1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quà tặng cuộc sống

Chủ đề trong 'Quảng Bình' bởi thanh_hang_new, 24/04/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thanh_hang_new

    thanh_hang_new Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/03/2002
    Bài viết:
    1.134
    Đã được thích:
    0
    ..tiếp theo phần trước..
    Khái niệm căn bản nhất của Seven Habits là khái niệm "paradigms" và "Paradigm Shift".
    Từ ngữ paradigm bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, được sử dụng như thuật ngữ khoa học với nghĩa là hình mẫu, lý thuyết, khái niệm, giả thuyết hoặc khung tham chiếu (model, theory, perception, assumption, or frame of reference). Nói đơn giản paradigm là cách chúng ta ?onhìn? thế giới, ?onhìn? ở đây có nghĩa là hiểu và giải thích chứ không phải cái nhìn đơn thuần.
    Nói vậy cũng chưa rõ. Ví dụ khác của paradigms là một tấm bản đồ. Tấm bản đồ là hình vẽ diễn tả và giải thích một vùng đất nào đó. Nhờ có bản đồ mà bạn ?onhìn? thấy được vùng đất đó.
    Trong cuộc sống hàng ngày bản đồ giúp bạn tìm đường đi rất thuận tiện. Giả sử bản đồ in sai hoặc bạn dùng nhầm bản đồ thì chắc chắn bạn sẽ bị lạc đường. Khi đã lạc đường thì càng đi nhanh bao nhiêu, càng lạc xa bấy nhiêu.
    Mỗi người chúng ta có rất nhiều paradigms, trong đó có thể chia ra 2 loại chính: Paradigm về thực tế (ways things are) và Paradigm về lý tưởng (ways things should be).
    Điều rất lạ là đa số con người thường ít khi băn khoăn về độ chính xác của những tấm bản đồ mình có. Thậm chí đa số còn không phân biệt được khái niệm paradigm (map) với thực tế (territory). Chúng ta thường dễ dàng giả thiết rằng cái chúng ta ?onhìn thấy? chính là thực tế (the way things are), thậm chí là lý tưởng (the way things should be).
    Ấy thế mà toàn bộ thái độ và hành vi của chúng ta đều bắt nguồn từ những điều chúng ta ?onhìn thấy?, bởi vì đó chính là nguồn gốc trực tiếp của tư duy và hành động.
    Để hiểu luận điểm này, chúng ta có thể nhìn vào bức tranh sau đây mà bạn courage80 mới đăng gần đây trong mục đố vui

    Bức tranh này đã được sử dụng làm trắc nghiệm tâm lý ở trường Havard cũng như ở trung tâm đào tạo của Covey từ lâu. Một số người nhìn thấy một cô gái trẻ xinh đẹp, một số người nhìn thấy một bà già có cái mũi to tướng, đó là vì paradigm của họ khác nhau. Bức tranh được dùng để minh họa sức mạnh của paradigm. Hai người có thể khác nhau và cả hai đều không sai, vấn đề là paradigm của họ khác nhau.
    Bức tranh trên cũng minh họa khái niệm ?oParadigm Shift?, thay đổi Paradigm. Paradigm Shift khi bạn nhìn bức tranh này thật đơn giản, nhưng thay đổi đại đa số Paradigms bạn có là quá trình phức tạp và thường đòi hỏi sự kiên nhẫn cũng như lòng dũng cảm.
    Cả hai trường phái Character Ethic và Personality Ethic đều là những ví dụ của social paradigms, những tấm bản đồ hướng dẫn hành vi của bạn. Nếu bạn đã chọn sai tấm bản đồ thì dù bạn cố gắng đến bao nhiêu hạnh phúc vẫn cứ xa vời.
    Được thanh hang sửa chữa / chuyển vào 09:21 ngày 13/08/2004
  2. thanh_hang_new

