1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quá trình hình thành quốc hiệu Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Ledung18, 08/04/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Quá trình hình thành quốc hiệu Việt Nam

    Quá trình hình thành quốc hiệu Việt Nam

    Trương Thái Du

    Trước và trong thời Hai Bà Trưng, tiên tổ của người Việt Nam hôm nay gọi đất nước mình là gì? Đó là một câu hỏi khó. Tuy vậy, tôi cũng tạm nêu ra từ ?oÂu Lạc?, trong đó Âu là Đất, Lạc là Nước. Từ ghép ?oÂu Lạc? mang nghĩa là đất nước hay xứ sở [1]. So sánh hơi khập khiễng thì tổ chức xã hội Âu Lạc khi ấy không khác mấy vùng đồng bào thiểu số Tây Nguyên cách đây trên dưới 100 năm. Nếu người Pháp từng kí âm ?oĐạ Lạch? thành Đà Lạt (nghĩa gốc là nước của người Lạch, xứ sở của người Lạch) thì người Hán cũng đã kí âm ?oĐất nước? thành ?oÂu Lạc?. Chúng ta chỉ hình dung được: dường như Âu Lạc - Đất Nước có qui mô lớn hơn Đà Lạt - Nước Lạch.

    Từ Âu Lạc xuất hiện lần đầu tiên trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Song nó hàm nghĩa rất rộng, đó là một khu vực bao la gồm Quảng Tây, Quảng Đông và miền bắc Việt Nam ngày nay. Vương quốc Âu Lạc nửa hư nửa thực gắn với An Dương Vương hầu như chỉ là sự ghép nối vụng về các mảnh sử liệu rời rạc có sau Sử kí.

    Trên một góc nhìn nào đấy thì nước Nam Việt của Triệu Đà cũng có thể mang tên bản địa là Âu Lạc. Sử kí viết về nước Nam Việt, nhưng luôn nêu rõ dân là dân Việt, tuồng như trong thông nghĩa Bách Việt (hàng trăm / nhiều tộc Việt khác nhau phía nam Trường Giang).

    Vậy chủ nhân của mảnh đất Việt Nam hôm nay có phải người Việt không, hay Việt chỉ là một từ ngoại lai mà lịch sử trót dùng.

    1. Nước Việt thời Xuân Thu ?" Chiến quốc.

    Theo Việt vương Câu Tiễn thế gia (Sử kí thiên 41 [2]): Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ vua Hạ Vũ. Con thứ vua Thiếu Khang đời Hạ được phong đất Cối Kê để thờ cúng vua Hạ Vũ. Họ khai hoang lập ấp, cắt tóc xâm mình, trải qua hai mươi đời thì đến Doãn Thường. Doãn Thường đánh nhau với vua ngô là Hạp Lư. Doãn Thường chết, Câu Tiễn được lập làm Việt vương.
    Các chú giải của đoạn Sử kí trên:

    1. Sách Chính Nghĩa, trích lại từ Ngô Việt xuân thu (viết vào năm 232 đến 300): Vua Hạ Vũ đi khắp thiên hạ, đến Đại Việt, lên Mao Sơn họp quần thần bốn phương phong thưởng, rồi mất và được an táng tại đó. Đến thời Thiếu Khang, vua sợ không ai tế tự tôn miếu, bèn phong con thứ là Ư Việt hiệu Vô Dư đất ấy.
    2. Sách Cối Kê kí viết rằng: Con thứ của vua Thiếu Khang hiệu là Ư Việt, do đó tên nước Ư Việt xuất phát từ tên hiệu ấy.
    3. Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt.
    4. Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại.
    5. Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác vòng lễ nghĩa Hoa Hạ.

    Sau khi Câu Tiễn diệt Ngô, quân Việt vượt sông Hoài cùng các nước Tề và Tấn hội ở Từ Châu, cung tiến vật phẩm cho triều Chu. Chu Nguyên Vương phong Câu Tiễn là Bá, trông coi các chư hầu vùng Giang Nam.

    Đến đời Việt vương Vô Cương, Sở Uy Vương diệt nước Việt. Con cháu Câu Tiễn cũng như giới quí tộc Việt lưu lạc khắp miền Giang Nam, xưng tiểu vương hoặc quân trưởng và thần phục vua Sở.

