1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Public : Nơi dành riêng cho những người yêu thích dòng nhạc Việt được trình bày tại hải ngoại!

Chủ đề trong 'Âm nhạc' bởi closeyoureyes, 30/05/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0
    Trung tâm Thuý Nga : Bảo Trợ Show Long Beach

    Trung tâm Thúy Nga sẽ tổ chức một buổi Đại Hội Ca Vũ Nhạc Kịch vào thứ Bảy, ngày 21 tháng 1 năm 2006 tại Long Beach Convention Center.
    Chương trình này được thu hình vào DVD để phát hành khắp thế giới, Úc Châu, Âu Châu, Mỹ Châu, v.v?
    Quý vị hãy bảo trợ hoặc quảng cáo trong chương trình văn nghệ giá trị của Paris By Night sẽ có số lượng khán giả khoảng 30 triệu người Việt Nam trong và ngoài nước biết được thông tin thương vụ, dịch vụ của quý vị và chắc chắn lợi tức thu nhập sẽ tăng cao.
    Sponsor cho Paris By Night, bảo trợ Paris By Night, quảng cáo trong Paris By Night sẽ được mọi gia đình Việt Nam khắp nơi trên thế giới xem thấy quảng cáo của quý vị.
    Sau đây là những điều kiện để quý vị được gọi là SPONSOR cho chương trình Show Paris By Night tại Long Beach:
    1. Sponsor trên Poster, Flyer quảng cáo về Show Paris By Night với 2 vé VIP cho một xuất hát, số tiền bảo trợ là $3,000.
    2. Sponsor trên Poster, Flyer quảng cáo về Show Paris By Night với 2 vé VIP cho một xuất hát, đặc biệt được MC Nguyễn Ngọc Ngạn nói lời cảm tạ trên sân khấu, số tiền ba"o trợ là $10,000.
    3. Sponsor trên Poster, Flyer quảng cáo về Show Paris By Night với 2 vé VIP cho một xuất hát, đặc biệt được MC Nguyễn Ngọc Ngạn nói lời cảm tạ trên sân khấu, và một spot 30 giây qua"ng cáo trên DVD Paris By Night phát hành khắp thế giới, số tiền bảo trợ là $20,000.
    4. Sponsor trên Poster, Flyer quảng cáo về Show Paris By Night với 2 vé VIP cho một xuất hát, đặc biệt được MC Nguyễn Ngọc Ngạn nói lời cảm tạ và bước lên sân khấu tặng hoa, được thu hình, và thêm một spot 60 giây quảng cáo trên DVD Paris By Night phát hành khắp thế giới, số tiền bảo trợ là $40,000.
    Mọi chi tiết về Sponsor Show Paris By Night in Long Beach, xin liên lạc Thúy Nga: 714-465-7407

    [​IMG]
  2. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0
    Đọc giả trí Một cái nhìn về nhạc tiền chiến
    Bùi Bảo Trúc
    Thử tìm một dấu mốc
    Âm nhạc, cũng như thơ, hội họa, tiểu thuyết không bùng lên trong một ngày, và cũng không ra đi, chấm dứt trong một ngày để hôm trước còn là một nền Nhạchùng, vang vọng tiếng quân hành và ngày hôm sau, là những âm thanh lãng mạn chứa chất tình yêu trữ tình.
    Bởi thế khó mà có thể định được một nền nhạc, một khuynh hướng nhạc bắt đầu chính xác từ lúc nào. Nó có những khoảng lấn sang phía sau, nó có những khoảng còn vương lại từ phía trước.
    Nhạc tiền chiến, danh từ này xuất hiện từ lúc nào và ai là người dùng nó lần đầu tiên? Ðây là những câu hỏi khó trả lời.
    Nhưng có điều chắc là danh từ Nhạc tiền chiến phải ra đời sau khi cuộc chiến Ðông Dương thứ nhất chấm dứt với sự chia cắt đất nước. Nó ra đời sau khi có một phân định văn học, gọi sinh hoạt chữ nghĩa của giai đoạn trước ngày chiến cuộc bùng nổ là văn học tiền chiến, lấy năm 1945 là cái mốc để nhìn về trước và cũng là điểm đế nhìn về phía sau. Ðó là năm cuộc chiến Ðông Dương bắt đầu đồng thời nó cũng chấm dứt một giai đoạn tương đối yên bình của xã hội Việt Nam.
    Các sinh hoạtvăn học như tiểu thuyết, thơ trong những năm trước 1945 được gọi là văn học tiền chiến, các nhà văn, nhà thơ hot động trong những năm này là các nhà văn, nhà thơ tiền chiến.
    Và khi đã có một dòng văn học được đặt tên cho là văn học tiền chiến thì việc gọi những sinh hoạt âm Nhạc trong cùng giai đoạn đó là Nhạc tiền chiến là điều sẽ phải xẩy ra. Lê Thương, một trong những Nhạc sĩ đi đầu của tân NhạcViệt Nam thì khẳng định đó là thời gian giữa những năm 1938 và 1945 (1).
    Những bước đầu
    Ảnh hưởng của văn hóa Pháp bắt đầu bén rễ khá vững từ năm 1930. Trước đó, trong những năm từ 1900 đến 1930, là giai đoạn sửa son cho những sinh hoạtsau năm 1930, khi chữ quốc ngữ thật sự phát triển với những tác phẩm bước ra khỏi truyền thống văn học từ chương cũ viết bằng Hán văn. Các tiểu thuyết Tây phương, nói rõ hơn, là của Pháp từ năm 1925 cho đến những năm của thập niên 30 đã được giới thiệu, đưa tới độc giả Việt Nam và được ưa chuộng ngay. Trường Mỹ Thuật Ðông Dương được thành lập ở Hà Nội mở đầu cho một phong trào mới của các họa phẩm mang ảnh hưởng của Tây phương. Và trong khung cảnh này, là những bản Nhạc mới do các Nhạc sĩViệt Nam sáng tác ra đời, để sau này mang tên là Nhạctiền chiến.
    Theo Phạm Duy, năm 1938 là một năm quan trọng vì đó là năm khai sinh ra loi Nhạccải cách (2).
    Các Nhạc sĩViệt Nam sau một thời trình tấu các bài ta theo điệu Tây mà các Nhạc sĩ tiền phong như Tư Chơi Huỳnh Hữu Trung và Năm Châu Nguyễn Thành Châu đề xướng trong những năm 1933, 1934, muốn viết những bài hát hoàn toàn Việt Nam thay vì vay mượn Nhạcđiệu của Tây .
    Một trong những bài hát đầu tiên của loi Nhạcnày, là bài Kiếp Hoa của Nguyễn Văn Tuyên, một thanh niên sinh trưởng ti Huế, làm việc ti Sài Gòn, học Nhạclý và thanh Nhạc ti Hội trường Philharmonique (3). Sáng tác đầu tay này được giới thiệu trên đài phát thanh Radio Indochine . Ðược trợ cấp của thống đốc Nam Kỳ Rivoalen, ông Tuyên đi diễn thuyết ở Huế, Hải Phòng, Hà Nội (tháng 4 năm 1938). ông Nguyễn văn Cổn làm việc cho Radio Indochine, một người ủng hộ và bảo trợ cho ông Tuyên đã đặt tên cho loi Nhạcnày là âm Nhạccải cách (Musique Renovée).
    ông Tuyên viết thêm bài Anh Hùng Ca, thơ của Nguyễn Văn Cổn và Bông Cúc Vàng phổ thơ của Nguyễn Quí Anh. Cùng với bài Kiếp Hoa, đó là ba ca khúc đầu tiên của tân NhạcViệt Nam. Chuyến du thuyết của ông được báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng và Ngày Nay của Tự Lực Văn Ðoàn hết lòng ca ngợi và trân trọng giới thiệu. Báo Ngày Nay sau đó còn cho đăng tải những tác phẩm đầu của nền Nhạcmới.Ảnh hưởng của chuyến đi đó được thấy ngay sau đó.
    Ảnh hưởng của NhạcTây phương
    Bứt đi từ âm Nhạcdựa trên ngũ cung cổ truyền Việt Nam, các Nhạc sĩtrong giai đoạn đầu của tân NhạcViệt bị ảnh hưởng sâu đậm bởi NhạcTây phương qua việc sử dụng các Nhạckhí tây phương như dương cầm, Tây Ban cầm, vĩ cầm và các loi kèn. Một số học sử dụng các Nhạckhí này với các Nhạc sĩPháp, trong các ban quân nhạc, và qua các ca Nhạcđoàn của nhà thờ.