    thanh_hang_new Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/03/2002
    Bài viết:
    1.134
    Đã được thích:
    0
    ...tiếp...
    Paradigm Shift là điều xảy ra khi paradigm của người ta bất thần thay đổi, khi đó người ta thường kêu lên, ?oÀ, ra thế?. Đó là khoảnh khắc mà người ta cảm thấy đầu óc đang u tối chợt trở nên sáng rõ. Thuật ngữ này lần đầu được Thomas Kuhn sử dụng trong cuốn sách bất hủ ?oThe Structure of Scientific Revolutions?. Kuhn đã dẫn chứng hầu hết những tiến bộ vượt bực trong khoa học đều bắt đầu với sự phá vỡ một truyền thống, một cách nghĩ cũ, hay nói cách khác, một Paradigm cũ.
    Đối với nhà thiên văn học cổ Ai Cập vĩ đại Ptolemy thì mặt đất là trung tâm của vũ trụ, nhưng Copernicus đã tạo nên một cú Paradigm Shift, và bất chấp bao nhiêu phản kháng, cuối cũng người ta cũng thay đổi và nghĩ rằng mặt trời là trung tâm. Rõ rằng tất cả các khái niệm về thiên văn học đột ngột thay đổi.
    Thời đại vật lý Newton dựa trên paradigm của chiếc quả lắc đồng hồ. Tuy paradigm này đến ngày nay vẫn còn là căn bản của kỹ thuật, paradigm này còn rất thiếu sót. Khoa học đã thay thế paradigm của Newton bằng paradigm của Einstein, với giá trị dự đoán và giải thích lớn hơn rất nhiều.
    Trước ngày có paradigm của lý thuyết về vi khuẩn, biết bao nhiêu phụ nữ và trẻ em đã chết mà không ai giải thích được nguyên nhân. Kể cả trong quân đội thời đó, số binh lính chết vì vết thương nhiễm khuẩn lớn hơn cả số binh lính chết trong khi đánh trận.
    Không phải mọi Paradigm Shifts trên đời đều là thay đổi theo chiều hướng tích cực. Như bạn thấy trong bài về Paradigm, sự thay đổi từ character ethic sang personality ethic sau thế chiến I đã xảy ra theo chiều hướng tiêu cực.
    Tuy nhiên, bất luận một paradigm shift đi theo chiều hướng nào, xảy ra nhanh hay chậm, đặc trưng của Paradigm shift là thay đổi cách chúng ta ?onhìn? thế giới. Thay đổi cách hiểu thế giới chính là nguồn sức mạnh để thay đổi con người. Paradigm của mỗi người, bất luận là đúng hay sai, chính là nguồn gốc của thái độ và hành vi, quyết định kết quả cuối cùng của quan hệ với mọi người.
    Dưới đây là một tiểu Paradigm Shift đã xảy ra với Covey một buổi sáng chủ nhật nọ trên subway ở New York.
    Hôm đó, trên toa tàu, mọi người ngồi tĩnh lặng, một vài người đọc báo, một vài người ngồi mơ màng suy nghĩ đâu đâu, một số khác ngồi nghỉ mắt nhắm nghiền. Khung cảnh thật bình yên.
    Đột nhiên có một người đàn ông đi cùng với một đứa bé lên toa tàu. Đứa trẻ rất hiếu động, ồn ào làm phá vỡ cả bầu không khí tĩnh lặng. Người đàn ông ngồi xuống cạnh Covey và nhắm mắt lại, dường như không quan tâm gì đến đứa trẻ, khi đó đang hò hét, ném đồ vật, thậm chí kéo cả tờ báo của một hành khách khác. Ai cũng thấy đứa bé này thật là khó chịu, thế mà bố nó chẳng thèm để ý. Covey không thể hiểu nổi tại sao người đàn ông này lại trơ trẽn và vô trách nhiệm đến thế. Cuối cùng, không thể chịu đựng nổi nữa, Covey quay sang phía người đàn ông và bảo ông ta: ?oThưa ngài, con của ngài đang làm phiền rất nhiều người?.
    Người đàn ông dường như chợt tỉnh và trả lời Covey rất nhỏ nhẹ: ?oỒ, ngài nói đúng, đáng lẽ ra tôi phải bảo ban cháu. Chúng tôi vừa bệnh viện trở về. Mẹ cháu vừa qua đời khoảng một giờ trước. Tôi không còn đầu óc nào để suy nghĩ nữa.?
    Vào khoảnh khắc đó, Covey nhận thấy paradigm của mình đột ngột thay đổi. Tự nhiên ông nhìn cảnh vật trước mắt hoàn toàn khác. Tất cả sự khó chịu, bực bội tan biến. Covey chẳng còn phải cố gắng để nhịn nỗi bực dọc, và kiểm soát hành vi cũng như thái độ của mình nữa.
    Nhiều người đã trải qua Paradigm Shift tương tự như vậy khi những sự việc đe dọa tính mạng xảy ra. Họ đột nhiên nhận thấy trật tự ưu tiên các việc trong đời thay đổi, hoặc đột nhiên họ nhận thấy một vai trò khác của mình. Người ta có thể cố gắng áp dụng Personality Ethics hàng năm trời, cố gắng thay đổi thái độ và hành vi, nhưng những thay đổi đó chỉ là tạm thời, nhỏ bé. Để thay đổi lớn chúng ta cần phải sửa đổi Paradigm của mình.
    ửa đổi hành vi và thái độ giống như chặt cây ở trên ngọn, sửa đổi Paradigm giống như chặt cây ở gốc vậy.
    Sống và Nhận thức Vậy Paradigm là cách mà chúng ta nhận thức thế giới. Không thể tách Paradigms khỏi Cá tính được. Vì thế đối với con người thì sống là nhận thức (Being is seeing). Điều mà bạn ?onhìn thấy? gắn chặt với tính cách của bạn.
    Quá trình đi đến hạnh phúc của con người là quá trình sửa đổi đồng thời cả Being và Seeing một cách có ý thức.
  3. thanh_hang_new