    Đến Tần mạt, hai quân trưởng vùng đất Mân là Dao và Vô Chư giúp Hán cao tổ đánh quân Tần. Năm 202 TCN Vô Chư được phong Mân Việt Vương cai quản vùng phía nam đất Mân (Quận Mân Trung thời Tần). Năm 192 TCN Dao lại được nhà Hán phong làm Đông Âu vương, cai quản vùng phía bắc đất Mân, ở lưu vực sông Âu.

    Trong Sử Kí của Tư Mã Thiên, Ư Việt (-S) còn được viết là Vu Việt (ZS ?" Hóa thực liệt truyện SK 129). Sách Thuyết văn giải tự : Vu = Ư dã (là Ư vậy).

    2. Dân Âu Việt là ai?

    Cũng Sử Kí (Triệu Thế gia SK 43 [3]) ghi nhận: 夫翦'-?身O"T?,左衽, "S?Yz"?聲 / Tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh (Cái bồn nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu). Chữ Âu "O ghép bởi chữ Khu ? (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa " là ngói, đồ gốm.

    Xin đề nghị một liên tưởng dân dã:

    U = nhô lên = đồi, núi ~ vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) = rú (âm Việt cổ chỉ núi, trong từ rừng rú).
    Vú em = dưỡng mẫu
    U = mẹ
    Bu = mẹ già
    Khu (đất) ~ u = mẹ.
    Khu = vực = đất

    Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu. Ta có thể có mối tương quan giữa các âm như sau: Ư = Vu = Khu = Âu = U = Bu = Mẹ = Đất = Rú (Núi = Non).

    Như vậy, hoàn toàn tồn tại khả năng người Trung Quốc đã dùng Hán tự để kí âm phương ngữ vùng Giang Nam để nói về nước Ư Việt thời Xuân Thu ?" Chiến quốc. Từ nước Việt bên giòng Trường Giang ấy mà liên hệ ngôn ngữ với nước Việt Nam hôm nay là rất khó thuyết phục, tuy nhiên đặc trưng văn hóa cắt tóc xâm mình tương đồng là không thể phủ nhận. Có chăng một cuộc di cư lớn, kéo dài hàng trăm năm của cư dân và quí tộc Ư Việt sau khi nước Việt bị nước Sở sáp nhập? Nếu hậu duệ Câu Tiễn từng được ghi nhận chạy loạn xuống Mân Việt (địa bàn tỉnh Phúc Kiến ngày nay), thì không có lí do gì không có những nhánh khác đi xa hơn như đến Quảng Đông, đảo Hải Nam, bờ biển Hợp Phố (Quảng Tây) và đồng bằng sông Hồng.

    3. Âu Lạc ?" Lạc Việt

    Khi hai dân tộc, hai nền văn hóa vì những biến động lịch sử vô tình hòa vào nhau, kết hợp làm một, nó sẽ để lại dấu tích trong ngôn ngữ. Đó sẽ là những tổ hợp từ sinh ra trên cơ sở phối hợp hai từ đồng nghĩa của hai nền văn hóa riêng biệt. Từ mới nọ tất nhiên phải đồng nghĩa với hai từ cũ. Ví dụ:

    Chó = Má = Chó má (Thái + Việt)
    Chia = Ly = Chia ly (Việt + Hán)

    Vậy phải chăng Âu Lạc chính là hợp từ sinh ra bởi Âu và Lạc. Nếu câu chuyện này thuyết phục, thì ta có thể truy ngược được nghĩa Âu.

    Tại hội nghị nghiên cứu thời kì Hùng Vương năm 1971, trong tham luận ?oThử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc?, Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã giải thích Lạc nghĩa là nước. Hai ông cũng liên hệ được Lạc với Nác (tức nước) theo phương ngữ miền trung Việt Nam. Bằng các phương pháp truy nguyên ngữ âm học, các chuyên gia ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay đã đi đến kết luận chữ Giang trong Trường Giang là Hán tự kí âm phương ngữ. Thật vậy, chữ Giang ghép bởi chữ Thủy (mang nghĩa nước, sông) và chữ Công (kí âm). Công có họ hàng với Krông, tức là dòng sông, dòng suối trong ngôn ngữ của cộng đồng người Đông Nam Á cổ và hiện vẫn tồn tại trong ngôn ngữ Tây Nguyên. Trường hợp tên gọi Mêkông [4] (tiếng Thái, tức là mẹ của các dòng sông, dòng suối) cũng vậy. Ngày nay ở Tây Nguyên nhóm từ Đạ / Đak / Krông đều chỉ nước, sông, suối.

