lập... Và một ông già. Một ông già râu dài, tóc dài, mặc bộ đồ nâu. Một ông già dáng người thấp, khuôn mặt phúc hậu, cởi mở. Anh em văn nghệ ở Huế tôi đã quen biết hầu khắp, còn ông già này ? Mọi người đưa mắt nhìn tôi, cái nhìn như hỏi : sao, ở Hà Nội, làm ở viện nghiên cứu văn học quốc gia, vậy mà không biết người này sao ? Tôi nhìn ông già lạ lẫm. Đến lúc thấy rõ tôi không biết thật người đang ngồi trước mặt là ai, một người mới lên tiếng giới thiệu : Nhà thơ Phùng Quán. Nghe tên, tôi giật mình. Tôi vui sướng. Và tôi xấu hổ.
    Mang tiếng là sinh viên văn khoa, lại là văn khoa đại học Tổng Hợp Hà Nội, rồi ra trường về làm việc ở Viện Văn Học, nhưng thú thực là tôi, và lớp chúng tôi, không được biết gì về quá khứ văn học của thời mình sống. Hồi còn trên ghế phổ thông, đâu vào khoảng những năm 1970, chẳng hiểu do đâu tôi có được trong tay cuốn Bọn Nhân Văn - Giai Phẩm trước toà án dư luận. Tôi đọc sách đó thấy khiếp. Trong tâm trí của tôi hồi đó và mãi đến sau này, những người được gọi là "bọn" đó họ là những người khác thường, không chắc còn sống, và nếu sống thì mình cũng không chắc được gặp và gặp được. Nhất là với một người ở tỉnh lẻ như tôi. Đối với họ, tôi có một "khoảng cách sử thi". Ngay khi đã ở Hà Nội, đã vào nghề nghiên cứu, bắt tay vào tìm hiểu các vấn đề của văn học Việt Nam hiện đại, tôi vẫn không hình dung được cái ngày mình lại có thể được đối diện tương giao những đối tượng nghiên cứu "cấm kị" của mình. Bởi vì thực tế công việc cho tôi thấy mọi điều không đơn giản. Năm 1985 tôi được giao làm phần phụ lục "Các sự kiện văn hoá văn nghệ và giải thưởng văn nghệ" cho công trình nghiên cứu của Viện Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954). Khi tôi đưa bản thảo phần của mình lên duyệt để đem in, ông Viện trưởng hồi đó đã tự tay xoá đi cuốn Vượt Côn Đảo của Phùng Quán được giải ba về truyện trong giải thưởng văn học của Hội Văn Nghệ Việt Nam (1954 - 1955). Tôi cố đem lời lẽ thuyết phục : nào là cái gì đã thuộc về lịch sử thì phải giữ nguyên cho lịch sử, nào là bây giờ cởi mở thông thoáng rồi, nào là tác phẩm này có tính cách mạng cao, vân vân và vân vân, nhưng tôi có nói thế nào cũng không át được sự thận trọng của người lãnh đạo. Rốt cuộc, công trình nghiên cứu được in ra năm 1986 ở nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội không có tên Phùng Quán và tác phẩm của ông trong giải thưởng đã được chính thức trao tặng cách đó ba chục năm. Đó là nỗi đau khoa học đầu tiên của tôi.
    Tôi đã kể chuyện này cho ông Quán và bạn hữu nghe trong buổi trưa Huế đó. Ông cười, tỏ ra đã quá quen với những sự đối xử như vậy mấy chục năm qua. Một ai đó chợt nói như chia sớt cùng tôi nỗi ân hận trước số phận long đong của nhà thơ : thì bây chừ Huế cũng đã dám in thơ cho anh Quán mô, Đà Nẵng in trước cho anh đó chớ. Chừ anh Quán bán giá cao đi, anh em đây mua hết báo cho anh ! Loáng cái, từ sạp báo của Dương Thành Vũ bên bờ sông Hương mấy chục tờ Quảng Nam - Đà Nẵng chủ nhật số 7 (15/2/1987) có đăng trường ca Cây cà của Phùng Quán được đưa về. Đây là lần đầu tiên ông xuất hiện trở lại đúng tên mình sau hơn ba mươi năm chịu cảnh " cá trộm, rượu chịu, văn chui " bên túp lều ven Hồ Tây. Tờ báo giá 5 đồng, mọi người nhất loạt mua lại 10 đồng. Ông Quán xúc động bồi hồi trong tình cảm anh em văn nghệ thân thiết, miệng ông cười mà mắt ngấn lệ, tay ông liên tiếp chép lại một khổ thơ bị thiếu trong bài thơ và lời đề tặng. Ở tờ cho tôi, ông viết :
    Ba mươi hai năm trước
    Tôi chết giữa Hồng Hà dữ sóng
    Sau ba mươi hai năm
    Tôi hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn giang
    Chính cây cà quê mùa lao lực
    Đã cho tôi
    dũng khí
    bền gan.
    Bản trường ca Cây cà này đến Tết năm 1990 đã được in lại trọn vẹn trên báo Thương mại. Mùa thu năm ấy trên chòi Ngắm Sóng (Vọng Ba lâu) ông lại tặng tôi một bản để kỷ niệm duyên cà đã cho tôi được gặp ông. Còn hồi đó, năm 1987, khi chia tay ở Huế ông khẽ bảo tôi : ra Hà Nội có dịp em ghé anh chơi, nhà anh ở phía sau trường Chu Văn An.
    Từ đấy tôi có ông Quán.
    Ông hơn tôi một thế hệ, nhưng tôi vẫn được gọi ông bằng anh. Đứa con tôi thấy ông đến chơi liền cất tiếng chào bằng ông, ông cười bảo : chào bác thôi, tao là bạn của ******. Ở đây tôi gọi Ông Quán là theo điển của cụ Đồ Chiểu mà các bằng hữu của ông vẫn thường yêu mến gọi ông.
    Căn phòng tôi sống trong khu tập thể Viện văn Học hồi đó được cái tiện đường nên anh em xa gần thường lui tới. Ông Quán cũng đã nhiều lần ghé lại, trong đó có hai lần tôi rất nhớ. Một lần vào khoảng đầu năm 1990, khi đó tạp chí Cửa Việt của Hội văn nghệ Quảng Trị vừa mới ra mắt, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tổng biên tập ra Hà Nội ghé gặp tôi bàn chuyện bài vở. Khi anh Tường đến thì gặp ông Quán và tôi đang chuyện trò, thế là ba anh em bàn bạc rất tâm đắc, hào hứng. Trong câu chuyện ông Quán có nói cái ý này rất hay : người làm báo như người giữ sân bãi cho người viết là cầu thủ ra sân đá, anh phải làm thế nào đó đừng để bị mất sân bãi, vì bị bật bãi là hết chỗ đá. Anh Tường cũng tâm niệm như vậy, nhìn gương một đồng nghiệp trước đó để biết đường tiến thoái, sao cho còn đất mà chơi. Vậy mà chàng Hoàng Phủ cũng chỉ giữ được Cửa Việt ba năm 17 số, ứng vận với con số vĩ tuyến chạy qua miền đất ấy và với khoảng thời gian trôi qua sau kết thúc chiến tranh (1992), để ít lâu sau Nguyễn Quang Lập phó tổng biên tập ngoái nhìn lại rút ra bài học thấm thía : làm báo thời nay vừa hay vừa đúng mới tài. Còn với ông Quán, Cửa Việt đã vang dội ở cái Tết 1992 khi đăng bài ông viết Ngày xuân xông đất nhà thơ Tố Hữu. Nhớ hôm ông đưa bản thảo, cũng tại nhà tôi, Lập và tôi đọc xong sướng run lên. Lập chỉ xin ông thay hai chữ " hệ luỵ " có trong bài bằng một chữ khác cho an toàn hơn, ông đồng ý. Báo Tiền Phong đăng lại bài này, số lượng tăng lên cả vạn, nhuận bút trả ông Quán hai trăm ngàn đồng. Cửa Việt nghèo, chỉ trả cho ông Quán nhuận bút được bốn chục ngàn, ông bảo tôi chuyển số tiền đó ra thành 13 cuốn tạp chí (3000đ/cuốn) để tặng bạn bè, người quen. Về sau nhiều lần ông thích thú nói với tôi : cả đời mình làm thơ có người biết người không, nhưng chỉ một bài báo mà mình đi đâu ai người ta cũng biết, cũng đọc. Phải nói là ông Quán viết báo có cái duyên, cái chất riêng, nên đọc thấy thú vị và ngẫm ngợi được nhiều điều, ví như bài ông viết về việc lo đám ma cho ông Đoàn Phú Tứ hay về cái chết của ông Trần Đức Thảo chẳng hạn.