    thanh_hang_new Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/03/2002
    Bài viết:
    1.134
    Đã được thích:
    0
    ...tiếp...
    Khi bạn gặp khó khăn, trục trặc trong cuộc sống, bạn thường hay nhìn đến những người mà bạn thấy là hạnh phúc và thành đạt hơn bạn và nghĩ, tại sao họ lại sung sướng thế nhỉ? Vì bạn đã chịu ảnh hưởng (tiêu cực) của Personality Ethics, bạn thường sẽ có xu hướng giải thích sự thành đạt của người khác bằng những thuộc tính hình thức. Vì thế cho dù bạn có nhìn vào hàng ngàn tấm gương thành đạt, bạn vẫn chẳng tìm ra được giải pháp cho khó khăn của chính mình. Khi đó hãy nhớ nhận xét của Covey:
    Nhận thức của bạn chính là nơi ẩn chứa trục trặc. (The way we see the problem is the problem).
    Một số ví dụ đơn giản sau đây sẽ giải thích cho bạn rõ hơn ý nghĩa câu nhận xét trên. Bạn sẽ thấy rõ Personality Ethic và Character Ethic nhìn cùng một vấn đề theo cách hoàn toàn khác nhau. Và rủi thay, nhiều người trong số chúng ta thiên về cách nhận thức của Personality Ethic.
    - Tâm sự của một giám đốc:
    Tôi đã theo học bao nhiêu khóa đào tạo quản trị nhân sự. Tôi mong muốn quản trị tốt những nhân viên dưới quyền mình, cố gắng tỏ ra thân thiện với họ, đối xử tốt với họ. Thế nhưng tôi thấy họ chẳng có chút gì đáp lại. Nếu tôi nghỉ ốm một ngày, đó sẽ là ngày vui của họ, mọi người ngồi uống nước, tán phét suốt ngày mà chẳng ai làm ăn gì. Tôi phải làm gì để đào tạo họ trở thành những con người có trách nhiệm?
    Personality Ethic bảo tôi rằng tôi nên lập ra quy định ngặt nghèo hơn trong công ty, trừng phạt những người lười biếng, đặt camera theo dõi bắt những tay bỏ việc ra ngoài hút thuốc lá, sa thải những kẻ bướng bỉnh, ? và đăng ký thêm vài khóa học quản trị nhân sự nữa cho chính bản thân tôi.
    Khi tôi hiểu Character Ethic tôi nhìn nhận vấn đề khác hẳn. Tôi tự đặt mình vào địa vị của những người làm công ăn lương trong công ty và tự hỏi liệu ông giám đốc này có phải là người tử tế hay không? Ông ấy đối xử với người lao động như những con người hay chỉ như những cỗ máy. Tôi sẽ tự vấn mình, tận sâu trong đáy lòng tôi nghĩ gì về những người nhân viên này?
    Cách tôi nhìn nhận những người nhân viên đó chính là cội rễ của trục trặc trong việc quản lý nhân sự của tôi. Character Ethic dạy tôi phải điều chỉnh nhận thức của mình trước khi mong nhận được kết quả ngọt ngào từ họ.
    - Tâm sự của một người chồng:
    Hôn nhân của tôi có vấn đề mặc dù chúng tôi chẳng có gì để tranh chấp với nhau cả, chỉ đơn giản là hai người chẳng yêu nhau nữa, thế thôi. Chúng tôi đã đến tư vấn gia đình, nhưng cảm giác yêu thương say đắm ngày xưa có lẽ chẳng bao giờ trở lại.
    Personality ethic bảo tôi rằng, nên tìm đọc vài quyển sách dạy cách ?ođiều trị? những bà vợ bướng bỉnh, hoặc đi tìm thêm vài nơi tư vấn gia đình tốt hơn, họ có thể làm cho hai người nói hết ra những nỗi bực tức, bất đồng, và hai người lại có thể quay trở lại sống với nhau. Còn nếu tất cả các biện pháp đều không hiệu quả thì có lẽ tốt hơn là ly hôn. Personality ethic luôn nhắc nhở vào tai tôi: trục trặc này là tại vì bà vợ của tôi, vì bố mẹ vợ khó tính, vì công việc của tôi hay phải đi xa, vì... cái gì gì đó ở ngoài kia chứ nhất định không phải vì tôi.
    Character Ethic nhắc nhở tôi rằng không phải lúc nào trục trặc cũng là tại các bà vợ. Có một số paradigm căn bản qua đó tôi ?onhìn nhận? vợ mình, hôn nhân của mình, tình yêu của mình và chính sai lệch của paradigm đó là căn nguyên của mọi vấn đề. Nếu tôi không sửa đổi paradigm đó, dù tôi có tự động viên mình bao nhiêu, có cố gắng cười tươi với bà vợ bao nhiêu, nhịn bao nhiêu hôn nhân của tôi vẫn cứ trục trặc. Aspirin và thuốc đỏ không chữa được bệnh kinh niên.
    A New Level of Thinking
    Albert Einstein có một câu nói bất hủ "The significant problems we face cannot be solved at the same level of thinking we were at when we created them.?.
    Tư duy cũng có đẳng cấp. Thuyết của Newton là một đẳng cấp trong tư duy và thuyết của Einstein là một đẳng cấp cao hơn. Những vấn đề mà thuyết của Newton không giải thích được thì sẽ chẳng bao giờ giải thích được, nếu không thay thế paradigm bằng paradigm của Einstein.
    Personality Ethic đã ngấm sâu trong xã hội ngày nay. Covey nhìn vào những mối quan hệ xã hội và nhận ra rằng có những bệnh tật trầm kha không thể chữa khỏi bằng những biện pháp tình thế mà Personality Ethic luôn dạy người ta.
    Khi gặp những khó khăn căn bản như vậy, chỉ có một cách giải quyết là phải ?onâng cấp? tư duy của mình lên một đẳng cấp khác của tư duy cao hơn đẳng cấp tư duy đã gây ra vấn đề.
    Chính dựa trên tư tưởng này, Seven Habits dạy người ta rằng khi gặp khó khăn thì nơi đầu tiên để tìm đầu mối của trục trặc chính là bản thân mình. Bắt đầu bằng cách tự nhìn lại paradigms, cá tính, giá trị và động cơ của chính mình thay vì lúc nào cũng đổ lỗi cho hoàn cảnh hoặc cho những người khác. Thay vì nghĩ rằng ?othe problem is out there?, trước hết hãy cảnh báo mình rằng khả năng cao nhất là ?othe problem is right here, within yourself.?