    Hầu hết các Nhạc sĩsáng tác thế hệ đầu của tân NhạcViệt không được học đến nơi đến chốn về âm NhạcTây phương. Nhạcviện Viễn Ðông mở cửa ti Hà Nội năm 1927 nhưng năm 1930 phải đóng cửa vì những khó khăn kinh tế của thế giới thời đó. Nhiều người học với các Nhạc sĩPháp, Nga hay Phi Luật Tân. Số khác học sáng tác qua các lớp hàm thụ của Sinat.
    Ngay từ những năm sau đệ nhất thế chiến, một số bài hát của Pháp đã bắt đầu đến với người Việt, từ những xuất hát cải lương ở miền nam với hai ban nhạc, một cổ truyền, một sử dụng Nhạckhí Tây phương cho đến những người hát rong ngoài đường trình tấu các ca khúc mang từ mẫu quốc sang (4). Các ca khúc này được thanh niên thời đó đón nhận nồng nhiệt cùng với tất cả các mốt quần áo, sách vở, báo chí Pháp ti các thành phố lớn.
    Các giọng ca của E***h Piaf, Maurice Chevalier, Tino Rossi, Josephine Baker ... những bài hát như J''ai Deux Amours, La Marinella, Ma Petite Tonkinoise ... là những ca khúc trên môi của các thanh niên Tây học thời đó.
    Sự lan tràn của các ca khúc này, theo Lê Thương trong một bài viết nhan đề Thời Tiền Chiến Trong Tân nhạc, có một ảnh hưởng quan trọng. Ðó là công chúng chuộng cái mới, muốn quên lãng đi những cái gì không thay đổi trong Nhạccổ truyền.

    Các Nhạc sĩ đi đầu
    ở Hà Nội trong những năm cuối của thập niên 30, Dương Thiệu Tước đã là một Nhạc sĩnổi tiếng sử dụng Huy Cầm rất điêu luyện. ông có một tiệm bán đàn và lớp dậy Huy Cầm ở phố hàng Gai. Cùng với Thẩm Oánh, Trần Dư, Phạm Văn Nhường và Vũ Khánh, ông thành lập một ban Nhạclấy tên là Myosotis. Lúc đầu, ban Nhạcchỉ trình diễn các ca khúc viết bằng tiếng Pháp như Joie D''Aimer, Souvenance , Ton Doux Sourire do Dương Thiệu Tước viết phần Nhạcvà lời ca do Thẩm Bích, bào huynh của Thẩm Oánh viết.
    Chuyến đi nói chuyện của Nguyễn Văn Tuyên với những ca khúc lời Việt của ông đã kích động các Nhạc sĩở Hà Nội như Thẩm Oánh, Văn Chung, Lê Yên, Trần Quang Ngọc đem các sáng tác mà các ông viết trước đó ra trình diễn trước công chúng lần đầu tiên. Ðó là những bài như Hồ Xuân, Khúc Yêu Ðương của Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em, Thuyền Mơ của Dương Thiệu Tước, Trên Thuyền Hoa, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung.
    Những ca khúc này được giới thưởng ngon ưa thích lập tức.
    Nhóm Myosotis có hai chủ trương: Thẩm Oánh theo con đường trung dung. Trong bài viết đăng trong tp chí NhạcViệt số 5 đề ngày 16 tháng 10 năm 1948, ông cho rằng các ca khúc Việt Nam phải theo ý NhạcViệt và phải có cảm tưởng thuần túy á Ðông.
    Trong khi đó, Dương Thiệu Tước thì chủ trương phải son theo âm điệu Tây phương hoàn toàn.
    Người ta thấy là cả hai đã rất trung thành với chủ trương của mình. Thẩm Oánh rất á Ðông. Dương Thiệu Tước đầy âm điệu khiêu vũ Tây phương.
    Ngoài ra, từ năm 1938, nhóm Myosotis cũng đứng ra xuất bản các ca khúc mới, những bài như Ðôi Oanh Vàng, Hoa Tàn, Phút Vui Xưa ... cùng những bản Nhạckhông lời của Dương Thiệu Tước. Các ca sĩ nổi tiếng như ái Liên và Kim Thoa được hãng đĩa Beka thuê thu thanh các bài hát này trên đĩa hát 78 vòng.
    Một nhóm khác tên là Tricea gồm 7 người, trong đó có Văn Chung, Lê Yên và Dzoãn Mẫn (mới đây, trong một bài viết về ông ở Hà Nội của Yên Ba, tên ông được ghi là Doãn Mẫn, không có chữ Z). Cả hai đều sáng tác, trình diễn và xuất bản các ca khúc họ viết. Trong số các sáng tác của nhóm được quần chúng ưa thích là các bản viết hồi năm 1939 như Khúc Ca Ban Chiều, Trên Thuyền Hoa của Văn Chung, Biệt Ly, Sao Hoa ng Tàn , Tiếng Hát Ðêm Thu của Dzoãn Mẫn , Bẽ Bàng , Vườn Xuân của Lê Yên. Văn Chung bị ảnh hưởng NhạcTrung Hoa. Dzoãn Mẫn và Lê Yên bay **** nhịp tiết mang ảnh hưởng NhạcTây phương. Nhóm Tricea tan rã sau khi thành lập không lâu. Ðó là ở Hà Nội.
    Hải Phòng có Lê Thương và Văn Cao là những người viết tân Nhạctrong thời gian này. Cùng với hai ông, là các Nhạc sĩtrẻ hơn như Canh Thân, Hoàng Quí, Phm Ngữ, Hoàng Phú, Văn Trang ... Nhóm xuất hiện lần đầu ti nhà Hát Lớn Hải Phòng với các tác phẩm Tiếng Ðàn Ðêm Khuya, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương Tử, Thu Trên Ðảo Kinh Châu... Phạm Ngữ viết ca khúc Nhớ Quê Hương năm 1939, Hoàng Quí viết một lot ca khúc trẻ với bài đầu là bài Chùa Hương rất trong sáng, tươi mát như những bản Nhạcsau của ông.
    ở Nam Ðịnh có Ðặng Thế Phong, một Nhạc s ĩtài hoa mệnh yểu qua đời khi mới ngoài hai mươi tuổi. ông lưu li các tuyệt phẩm Ðêm Thu, Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến. Cùng với Ðặng Thế Phong, Nam Ðịnh còn sản xuất ra Bùi Công Kỳ, Ðan Thọ và Hoàng Trọng. Phạm Duy, trong cuốn Hồi Ký (trang 278) gọi đây là những tên tuổi tiền phong của nền Nhạcmới.
    ở Sài Gòn có Nguyễn Xuân Khoát và Phm Ðăng Hinh. Phm Ðăng Hinh cầm đầu một ban Nhạcvĩ cầm và đi vĩ cầm gồm 15, 16 Nhạcsinh của ông. Ban Nhạccó ra Hà Nội trình diễn các sáng tác của ông nhưng rồi cũng ngưng hot động ít lâu sau đó. ông sớm ra đi, để li vài bài như Ðám Mây Hàng và Cám Dỗ, Nhạcđề cho phim Trận Phong Ba quay ti Hương Cảng năm 1940.
    Bước qua thập niên 40, một khuynh hướng mới bắt đầu tìm thấy trong NhạcViệt. Ðó là những bài hùng ca viết cho thanh niên, phong trào khỏe và hướng đo, của nhóm Ðồng Vọng với Hoàng Quí cùng các Nhạc sĩtrong Tổng Hội Sinh Viên và Lưu Hữu Phước. Chính phủ Pháp, sau khi thua quân Ðức, đang muốn tìm đường đứng dậy. Phong trào Phục Hưng của thống chế Pétain lan sang Việt Nam, phát triển để chuẩn bị giúp Pháp sống li, và thanh niên là cái đích người ta nghĩ đến đầu tiên. Chủ trương lãng mạn bị đả kích, dẹp bỏ để đào to một lớp thanh niên thuộc địa mới khỏe mạnh , cường tráng sẵn sàng phục vụ mẫu quốc.
    Chủ trương lành mạnh hóa các sinh hoạtvăn học, âm Nhạcđưa đến việc sách vở bị kiểm duyệt, vũ trường bị đóng cửa. Các bài hùng ca được phổ biến và cũng được yêu mến trong giai đoạn này là Việt Nam Bất Diệt của Hoàng Gia Lịnh, Trên Sông Bch Ðằng của Hoàng Quí...
    Trong giai đoạn này, các nhóm Myosotis và Tricea cũng viết một số hùng ca và ca khúc thanh niên để tỏ một thái độ với thứ văn chương diễm lệ và quá ủy mị đang rất được thanh niên nam nữ ưa chuộng.
    ?snh hưởng của Hoàng Quí và nhóm Ðồng Vọng của ông cùng với Lưu Hữu Phước và Tổng Hội Sinh Viên là những ảnh hưởng lớn, kéo dài cho cả đến những năm sau khi hai nhóm không còn hot động nữa. Với các sáng tác của hai nhóm, người ta thấy Nhạc hùng vẫn có thể hấp dẫn tuổi trẻ như Nhạctình lãng mạn.