    Lần thứ hai đáng nhớ ông Quán đến nhà tôi là dịp làm lễ mừng thượng thọ cho ông Nguyễn Hữu Đang. Trước đó, một buổi chiều 29 tết Tân Mùi, ông chợt ghé lại tôi cho hay là nhân có số tiền được thưởng về phim Tuổi thơ dữ dội nên ông đã xuống Thái Bình thăm ông Đang từ hôm ông Táo về giời đến hôm nay mới lên. Những điều ông kể cho tôi nghe hôm ấy về cảnh sống khổ cực, về thân phận nổi chìm của ông Đang sau này ông đã chuyển thành một bài viết đầy tình cảm và luận cứ. Còn giờ đây, một ngày giữa tháng Mười Một 1992, ông đưa tôi một giấy mời như sau :
    Mừng sống dai
    Nguyễn Hữu Đang chiến sĩ kách mệnh. Trưởng ban tổ chức ngày đại lễ của đất nước Tuyên Ngôn Độc Lập mùng 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội. 1992 (Nhâm Thân) 80 xuân ngồi trầm tư tại bản quán trong căn hộ độc thân - nguyên cái chái bếp của tập thể giáo viên trường phổ thông cơ sở thôn Trà Vy, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương, Thái Bình. Chúng tôi Phùng Cung và Phùng Quán (em kết nghĩa) xin trân trọng kính mời : đúng 10 giờ 30 ngày 20 tháng 11 năm 1992 đến tại nhà riêng chúng tôi số 10 Thuỵ Khuê - khu tập thể giáo viên trường Chu Văn An, uống chung rượu khổ sâm mừng sự sống dai.
    Phùng Cung và Phùng Quán.
    In kèm bên là tấm ảnh chụp ông Đang sáng mồng một Tết năm Nhâm Thân với dòng chữ đề " Nguyễn Hữu Đang. Tám mươi xuân - trai tân - độc thân ". Mặt sau tấm giấy mời khổ to này là bản chụp lại trang bìa tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số đặc biệt kỷ niệm 45 năm Cách Mạng Tháng Tám (1990) trong đó có nói đến công lao của ông Nguyễn Hữu Đang. Ông Quán đưa thêm cho tôi mấy tờ bảo mời thêm những người trong Viện đến dự cho vui cho biết. Và ông nói với tôi : chỗ anh em, N. có thể đến vào tối hôm trước dự buổi gặp mặt trong không khí gia đình.
    Vậy mà, hỡi ôi, tôi đã phụ lòng tin của ông. Tôi đã không đến dự buổi lễ thọ đó. Tôi đã hèn nhát, đã sợ hãi. Một anh bạn văn cũng được mời đến cuộc đó, khi thấy tôi định đi, anh khuyên tôi cẩn thận, có lẽ không nên đến thì hơn. Lúc đầu tôi cãi lại : nắm kẻ có tóc, ai nắm kẻ trọc đầu. Nhưng một phút do dự, ngập ngừng đã khiến tôi lại mang lỗi với ông Quán, lần này là do bởi chính tôi. Buổi lễ đã diễn ra vui vẻ, yên lành, nên thế tôi mới càng đau cho cái sự hèn nhát của mình. Những ngày sau đấy gặp lại ông Quán tôi rất ngượng ngùng, xấu hổ, và một hôm tôi đã nói thật, nói thẳng tâm trạng của mình cho ông biết. Ông gạt đi như không có chuyện gì. Nhưng tôi biết thâm tâm ông cảm thấy rất buồn. Đây đâu phải chỉ là chuyện văn chương, đây là nhân cách, là cách sống, là tình cảm của con người và con người. Ông và thế hệ ông đã sống đúng mình và làm văn thực mình. Chẳng lẽ thế hệ sau lại cầu an, sợ sệt thế sao ?
    Mẹ đã sinh ra một nhà thơ
    Đó là điều nhiều bà mẹ trên thế gian này ao ước
    Mẹ chết vì bệnh tim
    Đó cũng là điều số phận đã định trước
    Cho các bà mẹ
    Dám sinh ra nhà thơ.
    Ông Quán đã chép tặng tôi mấy câu này, đó là " Thơ dán trên linh cữu mẹ nhà thơ Lê Thị Mây chết vì bệnh tim " (1987). Sau này đọc thơ nước ngoài tôi gặp lại những ý tưởng của ông Quán. Nhà thơ Bulgaria Stefan Tsanev viết :
    Khi nhà thơ ra đời
    Người mẹ nước mắt rơi :
    Bà sẽ nuôi nấng ai ?
    Chiếc nôi đưa không người
    Đứa trẻ bị đánh cắp.
    Mẹ sinh con nhưng chẳng cho mình,
    Khi nhà thơ ra đời.
    Đời ông Quán sướng khổ vì thơ, nhưng ông là người biết mình. Cái năm đổi mới, ông và mấy bạn văn một thời Nhân Văn - Giai Phẩm được nhà nước cho tiền in thơ. Một trưa hai anh em ngồi nhậu lòng lợn tiết canh trên gác xép cái quán cạnh Viện Văn, ông thông báo cho tôi tin đó. Ông kể cái khó lúc này là xác định ai thực là Nhân Văn - Giai Phẩm, không khéo nhận vơ. Nhưng điều quan trọng, và là điều làm tôi cảm động và yêu quý ông hơn, ấy là điều ông tâm sự : anh cảm thấy hồi hộp, và lo, vì lâu nay được cái tiếng ấy, bây giờ thơ in ra không khéo người ta thất vọng, tưởng mấy anh Nhân Văn thế nào, hoá ra chỉ thế này. Tôi nghe ông và đã tếu táo cậy tuổi trẻ nói với ông mấy lời : anh biết được thế là quý, nhưng theo em anh cứ in thơ, những bài anh làm trong quãng đời lận đận sóng gió ấy mà mấy năm qua anh đã cho đăng rải rác em thấy được đấy, không phải sợ đâu. Vả lại Nhân Văn đã là một hiện tượng lịch sử, người ta đọc thơ các anh là trong giá trị lịch sử ấy. Ông cười : lần nào đến mày cũng " lo lơ ti ca ", nể mày tao ngồi, chứ cứ thế này mãi, chán chết. Hai anh em cười xoà, cụng ly.
    Ông đối với tôi như vậy, tôi mắc nợ ông nhiều lắm. Từ trước tôi đã có ý định sưu tầm tài liệu, lập hồ sơ về các " vụ việc " trong văn học sử Việt Nam hiện đại để nghiên cứu con đường vận động của nó. Khi gặp ông Quán, nhiều lần trò chuyện về tình hình văn học những năm 1956-58, tôi ngỏ ý muốn nhờ ông giúp gặp gỡ các nhân chứng hiện còn, thu thập những tư liệu hiện có, ông rất nhiệt tình. Ông bảo : cứ trò chuyện, cứ đọc đi đã, còn kết luận đánh giá thì các anh cứ khách quan khoa học mà làm, cốt là phải đúng sự thật và đúng lịch sử. Nhưng rồi tôi cũng mải phù phiếm, và cũng nói thật là chưa đủ sự tự tại để đối lại với sự thờ ơ, nghi ngại của xung quanh với ý đồ khoa học này của mình, nên đã lỡ dịp với ông Quán. Chắc đấy cũng là một điều tôi để buồn cho ông.
    Sinh thời ông đã có lần tự hoạ mình : Bạc đầu vẫn trẻ con, Dại khờ cho đến chết, Giữa nghiệt ngã trần gian, Trái tim thơ thấm mệt. Ngày ông nằm xuống, thắp nén hương trước quan tài ông xong, tôi ngồi với quyển sổ tang ngổn ngang bao điều chẳng thể viết ra. Bất ngờ, như cuộc đời ông đã định và tôi chỉ việc ghi lại cho ông thôi : " Vượt Côn Đảo không quên lời mẹ dặn, Dẫu tuổi già vẫn dữ dội tuổi thơ ". Dữ dội là ở cái tính cách ông Quán trước sau không khác không ngược, là ở cái tiếng kêu vọng suốt một đời người đời văn " thằng Mừng không phải là Việt gian ". Còn trong cuộc sống ông nhân tình, phúc hậu, có khi tôi còn dám đùa ông là naïf nữa. Ông rất thích một bài ca trù mà hầu như lần nào gặp tôi trò chuyện thế sự văn chương vãn rồi ông lại cất cái giọng đọc rất truyền cảm đã ngấm chút hơi men của mình lên ngâm ngợi nó để cùng thích thú cùng buồn cùng cười cùng quên bao nỗi hệ luỵ của kiếp người. Bài ca trù ấy nói rằng đời người ta ngắn ngủi lắm : khoảng độ ba lăm là sắp kiệt, thế mà còn đi học đi hiệc, đi thi đi thiệc, khi đỗ khi điệc, làm quan làm kiệc...