  4. thanh_hang_new

    thanh_hang_new Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/03/2002
    Bài viết:
    1.134
    Đã được thích:
    0
    We are what we repeatedly do. Excellence, then, is not an act, but a habit.
    -- ARISTOTL

    Cá tính của mỗi người là tổng hợp của những thói quen của người đó. Theo luật nhân quả, gieo ý nghĩ, gặt hành động; gieo hành động gặt thói quen; gieo thói quen gặt cá tính; gieo cá tính, gặt số phận.
    Chính vì vậy mà thói quen đóng vai trò cực kỳ to lớn trong cuộc sống của chúng ta. Nhiều khi ta không để ý là mình có một thói quen nào đó, nhưng thói quen đó vẫn tiếp tục, ngày càng vững chắc hơn, thể hiện cá tính của ta và quyết định số phận của ta.
    Horace Mann, nhà giáo dục vĩ đại có lần đã nói, "Thói quen như một sợi dây cáp. Mỗi ngày ta chỉ tết thêm một sợi dây nhỏ, và chỉ sau một thời gian ngắn khó lòng mà có thể dứt đứt được sợi dây cáp?.
    Ta có thể tập nhiễm thói quen mới, cũng có thể ?ocai? thói quen cũ. Quá trình xây dựng cũng như bãi bỏ một thói quen là quá trình lâu dài chứ không thể một chốc một lát mà thực hiện được. Khi tập nhiễm hoặc ?ocai? bỏ đi một thói quen người ta phải thắng được quán tính tâm lý của bản thân. Lực cản này lớn nhất khi mới bắt đầu việc tập nhiễm hay ?ocai?, giống như khi phóng tàu vũ trụ, vài giây đầu là những giây phải tập trung sức đẩy mạnh nhất để thắng lực hút của trái đất. Vạn sự khởi đầu nan mà. Nếu bạn muốn tập nhiễm một thói quen tốt, bạn sẽ gặp nhiều khó khăn lúc đầu, nhưng khi bạn đã có thói quen đó, chính quán tính mà bạn mới có được sẽ giúp bạn đạt hiệu quả cao hơn trong cuộc sống.
    Định nghĩa Thói quen.
    Covey định nghĩa Thói quen là miền giao nhau của tri thức, kỹ năng và mong muốn (Habit is the intersection of knowledge, skill, and desire). Tri thức được hiểu là paradigm lý thuyết của mỗi người, trả lời câu hỏi làm gì? tại sao làm?. Kỹ năng trả lời câu hỏi Làm thế nào?. Và mong muốn chính là ý muốn thực hiện hành vi. Để có một thói quen, ta phải có hội đủ cả 3 yếu tố này.
    Lấy ví dụ về một người lúc nào cũng chỉ thích nói mà không biết lắng nghe và gặp khó khăn trong quan hệ với mọi người xung quanh. Rõ ràng anh ta cần học thói quen lắng nghe người khác nói. Nhưng để có được thói quen này trước hết anh ta phải hiểu được Quy luật của giao tiếp người-người để biết được rằng anh ta cần phải lắng nghe (tri thức). Sau đó anh ta phải biết phương pháp lắng nghe và mong muốn làm việc đó. Ví dụ này thật đơn giản nhưng nó diễn tả cho chúng ta thấy, để tạo một thói quen chúng ta cần phải tính đến cả 3 khu vực đó.
    Quá trình thay đổi của mỗi người giống như quá trình đi lên trên một đường xoáy trôn ốc với sự tương tác giữa ?onhận thức? và ?osống?. Seeing thay đổi Being và Being đến lượt mình lại thay đổi Seeing. Bằng cách sửa đổi một số thói quen của mình bạn có thể rũ bỏ được paradigm của Personality Ethic. Đôi khi quá trình thay đổi là một quá trình khó khăn, đau đớn và cần phải có lòng dũng cảm mới thực hiện được. Hạnh phúc có thể được định nghĩa là kết quả của khả năng và mong muốn của con người hy sinh cái mình muốn ở thời điểm hiện tại để đạt được cái mình muốn ở thời điểm tương lai.
  5. math0

    math0 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2003
    Bài viết:
    1.078
    Đã được thích:
    0
    Để xem mọi người đọc bài TH có khá lên được chút nào không nhé. Nhìn xem có mấy người đây:
  6. demen3_8

    demen3_8 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Khà khà, hình như em Thanh Hằng tốt nghiệp 2 bằng đại học thì phải. Ngoại ngữ và Triết học?
  7. thanh_hang_new