    Tuy nhiên, theo Lê Thương, bất kể những tin tức chiến tranh vọng li từ trời ?zu, Nhạctình cảm vẫn xuất hiện như Con Thuyền Không Bến , Giọt Mưa Thu của Ðặng Thế Phong , Xuân Yêu Ðương , Bản Ðàn Xuân của Lê Thương , Hồn Xuân của Nguyễn Xuân Khoát, Trở Li Cùng Anh của Dzoãn Mẫn...
    Một nền Nhạc lãng mạn
    Hoàng Nguyên, trong bài giới thiệu tập ca khúc NhạcTiền Chiến xuất bản ở Sài Gòn năm 1970 đã viết về Tiếng Hát Những Ngày Chưa Chiến Tranh. Ông nói về những ngày không khí trữ tình bàng bạc, thanh bình, nhẹ nhàng lâng lâng. ông ghi nhận nó còn có nét đơn sơ của cánh đồng, cái không-khó-khăn của những ngày bàn tay không quen máy móc, cái bình dị của những tâm hồn quán nhỏ.
    Tập Nhạc gồm 27 ca khúc của 18 Nhạc sĩ mà hầu hết là những ca khúc lãng mạn. Nhạctiền chiến là Nhạcl ãng mạn. Có nói như vậy chắc cũng không sai là bao nhiêu. Âm Nhạcđi song song với sinh hoạtthơ của giai đoạn này. Trong lãnh vực thơ, là Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Hàn Mặc Tử, Thâm Tâm, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Nguyễn Bính thì âm Nhạccũng có những dòng Nhạclãng mạn không kém. Ða số các Nhạc sĩsáng tác đều là các thi sĩ ở một nơi khác, thơ của họ được nâng đỡ bởi nhạc. Nên người ta không ngc nhiên khi âm Nhạctrong giai đoạn này cũng đi con đường song hành với thơ.
    Lời của Văn Cao, như trong ca khúc Thu Cô Liêu, theo Phm Duy, nghe đầy âm hưởng Ðường thi. Nguyễn Mỹ Ca, Ngọc Bích ( sau này), Phạm Ngữ, Tô Vũ, Thẩm Oánh , Dương Thiệu Tước, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Hiền, Anh Việt ... cho thấy họ làm thơ bằng nhạc. Phần lời ca chuốt lọc của các ca khúc có thể đọc lên như những bài thơ. Nhờ có nhạc, những bài thơ đó li có thêm được một đời sống khác: đời sống âm nhạc.
    Và đó là lý do các tác phẩm của giai đoạn này đã qua được tất cả các thử thách của thời gian để tiếp tục được yêu mến , có những bài, sau hơn nửa thế kỷ. Lời ca vẫn còn mới, vẫn còn như vừa được viết bằng thứ ngôn ngữ của ngày hôm nay.
    Chuyển tiếp
    Thực ra, không thể nói Nhạctiền chiến ngưng li vào năm 1945. Những ca khúc vẫn tiếp tục được các Nhạc sĩ viết xuống, và gửi đến người nghe trong một chiều hướng các Nhạc sĩ này đã vẽ được ra trong những năm trước đó. Dòng Nhạc này vẫn tiếp tục chẩy, và nó không hề đứng lại, với những Nhạc sĩ chọn ở lại với âm nhạc.
    Dư Âm của Nguyễn Văn Tý năm 1949; Trách Người Ði của Ðoàn Chuẩn năm 1949; các ca khúc về mùa Thu của Ðoàn Chuẩn trong những năm trước Genève; Ngọc Lan của Dương Thiệu Tước ... là những thí dụ. Những bài ca này vẫn được coi, xếp hạng vào các ca khúc tiền chiến mặc dù chúng được viết sau khi súng nổ khá lâu. Các tác giả vẫn tiếp tục nuôi dưỡng những cảm xúc có được trong những năm trước đó.
    Năm 1950, tờ Việt Nhạc do đài phát thanh Hà Nội ấn hành cho biết đài đã phát thanh khoảng 300 Nhạc phẩm của các Nhạc sĩ tiền chiến, những người ở vùng quốc gia cũng như những người đi theo kháng chiến. Khi đài Hà Nội ngưng tiếng năm 1954, đài đã phát trên 2000 tác phẩm của khoảng hơn 300 Nhạc sĩ.
    Các Nhạc sĩ tiền chiến một số vẫn còn sống, đều đã trọng tuổi, như Phạm Duy (sinh 1921), Dzoãn Mẫn (sinh1916), Nguyễn Văn Tuyên (sinh1909), Lê Yên (sinh 1917). Những người đã qua đời gồm Văn Cao (mất 1995), Văn Chung (mất 1984), Nguyễn Xuân Khoát (mất 1993), Bùi Công Kỳ ( mất 1985), Ðỗ Nhuận ( mất 1991), Thẩm Oánh (mất 1996), Ðặng Thế Phong (mất 1942), Lưu Hữu Phước (mất1989), Hoàng Quí (mất 1946), Lê Thương (mất 1996 ), Dương Thiệu Tước (mất 1995).
    Dư âm cuả Nhạctiền chiến
    Nhạc tiền chiến vẫn tiếp tục những vang vọng của nó cho đến ngày hôm nay, trong người nghe cũng như trong những người viết nhạc.
    Phạm Duy , Nguyễn Hiền , Dương Thiệu Tước... tiếp tục viết loại Nhạcmà các ông đã rất thành công. Anh Việt với Bến Cũ, Thơ Ngây...Ngọc Bích, viết những ca khúc làm gợi nhớ cái không khí lãng mạn của thời tiền chiến , những Mộng Chiều Xuân, Trở Về Bến Mơ... Nếu Tô Vũ (tên thật là Hoàng Phú ) không ở một nơi chốn như ông đã phải sống trong mấy chục năm nay, thì tác giả Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa sẽ tiếp tục viết những ca khúc rất đỗi lãng mạn như thế, như Tiếng Chuông Chiều Thu, như Tạ Từ ...
    Phải chờ đến Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương, ảnh hưởng Nhạc tiền chiến mới dứt để âm NhạcViệt Nam đi sang một con đường khác, cả về lối chuyển cung, chuyển điệu.
    Bùi Bảo Trúc

  3. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0
    Đọc giả trí Một Vài Vấn Đề Về Nhạc Cổ Truyền Việt Nam
    Trần Quang Hải
    Nhạc cổ truyền đối với chúng ta là một loại nhạc xưa được truyền tụng cho tới ngày nay. Tân nhạc là loại nhạc mới. Mới ở đây là nghĩa gì? Có phải là loại nhạc soạn theo nhạc ngữ Âu Mỹ, hay nói một cách khác, là các bài nhạc được soạn trong khoảng 70 năm nay (từ năm 1930) theo kiểu Tây phương
    Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử âm nhạc thế giới, thì giai đoạn âm nhạc cận đại của nhạc ngữ Tây phương bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 19. Do đó, ranh giới định rõ cổ và tân nhạc rất là lu mờ.
    Để tránh mọi ngộ nhận phức tạp, chúng ta tạm gọi như sau. "Cổ nhạc" là loại nhạc được lưu truyền từ ngàn xưa đến nay theo phương pháp truyền khẩu, dính liền vào đời sống hàng ngày của người dân quê hay thị thành hoàn toàn tiêm nhiễm văn hóa Đông Phương. "Tân nhạc" dùng để chỉ loại nhạc được các nhạc khí Tây Phương trình bày như nhạc phòng trà, nhạc được sáng tác theo phương pháp Tây Phương.
    Trở về nhạc cổ truyền Việt Nam, phần đông người Việt thường lầm lẫn giữa "Vọng cổ", "Cải lương", và "Cổ nhạc".
    VỌNG CỔ LÀ GÌ?
    Ai sáng tác bài "Vọng cổ"? Theo đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam, ông Sáu Lầu (tên thật là Cao Văn Lầu), người gốc gác tỉnh Bạc Liêu, nhân nghe trống điểm văng vẳng từ một chòi canh gần thôn xóm nhà, thấy tâm hồn xúc động mà nẩy ra ý nhạc viết thành bài "Dạ Cổ Hoài Lang" (nghĩa là nghe trống canh khuya nhớ chồng). Ông Sáu Lầu, sau khi chung sống với vợ 8 năm mà không có một mụn con, ba má của ông mới bắt ông phải kiếm một người vợ khác để hy vọng có con nối dõi tông đường. Vào nă m 1920 ông Sáu Lầu mới dùng cây đờn cò để sáng tác bài "Hoài Lang" (nhớ tới người yêu của mình". Sau đó ông Sáu Lầu mới đờn bài này cho ông Tần Xuân Thơ (gọi là Thống, thầy tuồng của gánh Tân Minh Kế ở Bạc Liêu) nghe. .