    Chao ôi, cái vần " iếc " nó hoá mọi sự thành ra trò cười hết. Thế mà còn làm quan làm kiệc, làm thơ làm thiệc, nghiên cứu nghiên kiệc..., văng vẳng giờ đây tôi còn nghe giọng ông Quán rung lên trong buổi chiều đông áp tết Nhâm Thân khi ông vừa từ Thái Bình lên.
  8. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Phùng Quán-Người Bạn Lính Cùng Một Tiểu Đội
    (trích hồi ký của PHÙNG QUÁN)
    LTS (D Ð-Paris) - Phùng Quán đã từ trần ngày 22 tháng 1 năm 1995. Nhân ngày giỗ lần thứ năm của nhà văn, chúng tôi xin trích đăng phần đầu một chương hồi ký mà tác giả viết khoảng 1991-92. Chương này kể lại những kỉ niệm về Tuân Nguyễn, người bạn cùng tiểu đội của ông.
    Vào những năm đầu của thập kỷ sáu mươi (1960), trên các mặt báo trung ương và địa phương các trang thơ tràn ngập đề tài sản xuất, chiến đấu, ca ngợi các hợp tác xã điển hình, các nông trường, các nhà máy, hầm mỏ tiên tiến, nào " sóng Duyên Hải, gió Ðại Phong ", nào gương người tốt việc tốt, tố cáo tội ác Mỹ Diệm..., thôi thì đủ thứ.
    Bỗng dưng, trên một trang thơ tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam xuất hiện một bài thơ tứ tuyệt, nhan đề : Nghe nhạc Strauss.Tên tác giả lạ hoắc : Tuân Nguyễn.
    Ðã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ ngày ấy, nhưng bài thơ nọ vẫn đọng lại tinh khôi trong trí nhớ của tôi.
    Sóng sông Hồng bỗng xanh màu Danube
    Nhạc bồng bềnh trôi tới các vì sao...
    Trời lung linh khẽ chao mình theo nhịp
    Những người nước lạ phải lòng nhau...
    Ðề tài và nội dung bài thơ lạc lõng giữa biển thơ-hiện-thực sục sôi, nóng bỏng, thơ-minh-họa cho cuộc đấu tranh giai cấp " long trời lở đất ", khẳng định con đường " ai thắng ai ".
    Như thể tự thấy mình chẳng giống ai, bài thơ đã tứ tuyệt rồi mà vẫn còn nép mình ở góc cuối trang báo, khiêm nhường, nhỏ thó với vẻ ngơ ngác, lo lắng, nhìn lên những bài thơ bốc lửa, hừng hực khí thế đấu tranh, sang sảng lạc quan cách mạng của những tên tuổi thời thượng...
    Có điều lạ là ngay sau khi xuất hiện, bài thơ nhỏ bé nọ lập tức nổi tiếng, được nhiều độc giả mến mộ thơ ngày đó nhắc nhở, truyền tụng ; nhiều đôi trai gái chép vào sổ tay tặng nhau...
    Mùa hè năm 1950. Trảng cát Phong Chương bắc Thừa Thiên bị rang bỏng dưới cái nắng như dội lửa. Gió Lào khô rát thổi tung cát thành những đám mây, phủ trùm lên một vùng cỏ cây cằn cỗi, nhuộm màu cháy xém.
    Tôi lúc đó là tiểu đội trưởng một tiểu đội mũi nhọn trong đại đội chủ công trung đoàn quân chủ lực 101.
    Tôi cùng tiểu đội dầm mình trong cát bỏng, gió Lào, mải mê luyện tập môn đánh bộc phá, chuẩn bị cho chiến dịch hè thu.
    Tiểu đội tôi trẻ nhất đại đội, toàn những chàng trai 17, 18, 19... Tôi đang làm thị phạm động tác ôm thủ pháo chuẩn bị lao lên đột phá khẩu thì cậu Tiệm, liên lạc viên của đại đội, tay xách tiểu liên " Tuyn ", đầu đội mũ nan giắt đầy lá ngụy trang, chạy như ngựa tế băng qua những động cát, nhảy phóc qua những dãy xương rồng gai mặt nguyệt, chạy thẳng đến bãi tập. Tiệm đứng nghiêm, đưa tay lên vành mũ chào, vừa nói, vừa thở : " Báo cáo tiểu đội trưởng ! Ðại đội trưởng triệu tập đồng chí về ngay đại đội bộ ! Hết ! "
    Tôi giao tiểu đội lại cho tiểu đội phó tiếp tục khoa mục tập. Khoác lên vai khẩu tiểu liên " Mát " tôi hộc tốc chạy theo Tiệm về đại đội bộ. Tôi đoán chừng đại đội trưởng điều động tiểu đội tôi đi phối hợp chiến đấu với một đơn vị nào đó.
    Ðại đội trưởng chỉ hơn tôi ba bốn tuổi, cũng trẻ măng, nhưng đã được tặng thưởng huân chương Quân công. Anh đang ngồi trước bộ tràng kỷ bằng tre. Trên bàn một siêu nước lá vàng và mấy cái bát sành. Ngồi đối diện với anh là một thanh niên trạc tuổi tôi, dáng dấp học trò, tóc chải ốp, áo sơ mi màu trứng sáo, quần tây xám, chân dận dép săng đan da. Anh ta đeo kính trắng, cái miệng thật rộng và thật tươi.
    - Báo cáo Ðại đội trưởng ! Tiểu đội trưởng Quán có mặt !
    Ðại đội trưởng chỉ chiếc ghế tre chỗ cạnh anh, nói :
    - Quán ngồi xuống đây.
    Anh rót cho tôi một bát nước lá vàng đắng ngắt vị bộc phá.
    Chờ tôi uống cạn bát nước và kéo vạt áo quân phục sũng mồ hôi lau gương mặt sạm đen, đầy bụi cát, anh giới thiệu một thanh niên lạ mặt ngồi đối diện :
    - Ðồng chí Nguyễn Tuân đây hoạt động trong phong trào học sinh kháng chiến nội thành. Tuân học trường Providence, đỗ tú tài toán. Vừa rồi, sau vụ học sinh bãi khoá, Tuân bị lộ. Thị ủy Huế bố trí cho Tuân theo đường dây lên chiến khu. Nguyện vọng của Tuân là được gia nhập quân đội. Trung đoàn tiếp nhận, bố trí đồng chí ấy làm việc tại phòng Chính trị. Nhưng Tuân lại tha thiết muốn được cầm súng chiến đấu. Trên cử đồng chí ấy về đại đội ta. Tôi đã trao đổi với chính trị viên. Chúng tôi quyết định : Tuân sẽ về tiểu đội của Quán. Qua thư giới thiệu của Phòng chính trị trung đoàn, thì Tuân giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, biết cả chữ Hán, lại có khả năng sáng tác văn thơ... Chúng tôi nghĩ hai đồng chí cùng trạc lứa tuổi, lại cùng thích văn thơ, chắc sẽ hợp nhau...
    Tôi đăm đăm nhìn người đội viên mới của tiểu đội mình. ý nghĩ đầu tiên là cậu ta quá thư sinh, đã thế dáng dấp lại còm nhom, hai cánh trần nom như hai ống quyển, và hai cẳng chân chắc cũng không to hơn. Thế mà hành trang một người lính trận thì nào súng, cơ số đạn, lựu đạn, bộc phá, ruột tượng gạo, ống muối, ba lô... Khi cần tuýt một tiếng còi chỉ huy, tất cả phải nằm gọn trên lưng, trên vai, quanh thắt lưng chỉ trong vòng ba phút. Và phải lên đường hành quân bất kể ngày đêm, bất kể sấm chớp, mưa bão, lửa đạn...Tự nhiên tôi đâm giận hắn. Chắc khi ngồi mài đũng quần trên ghế nhà trường, cậu ta say sưa đọc câu thơ " Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa ", mơ mộng thấy đời lính trận mê ly lắm. Chỉ cần mấy hôm thôi, cậu ta sẽ thấm đòn thế nào là " phai bạc áo hào hoa ". Sao hắn ta không ở lại trung đoàn bộ làm lính văn phòng có hơn không ?