    thanh_hang_new Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/03/2002
    Bài viết:
    1.134
    Đã được thích:
    0
    Bác quá nhời rồi, em chỉ chuyên đi Ctrl + C và Ctrl + V thôi. Đọc được mấy bài thấy hay thì share cho mọi người thui mà
    ..tiếp...
    Mỗi con người bắt đầu cuộc đời là một trẻ sơ sinh, hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc nâng niu của người khác. Không có ai chăm sóc thì trẻ sơ sinh khó lòng tồn tại được. Khi đó con người ở trạng thái Dependence.
    Thế rồi thời gian trôi qua, đứa trẻ kia dần dần lớn lên, càng ngày càng trở nên độc lập hơn về các phương diện: thể chất, tinh thần, tình cảm, tài chính. Đến một ngày con người trưởng thành, có thể tự chăm sóc được bản thân, biết tự chủ. Con người đã trở thành Independence.
    Khi con người lớn lên nữa thì sẽ dần dần nhận ra rằng mọi sự vật trên đời đều phụ thuộc lẫn nhau, trong xã hội mọi cá nhân và tổ chức cũng phụ thuộc lẫn nhau như trong một vòng tròn sinh thái vậy. Cuộc sống và hạnh phúc của con người phụ thuộc vào mối quan hệ giữa họ với những người xung quanh họ. Một số người phát triển đến cấp độ cao hơn của Independence là Inter-dependence.
    Sự phát triển của con người là theo luật của tự nhiên. Một người có thể hoàn toàn độc lập về thể chất nhưng tinh thần thì lại chưa độc lập. Nhưng có người phụ thuộc về thể chất nhưng tinh thần thì lại độc lập.
    Ba trạng thái trên đây thể hiện 3 paradigms khác nhau.
    Paradigm Dependence là paradigm kiểu ?obố phải chăm sóc con, bố làm hộ con, nếu bố không làm được, con bắt đền bố đấy?.? Người dependence luôn cần người khác cho họ cái mà họ muốn. Người dependence về mặt tình cảm đôi khi cảm thấy tự tin vào mình, tưởng là mình independence, nhưng sự tự tin đó có thể tan biến rất nhanh khi người mà người đó dựa vào biến mất hoặc thay đổi, kiểu ?o? nếu em bỏ anh thì đời anh từ nay xuống dốc ??
    Paradigm Independence là paradigm kiểu ?oTôi có thể làm được, tôi chịu trách nhiệm, tôi không phụ thuộc vào ai cả, tôi có quyền lựa chọn?. Khi tôi độc lập về mặt tinh thần, tôi có thể điều khiển được ý nghĩ của mình hướng đến nơi mà tôi muốn, tôi có thể sắp xếp và diễn đạt ý nghĩ của tôi theo một cách mà người khác có thể hiểu được. Khi tôi độc lập về tình cảm, việc anh đối xử tệ với tôi không làm cho tôi cảm thấy kém tôn trọng chính tôi hơn.
    Paradigm Interdependence là paradigm kiểu ?ochúng ta có thể làm đựợc việc này, chúng ta có thể cùng hợp tác để sáng tạo nên cái gì đó lớn hơn cái mà một mình tôi hay bạn có thể làm được?. Người Inter-dependence có khả năng tập hợp cố gắng của mình với người khác để làm được việc.
    Rõ ràng là Independence cao hơn Dependence, nhưng Independence không phải là mức cao nhất của sự phát triển. Tuy nhiên paradigm phổ biến của xã hội ngày nay là Independence. Covey giải thích xu hướng đó là phản ứng tự nhiên của thời kỳ trước khi con người có ít tự do hơn. Khi người ta mới thoát ra khỏi cảnh bị nô lệ thì người ta sẽ thấy độc lập là cái quý giá nhất. Có lẽ chính vì thế mà con người ta ít khi nghĩ và tìm hiểu về khái niêm interdependence(phụ thuộc lẫn nhau), thậm chí khái niệm này bị hiểu lầm là một biến thái của phụ thuộc, phụ thuộc lẫn nhau cũng là một kiểu phụ thuộc, nhiều người ghét và sợ phụ thuộc.
    Đúng là bản thân Độc lập đã là một trạng thái tuyệt vời, một thành công lớn, nó cho người ta quyền được sống như mình muốn. Thế nhưng độc lập không phải là mức cao nhất của phát triển vì nó không hòa hợp với luật của tự nhiên, luật của vòng tròn sinh thái. Để thành đạt và có cuộc sống hạnh phúc người ta cần phải biết sống trong tập thể, đá bóng thì phải biết phối hợp ăn ý với cả đội chứ không thể làm ngôi sao đứng một mình.
    Interdependence hoàn toàn khác xa Dependence. Interdependence là sự lựa chọn chỉ có những người Independence mới có.
    Nếu tôi là người Interdependent về tình cảm, tôi tự hiểu được giá trị của bản thân mình, tôi yêu thương và tôn trọng chính mình, nhưng tôi hiểu rằng tôi cần phải yêu thương người khác và được người khác yêu thương đáp lại.
    Nếu tôi là người Interdependent về mặt trí tuệ, tôi có ý tưởng, có chủ kiến của riêng tôi, nhưng tôi hiểu rõ rằng tôi cần phải tập hợp những ý tưởng hay nhất của người khác để kết hợp với những gì của tôi.
    Là một người Interdependent tôi có cơ hội được sống hết mình, sống có ý nghĩa với người khác, vì người khác, đồng thời tôi sử dụng được tiềm năng, tài năng của những người khác quanh tôi.
    Những người Dependent không thể chọn trở thành Interdependent được bởi vì họ không quản lý được chính bản thân mình (they don''t own enough of themselves).
  8. thanh_hang_new