    Theo tôi từ Lạc không đơn thuần chỉ là nước mà nó đôi khi còn được sử dụng với nghĩa Xứ Sở với các dẫn chứng liên hệ như Negeri (tiếng của người Mianagkabau ở Malaysia), Nưgar (tiếng của người Chiêm Thành).

    Như vậy, khi xâu chuỗi các nghiên cứu trên lại với nhau ta có một nhóm từ tố mang nghĩa rất giống nhau là : Đạ / Đak / Krông / Lạc / Nác / Nước / Nưgar / Negeri.

    Giả định Âu Lạc = Đất nước đến đây đã trở nên không hề hoang tưởng. Thậm chí nó có thể mở ra cách giải nghĩa một từ có liên đới là Lạc Việt: tên gọi này thể hiện sự kết hợp hai chủng tộc là bản địa (Lạc) với con dân cũ của nước Việt di cư xuống. Ở góc độ nào đó, nó là sự rút gọn của Lạc ?" Âu Việt.

    4. Nam Việt

    Mở đầu thiên Nam Việt liệt truyện (Sử kí 113 [5]) đã thấy Tư Mã Thiên dùng từ Việt với hàm í dân Việt: 秦-已并天<O.s杨S 置,z-, -海?象f, 以谪 T'OZS,"十?岁 / Tần thời dĩ tính thiên hạ, lược định Dương Việt trí Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận, dĩ trích tỉ dân, dữ Việt tạp xứ thập tam tuế. Nghĩa là: Nhà Tần, sau khi chiếm cả thiên hạ bèn lấy đất Dương Việt chia thành quận Quế Lâm, quận Nam Hải và quận Tượng, bắt những người bị tội đày xuống sống chung với người Việt, việc diễn ra đã được 13 năm. Về tổng thể, thời Tây Hán sách sử Trung Quốc đều thống nhất cho rằng chủ nhân nước Nam Việt là người Việt.

    Chữ Việt trong tiếng Hán: S. Thuyết Văn tự giải của Hứa Thận thời Đông Hán định nghĩa: 度Yz走^?聲 / Độ dã tòng tẩu việt thanh (Nghĩa là vượt qua, bộ tẩu, âm như chữ Việt là chiếc rìu đá). Một chữ Việt khác đồng âm, đồng nghĩa nhưng dị tự vẫn hay được các bản in xưa nay dùng là 粵.

    Trong ghi chép của Tư Mã Thiên, con người bản địa nước Nam Việt do Triệu Đà dựng lên là người Việt. Tuy vậy, dường như chữ Việt này được rút từ từ ghép Bách Việt, chứ không dính dáng gì đến nước Việt thời Chiến Quốc trước đó. Bách Việt không phiếm chỉ một dân tộc, một đất nước. Nó gần như là một khái niệm và mang nặng hàm nghĩa văn hóa. Phổ quát nhất và thường được lập đi lập lại là đặc trưng ?ovăn thân, đoạn phát / xăm mình, cắt tóc?. Theo Đông Việt liệt truyện (SK 114) [6] và Việt vương Câu Tiễn thế gia(SK 41) [7], vùng Mân Việt (Phúc Kiến) phía đông bắc Nam Việt là đất nước dưới quyền cai trị của hậu duệ Việt vương Câu Tiễn. Năn 202 TCN nhà Hán phong Vô Chư làm Mân Việt Vương, năm 192 TCN nhà Hán lại cắt một phần phía bắc Mân Việt phong cho quân trưởng Dao làm Việt vương (theo SK 41) hoặc Đông Âu vương (theo SK 114).