    " Ðồng chí Quán vào Vệ Quốc Ðoàn từ trước ngày Huế nổ súng - lời giới thiệu của Ðại đội trưởng về tôi cho Tuân nghe cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi - Quán đã tham gia chiến đấu ở mặt trận Huế, rồi mặt trận phía Nam, đèo Phát Tượng, Truồi, Nong... Tuy cùng trạc lứa tuổi với đồng chí, nhưng Quán là cựu binh của Trung đoàn, giãi dầu trận mạc không thua chúng tôi đâu. Quán còn là cây văn nghệ quần chúng của đại đội. Chúng tôi mong hai cậu sẽ thân thiết nhau.
    Tôi và Tuân Nguyễn biết nhau từ đó.
    Khi hai chúng tôi đã khá thân nhau, tôi thường đọc cho Tuân nghe thơ tôi làm. Những bài thơ tràng giang đại hải, sặc mùi lính tráng.
    Một hôm, nhân bàn chuyện thơ, Tuân hỏi tôi :
    - Này, cậu có biệt hiệu không ?
    - Có chứ, tôi đáp. Lúc đầu mình lấy biệt hiệu là Lúa Xanh. Nhưng sau đó nghe nó thối thối làm sao ấy, nên bỏ. Ðang cố rặn ra một biệt hiệu khác, nghe đỡ nặng mùi hơn, nhưng chưa ra... Khi mới tập tọng làm thơ, người ta ai cũng nghĩ rằng việc quan trọng đầu tiên là phải có một cái biệt hiệu thật kêu, kiểu như các thi sĩ nổi danh : Tản Ðà, Kinh Kha, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, T.T.K.H., Hoàng Cầm...
    Tuân nói :
    - Mình cũng từng nghĩ vậy. Rồi thấy biệt hiệu, biệt hiếc, vô duyên òm... Tên cha mẹ đặt cho thế nào cứ để nguyên nó thế ấy. Khốn nỗi, tên mình lại trùng với ông Nguyễn Tuân Vang bóng một thời quá nổi tiếng. Mình đành xoay ngược nó thành Tuân Nguyễn. Tuân Nguyễn ! Nghe cũng vô duyên, nhưng thôi, đành vậy.
    - Cậu thấy thơ mình thế nào ? - tôi hồi hộp hỏi Tuân, trong bụng chờ được Tuân khen. Cả đại đội khen thơ mình, nhiều cậu còn chép để học thuộc đấy.
    Tuân Nguyễn nhìn tôi qua tròng kính cận dầy cộp, chợt mỉm cười. Cái miệng Tuân cười thật rộng, thật tươi...
    - Thơ của cậu, hai mươi câu đầu để giữ gìn trật tự, hai mươi câu cuối chuẩn bị cho người nghe vỗ tay, còn đoạn giữa là vè !...
    Tôi không ngờ thơ của mình bị ông bạn mới " mạt sát " đến thế. Tôi đau quá, nổi sùng, chỉ muốn đạp cho hắn một đạp ! Nhưng tôi đã ghìm được, vì nhớ đến chức danh Tiểu đội trưởng của mình. Tiểu đội trưởng mà đạp đội viên vì thơ bị chê thì ê quá.
    Nhưng Tuân hình như không để ý gì đến thái độ giận dỗi của tôi. Cậu ta đọc cho tôi nghe những bài thơ cậu ta làm, đủ các thể loại : tứ tuyệt, ngũ ngôn, thất ngôn bát cú, lục bát, những bài thơ mỗi đoạn bốn câu ba vần... Mặc dầu tự ái một cây, tôi phải cay đắng nhận rằng bên cạnh những bài thơ ý tứ hàm súc, đầy nhạc điệu của Tuân, thơ tôi đúng là những bài vè tràng giang đại hải, không chối vào đâu được.
    Từ đó đến nay đã hơn bốn mươi năm trôi qua, mỗi lần tôi đặt bút định viết một bài thơ, lời nhận xét vừa nghiêm khắc, vừa giễu cợt của Tuân lại vang vọng bên tai tôi, làm tôi chùn bút.
    Một đêm ở chiến khu Câu Nhi, hai chúng tôi nằm trên sạp nứa, gác vế lên nhau, Tuân khuyên tôi :
    - Cậu phải học luật thơ Ðường làm cái vốn cơ bản, sau đó phát huy thành các thể thơ tự do, mới hy vọng thơ có thể khá lên được.
    Tôi mộng ước được làm nhà thơ, tôi chấp nhận lời khuyên của Tuân. Tôi hạ quyết tâm phải học thành thục luật thơ Ðường. Ban ngày tôi dạy Tuân các môn xạ kích, ném lựu đạn, đâm lê, đánh bộc phá... Ðêm đến, bên bếp lửa bập bùng chiến khu, Tuân giảng dạy tôi luật bằng trắc, luật các vế đối, luật cấu trúc các thể loại thơ Ðường : tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn... Tôi dùng mũi đinh nhọn ghi lời giảng dạy lên báng súng để lúc nào cũng có thể ôn lại được. Tôi tập làm thử một số bài thơ theo cách Tuân dạy. Nhưng làm xong tôi phải vo viên liệng ngay vô bếp, không dám đọc cho ai nghe. Trong nghề thơ, tôi tự ví mình như anh chàng ham trò đánh nhau nhưng chỉ quen dùng độc một môn " võ dân gian " là " đá củ đậu ", ba năm võ tàu không bằng một chầu đá củ đậu. Bây giờ tôi phải học đâm lê theo đúng quy tắc, một bước tiến, hai bước lùi... gạt trái, đâm phải... làm sao tiếp thu nổi.
    Mỗi lần nghĩ về người đội viên mới của mình, lòng tôi lại thấy buồn vì ghen tài và đố kỵ : " Hắn mới là người được trời sinh ra để làm thi sĩ. Tên tuổi hắn nay mai sẽ lẫy lừng trên thi đàn đất nước. Còn mình dù cố gắng đến hết đời cũng chỉ là một anh ỏvăn nghệ quần chúngõ, ca dao, hò, vè...". Ðể dịu bớt đau khổ, tôi tự an ủi : " Nhưng về mặt binh nghiệp mình sẽ hơn hắn. Khi hắn nổi danh về văn thơ, thì mình sẽ lên đến chức Sư đoàn trưởng. Vậy là huề "!
  9. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    (2)
    Những năm 1950, 1951, 1952 là những năm gian lao nhất của chiến trường Thừa Thiên. Những trận lụt bão chưa từng thấy cuốn phăng cả một làng ở bên Phá Tam Giang. Biển Thuận An nổi sóng thần, ném những thuyền đánh cá lớn lên bãi cát như ném cái vỏ trứng. Giặc Pháp hùa với thiên tai tổ chức những trận càn lớn, phối hợp cả thuỷ lục không quân, tăng pháo ; quyết xoá sổ trung đoàn 101 chúng tôi. Chúng tôi phải đánh những trận đẫm máu và tổn thất khá nặng nề.
    Nhưng nỗi gian lao thường trực của chúng tôi chưa phải là lụt bão, bom đạn, mà là đói. Ðói lả người. Ðói mờ mắt. Có đận sáu tháng liền, chúng tôi phải ăn thứ gạo chôn dưới đất lâu ngày bị ngập lụt. Gạo mục, mũn, có mùi hôi thối như phân người ôi, mà muốn có thứ gạo mục thối đó, chúng tôi phải vượt qua những hệ thống đồn bót dày đặc, luồn sâu vào hậu địch, rình rập hàng trăm họng súng phục kích... Nhiều anh em chúng tôi bị giặc bắn gục trên đường đi lấy gạo. Nhiều ruột tượng gạo mang về đến đơn vị, xổ ra, đỏ lòm những máu, nhưng không thể bỏ đi. Chúng tôi tìm đủ cách để vuốt gạo cho sạch máu. Những hạt gạo mục xốp hút máu như giấy thấm. Chúng tôi ngâm gạo xuống suối, nhờ nước rửa máu. Ngâm suốt đêm, sáng vớt gạo lên vẫn có màu hồng hồng. Chúng tôi bưng bát cơm chan máu đồng đội, nhắm mắt nhắm mũi lùa vào miệng thật nhanh và nuốt chửng... Mỗi chén cơm chúng tôi trộn một phần tư chén ớt bột, loại ớt hiểm, cho dịu bớt vị tanh của máu...