    thanh_hang_new Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/03/2002
    Bài viết:
    1.134
    Đã được thích:
    0
    Thói quen số 1 trong Seven Habits là ?oBe Proactive?, bước đầu tiên trong 3 thói quen để tự chủ bản thân (Private Victory) trong số Seven Habits.
    Proactive là một từ ngữ hiện nay đã được dùng rất phổ biến, nhất là trong các sách về quản trị kinh doanh. Thế nhưng ít từ điển định nghĩa từ này và có lẽ trong tiếng Việt chưa có thuật ngữ tương đương. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về thói quen số 1 này đồng thời làm rõ nghĩa của thuật ngữ này.
    Proactive là một Paradigm của nhận thức mà Covey giới thiệu và khuyên mọi người sử dụng để thay thế các Paradigm cũ. Vậy các paradigm cũ mà chúng ta thường sử dụng là gì vậy?
    Có 3 paradigms phổ biến trong xã hội mà người ta thường áp dụng để nhận thức về con người thuyết di truyền, thuyết tâm lý và thuyết môi trường. Ba thuyết này có thể áp dụng cùng với nhau hoặc riêng lẻ. Nhiều người áp dụng cả 3 thuyết này để nhận thức về chính bản thân mình:
    Thuyết di truyền cho rằng tính cách của bạn là do ông bà cha mẹ để lại cho bạn trong gen di truyền. Ông bà nóng tính thì cháu cũng nóng tính. Giỏ nhà nào, quai nhà nấy. Thuyết tâm lý cho rằng những điều kiện tâm lý xung quanh bạn trong quá trình bạn lớn lên làm nên cá tính của bạn. Nếu bố mẹ bạn ít cho bạn có điều kiện giao tiếp với người khác, khi lớn lên bạn sẽ hay xấu hổ khi tiếp xúc với mọi người. Nếu bạn thấy mình có lỗi khi làm việc gì đó sai, chẳng qua là vì bạn nhớ lại hồi bé bị phạt khi bạn không ngoan. Thuyết môi trường cho rằng môi trường xung quanh quyết định cá tính của bạn, môi trường gồm cả vợ chồng, người yêu, xếp, cả điều kiện ở trường lớp, điều kiện kinh tế quốc gia, vv. Một hoặc tất cả các yếu tố đó làm nên cá tính của bạn.
    Ba thuyết kể trên có điểm chung là đều từa tựa lý luận trong thuyết phản xạ có điều kiện của Pavlov, thuyết bật đèn cho chó ăn. Nếu trước khi cho chó ăn bạn luôn bật đèn, sau này bạn chỉ cần bật đèn thì con chó sẽ tiết ra nước bọt. Ý tưởng chung là mỗi chủ thể đã được tạo dựng nên theo cách nào đó để phản ứng lại theo một kiểu nhất định, khi có một tác nhân.
    Nhưng Covey đã chỉ ra rằng, không thể áp dụng paradigm áp dụng cho con chó để giải thích đúng hành vi Tâm lý-Xã hội của con người, bởi vì con người là một chủ thể đặc biệt, rất đặc biệt. Con người có ý thức (self-awareness), tức là khả năng tự nhận thức về chính mình, về hành vi, giá trị, và chính paradigm của mình. Giống như Tôn Hành Giả có phép phân thân, ai cũng có khả năng tự treo hồn mình lên trần nhà nhìn xuống để tự nhận xét chính bản thân mình. Con người còn có khả năng tưởng tượng nữa, bạn có thể ngồi một chỗ tưởng tượng mình theo thuyền trưởng Blood đi phiêu lưu khắp nơi, bạn cũng có thể tưởng tượng được mình sẽ ra sao nếu mình thay đổi và áp dụng một paradigm khác, thậm chí bạn có thể nhắm mắt lại và tưởng tượng được đám tang của mình sẽ ra sao. Không con vật nào có thể làm như vậy được. Hai khả năng đặc biệt này của con người là điều làm cho con người khác xa loài vật.
    Ấy thế mà, nhiều người trong chúng ta, vì không biết mà áp dụng mãi những paradigm sai lệch, vì thế không nhận biết được khả năng của mình, và dẫn đến phạm hai sai lầm căn bản: Một là đánh giá bản thân mình qua những nhận xét của xã hội, mọi người xung quanh về mình. Khi xã hội đánh giá sai mình thì chính mình cũng không còn biết mình là ai nữa. Hai là buông xuôi để mặc cho những điều kiện tâm lý, di truyền và môi trường quyết định cá tính, theo đó quyết định số phận của mình; khi gặp thất bại thì đổ lỗi cho tất cả những hoàn cảnh, điều kiện đó.