    Chuyện gia đình của ông Sáu Lầu được thu xếp ổn thỏa. Vợ chồng ông Sáu Lầu được yên bề và sau đó hai người sanh được mấy mụn con. Ông Tần Xuân Thơ mới đề nghị cùng ông Sáu Lầu đổi tên bài lại thành "Vọng cổ" (tức nhớ chuyện dĩ vãng).
    Khoảng năm 1925-27, bài "Dạ Cổ hoài lang" được phổ biến rộng rãi trong giới cải lương. Nhịp hai không đủ chỗ để viết lời cho nên bài "Vọng cổ" được tăng lên thành nhịp 4. Bài "Tiếng nhạn kêu sương" của ông Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung) có thể là bài đầu tiên viết theo bản "Dạ Cổ hoài lang nhịp tư".
    Thầy Giác là người khởi xướng bài "Dạ Cổ hoài lang nhịp 8 " vào khoảng nă m 1929-1930. Nhưng phải đợi tới năm 1935-37 nghệ sĩ Năm Nghĩa chính thức phổ biến trong giới yêu cải lương qua bài "Văng vẳng tiếng chuông chùa".
    Từ năm 1964, soạn giả Viễn Châu mới đưa tân nhạc vào tạo thành loại hát "tân cổ giao duyên". Cách đưa tân nhạc vô bài Vọng cổ bắt buộc phải rút ngắn bản Vọng cổ làm bài Vọng cổ 6 câu còn lại 4 câu thôi.
    Vềsau có người đưa bài Vọng cổ lên thành Vọng cổ nhịp 64 và Vọng cổ nhịp 128 nhưng không thành công. Cho nên tới hôm nay, sau gần 50 năm bản Vọng cổ nhịp 32 vẫn còn "ăn khách" và được phổ biến mạnh mẽ.
    Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, chưa bao giờ chúng ta được thấy một bài nhạc biến chuyển và phổ biến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam và trong lòng của đại đa số người Việt trong cũng như ngoài nước.
    Vọng cổ chỉ là một bài trong phần nhạc cải lương. Biết hát vọng cổ chưa có thể nói là biết hát cổ nhạc, biết hát cải lương. Hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng hay loại nhạc "xa-long" (tiếng Pháp là "Salon") hoàn toàn khác với hát vọng cổ trong cải lương. Người hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng cố gắng hát cho thật hay trong cách ngân nga, luồng giọng cho ngọt, nhịp nhàng cho chắc. Người đệm đàn cho bài vọng cổ trong loại nhạc thính phòng chỉ cần giữ nhịp cho chắc, và có thể nhấn vuốt tùy theo tài nghệ của người đánh đờn. Hát vọng cổ trong cải lương có khi chỉ hát hai câu, 4 câu, hoặc 5 câu, ít khi hát 6 câu từ đầu đến cuối.
    CẢI LƯƠNG LÀ GÌ?
    Ngày nay chúng ta ai ai cũng ghiền nghe và coi hát cải lương, vìcải lương, sau trên 80 năm xuất hiện, hình thành và phát triển ở miền Nam trước và trên toàn lãnh thổ sau đó, phản ảnh đời sống hàng ngày của chúng ta, nói lên những gìmàchúng ta không thể nói được.
    Nhà khảo cổ và nghiên cứu hát bội và hát cải lương Vương Hồng Sển, trong quyển "Hồi ký 50 năm mê hát: 50 năm cải lương", tủ sách Nam Chi, do Phạm Quang Khai, cơ sở xuất bản năm 1968, Saigon, không chắc chắn ngày khai sanh của bộ môn hát mới này. Ở Saigon, có tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm thành lập hát cải lương vào năm 1966, nghĩa là hát cải lương được mở mắt chào đời vào năm 1916. .
    Theo sự hiểu biết của tôi, hát cải lương đầu tiên được xuất hiện dưới hình thức ca tài tử tại tư gia khoảng năm 1915. Các tài tử còn ca các bài cũ kiểu "độc thoại " và chưa có ra bộ tịch gì hết. Lúc đó đã có thấy xuất bản một quyển "Bản đờn tranh và bài ca" do Phụng Hoàng Sang soạn, và Đinh Thái Sơn xuất bản, Saigon, in lần thứ ba, năm 1907. Như thế có đoán là lần in thứ nhất có thể vào khoảng 1900. Qua quyển này chúng ta được biết vào thời đó, giới cầm ca hát đờn những bài sau đây : "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Bình Bán Vắn", " Bát Man Tấn Cống", "Tứ Đại", Phụng Hoàng", "Nam Xuân", "Nam Ai", "Tứ Đại Cảnh".
    Bắt đầu năm 1916, loại ca đối thoại xuất hiện, nhiều người hát chung, và gọi đó là "Ca ra bộ".Ngoài ông Phó Mười Hai, mỹ danh Tống Hữu Định, ông Trần Quang Quờn, ông Phạm Đăng Đàng là một danh cầm đất Vãng là những người đóng góp đắc lực cho sự hình thành của hát cải lương sau này.
    Phải đợi tới gần dứt thế chiến thứ nhứt, dưới chế độ toàn quyền Albert Sarrault, dân được chính phủ bảo hộ nới rộng cho phép lập hội hè hát dân ca nên một số chủ bút thân hào phú hộ tụ tập nhau lại (Huyện Của, Bùi Quang Chiêu, Đốc Phủ Bảy, Hồ Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt, Đặng Thúc Liêng, vv ...) bè n chia nhau các vai tuồng, và lên sân khấu lần đầu, hát quyên tiền giúp Pháp chống Đức. Do sự cải tân từ nghệ thuật hát bội, mới nẩy sinh ra danh từ "Hát bộ" nghĩa là hát ra bộ qua vở tuồng "Gia Long tẩu quốc, Pháp Việt nhứt gia" diễn tại nhà Hát Tây Saigon ngày 16 tháng 11, 1918.
    Từ đó, ở miền Nam bắt đầu mọc lên như nấm các nhóm ca ra bộ, rồi cải lương như ở Vĩnh Long có thầy Phó Mười Hai Tống Hữu Định, ở Sa Đéc có gánh xiệc pha ca ra bộ rồi cải lương của André Thận, ở Sóc Trăng có gánh hát của thầy thuốc Trần Văn Minh, ở Mỹ Tho có gánh của Thầy Nă m Tú, ở Chợ Lớn có gánh thầy Mười Vui, ở Saigon có gánh Tân Thinh, ở Long Xuyên có gánh Tập Ích Ban (của Vương Văn Có), vv ...
    Còn trong cải lương, câu ca phải đúng với điệu đàn, phải hợp với giai điệu và tiết tấu. Để tránh những cử chỉ tượng trưng quá nhiều và hát hay thét lớn cùng những tuồng tích xưa, hát cải lương với những bài ca mùi mẫng, với nhừng tranh dàn cảnh huy hoàng, với những tuồng gần với xã hội Việt Nam, với lời văn đơn giản của ngôn ngữ thường ngày, với những động tác tự nhiên đã đổi mới nghệ thuật diễn xuất, nhạc điệu. Về âm nhạc thì bỏ những lối hát nam, hát khách, bỏ luôn lối xướng, bạch, hường, tán, chỉ giữ và phát triển thêm lối nói lối cho thật mùi hợp với tiếng đờ n tài tử. Số vốn ca nhạc của sân khấu cải lương ngày từ buổi đầu cũng đã rất phong phú. Về điệu "Lý ", có "Lý Ngựa Ô", "Lý Con Sáo ", "Lý Giao Duyên ", "Lý Ngựa Ô Nam", "Lý Thập Tình ", "Lý Chuồn Chuồn". Về ngâm thì có ngâm Sa Mạc, Bồng Mạc, Ngâm Sổng, hoặc lối ngâm mới trong cải lương áp dụng theo dây Oán . Có ba bài Nam : "Nam Xuân", "Nam Ai " và "Nam Đảo", bốn bài oán như "Tứ Đại Oán", "Phụng Hoàng", "Giang Nam", "Phụng Cầu ", và bốn bài oán phụ như "Văn Thiên Tường", "Bình Sa Lạc Nhạn ", "Bộc Thủy Ly Tao", và "Thanh Dạ Đề Quyên". Ngoài ra những cảnh vui thì có 5 bản vui và ngắn như "Bình Bán Vắn ", "Tây Thi Vắn", "Khổng Minh Tọa Lầu", "Mẫu Tầm Tử", "Long Hổ Hội". Sáu bài Bắc lớn như "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Tây Thi", "Cổ Bản". Bảy bài lớn dùng trong nhạc lễ như "Xàng Xê", "Ngũ Đối Thượng", "Ngũ Đối Hạ", "Long Đăng ", "Long Ngâm ", "Vạn Giá ", "Tiểu Khúc ". Đó là chưa kể 8 bài ngắn khác dùng trong nhiều trường hợp vui buồn khác nhau như "Ái Tử Kê ", "Chiêu Quân", "Trường Tương Tư", "Đường Thái Tôn ", "Bát Man Tấn Cống", "Duyên Kỳ ngộ", "Ngự Giá ", "Kim Tiền Bản", và sau cùng là 10 Liên Hoàn (Phẩm Tuyết, Nguyên Tiêu, Hồ Quản g, Liên Hoàn, Bình Nguyên, Tây Mai, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hổ, Tẫu Mã).