    Từ ghế nhà trường, Tuân Nguyễn nhảy thẳng vào đơn vị tôi đúng thời điểm khốc liệt đó. Hôm đầu tiên, tôi còn nhớ như in, Tuân bưng bát cơm chan máu đồng đội lên ăn, mới và được hai miếng, anh nôn thốc nôn tháo. Tôi nói với Tuân : " Cứ trộn thật nhiều ớt vô lùa thật nhanh, không nên chần chừ ". Tuân ứa nước mắt nói : " Nhưng mình không quen ăn vậy... Mình chỉ sợ anh em cho mình là học sinh tiểu tư sản, không chịu được gian khổ... Cậu nói giúp với anh em thông cảm cho mình... lần sau mình sẽ cố gắng không như thế nữa..."
    Ðêm đó, họp tiểu đội, Tuân đứng lên xin lỗi, đã làm cho bữa ăn của anh em mất ngon. Tuân còn nói thêm : " Ngay cả trong thiên anh hùng ca bất hủ Odyssée của Homère, cũng không có hình ảnh nào dữ dội và bi tráng như bát cơm thấm máu mà chúng ta ăn... Tôi sẽ ghi khắc nó vào ký ức ; và nếu qua cuộc chiến tranh mà tôi còn sống, nhất định tôi sẽ đặt nó vào trong tác phẩm của tôi ". Anh em trong tiểu đội chẳng hiểu Tuân muốn nói gì, nhưng vẻ mặt và giọng nói của cậu ta làm họ cảm động. Họ còn xúm lại an ủi, động viên : " Ðồng chí cứ ăn năm, bảy lần rồi sẽ quen thôi. "
    Ðiều làm tôi lo lắng băn khoăn hơn cả là chuyện cử Tuân đi lấy gạo, Tuân chưa quen chiến trận, vừa chậm, vừa yếu, lại cận thị. Nếu cử cậu ta vào địch hậu lấy gạo, chết dễ như chơi. Nhưng tôi là tiểu đội trưởng, việc phân công anh em mình vào địch hậu lấy gạo, phải hết sức công bằng. Mỗi lần họp tiểu đội phân công, tôi phải tìm đủ cách để tránh cho Tuân công việc nguy hiểm này : " Ðồng chí Tuân ở nhà làm bích báo cho đại đội ". " Ðồng chí phải viết xong cho cả tiểu đội khẩu hiệu : ỏRèn cán chỉnh quânõ để cài lên mũ trong đợt tổng diễn tập sắp đến ". " Ðồng chí phải hoàn thành bài thơ nói lên lòng quyết tâm, tinh thần hăng say luyện tập trong thời gian qua của tiểu đội ta, để đọc vào dịp liên hoan văn nghệ kết thúc đợt luyện tập ! "
    Tuy vậy, cứ làm mãi cách đó, anh em bắt đầu xì xào phản ứng. Họp tiểu đội, anh em phê bình tôi hết sức gay gắt : " Ðồng chí tiểu đội trưởng thiên vị đồng chí Tuân ! ". Có anh còn chua chát hơn : " Dù đồng chí Tuân có đậu tú tài, có văn hay chữ tốt, nhưng đã ăn thì cũng phải đi lấy gạo như anh em." Tuân đứng bật ngay dậy, yêu cầu được phân công đi lấy gạo, nhưng tôi cương quyết gạt đi. Tôi đanh giọng, nói : " Tôi không thiên vị ai hết ! Làm bích báo, viết khẩu hiệu, làm thơ cũng cần thiết như việc đi lấy gạo. Tôi sẽ phân công đồng chí Tuân đi lấy gạo tối nay. Nhưng hiện đồng chí phải dịch truyền đơn địch vận ra tiếng Tây, do phòng Chính trị trung đoàn yêu cầu, mà phải dịch gấp. Ðây, truyền đơn địch vận trung đoàn mới giao về hôm qua đây. Giấy bút đây ! Ðồng chí nào có thể đảm nhiệm công việc này thay đồng chí Tuân, xin giơ tay cho biết ! " Thế là cả tiểu đội ngồi ngay như phỗng. Quá nửa tiểu đội tôi trình độ văn hóa lớp một, lớp hai, số còn lại vừa đọc vừa đánh vần.
    Trong cuộc đời chiến sĩ của tôi, nếu có một niềm tự hào nào đó đáng ghi nhớ, thì đó chính là niềm tự hào : trong những năm gian truân nhất của cuộc kháng chiến chín năm, tôi đã tận dụng quyền lực tiểu đội trưởng để bảo vệ một nhà thơ tương lai của đất nước.
    Sang cuối năm 1953, hai chúng tôi phải xa nhau vì nhiệm vụ của chiến trường. Tôi được cử đi học trường Quân chính Bình Trị Thiên. Tuân Nguyễn được bổ sung vào đơn vị tình nguyện quân mặt trận Trung Lào.
    Mãi đến năm 1957 chúng tôi mới gặp lại nhau. Hòa bình lập lại, Tuân ra khỏi quân ngũ, đi học tiếp và tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm, làm thầy giáo. Sau đó được điều về Ðài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Lương của Tuân Nguyễn năm đó là 93 đồng. Còn tôi, lâm vào cảnh khổ nạn văn chương Nhân Văn Giai Phẩm phải về tá túc bên bờ hồ Tây, nhập phường câu cá trộm...
    Trong khi bạn bè thân thích, kể cả máu mủ ruột thịt, người yêu, đều xa lánh tôi, thì Tuân Nguyễn vẫn gắn bó, cưu mang tôi. Mặc dầu lúc này anh là người có chức danh của một cơ quan quan trọng, bắt đầu có tiếng tăm trên thi đàn. Tuân mò tìm được nơi tôi tá túc, thường xuyên mang cho tôi áo quần, tem gạo, phiếu thịt, kẹo, thuốc lá căng tin... (kẹo, thuốc lá do cơ quan bán theo tiêu chuẩn bậc lương). Mỗi lần đem cho như vậy, Tuân rất sợ tôi mếch lòng, tủi thân, nên bao giờ cũng tìm cách nói thác. " Có bộ áo quần mình thuê may hỏng, mặc rộng thùng thình cứ như áo tế. Cậu đậm người hơn mặc giúp mình cho đỡ phí ". " Một nhà báo ngoại quốc có nhận xét người Việt Nam ta rất có đầu óc hài hước. Hài hước ngay cả trong việc sản xuất bánh kẹo. Ngoài bao bì đề kẹo cứng thành kẹo mềm muốn chảy nước. Nếu đề kẹo mềm thì cắn muốn vỡ răng. Này, cậu khoẻ răng ăn giúp mình hai gói kẹo mè này ".
    Một lần, tôi hỏi Tuân : " Cậu hay gặp mình, thế nào cơ quan họ cũng biết. Cậu không ngại à ? " Tuân Nguyễn vốn là người ăn nói hết sức nhã nhặn, lịch sự. ở cơ quan cấm ai thấy cậu ta văng tục. Nhưng chỉ khi hai đứa với nhau, hoài niệm cuộc sống lính tráng, cậu ta văng tục ào ào : " Có ngại cái con *** ! Ðù mạ, mình căm ghét nhất là thói vô ơn ! Nếu ngày đó cậu không chơi trò ỏNhân danh tiểu đội trưởngõ thì chắc mình đã nằm mục xương giữa trảng cát Phong Chương, Thanh Lam Bồ, Phú Ða, Hà Thanh... với một ruột tượng gạo thối mục đầy máu... Cậu quên rồi à, đúng cái hôm cậu phịa chuyện Phòng chính trị giao mình dịch truyền đơn địch vận, bốn cậu được cử đi lấy gạo, tụi phục kích xơi tái mất hai, cậu gì nhỉ, à cậu Lượng, cậu Vinh... Có đâu mình còn sống đến bây giờ mà đại học đại hiếc, nhà thơ nhà thiếc, phát thanh phát thiếc !... *** ! "
    Năm 1963, vợ chồng tôi sinh con gái đầu lòng. Ðến đón cháu ở nhà hộ sinh A, có bà ngoại cháu (bà đã mất năm 1986), tôi và Tuân Nguyễn.