    Thật khó khăn nếu muốn giải nghĩa Triệu Đà lấy tên Nam Việt với hàm í gì. Xét theo ngữ pháp tiếng Hán ta có Nam Việt = Đất nước phía nam nước Việt. Do đó người Việt ở nước Nam Việt có lẽ là người Bách Việt hơn là người Việt đồng chủng với cư dân Mân Việt? Điều này sẽ bị mấy câu văn vần của Thái sử công ở cuối thiên SK 113 phủ nhận, khi mô tả sự kiện Mân Việt đánh nhau với Nam Việt : Âu Lạc tương công, Nam Việt động dao / (Người, xứ) Âu Lạc đánh nhau, (Nước) Nam Việt xáo động. Hơn nữa, tục cắt tóc xăm mình cũng rất thịnh hành ở nước Việt của Câu Tiễn. Có không khả năng giai cấp lãnh đạo Mân Việt là người Việt (con cháu Câu Tiễn), trong khi đại bộ phận nhân dân là người Lạc?

    5. Việt nam

    Sau khi diệt Nam Việt, có một cách đoạn nhiều trăm năm cái tên Nam Việt không được cả người Hán lẫn người Âu Lạc cũ dùng tới. Sau đây là biên niên và tên gọi Việt Nam [8] ngày nay theo dòng lịch sử:

    Hán: quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam
    Tam quốc (thuộc Ngô) trở đi : Giao Châu
    Đường : An Nam
    Tống : An Nam, như việc phong Đinh Bộ Lĩnh làm An Nam quận vương. Năm 1017 nhà Tống phong Lý Công Uẩn Nam Bình Vương. Năm 1164 nhà Tống lại dùng danh xưng An Nam Quốc Vương cho vua Lý.
    Minh: An Nam, năm 1428 Lê Lợi thay Trần Cao và được nhà Minh phong làm An Nam quốc vương, sau đến nhà Mạc được phong An Nam đô thống sứ.
    Thanh: An Nam, như đã phong cho vua Quang Trung là An Nam Quốc vương.

    Đến năm 1802, lần đầu tiên bắc triều mới chấp nhận để chữ Việt vào quốc danh để thành Việt Nam.

    Tai sao bắc triều tránh dùng chữ Việt, có những lí do sau:
    - Sợ nhầm lẫn với nước Nam Việt thời Tây Hán hoặc nước Việt thời chiến quốc.
    - Chữ Việt nhắc đến một quốc gia độc lập và tự chủ, trong khi bắc triều luôn muốn áp đặt đô hộ trực tiếp hoặc thống thuộc gián tiếp mảnh đất phương nam này như một thuộc quốc.
    - Chia để trị là một đối sách mà các nước đế quốc ưa dùng. Quá trình Hán hóa các dân tộc thiểu số ở Hoa Nam bắt buộc phải thủ tiêu thuật ngữ Bách Việt. Hán hóa chính là xâm lăng văn hóa, thôn tính văn hóa, bước tiếp theo của vũ lực quân sự.
    - Sau khi nước Việt thời chiến quốc và nước Nam Việt của Triệu Đà đã bị gộp vào Hán tộc, bắc triều gọi các nước phương nam là Nam cũng có thể xác nhận cách nhìn nhận phi Hán trong văn hóa, con người cũng như cương vực của khu vực này.

    Ngược lại với bắc triều, các phong trào giành độc lập cũng như các vương triều của cư dân Việt Nam xưa có xu hướng chuộng chữ Việt:

    Năm 544 Lý Bí tự xưng Nam Việt đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.
    Năm 549 Triệu Quang Phục xưng là Việt Vương.
    Năm 939 Ngô Quyền mở nước Đại Việt.
    Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
    Năm 1054 Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt.
    Năm 1400 Hồ Quí Ly lấy tên Đại Ngu.
    Năm 1427 Lê Lợi dùng lại tên Đại Việt.
    Năm 1802 Nguyễn Ánh lấy tên nước là Nam Việt nhưng Thanh triều đổi thành Việt Nam.
    Năm 1838 vua Minh Mạng dùng lại tên Đại Nam.
    Năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tên nước là Việt Nam.

    Trường hợp dân tộc Tráng (Choang): Không riêng gì người Việt Nam, người Tráng ở Quảng Tây cũng có một lịch sử chống bắc thuộc dai dẳng và bền bỉ. Từ thời Đường, các lãnh tụ khởi nghĩa của họ đã xưng vương và lấy những danh xưng có liên quan đến từ Việt và từ Nam như: Trung Việt Vương, Nam Hải Vương, Nam Việt Vương. Ngang thời Lý ở Việt Nam, Nùng Trí Cao xuất thân từ tỉnh Cao Bằng đã xây dựng nước Đại Lịch Quốc, sau lại đổi thành Nam Thiên Quốc với cương giới gần phủ kín hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông [9].