    Lúc đầu là phụ diễn trước khi chiếu phim hát bóng. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván gõ, và mặc quốc phục chỉnh tề, vừa ca vừa ra bộ. Thầy Năm Tú có công trong việc đưa nhạc cải lương đến với mọi tầng lớp người Việt trên toàn cõi xứ Việt Nam
    Từ đó trở đi, các gánh đua nhau mọc lên như nấm. Nào gánh Tập Ích Ban, gánh Tân Thinh Ban, gánh Văn Hý Ban, gánh Võ Hý Ban, gánh Phước Cương, gánh Trần Đắc, gánh Huỳnh Kỳ, gánh Phụng Hảo, vv ... đã tạo cho sân khấu cải lương một nền móng vững chắc. Những tài tử cải lương gạo cội tiền bối người còn người mất (hiện nay chỉ còn có bà Phùng Há, bà Bảy Nam ở Saigon) như các bà Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Hai Nhỏ, Ba Út, Năm Sa Đéc, Thanh Tùng, Kim Thoa, và các nam nghệ sĩ như Từ Anh, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Nghĩa, Tám Danh, Ba Du, vv? đã đưa nghệ thuật diễn xuất cải lương từ chỗ sơ khai đến chỗ toàn hảo.
    Đến giai đoạn hồi cư (1946-47), hát cải lương xuất hiện trở lại và chỉ đem tuồng cũ ra diễn lại mà thôi.
    Từ năm 1950 trở về sau, cải lương lại pha thêm đấu kiếm, đánh võ, đánh chưởng, vừa ca vừa hát giọng Tàu (Hồ Quãng), giọng Âu Mỹ, rồi lại sinh ra loại tân cổ giao duyên.
    Tuồng tích cải lương được phân chia ra nhiều loại : tuồng tàu, tuồng dã sử, tuồng chiến (gánh hát của Bảy Cao), tuồng La Mã, Phù tang, tuồng xã hội, tuồng chưởng, tuồng hồ quãng, vv...
    Giai đoạn 50-60, những nghệ sĩ hữu hạng và thượng thặng mà đa số chúng ta đều biết tiếng như là Út Trà Ôn (từ trần năm 2001), Thành Được (hiện sống ở San Jose, Hoa Kỳ), Thanh Tú (hiện ở Saigon, Việt Nam, Hùng Cường (từ trần ở California, Hoa Kỳ), Dũng Thanh Lâm (hiện sống ở California, Hoa Kỳ), vv ... về phía nam, và Út Bạch Lan (hiện sống ở Saigon), Thanh Nga (từ trần), Bạch Tuyết (hiện sống ở Saigon), Ngọc Giàu (Saigon), Thanh Thanh Hoa (Saigon), Ngọc Nuôi (Hoa Kỳ), Kim Chưởng (Saigon), vv ... về phía nữa.
    Một số hề nổi tiếng như Ba Vân (từ trần), Sáu Đước (gánh Tân Đồng Ban, từ trần), Tư Rọm (gánh Việt Hùng Minh Chí, từ trần), Hề Trường, Hề Tỵ (gánh Tân Hí, Mộng Vân, Phát Thanh), Lê Tám (gánh Hoa Sen), Hề Phúc Lai, Hề Tư Vững, Hề Giác, Hề Minh, Hề Hai Vinh,vv ...là những người đã đem sức đem hơi ra chọc được tiếng cười dòn tan của khán giả. Tất cả các danh hề kể trên đã sang bên kia thế giới.
    Từ năm 1970 trở đi, các nghệ sĩ trẻ như Minh Phụng, Minh Cảnh, Tấn Tài, Chí Tâm (hiện sống ở Hoa Kỳ), Vương Kiệt, Lệ Thủy, Hương Lan (sống ở Hoa kỳ), Phượng Liên (hiện sống ở Hoa kỳ) vv ... nối tiếp con đường đã vạch sẵn của các bậc tiền bối.
    Tại miền Nam trước 1975 có trên 50 gánh hát lưu diễn quanh năm. Ngày nay số gánh hát vẫn tương đương và tiếp tục phát triển nghệ thuật cải lương ở Việt Nam, trong khi ở hải ngoại ngành cải lương không còn thu hút khán giả nữa, và các nghệ sĩ cải lương tỵn nạn đã phải tìm một nghề khác để mưu sinh.
    CỔ NHẠC LÀ GÌ?
    Cổ nhạc, nói chung, bao gồm nhiều loại nhạc khác nhau: nhạc cung đình, nhạc tôn giáo, nhạc thính phòng, nhạc tuồng (hát bội, chèo, cải lương), nhạc dân gian từ bài hát ru con, các loại đối ca, đến loại hò đưa linh. Nói một cách khác, cổ nhạc là nhạc của người dân Việt từ thời lập quốc đến giai đoạn hiện đại do người Việt sáng tác theo truyền thống truyền khẩu. Trong phạm vi bài này, tôi không thể tạm gác một bên các loại nhạc đồng bào thiểu số vì không thể kê khai nhạc của 54 sắc tộc sống trên xứ Việt ngư người Thái, Mông, Mường, Mán, Thổ, Tày, Dao, Ra-đê, Ba-na, Mnong, Sê Đăng, Ê Đê, Chàm, vv...
    Nhạc cung đình được Lương Đăng phỏng theo nhạc cung đình nhà Minh bên Trung quốc vào thế kỷ thứ 15. Đến thời nhà Nguyễn (1802-1945), nhạc cung đình gồm các loại : Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc, Đại Triều nhạc, Thường Triều nhạc, Cứu Nhựt nguyệt giao trùng nhạc, cung trung chi nhạc, Yến nhạc, văn nhạc, võ nhạc do nhiều dàn nhạc như đại nhạc, tiểu nhạc với số nhạc công rất đông. Đó là chưa kể một số điệu vũ như văn vũ, võ vũ, tứ linh vũ, hoa đăng vũ, bát man tấn cống vũ, vv ?
    Nhạc tôn giáo gồm có nhạc Khổng giáo bây giờ không cò n nữa (chỉ còn nghe tại Đài Loan và Đại Hàn mà thôi ), nhạc Phật Giáo rất phong phú với các điệu niệm, tán, tụng đầy nhạc tính, nhạc Cao Đài đặc biệt miền Nam trên điệu Nam (Nam Xuân, Nam Ai, Oán), và tất cả các loại nhạc dính liền với các tế lễ như chầu văn, hầu văn, rỗi bóng, lên đồng, nhạc đám ma.
    Nhạc thính phòng (tạm gọi là thính phòng theo nghĩa Tây phương), là một bộ môn rất được ưa chuộng tại Việt Nam. Có ba loại nhạc thính phòng đặc thù của ba miền : miền Bắc có "Hát Ả Đào", miền Trung có "Ca Huế ", và miền Nam có "Đàn Tài Tử ". Hát ả đào còn gọi là "Ca Trù ", "Hát Cô Đầu" không còn được thịnh hành tại miền Bắc vì không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại mặc dù đã được chấn hưng từ 20 năm nay. " Ca Huế ", với các bài Nam Ai, Nam Bằng, Tứ Đại Cảnh, 10 bài ngự vẫn còn được ưa thích. "Đàn Tài Tử " được bành trướng mạnh mẽ tại miền Nam với các đại hội liên hoan được tổ chức tại các tỉnh miền Nam (Tân An, Mỹ Tho, Bạc Liêu).
    Nhạc dân gian Việt Nam rất giàu. Miền Bắc có biết bao nhiêu dân ca đã làm sống lại những nét đẹp của phong cảnh, của phong tục nghìn xưa như loại hát quan họ Bắc Ninh với phong tục kết bạn, ngủ bọn (liền anh, liền chị), hát thi hát lấy giải; rồi hát trống quân, hát giậm, hát phường vải, hát ví, hát xoan, cò lả, hội sim. Ngoài ra còn có hát xẩm. Miền Trung có hò sông Mã, hò mái nhì, mái đẩy, mái sấp, hò hụi, hò nện, các điệu lý như lý mười thương, lý con sáo, lý giao duyên. Trong Nam những điệu hò thay đổi từng miền, từng vùng như Hò Đồng Tháp, hò Bạc Liêu, hò Bến Tre, hò lơ, hay các điệu lý như Lý Ngựa Ô, lý chuồn chuồn, lý con khỉ Đột, lý dĩa bánh bò, lý che hường, vv ... Hầu hết các điệu lý, hò, đối ca đều dựa trên thể thơ lục bát rất đặc biệt Việt Nam. Dân ca Việt Nam, nhờ vào những cuộc hát thi lấy giải và óc sáng tạo nhạy bén mà ngày nay có trên mấy ngàn bài được phổ biến khắp nơi.