    Vợ tôi vui lắm, nói với hai người :
    - Bà với chú Tuân thấy cháu có xinh không ?
    Tuân cúi xuống nhìn gương mặt nhỏ xíu còn đỏ hỏn của cháu, cười cười. Bà ngoại cháu vốn suốt đời chỉ biết công việc nội trợ, và gần như không biết chữ, buột miệng nói :
    - Bây giờ thì mẹ mừng mừng rỡ rỡ thế đấy, không biết đời con rồi có ngóc đầu dậy được không !...
    Bà ngoại và hai mẹ con đi xích lô về nhà. Tôi và Tuân lững thững đi bộ dọc đường Ngô Quyền. Dáng vẻ cậu ta trở nên trầm ngâm và lặng lẽ. Im lặng một lúc khá lâu, Tuân chợt nói :
    - Bà cụ nói thật khủng khiếp ! Ðó là lời tiên đoán về số phận những nghệ sĩ quyết định " Yêu ai cứ bảo là yêu. Ghét ai cứ bảo là ghét. Dù ai ngon ngọt nuông chiều. Cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao doạ giết. Cũng không nói ghét thành yêu...".
    Lời nhận xét bất ngờ của Tuân làm tôi bất giác rùng mình. Một câu Kiều chợt ập đến trong đầu : " Ðường xa nghĩ đến đoạn trường mà kinh ! "
    Tuân bảo tôi :
    - Bắt đầu từ hôm nay, mỗi tháng mình gửi cậu 5 đồng mua sữa cho cháu. Hàng tháng cứ đến ngày mùng ba - ngày mình lĩnh lương - cậu chịu khó đến chỗ mình. Sợ có khi mình mắc việc, không xuống chỗ cậu được. Nếu mình đi công tác vắng, mình sẽ gởi lại chỗ cậu V. ở tổ thơ.
    Ngày đó, 5 đồng mua được ba hộp sữa Ba Vì. Lúc chia tay, Tuân còn dặn thêm :
    - Lỡ khi nào câu kéo không được gì, nếu tiện đường tạt vào chỗ mình mà ăn cơm. Cơm tập thể chỗ mình khá lắm...
    Từ đấy, hôm nào cạn túi, tôi lại đạp xe lên 20 phố Tràng Tiền, bếp ăn tập thể của cơ quan Ðài phát thanh tiếng nói Việt Nam. May mắn được gặp Tuân là no bụng.
  10. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Tuân Nguyễn sống trong một gian buồng nhỏ, rộng chừng 8 mét vuông, ở tầng gác hai, ngay đằng sau gian nhà ăn tập thể. Buồng kê một giường cá nhân, một giá sách lớn che kín mặt tường chiều ngang. Cạnh giá sách là bàn viết. Ðối diện cửa ra vào treo chân dung Dostoievsky ***g khung kính trên tường, phía đầu giường treo ảnh của cậu ta, phóng to, cũng ***g khung kính. Ðó là hai vật trang trí độc nhất trong gian buồng.
    Trên giá sách, có khoảng vài chục cuốn sách tiếng Việt. Còn lại là sách tiếng Pháp, tiếng Anh. Tiền lương tháng, ngoài tiền ăn, một ít dùng may mặc, tiền cho tôi, Tuân dồn hết vào việc mua sách. Tuân là khách quen của cửa hàng sách ngoại văn. Toàn tập Dostoievsky, toàn tập Chekhov, toàn tập Brecht, Maxim Gorki, Jack London...
    Tôi đến, hầu như lúc nào cũng bắt gặp Tuân hí hoáy trước bàn viết. Trước mặt, hai ba cuốn sách mới... Tôi biết lúc này cậu ta hoàn toàn đắm mình trong suy tưởng, mộng mơ.
    Ðã từ lâu, Tuân chuẩn bị viết tác phẩm văn xuôi quan trọng của đời mình, anh tâm sự. Chủ đề tác phẩm là một thanh niên trí thức say mê cách mạng, lúc nào cũng sống trong mộng tưởng san phẳng hết mọi điều phi lý xúc phạm con người, và xây dựng một cõi địa đàng nhân loại. Kết cục con người cách mạng mộng mơ đó đã bị thực tế trần trụi, nghiệt ngã đè bẹp.
    Tuân Nguyễn đọc đến nát nhừ toàn tập Dostoievsky. Cậu ta đọc Ðốt đến rạc cả người. Nhà văn mà Tuân đặt thành tích để vươn tới là Ðốt.
    Tuân nói với tôi :
    - Ðiều này mình chỉ nói riêng với cậu thôi. Nhiều đêm mình nằm mơ, cuốn sách của mình được in ra, và được những người sành văn đánh giá là sấp sỉ với Ðốt...
    Bạn hữu chúng tôi không ai bảo ai cùng gọi đùa Tuân là cụ Ðốt. " Ta đến chơi cụ Ðốt đi. Cụ Ðốt vừa có thơ được in trên báo Văn Nghệ, ta đến bắt cụ khao một chầu thịt chó ".
    Một bữa, tôi và một người bạn đến chơi, bắt gặp cụ Ðốt trong tình trạng bứt rứt, buồn bã. Tôi hỏi : " Có chuyện gì thế, Tuân ? Hay tại chúng mình đến chơi hơi nhiều, quấy rầy cậu ? " Và chúng tôi nháy nhau, dợm đứng lên, định chào ra về. Tuân vội đưa tay ngăn lại : " Các cậu chẳng có liên quan gì hết, Tuân nhìn đồng hồ đeo tay, nhà ăn sắp mở cửa rồi, đợi tý ta xuống ăn cơm ".
    Tôi thầm đoán cậu ta chắc gặp chuyện gì rắc rối ở cơ quan. Nghe nói, trong đợt học tập Nghị quyết 9, cậu ta xin bảo lưu ý kiến, bị cơ quan đưa ra kiểm điểm vì những luận điệu ủng hộ chủ nghĩa xét lại Liên Xô. Cậu ta làm thơ ca ngợi Khrusov, đả kích Mao và Stalin... Tuân lấy sách đỏ của Mao làm giấy lau bàn, có người trong cơ quan trông thấy, hớt lẻo với trên. Nói chung, vào thời gian ấy, những chuyện như thế là chuyện chết người cả.
    Như đoán biết chúng tôi đang nghĩ gì, Tuân giải thích :
    - Cách đây hai hôm, mình dọn dẹp lại gian buồng, quét tước mạng nhện... Mình gỡ chân dung Dostoievsky và bức ảnh của mình xuống, lau sạch bụi rồi treo lại. Vừa dọn dẹp xong thì có mấy cô sinh viên văn khoa đến chơi. Một cô nhìn lên giá sách, hỏi mình : " Anh đọc nhiều sách, thế theo anh nhà văn nào lớn nhất, anh khâm phục nhất ? ". Lúc đó mình đang ngồi gần cửa ra vào. Theo thói quen, mình đưa thẳng tay chỉ lên chỗ treo chân dung Dostoievsky : " Ông này, chỉ một mình ông này thôi ! Ðó là thiên tài của các thiên tài ! ". Các cô nhìn theo tay chỗ mình chỉ, không nói gì, nhưng đều quay lại nhìn mình với ánh mắt rất lạ, lúc đó mình không để ý...
    Các cô về rồi, mình nhìn lên tường, thấy chân dung Dostoievsky treo hơi bị lệch. Mới bắc ghế đứng lên sửa lại. Nhìn gần mới biết té ra đó là ảnh của mình, chứ không phải chân dung Ðốt. Thì ra, mình treo nhầm chỗ, do cận thị nên không nhận ra. Thế có chết người không chứ ? Thảo nào, mấy cô đều quay lại nhìn mình với ánh mắt rất lạ, mà lúc đó mình không hiểu tại sao. Không nói ra miệng, nhưng chắc chắn trong bụng các cô phải cho mình là một thằng cha kiêu căng đến ngu xuẩn !
    Kể đến đó, nét mặt Tuân càng rầu rĩ, ủ rũ hơn.
    Tôi không sao nhịn được cười, tôi ôm bụng mà cười, tôi cười lăn lộn, cười chảy nước mắt nước mũi !