    Vậy paradigm đúng là gì? Đó chính là Proactive. Để hiểu proactive là gì, chúng ta hãy nghe câu chuyện về Victor Frankl, một nhà tâm lý học người Do thái, một đệ tử của Freud (với học thuyết cho rằng cá tính của mỗi người do thời thơ ấu quyết định hoàn toàn). Ông đã bị giam cầm trong trại tập trung của Đức Quốc Xã. Cha, mẹ, anh, chị và vợ của Frankl đều bị giết trong trại tập trung. Bản thân Frankl phải chịu những cực hình hạ thấp nhân phẩm. Ở trong trại tập trung tù nhân hoàn toàn mất tự do, không thể biết được số phận của mình vài phút nữa sẽ ra sao. Một ngày kia trần truồng đứng một mình trong xà lim chật chội của Đức Quốc Xã, Frankl nhận ra cái mà ông gọi là ?otự do cuối cùng của con người?, tự do mà thế lực bạo tàn không thể lấy đi được. Đức Quốc Xã có thể kiểm soát được toàn bộ môi trường xung quanh Frankl, có thể thích hành hạ thể xác Frankl thế nào tùy ý, nhưng vì Frankl là một con người có ý thức, bản chất của Frankl không thay đổi. Tự do của Frankl là ông có quyền quyết định những cực hình đó sẽ tác động đến ông như thế nào.
    Giữa những cực hình hạ thấp nhân phẩm nhất mà Frankl đã phải chịu đựng(tác nhân-stimulus) và phản ứng của Frankl lại với tác nhân đó (response), Frankl đã áp dụng phẩm chất quý giá nhất của con người và tìm được khoảng trống của tự do, đó là quyền được lựa chọn phản ứng.
    Như vậy ta có lược đồ: Tác nhân => Quyền lựa chọn => Phản ứng
    thay vì: Tác nhân => Phản ứng
    Chính vì bạn có quyền lựa chọn trong mọi trường hợp, bạn là người chịu trách nhiệm cao nhất về cuộc đời của chính mình. Chữ trách nhiệm trong tiếng Anh là từ ghép: responsibility= response + ability, điều này giải thích trách nhiệm là khả năng đáp lại với tác nhân. Paradigm nhìn nhận hành vi của con người theo cách này chính là Proactive. Nếu bạn hiểu paradigm này và luôn luôn thực hiện lựa chọn của chính bạn trong cuộc sống của mình, bạn là người Proactive.
    Ngược lại của Proactive là Reactive. Reactive là paradigm của những người phản ứng lại với tác nhân một cách automatic, không có ý thức, không có lựa chọn. Người reactive thấy cảnh buồn thì người cũng buồn, không tự chủ được; khi được đối xử tử tế thì vui vẻ, hạnh phúc, khi bị đối xử tệ thì buồn chán. Tóm lại, người reactive mất quyền điều khiển cuộc đời mình, để mặc cho cảm giác, hoàn cảnh, điều kiện và môi trường điều khiển mình. Nhiều người vì bị tàn tật, tù đày, bị bệnh nan y thì tự nhiên nhận ra cái quyền lựa chọn của mình. Có người từ khi nhận được tin mình bị ung thư và chỉ còn sống thêm được vài năm nữa, thì tự nhiên thay đổi, họ không đổ lỗi cho căn bệnh hiểm ác, mà họ chọn cách sống để không phí hoài những ngày quý báu cuối cùng của cuộc đời. Chúng ta là những người bình thường, chúng ta không cần phải đi vào tù hay đợi đến khi bị tai nạn thì mới hiểu được cái quyền lựa chọn của mình.
    Hãy tưởng tượng cuộc đời bạn là một vở kịch mà bạn thủ vai chính. Nếu bạn là người reactive, kịch bản bạn đóng do bố mẹ bạn, ông hàng xóm, thằng bạn cùng trường, người yêu cũ, vv... ,tập thể tác giả cùng sáng tác. Nếu bạn là người proactive, bạn chính là tác giả kịch bản cuộc đời của bạn.
    Được thanh hang sửa chữa / chuyển vào 09:56 ngày 14/08/2004
  9. lwt