    Tôi hy vọng rằng, qua bài tiểu luận này, quý bạn đọc sẽ có một khái niệm đại cương về thế nào là "Vọng cổ", thế nào là "Cải lương", thế nào là "Cổ nhạc". Biết được nguồn gốc nhạc Việt là một điều cần thiết nhứt là cho kiến thức văn hóa cho mỗi người trong chúng ta lúc phải bị lìa xa quê hương. Hiểu được nhạc mình, biết qua nhạc người, dung hòa hai nền nhạc Âu và Việt để đừng bị mất gốc mất rể và có thể dạy dỗ con cháu thuộc thế hệ sau. Tự hào nhạc Việt, cũng như tự hào tiếng nói Việt, văn hóa Việt là nung nấu chí khí quật cường bất khuất của dân tộc Việt, là nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tình thương dân tộc để xứng đáng là con cháu dòng dõi Lạc Hồng.
    Trần Quang Hải
  4. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0

    PBN 79 MINH TUYẾT''S PICS
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  5. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0
    Hoài Linh tin vào số phận
    [​IMG]
    Đúng dịp Noel năm nay, danh hài Hoài Linh sẽ thực hiện liveshow có chủ đề "Ru lại câu hò" tại sân khấu Lan Anh. Dù đang vào giai đoạn nước rút để hoàn tất chương trình, anh vẫn dành thời gian để trò chuyện về những kỷ niệm vui buồn của cuộc đời người nghệ sĩ mà anh từng nếm trải.
    - "Ru lại câu hò" là một chủ đề thoạt nghe không có chút gì hài hước của một liveshow hài. Anh nói gì về điều này?
    - Chương trình của tôi mà không có chất hài thì quá là "bi kịch" phải không. Tôi dám khẳng định sẽ có nhiều "pha tung hứng" đầy bất ngờ và thú vị trong chương trình này. Nhưng sở dĩ tôi đặt cho nó cái tên giàu chất thơ bởi vì tôi muốn nhớ lại cái thuở hàn vi của mình
    - Vậy thuở thiếu thời của anh có điều gì đáng nhớ?
    - 8 tuổi, tôi và gia đình từ Nha Trang chuyển về sống ở một vùng kinh tế mới tại Long Khánh (Đồng Nai). Từ đó cho đến khoảng 14 tuổi, mỗi ngày tôi phải đạp xe 15 km để đến trường. Từ 15 tuổi đến 18 tuổi, tôi còn lao vào việc đồng áng như một anh nông dân chính hiệu. Đây là giai đoạn để lại nhiều kỷ niệm nhất trong tôi. Tôi thành công trong nhiều vai nông dân cũng nhờ vốn sống được tích luỹ vào lúc này.
    - Trong cái cơ cực của cuộc đời khi ấy, anh mơ ước điều gì?
    - Nói ra chắc mọi người nghĩ tôi đang hài, chứ kỳ thực ước mơ tuổi thơ của tôi là được trở thành thày giáo. Tôi đã cố gắng học hành thật tốt nhưng cuộc sống khó khăn nên đành gác lại điều mình mong muốn.
    - Cho đến khi nào thì anh bước chân vào nghiệp diễn?
    - Năm 1989, tôi trở về Nha Trang. Do lúc đi học tôi có tham gia ca hát nên mạnh dạn đăng ký tham dự cuộc thi Giọng hát hay thành phố Nha Trang và đoạt giải nhì. Sau đó, tôi gia nhập đoàn Ca nhạc dân tộc Ponaga với tư cách ca sĩ chuyên hát dân ca.
    - Lúc đó, có những ai biết đến nghệ danh Hoài Linh?
    - Dĩ nhiên là chưa nhiều vì tôi vẫn là một diễn viên phụ của một đoàn hát tỉnh lẻ. Đến khi tôi hoạt động nghệ thuật trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nghệ danh Hoài Linh mới được đông đảo công chúng biết đến. Thoáng đó mà đã 10 năm bước chân vào sân khấu.
    - Anh có được cho mình điều gì trong suốt chừng ấy năm lăn lộn với nghề?
    - Tôi hơi duy tâm nên quan niệm rằng mình sẽ nhận lại đủ những gì mình cho đi. Tôi thành công, ngoài tài năng còn có nhiều may mắn. Điều may mắn đến được với tôi có lẽ nhờ tôi có cái tâm trong sáng.
    - Có tin đồn anh và một nam ca sĩ từng có "tình trai" với nhau. Thực hư chuyện này thế nào?
    - Tôi nhận được nhiều tin đồn còn ác liệt hơn thế nhưng tôi luôn giữ thái độ im lặng. Tôi tin rằng thời gian sẽ trả lời tất cả.
    - Bà xã anh phản ứng thế nào khi anh thường đóng các vai giả gái?
    - Tôi và vợ tôi cùng size nên những bộ áo dài tôi mặc trên sân khấu là của bà xã tôi đấy. Thỉnh thoảng, cô ấy có góp ý nếu thấy vai diễn tôi đóng chưa đạt. Vợ tôi là một phụ nữ tinh tế. Cô ấy luôn hiểu và động viên khi tôi gặp khó khăn. Cô ấy rất quan trọng với tôi.
    - Anh thường chứng tỏ tình yêu của mình thế nào?
    - Tôi thường trở về nhà bất ngờ sau những chuyến lưu diễn dài và mang theo những món quà lạ cho bà xã. Tôi nghĩ, hôn nhân rất cần những cảm giác mới mẻ và lạ lẫm.
    - Đi diễn xa nhà quanh năm, anh nghĩ sao nếu vợ anh có những phút ngoài vợ ngoài chồng?
    - Tôi luôn tin vợ tôi và cũng tin vào số phận. Nếu chuyện đó xảy ra, tôi chấp nhận vì số tôi không may mắn.
    (Theo Thể Thao Ngày Nay)
  6. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0
    Minh Nhí đã chai sạn với tin đồn
    [​IMG]

    Kể từ sau khi được cấp phép biểu diễn trở lại, Minh Nhí trở thành anh chàng bận rộn tối ngày với những vai diễn mới. Anh tâm sự mình là một diễn viên may mắn vì vẫn được đồng nghiệp và khán giả tin yêu
    .
    - Lần đầu tiên sau một thời gian dài trở lại sân khấu, tâm trạng của anh như thế nào?
    - Tôi hồi hộp pha chút lo lắng vì không biết khán giả có còn nhớ mình không, nhưng rồi khi bước ra sân khấu, cảm giác đó tan biến khi nhận được những tràng vỗ tay cổ vũ. Lúc đó, tôi chỉ biết tập trung vào vai diễn sao cho không phụ lòng mong đợi của người xem
    - Thị trường hài bây giờ trở nên bão hòa với "người người tấu hài, nhà nhà tấu hài", anh sẽ làm gì để đứng vững tên tuổi của mình như trước đây?
    - Tôi nghĩ mình không cần phải ra chiêu gì để lấy lòng khán giả, chỉ biết diễn sao cho hay, cho mới, diễn hết tâm hết sức của mình mà thôi. Tôi thấy mình rất may mắn vì vừa được cấp phép biểu diễn trở lại đã nhận được nhiều vai diễn, nhiều chương trình. Bây giờ, lịch diễn của tôi đã kín đến tháng 3 năm sau rồi.
    - Sáu tháng nằm nhà không được diễn, anh đã chi tiêu rất tốn kém trong thời gian đó, vậy bây giờ anh đã lấy lại vốn chưa?
    - Chắc là chưa đâu (cười), thời gian đó quả là "miệng ăn núi lở", may mà cũng tích cóp được một khoản trước đó để không bị chết đói. Bây giờ, nếu tôi đi tấu hài ở các tụ điểm thì chắc cũng nhanh lấy lại vốn, nhưng ngặt nỗi ít có thời gian và cũng phải hạn chế vì xuất hiện nhiều quá sẽ nhạt.
    - Ấp ủ sản xuất một album nhạc, liệu anh có quá tự tin về giọng hát của mình?