    - Thì đã sao ! Thì đã sao !... - tôi nói, càng cười dữ hơn - Cậu cũng là một cụ Ðốt thứ hai đấy chứ ! Nga thì Ðốt Tôi, Việt Nam thì Ðốt Tuân ! Ha ! Ha ha ! Ha ha ha ! Ðó là một lầm lẫn vĩ đại !
    Tuân nổi quạu, giận dữ nói :
    - Cậu thì chuyện chi cũng tếu được !
    Tôi cố nhịn cơn cười, đưa ống tay áo quệt nước mắt nước mũi, lấy giọng nghiêm túc nói :
    - Theo mình, biết đâu chính sự lầm lẫn này là cái điều báo hiệu xuất hiện một tài năng lớn. Có lần cậu đã kể với mình, nhà thơ Nekrasov sau khi đọc tác phẩm đầu tay của Ðốt, đã đội tuyết Petersburg đến nhà Belinsky lúc một giờ sáng, mà reo lên : " Tôi đến báo với anh một tin vui : Nước Nga xuất hiện một Gogol mới ! Belinsky càu nhàu : các anh làm như Gogol là nấm không bằng ! Quả nhiên, sau này Ðốt còn vượt cả Gogol. Cũng có thể cậu rơi vào đúng trường hợp này. Mình biết cậu từ thuở 18, 19 tuổi. Mình không có cái tài tiên tri thấu thị của Nekrasov, nhưng mình có cái trực giác của người lính dãi dầu trận mạc. Mình đã tiên cảm trong tương lai, cậu sẽ là nhà văn làm sáng danh đất nước. Bởi vậy mà mình mới quyết định chơi trò " Nhân danh Tiểu đội trưởng ".
    Cung cách Tuân Nguyễn trợ cấp tiền cho tôi hàng tháng mua sữa nuôi con, cũng rất... Tuân Nguyễn. Mỗi lần đưa tiền cho tôi, Tuân đều có vẻ ngượng nghịu, xấu hổ như anh đang làm một điều gì không phải với bạn. Tiền cậu ta bỏ sẵn trong phong bì dán kín - thứ phong bì vẫn dùng để viết thư trả lời các cộng tác viên của Ðài. Tuân dúi phong bì vào túi áo tôi, mắt tránh không nhìn tôi. Dúi xong, cậu ta nói lảng ngay sang chuyện khác, thường là lấy cớ phải đến ngay cơ quan có cuộc họp quan trọng gì đó. Vừa bước vội xuống cầu thang Tuân vừa bắt tay tôi : " Hôm nào rỗi đến chơi. Bữa nay mình có chút việc bận, không vắng mặt ở cơ quan được ". Tôi biết Tuân không muốn ngồi lại với tôi, khi số tiền cậu ta cho vẫn còn nằm cộm trong túi áo tôi. Con gái tôi uống sữa của chú Tuân chu cấp cho đến lúc cháu bập bẹ biết nói. Rồi chú Tuân bị bỏ tù cho đến lúc cháu học hết cấp I, mới được gặp lại chú.
    Tuân Nguyễn là người vỡ lòng cho tôi về Dostoievsky, cũng như hơn mười năm trước đó đã vỡ lòng cho tôi về niêm luật Ðường thi. Nhờ cậu ta mà từ những năm 1961, 1962, tôi được biết nội dung tóm tắt những tác phẩm quan trọng nhất của Ðốt. Từ tác phẩm đầu tay Những người cùng khốn đến các tác phẩm viết sau khi bị lưu đày ở Tây Bá Lợi á mười năm : Kỷ niệm ngôi nhà những người chết, Những người bị lăng nhục và bị xúc phạm, Tội ác và hình phạt, Con bạc, Thằng ngốc, Ðầu xanh tuổi trẻ, Lũ người quỷ ám, Anh em nhà Karamazov... Những câu văn của Ðốt Tuân trích dẫn đã in khắc vào trí nhớ tôi cho mãi đến hôm nay : " Ðịa ngục nằm trong lòng những con người không còn biết yêu thương ", " Liệu chúng ta có quyền xây dựng lâu đài hạnh phúc cho nhân loại trên một giọt nước mắt của trẻ con ? ". " Những con người đơn giản là những con người hết sức nguy hiểm ", " Cái đẹp sẽ cứu chuộc nhân loại ", v.v... và v.v...
    Về sau này, tôi được đọc khá nhiều những tác phẩm nghiên cứu về Ðốt của các chuyên gia nổi tiếng, cả xã hội chủ nghĩa lẫn phương Tây, nhưng chưa một tác giả nào gây nên trong lòng tôi một ấn tượng kinh hoàng về thiên tài vô song, phong phú và phức tạp của Ðốt, như Tuân Nguyễn.
    Một lần tôi đến chơi, đúng vào chiều ngày mồng ba... Bước vào buồng, tôi thấy Tuân đang tiếp ba cô gái, nữ sinh hay sinh viên gì đó. Cửa buồng mở rộng cả hai cánh,và ngọn đèn trên trần bật sáng chói.
    Tôi đứng khựng lại một chút ở ngưỡng cửa, liếc nhìn ba cô. Cô nào cũng đẹp ngời ngời. Tôi định chào xin lỗi bước ra, nhưng hai chân cứ như bị trói, không bước ra nổi. Tôi chưa bao giờ được nói chuyện với một, chứ đừng nói đến ba cô gái đẹp đến thế. Một ý nghĩ ganh tỵ chợt ập đến trong đầu : " Hắn với mình cùng lứa mà mình sao kém thế, còn hắn sao mà ngon thế ! "
    Tuân Nguyễn thì hình như chẳng chú ý gì đến sắc đẹp ba cô gái. Cậu ta mời ba cô ăn bánh, chuối, kẹo, và... rao giảng Ðốt. Bao giờ " bập " vào Ðốt - mà bập thường xuyên - gương mặt Tuân cũng sáng lên một cách khác thường. Ðó là gương mặt của những nhà truyền giáo lớn - tôi nghĩ. Cậu ta rao giảng Ðốt như các nhà truyền giáo rao giảng Thánh Kinh. Có một khác biệt là Tuân rao giảng Ðốt, không cần quan tâm người nghe có nghe và có hiểu hay không. Tôi thường nói đùa : " Tuân Nguyễn đang nhập đồng Ðốt ".
    Chốc chốc Tuân ngừng lời, đưa tay lên giá sách, không cần nhìn, mà rút rất trúng tác phẩm nào đó của Ðốt mà cậu ta cần dẫn chứng. Cậu ta lật lật rất nhanh những trang sách, đọc lên cái đoạn cần trích dẫn bằng tiếng Pháp rồi dịch miệng rất lưu loát.
    Ðể khỏi quấy rầy " cụ Ðốt ", tôi ngồi nép mình ở góc buồng, chốc chốc lại ngước mắt nhìn những cái miệng xinh đẹp như bông hồng hàm tiếu, những hàng răng trắng như ngọc trai nhỏ nhẻ cắn bánh, nhai kẹo... những cặp mắt long lanh như mắt trẻ nít chăm chú nhìn " cụ Ðốt " nhập đồng...
    Tôi thì hầu như chẳng nghe thấy gì. Ðốt điếc với tôi lúc này trở thành vô nghĩa. Tôi chỉ thèm rộn rực được hôn lên một trong ba cái miệng hé hé mở có mùi thơm trái chín cây kia, chỉ một lần thôi, rồi nằm lăn ra chết thẳng cẳng cũng đáng đời !
    " Các cô ăn chuối, ăn bánh đi... ", Tuân đưa tay lịch sự mời, cốt để lấy hơi rao giảng tiếp. Cậu ta đang giới thiệu với ba cô chương Ngài Ðại pháp quan trong Anh em nhà Karamazov mà theo cậu ta, là khúc giao hưởng văn xuôi sáng giá nhất trong nền văn xuôi cổ kim của nhân loại. Cậu ta đọc một mạch cuộc đối thoại dữ dằn và hài hước giữa ngài Ðại pháp quan đại diện của quyền lực vô song của Giáo Hội và Pháp Ðình tôn giáo ở Y Pha Nho thế kỷ 15, với Chúa Trời giáng thế lần thứ hai : " Ông đấy à ? ". Ông già Ðại pháp quan gằn giọng hỏi. Chúa không trả lời. Ông ta nói tiếp : " Ông đừng nói gì mà lại hơn ! Vả chăng ông biết nói gì bây giờ ? Ông đã trao tất cả quyền năng cho Giáo hội chúng tôi. Chúng tôi đã mất 15 thế kỷ mới thiết lập được một trật tự như hiện nay, thiết lập nhân danh ông ! Bởi vậy ông không có quyền xuất hiện lần thứ hai, và nói thêm bất cứ điều gì trước đây ông đã nói. Tại sao ông còn xuống đây gây rắc rối cho chúng tôi ? Ông có biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì không ? Tôi chỉ cần chỉ vào mặt ông, lên án ông : Ðây là một tên tà giáo ! Và tôi chỉ cần phẩy tay ra hiệu, là đám quần chúng hôm qua cuồng nhiệt hôn dấu chân ông, sẽ trói nghiến ông lại, ném ông vào giàn hoả !..."