    lwt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/02/2004
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    :D Nhìn qua là thấy 5 người! Phát sinh hay ko có chúa mới biết được. Àh ko! Chúa lúc này đang còn nhỏ, thế thì phải sờ cái lão già ấy mới biết được!
    (Mới sử lại!)
    Được lwt sửa chữa / chuyển vào 21:23 ngày 14/08/2004
  10. thanh_hang_new

    thanh_hang_new Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/03/2002
    Bài viết:
    1.134
    Đã được thích:
    0
    ...tiếp...
    Khi đã hiểu khái niệm Proactive và áp dụng những lời khuyên của Seven Habits, bạn sẽ dần dần trở nên càng ngày càng Proactive hơn. Vậy làm thế nào để đo mức độ Proactive của mình.
    Cách làm là nhìn vào cách sử dụng thời gian và năng lượng của mình. Mỗi người chúng ta đều có hàng loạt những vấn đề mà chúng ta quan tâm đến, nào là sức khỏe, con cái, công việc ở cơ quan, có người còn quan tâm đến cả chuyện chiến tranh ở quốc gia khác nữa. Hãy xếp tất cả những mối quan tâm đó vào trong một vòng tròn để tiện theo dõi, vòng tròn đó Covey gọi là Vùng quan tâm (Circle of Concern). Nhìn kỹ vào trong Vùng quan tâm này ta sẽ thấy chỉ có một số việc mà ta thực sự có ảnh hưởng đến được, ngoài ra có nhiều việc khác ta quan tâm nhưng không thể có tác động gì được. Nếu đặt những việc mà ta có ảnh hưởng này trong một vòng tròn gọi là Vùng ảnh hưởng (Circle of Influence) thì vòng tròn này thường bé hơn, nằm gọn lỏn trong Vùng quan tâm.
    Nếu bạn tập trung càng nhiều năng lượng và thời gian của bạn trong Vùng ảnh hưởng, mức độ Proactive của bạn càng cao.
    Một quy luật thú vị mà Covey nêu lên là nếu bạn hoạt động nhiều trong Vùng ảnh hưởng thì nó sẽ dần dần được mở rộng ra, lấn dần vào Vùng quan tâm. Ngược lại, nếu bạn đặt càng nhiều năng lượng và thời gian ra ngoài Vùng ảnh hưởng (ví dụ: trách móc lỗi lầm và nhược điểm của người khác, đổ lỗi cho điều kiện hoàn cảnh khó khăn) thì Vùng ảnh hưởng sẽ bị co lại. Lý do là năng lượng và thời gian là đại lượng có hạn, khi ta tiêu phí ra ngoài phạm vi ảnh hưởng, kết quả là bằng không, năng lượng bị tiêu tốn, Vùng ảnh hưởng bị bỏ trống, lãng quên dĩ nhiên sẽ teo lại dần dần.
    Hầu hết mọi người có Vùng ảnh hưởng bé hơn Vùng quan tâm trừ trường hợp đặc biệt một số người giàu có hoặc có quyền lực vượt bực, Vùng ảnh hưởng của họ đặc biệt lớn. Nếu họ là người Proactive thì Vùng quan tâm của họ ít nhất cũng phải lớn bằng Vùng ảnh hưởng, để đảm bảo không lãng phĩ năng lượng của Vùng ảnh hưởng. Nếu Vùng ảnh hưởng lớn hơn Vùng quan tâm, họ là một dạng người Reactive đặc biệt với cá tính ích kỷ.
    Trước khi bắt đầu việc tập trung thời gian và năng lực trong Vùng ảnh hưởng của mình, ta cần phải nhận thức được giới hạn của Proactive. Mặc dù bạn luôn có quyền lựa chọn hành vi của mình, bạn không thể lựa chọn được hậu quả của hành vi đó. Kết quả của hành vi do luật của tự nhiên điều khiển, luật của tự nhiên nằm ngoài Vùng ảnh hưởng của chúng ta. Một thương gia có thể chọn cách làm ăn không trung thực, hậu quả xã hội trước mắt của hành vi đó có thể là một doanh nghiệp làm ăn có nhiều lãi. Thế nhưng hậu quả tự nhiên đối với cá tính của thương gia đó thì ngược lại. Mối quan hệ giữa hành vi với cá tính và số phận của con người tuân theo luật của tự nhiên, dù ta có biết luật đó hay không. Ta chỉ có thể sửa mình theo quy luật, không thể bẻ cong quy luật cho vừa với ta. Khi thực hiện một hành vi, ta đã nhặt lấy một đầu của cây gậy, ở phía đầu bên kia là hậu quả, không thể chỉ nhặt lên một đầu của cây gậy được.
    Trong cuộc sống không khỏi có những lúc ta lựa chọn sai lầm với những hậu quả không mong muốn. Trong nhiều trường hợp ta không thể đảo ngược được tình thế (undo), không thể điều khiển được hậu quả. Sai lầm nằm ngoài Vùng ảnh hưởng của chúng ta. Người proactive cần phải hiểu sai lầm, thừa nhận nó, sửa lỗi và học từ sai lầm của mình. Bằng cách này sai lầm của hôm nay sẽ gieo mầm cho thành công của ngày mai. Như T. J. Watson, người sáng lập ra hãng IBM đã nói "mistake is on the far side of failure" Tâm điểm của Vùng ảnh hưởng
    Ở chính giữa Vùng ảnh hưởng chính là khả năng hứa và giữ lời hứa của mỗi người. Khả năng hứa và giữ lời hứa là bằng chứng xác thực nhất của tính chất Proactivity của mỗi người.
    Bằng chứng này có ý nghĩa với chính bản thân bạn nhiều hơn với người khác. Mỗi lần bạn giữ được lời hứa, dù là lời hứa với chính mình mà không ai biết cả, bạn có thêm lòng tự tin vào nghị lực của chính mình. Có khi đó chỉ là một việc rất nhỏ, nhưng không phải vì việc nhỏ mà bị lãng quên, bởi vì ý thức của bạn luôn mở to cặp mắt theo dõi. Nếu bạn kiên nhẫn giữ được lời hứa với chính mình, chỉ sau một thời gian bạn sẽ thấy lòng tự tin, khả năng tự chủ của bạn tăng lên trông thấy. Giống hệt như bạn có một tài khoản tự trọng ở ngân hàng vậy, mỗi lần bạn giữ được lời hứa, bạn sẽ có thêm một khoản tiền gửi quý báu. Một ngày kia khi bạn là một người giàu lòng tự trọng, bạn sẽ làm được những việc lớn hơn, xoay chuyển cả cuộc đời của bạn và tất cả những người trong đó.
    Đừng thất hứa, đó là những khoản chi làm thất thoát tài khoản tự trọng vì mỗi lần điều đó xảy ra ý thức của bạn tự thấy giảm mức độ tôn trọng chính bạn đi. Hoạt động của tài khoản tự trọng này rất nghiêm khắc, không có lối tắt, không có cách nào không phải cố gắng mà lại có kết quả. Thành công không đến dễ dàng. Mỗi người phải lao động thực sự, phải chiến thắng được sự yếu đuối của chính mình, để trở nên lớn hơn.

Chia sẻ trang này