    - Đó chẳng phải là một chiêu lăng xê gì của tôi đâu mà chỉ đơn giản là ý thích thôi. Từ nhỏ, tôi thích hát và bây giờ tôi muốn làm CD thu những bài hát mà mình thích, do chính mình thể hiện để làm kỷ niệm hoặc tặng bạn bè thôi chứ tôi đâu dám mơ làm ca sĩ.
    - Đã lập gia đình nhưng hai vợ chồng lại ở hai nơi, cuộc sống xa cách đó khiến khán giả nghi ngờ về tình yêu của hai người. Anh nghĩ sao?
    - Hoàn cảnh của chúng tôi như vậy thì biết làm sao, hai chúng tôi đều rất yêu công việc của mình, tôi không thể bắt cô ấy bỏ việc về VN mà cô ấy thì lại càng tôn trọng việc của tôi. Vì vậy, tạm thời cả hai chọn giải pháp đi qua đi lại thăm nhau. Tôi cũng vừa sang Mỹ 5 ngày thăm vợ.
    - Trước những tin đồn không hay về mình, anh đã phản ứng thế nào?
    - Tôi không làm gì cả, có lẽ tôi chai sạn trước những tin đồn và không sợ nữa. Ai nói gì mặc họ, còn tôi vẫn sống đúng với nhân cách và lương tâm của mình. Làm người của công chúng cũng như làm dâu trăm họ, khó mà làm hài lòng được tất cả.
    (Theo Ngoisao.net)
  7. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0
    Thông tin về 3 ca sỉ nổi tiếng 1 thời
    [​IMG]
    Phượng Mai sanh ra trong một gia đình nghệ sĩ. Bà ngoại của cô là nghệ sĩ hát bội nổi tiếng Cao Long Ngạ Ngay từ nhỏ, cô đã được bà ngoại nuôi dưỡng và đã đứng đằng sau sân khấu mỗi khi cô theo bà đi trình diễn khắp nơị Mặc dù ngay còn nhỏ cô đã chịu ảnh hưởng nhiều từ bà ngoại trong nghệ thuật hát bội nhưng khi lớn lên cô lại chuyển sang bộ môn cải lương, hồ quảng, truyền hình và nhạc pop.
    Cô bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật của mình như là một diễn viên thiếu nhị Lần đầu tiên cô xuất hiện trên sân khấu khi cô chỉ mới 5 tuổi tại rạp hát Nguyễn Văn Hàọ Cô trình bày một đoạn trong vở Lương Sơn Bá và ngay lập tức được sự chú ý của khán thính giả. Vào thời gian này, báo chí và những nhà phê bình đã trao cho cô cái nên Tiểu Lang Bá. Phượng Mai sau đó tiếp tục làm rạng danh nhiều trung tâm cải lương tại Việt Nam.
    Năm 1979, Phượng Mai định cư tại Tây Đức và nhanh chóng tiếp tục con đường sự nghiệp để trở thành một ca sĩ Việt Nam tại hải ngoạị Cô xuất hiện lần đầu cho một show ở rạp hát Maubert tại Paris và cô đã trình bày một bài nhạc pop thay vì hát cải lương. Từ đó, cô chọn loại nhạc pop để thay thế cho cải lương. Tuy nhiên, những ngày sau đó, cô vẫn cùng với một số nghệ sĩ cải lương tại hải ngoại sản xuất một số video và băng cải lương. Phượng Mai sang Hoa Kỳ và định cư tại Nam Cali là nơi có nhiều cơ hội cho con đường nghệ thuật của cô và cũng là nơi có nhiều khán thính giả mến mộ cô nhất.
    Sau 35 năm với nghệ thuật, Phượng Mai đã đi lưu diễn nhiều nơi khắp toàn quốc và thế giớị Cô đã thâu rất nhiều CD và video cho một số trung tâm.
    Cho đến nay Trang Thanh Lan đã có trên 25 năm tuổi nghề, kể từ lần xuất hiện đầu tiên của cô trên sân khấu rạp Quốc Thanh vào năm 1968 trong chương trình "Văn Nghệ Tạp Lục" của nghệ sĩ Tùng Lâm, cũng chính là người đã dẫn dắt cô vào làng văn nghệ sau khi trúng tuyển cuộc thi Tuyển Lựa Ca Sĩ do anh tổ chức. Trang Thanh Lan tên thật là Nguyễn Lệ Liễu, tuổi Tỵ, ngày sinh nhật là 7 tháng 6, thích màu trắng và ti''m, và con số 9. Cũng như Quang Bình, cô chuyên trình bày loại nhạc dân ca, ca ngợi quê hương và tình yêụ Nhạc phẩm "Giăng Câu" do cô và Quang Bình trình bày hiện được coi như là một trong những nhạc phẩm được khán giả ưa thích nhất, ngoài ra Trang Thanh Lan cho biết bất cứ "bài nào đã hát thì rất ưng ý". Với lối trình diễn duyên dáng, đặc biệt là với những nhạc phẩm trình bày chung với Quang Bình, qua tất cả những chuyến lưu diễn tại nhiều quốc gia, Trang Thanh Lan đã được khán giả dành cho nhiều cảm tình nồng hậu, do đó cô cho biết: "Mỗi lần trình diễn khán giả đều vỗ tay thương yêu, nên khán giả ở đâu cũng dễ thương như nhau". Sau khi đặt chân tới Mỹ, Trang Thanh Lan cùng Quang Bình đã được trung tâm Giáng Ngọc mời thu thanh băng nhạc đầu tiên với tựa đề: "Gạo Trắng Trăng Thanh" và kế đó là băng nhạc "Ngưu Lang Chức Nữ" của trung tâm Thúy Ngạ Trang Thanh Lan xuất hiện trước ống kính video lần đầu tiên tại hải ngoại trong chương trình Paris By Night 20. Hiện cô cùng Quang Bình "đi hát dạo" khắp nơi và luôn luôn làm việc từ thiện
    Nữ ca sĩ Thái Hằng, nữ ca sĩ Việt Nam nổi tiếng từ trước thập niên 1950, đã qua đời sáng sớm ngày Thứ Bảy 14/8/1999 tại nhà riêng, trong thị trấn Midway City, miền Nam tiểu bang California vì chứng bệnh ung thư phổi, hưởng thọ 73 tuổị Nữ danh ca thời tiền chiến Thái Hằng là vợ của nhạc sĩ Phạm Duy và thân mẫu các ca sĩ Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo và nhạc sĩ Duy Cường. Tên tuổi nữ danh ca Thái Hằng gắn bó với Phạm Duy và ban hợp ca Thăng Long thành một gia đình nghệ sĩ hàng đầu đã có những đóng góp lớn lao cho âm nhạc Việt Nam. Thái Hằng tên thật là Phạm Thị Thái, sinh năm 1927 tại Hà Nội,- là thứ nữ của ông bà Phạm Đình Tụng,- trong một gia đình nghệ sĩ. Người anh cả của Thái Hằng là kịch sĩ Phạm Đình Sỹ, là phu quân của nữ kịch sĩ nổi tiếng Kiều Hạnh. Cụ Phạm Đình Sỹ là người duy nhất trong số anh chị em Thái Hằng không bỏ nước ra đi tị nạn. Năm nay, dù đã 90 tuổi nhưng cụ Sĩ vẫn còn mạnh khỏe và sống tại Sài Gòn. Đúng ra, ông bà Phạm Đình Tụng còn có một người con gái đầu lòng nữa, đó là chị hai của Thái Hằng, và người chị này đã mất vào năm 1946. Kế tiếp, sau Thái Hằng là Phạm Đình Viêm tức Hoài Trung, nhạc sĩ Phạm Đình Chương tức Hoài Bắc và người em út trong gia đình này, là người nữ ca sĩ nổi tiếng từng được gọi là tiếng hát vượt thời gian; đó là Phạm Băng Thanh tức nữ ca sĩ Thái Thanh. Việc những anh chị em Thái Hằng đều trở thành những nghệ sĩ tên tuổi không phải là một diều lạ vì bởi song thân của họ là hai người rất sành nhạc cổ: Thân phụ của Thái Hằng đánh đàn nguyệt, trong khi Thân mẫu thì đánh đàn tranh và đàn tỳ bà nổi tiếng ở đất Bắc. Thái Hằng là chị em bạn dì ruột với giọng ngâm tên tuổi Hồ Điệp. Hầu như tất cả anh em của Thái Hằng đều thấm nhuần văn nghệ từ lúc còn trẻ.