    Gương mặt, giọng nói của Tuân sáng rực niềm cảm xúc do đoạn văn tác động. Nom cậu ta lúc này thật quyết liệt, thật dữ dội. Cậu ta im lặng trân trân nhìn ba cô gái, như muốn ba cô chia sẻ niềm cảm xúc lớn lao đang rần rần trong huyết quản mình...
    Một trong ba cô, cô xinh nhất, đã chia sẻ niềm cảm xúc của cậu ta. Cô ngừng cắn trái chuối tiêu trứng cuốc, hỏi :
    - Anh đã đọc cuốn Nam Tước Phôn Gôn Rinh chưa ? Cũng chuyện của Liên Xô. Sách dày ba tập mà em chỉ đọc có một đêm !
    Cô ngồi cạnh liền đặt miếng bánh xuống, góp chuyện :
    - Theo mình thì tác phẩm Chiếc khuy đồng còn hay hơn. Ðọc mà tim cứ giật thon thót !
    Mặt Tuân Nguyễn tự nhiên nghệch ra. Miệng hơi hé mở mà không nói được, như bị cấm khẩu. Cậu ta đỏ bừng mặt, nhìn ba cô như những sinh vật kỳ dị lạc vào buồng mình. Tôi thì sướng tỉnh cả người, nhảy vào chuyện luôn :
    - Các cô đã đọc Chiến dịch Phượng Hoàng chưa ? Sách vừa xuất bản, mới toanh ! Nam Tước Phôn Phôn Gôn Rinh và Chiếc khuy đồng còn phải gọi bằng cụ !
    Cả ba cô lập tức quay sang tôi, như bất ngờ vớ được người cùng hội, cùng thuyền. Nét mặt ba cô vụt trở nên nhẹ nhõm, rạng rỡ như vừa trút được gánh nặng kinh người. Cả ba cô lúc này nom lại càng đẹp. Cả ba cô tranh nhau thuật lại những chi tiết giật gân của mấy anh chàng tình báo vườn. Còn tôi thì tranh thủ bồi dưỡng cặp mắt mà hàng ngày không nhìn thấy gì khác ngoài mặt hồ rong rêu, tăm cá và khuôn mặt dữ dằn của mấy tay tuần hồ, chuyên rình rập tóm cổ bọn câu cá trộm chúng tôi. Tuân Nguyễn nổi quạu thật sự, đút Ðốt vào giá sách, lẳng lặng ngồi vào bàn viết chúi đầu xuống cuốn sách đọc dở. Chốc chốc cậu ta quay lại hết nhìn các cô lại nhìn tôi như nhìn mấy con ruồi con muỗi cứ vo ve bên tai. Tôi cứ tảng lờ như không hay biết, cười nói hể hả góp chuyện với ba cô.
    Tuân Nguyễn tiễn các cô về với vẻ lạnh nhạt cố ý. Còn tôi thì xăng xái theo các cô xuống hết các bậc cầu thang, tranh thủ ngắm các cô đàng sau. Eo, lưng, mông - lưng mềm như ngọn lửa - mông tròn như trứng chim - và những cặp đùi, nói theo kiểu trường ca Tây Nguyên - nếu gió thổi tung váy sẽ sáng chói như tia chớp !...
    Lúc tôi trở lên, Tuân Nguyễn quạu cọ nói :
    - Những chuyện bá láp như thế mà cậu cũng rỗi hơi bàn luận !
    Tôi cười tràn :
    - Cậu vẫn rao giảng cho mình điều rao giảng của Ðốt : " Cái đẹp sẽ cứu chuộc nhân loại ! " Theo mình thì chỉ với ba cô này thôi cũng đủ cứu chuộc cho cả nhân loại rồi !
    Sau cái đận " Cứu chuộc nhân loại " kể trên, có đến hơn nửa tháng tôi mới đến thăm Tuân. Cậu ta bước ra hành lang đón tôi, gương mặt hốc hác, phờ phạc, hai mắt thâm quầng. Tôi lo lắng hỏi :
    - Cậu ốm hay làm sao thế ?
    Tuân vuốt mớ tóc rũ xuống trán, nói :
    - Dostoievsky thì năm đêm trắng, mình thì mười đêm trắng cậu ạ !
    - Nhưng đầu đuôi thế nào ?
    Tôi đăm đăm nhìn người chiến hữu cùng tiểu đội năm nào, tên một tác phẩm của Ðốt chợt hiện ra trong đầu : Những người bị quỷ ám. Tôi nghĩ cậu ta bị Ðốt ám. Cái ma lực văn chương của thiên tài này thật kinh dị ! Hai chúng tôi ngồi xuống mép giường còn buông màn, Tuân rầu rĩ kể :
    - Thế này, mình gọi nhầm tên người và bị tát !... Mà là gọi nhầm tên người yêu mới chết chứ ! Cách đây đúng mười hôm, mình mời cô ta đến chơi... Mình có ý định cầu hôn với cô ấy... Mình đang bối rối chưa biết mở đầu thế nào, thì nghe tiếng trẻ con reo hò dưới sân. Mình mới bước ra hành lang để nhìn xuống xem có chuyện gì. Mấy đứa trẻ trong khu tập thể đang vây quanh hai con gà trống xù lông, vươn cổ chọi nhau rất hăng. Mình vốn mê xem gà chọi từ nhỏ, thích quá liền ngoái đầu gọi cô ta cùng ra xem. Nhưng đáng lẽ gọi A ơi, ra xem hai con gà chọi nhau hay lắm ! Mình lại nhịu ra thành B ơi !... B. là tên một cô gái cũng có cảm tình với mình, cô A của mình cũng biết, hai cô này không ưa nhau... Thế là cô ta bước ngay ra, mắt nảy lửa, rít lên : " Anh là thằng đểu ! Anh đang ngồi với tôi, nhưng đầu óc anh vẫn nghĩ đến con B., nên anh mới gọi nhầm ra thế ! " Mình chưa kịp phân trần thì đã bị ngay một cái tát. Rồi cô ta đùng đùng bỏ về... Suốt mười đêm nay mình thức trắng vì chuyện đó...
    - Nhưng cô ta tên là gì mà cậu gọi nhầm là gì ? - tôi thắc mắc hỏi.
    Tôi là đứa ham cười. Nghe những chuyện như thế là tôi không sao nhịn được cười. Nhưng tôi sợ Tuân giận nên cũng cố làm bộ mặt đưa đám để chia sẻ nỗi khổ tâm của bạn.
    Tuân lắc đầu, phẩy tay :
    - Cậu không cần đi vào chi tiết làm gì. Chỉ cần biết đáng lẽ gọi là A., thì mình gọi là B.
    Chúng tôi ngồi với nhau khoảng tiếng đồng hồ, nói đủ chuyện linh tinh. Nhưng tôi không sao tập trung được tư tuởng. Tôi quá tò mò muốn biết tên của cô gái bị gọi nhầm tên. Chọn đúng vào lúc cậu ta bất ngờ nhất, tôi làm như vô tình buông một câu :
    - Nếu cô ta tên An mà gọi nhầm thành Lan, thì cũng dễ thanh minh thôi ! Người ta lỡ miệng là thường...
    Tuân buột miệng :
    - Không, cô ta tên Nguyệt, mà mình lại gọi là Huệ, thanh minh thế nào được !
    Ðến đây thì tôi không sao nín nhịn được nữa. Tôi cười đến nỗi phải ôm chặt lấy bụng sợ lỡ đứt ruột như Trình Giảo Kim ba búa. " Ðúng !... Ðúng ! ", vừa nói tôi vừa nấc, " nhầm thế thì đến thánh cũng không thể thanh minh được ! Nguyệt - Huệ ! Hai vần tréo trẹo hẳn nhau ! ".

Chia sẻ trang này