    Ngày 12-9-1946, tức là ngày toàn quốc kháng chiến, gia đình ông bà Phạm đình Phụng tản cư ra Sơn Tâỵ Tại đây người con gái đầu lòng của ông bà bị trúng đạn tử thương. Ông bà đưa các con chạy xuống vùng xuôi, mở một quán phở đặt tên là Thăng Long. Tại quán Thăng Long, các văn nghệ sĩ kháng chiến thường dừng chân, ăn phở và nghe nhạc. Từ đó cái tên Ban Hợp Ca Thăng Long ra đờị Phạm Thị Thái tức Thái Hằng còn là cháu của nữ kịch sĩ Song Kim) có ý định cho vào hoạt động trong đoàn kịch Thế Lữ. Nhà thơ kiêm kịch tác gia này đặt cho cô Thái cái tên sân khấu là Thái Hằng. đầu năm 1949 anh chị em Thăng Long gia nhập các ban văn nghệ quân đội của liên khu IV. Quán Thăng Long dời về chợ Neo (Thanh Hóa). Tại đây Thái Hằng kết hôn với Phạm Duy và hành trình âm nhạc của gia đình từ nay sinh nở thêm những tài năng mới, với Duy Quang là con đầu lòng sinh năm 1951, và các em Duy Cường, Thái Hiền, Thái Thảọ Cũng có tin tức cho rằng, Thái Hằng đã bắt đầu sự nghiệp ca nhạc và sân khấu trong thời gian gặp và kết hôn với nhạc sĩ Phạm Duy năm 1948 tại Thanh Hóa, Khu Tư trong thời kháng chiến. Bà nổi tiếng cùng với ban hợp ca Thăng Long, với các anh em là nữ ca sĩ Thái Thanh, ca sĩ Hoài Trung, Hoài Bắc và nhạc sĩ Phạm Duỵ Ban Thăng Long đã trình diễn trên các đài phát thanh và sân khấu khắp ba miền Việt Nam từ thập niên 1950. Bà Thái Hằng cũng được thính giả đài phát thanh Sài Gòn rất hâm mộ khi ngâm thơ trong chương trình Tao đàn do cố thi sĩ đinh Hùng phụ trách. Bà cũng thường song ca cùng ca sĩ Thái Thanh. Bên cạnh việc sinh hoạt trong lãnh vực ca hát cùng anh chị em và chồng là nhac sĩ Phạm Duy, suốt nhiều thập niên trước năm 1975, Thái Hằng còn là giọng ngâm thơ và nữ diễn viên đượcyêu mến trong các chương trình thơ văn và thoại kịch trên đài Phát Thanh Sài Gòn. Cho đến nay giới thưởng ngoạn âm nhạc Việt Nam còn nhớ giọng ca của bà qua những bản Tiếng Sáo Thiên Thai, Tình Hoài Hương, Tình ca, v.v. của Phạm Duỵ Thái Hằng, ngoài địa vị một người mẹ hiền, một người vợ thảo, nuôi nấng 8 người con, bà còn là một giọng ca không thể thiếu được trong ban hợp ca Thăng Long. Cùng với nhạc sĩ Phạm Duy, ban hợp ca Thăng Long với Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, đã góp phần dựng lên một thời, thời cực thịnh của âm nhạc Việt Nam. Từ đầu thập niên 1970, khi các con đã lớn bà Thái Hằng ngưng hoạt động trình diễn. Sau khi qua Mỹ năm 1975 gia đình bà đã trở lại sân khấu, cùng Phạm Duy, Thái Hằng, Thái Hiền và Thái Thảo đi lưu diễn, mang lại niềm an ủi và hy vọng đến cho người Việt Nam tị nạn khắp thế giớị đến năm 1978, khi các con trai từ Việt Nam qua Mỹ thì bà Thái Hằng cũng ngưng hoạt động âm nhạc
    Hiện nay các con của bà vẫn tiếp tục sinh hoạt về ca nhạc. Các ca sĩ và nhạc sĩ Quang, Minh, Hùng, Cường trình diễn thường xuyên tại phòng trà Ritz, Thái Hiền tại Đêm Mầu hồng, Thái Thảo và Tuấn Ngọc tại Majestic. Được bạn bè nhìn như một người vợ thảo, mẹ hiền kiểu mẫu theo lối Việt Nam cổ truyền, bà Thái Hằng có tất cả tám người con, hai con út là Đức và Hạnh. Khi ở Việt Nam cũng như khi qua Mỹ, gia đình đều sống quây quần, trong một mái nhà hay ở nhà bên cạnh. Nhiều người nói ngoài bổn phận làm vợ và làm mẹ thì bà Thái Hằng coi sự nghiệp ca nhạc chỉ là sinh hoạt phụ mà thôi; nhiều bạn bè nghĩ bà là người may mắn vì suốt đời không bao giờ phải lo lắng về cuộc sống, ngoài những bổn phận trong gia đình. Nhạc sĩ Phạm Duy nói rằng trong 52 năm sống chung hai người không bao giờ phải lớn tiếng với nhaụ Biết có bệnh từ gần mười năm nay, nhưng gần đây bà Thái Hằng mới phải vào bệnh viện Fountain Valley điều trị về ung thư phổi từ nữa năm naỵ Nhưng đến khi được bác sĩ điều trị cho biết chứng bệnh cùa mình không còn cách cứu chữa và cho về nhà tĩnh dưỡng thì Thái Hằng tinh thần rất "ân tâm tự tại" chờ đợi giờ phút trở về với Cát Bụi. Bà đã được gia đình đưa về nhà từ hơn hai tuần, và trong thời gian đó lúc nào cũng có các con săn sóc bên giường bệnh. Thời gian này, tin tức từ gia đình cho hay, nhạc sĩ Phạm Duy hầu như né tránh mọi cuộc tiếp xúc, gặp gỡ khiến ông phải rời nhà. Nhạc sĩ ở quanh quẫn bên cạnh giường bệnh của vợ. Những ngày cuối cùng bà sống rất bình an và hạnh phúc bên chồng với các người con đã trưởng thành, và thân quyến, bạn bè luôn đến thăm hỏị Lúc ba giờ sáng Thứ Bảy, sau buổi trình diễn trở về, các cô Thái Hiền, Thái Thảo và nhạc sĩ Duy Cường đã vào gặp mẹ và bà Thái Hằng còn tỉnh táọ Bà ra đi trước sáu giờ sáng, là lúc nhạc sĩ Phạm Duy và Duy Minh vào thăm. Những ngày cuối cùng, bà Thái Hằng được sống với tất cả các con có mặt chung quanh. Một số bạn và thân hữu thăm bà vào những ngày cuối cho biết tinh thần bà rất minh mẫn và thanh thản chờ đợi giờ phút cuối từ giã cuộc đờị Vào sáng ngày thứ ba, 10/8/1999, khi phái đoàn thân hữu gồm nhà báo Đỗ Ngọc Yến, nhà văn Phạm Quốc Bảo, nhà báo Lý Kiến Trúc và nhà thơ Thanh Hùng (thi sĩ Thanh Hùng, năm nay 68 tuổi, là sinh viên đầu tiên và cũng là người dân miền Bắc Việt Nam đầu tiên vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải sau năm 1954, khi đợt di cư của 1 triệu đồng bào miền Bắc vào Nam chấm dứt. Thanh Hùng cũng là một nhà thơ và là một giọng ngâm nổi tiếng từng cộng tác với Ban Thi Văn Tao Đàn do cố thi sĩ Đinh Hùng sáng lập). Trong cuộc gặp gỡ trước giờ Thái Hằng trút hơi thở cuối cùng, tại San Jose cuối tuần qua, nhà thơ Thanh Hùng và nhà văn Phạm Quốc Bảo, cả hai, đều kể lại với chúng tôi thái độ bình thản của Thái Hằng trước khi lìa đời, trong ngày 10/8/99 khiến cả năm người,- 4 thân hữu viếng thăm và nhạc sĩ Phạm Duy,- đều phải cảm phục. Trong cuộc gặp gỡ này, tuy đang nằm trên giường bệnh, Thái Hằng vẫn tươi cười nói: "Ta với bệnh tuy hai mà một, bệnh với ta tuy một mà hai".

    [​IMG]
  8. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0
    TO ALL : Ở HP đã có cuốn DVD và VCD " Tình 13 - Tình yêu - Quê hương - Tuổi trẻ " , nghe hay lắm , 1 trong những chương trình HOT của năm , lần đầu tiên cùng xuất hiện 3 chị em ca sĩ Cẩm Ly , Hà Phương , Minh Tuyết . Các bạn nhớ đón mua nhé
  9. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0
    ASIA 49 Insanose Poster
    [​IMG]
  10. haiauvocanh

    haiauvocanh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/05/2002
    Bài viết:
    672
    Đã được thích:
    0
    TO ALL : Tôi nghe cuốn Tình 13 - Quê Hương - Tình Yêu - Tuổi trẻ mà thấy hay quá , đặc biệt là nhạc phẩm" Sao Anh ra đi " của nữ ca sĩ Minh Tuyết . Chắc chắn đây sẽ là 1 ca khúc HOT trong thời gian tới tại Việt Nam. Các bạn mua và thử coi xem OK
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này