    Có hai khuynh hướng chủ đạo thiết lập nền độc lập ở các dân tộc phía nam Hoa Hạ:

    1. Lãnh đạo từ phương bắc xuống (hoặc hậu duệ nhiều đời của họ), hòa đồng với người phương nam, phát triển văn minh nhà nước tập quyền trên cơ sở thống nhất các bộ lạc tự trị, các vùng quyền lực bản xứ: Tổ tiên Câu Tiễn, Triệu Đà, Hậu duệ Câu Tiễn, Sĩ Nhiếp, Lý Bí, Trần Thủ Độ, Hồ Quí Ly?
    2. Người bản xứ đứng lên tự cởi ách đô hộ, xưng vương: Hai Bà Trưng, các tù trưởng người Tráng ở thời Đường, Nùng Trí Cao, Lê Lợi?

    Không kể Lê Lợi xây dựng vương triều từ nền móng chính trị sẵn có, ta thấy rõ khuynh hướng thứ nhất phổ biến hơn, thành công hơn. Trừ Hồ Quí Ly muốn ngang hàng bắc triều bằng cách đổi tên nước thành Đại Ngu (với giải thích ông là hậu duệ vua Nghiêu khai quốc Hoa Hạ), Sĩ Nhiếp tìm sự độc lập trong khuôn khổ hẹp, đa phần các lãnh tụ chọn từ Việt cho vương quốc mình. Các lí do hữu quan:

    - Phần nào đó tầng lớp lãnh đạo chính trị phương nam có huyết thống phương bắc, tác động của yếu tố này sẽ khiến họ chủ động thực nghiệm văn hóa chính trị tiến bộ trong khu vực vào quốc gia họ xây dựng trên mảnh đất phương nam.
    - Dư âm nước Việt tiểu bá phương nam của Câu Tiễn thời chiến quốc có thể là biểu trưng tinh thần, khích lệ các lãnh tụ tự tin và nỗ lực bồi đắp độc lập, tự chủ, thâu tóm quyền lực. Trong í nghĩa ấy, nước Việt mới, dân tộc Việt mới vẫn chứa nội dung phi Hán.
  2. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    - Một cách tự nhiên, từ Việt dần dần hóa thạch vào văn hóa chính trị phương nam với í nghĩa li khai, bất khuất. Nó mang tính chính thống hiển nhiên trong đối nội và đối ngoại của bất cứ chế độ nào.
    6. Kết luận
    Tóm lại, ViệtS là một từ cổ, một từ bình thường trong bể từ vựng giữa đời sống văn minh Hoa Hạ. Nó được áp vào tên nước thời chiến quốc với í nghĩa [10]:
    1. Sách Cối Kê kí cho rằng Ư Việt là tên của một hậu duệ vua Hạ Vũ, đến Cối kê lập nên nước Việt để tiện việc thờ tự Hạ Vũ (vốn mất và được chôn cất tại Đại Việt).
    2. Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt.
    3. Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại.
    4. Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác vòng lễ nghĩa Hoa Hạ.
    Vì nhiều lí do (một số đã dẫn ở trên) ngày nay Việt Nam đã trở thành tên gọi chính thống của dải đất hình chữ S bên bờ Tây Thái Bình dương. Để được như thế, hai từ Việt và Nam đã trải qua một quá trình vận động bổ xung ngữ nghĩa hàng ngàn năm, với biết bao thăng trầm của lịch sử. Một lần nữa ta thấy dấu ấn của Triệu Đà ở đây, như một người gieo mầm văn minh chính trị tiến
    bộ phương bắc vào khu vực có đất nước Việt Nam hôm nay. Nếu có thể phân biệt được con người huyết thống (sinh học) và con người văn hóa trong tổng thể con người nói chung của nhân vật lịch sử Triệu Đà, thì rõ ràng không thể gọi ông là con người văn hóa Hán tộc. Đánh đồng con người huyết thống Hán của ông với con người văn hóa, một thứ văn hóa khởi sinh bởi sự tương tác văn hóa Tiền Hán ?" Tiền Việt mà ông là nhạc trưởng, là việc làm đành tình đoạn lí.
    Tôi tin rằng, gần như đã đến lúc người Việt Nam đặt câu hỏi họ là người Việt, người Nam, người Việt Nam hay người Âu Lạc? Văn minh Việt Nam hôm nay đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ về nhận thức quá khứ, với chiều hướng dân trí và kinh tế đi lên, sáng sủa hơn bao giờ hết trong cuộc đời văn hiến đã khá dài của mình. Nó cần định hình và đồng thuận những giá trị mới của lịch sử, trên căn bản hài hòa xưa ?" nay, trước ?" sau và thấm đẫm tinh thần khoa học, trung trực. Chắc chắn quá trình vượt thoát, thực thi tinh hoa tự chủ, độc lập truyền thống trong bối cảnh chuyển biến thời cuộc khác trước rất nhiều, sẽ tiềm ẩn nhiều giải pháp hứa hẹn thú vị và lớn lao.
    Thảo Điền 3.2007
    1 Xin xem thêm cùng một tác giả: Cổ sử Việt Nam, một cách tiếp cận vấn đề ?" NXB Lao Động 2007.
    2 http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm
    3 http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_043.htm
    4 Nếu Âu là Mẹ, thì sông Âu nơi người Âu Việt sống có thể hiểu là Sông mẹ, sông lớn, tương tự Mêkong.
    5 http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_113.htm
    6 http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_114.htm
    7 http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm
    8 Theo Việt Nam niên biểu, Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim. Bản điện tử của viethoc.com.
    9 Đoạn này tham khảo Journal of Southeast Asian Studies, Vol. XVIII, No. 2, September 1987. Người Choang các dân tộc ít người, vùng biên giới Việt ?" Hoa trong triều đại nhà Tống. JEFFREY G.BARLOW. Bản dịch của Ngô Bắc.
    10 Có tham khảo Văn Minh Lạc Việt ?" Nguyễn Duy Hinh ?" NXB VHTT 2004.
  3. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    Túm lại là bài khảo luận này của bác Du muốn đặt ra vấn đề gì cụ thể nào?
    Mà bác hay thật, bên topic An Dương Vương bà con đang bàn luận sôi nổi, bác cãi không lại thì lại đi về nhà viết bài khác (cũng mù mờ chẳng khác gì các bài cũ) là nghĩa làm sao?
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Triệu Đà vốn người Hán, làm quan người Hán, làm vua một
    nước Hán, và chết làm một ma người Hán Quảng Đông.
    Nhận vơ Triệu Đà là tiền nhân Việt Nam, nếu không xấu hổ với
    người ViệtNam, thì cũng nên biết xấu hổ với mấy chục triệu
    người nói tiếng Quảng chứ?
    Hán ngày xưa đã từng có lúc chia làm 3 nước (Tam Quốc), và
    trước đó, thời Chiến Quốc, và xa hơn nữa, thời Triệu Đà, ít nhất
    cũng có 2 nước tách khỏi TQ đòi độc lập, là Nam Việt và Trường
    Sa . Ai trên thế giới này coi Nam Việt không phải là một nước Hán?
    Một nghìn năm sau khi Triệu Đà đã chết, và nước Nam Việt tiêu
    vong, mới có Hai Bà Trưng ở ViệtNam tuyên bố độc lập khỏi
    nước người Hán . Sao bạn chối bỏ Hai Bà là người dựng nước
    (theo sử sách) hay các Vua Hùng ở Phú Thọ (theo truyền thuyết)
    mà trắng trợn phủ nhận lịch sử của Triệu Đà ? Bạn hâm mộ
    Triệu Đà đến vậy, không ngại ông ta ở nơi chín suối có phần
    ngậm ngùi chăng ? Hay bạn lợi dụng xác chết của ông để tô vẽ
    cho cái tài nặn lên lịch sử của mình ?
  5. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Tôi không phải là tác giả bài trên chưa kịp hiểu hết nội dung ở trên nhưng thấy bác nói khó nghe ở mấy vấn đề thế này, lên tiếng nói vài lời vậy.
    1- Triệu Đà nguồn gốc thế nào có lẽ bác và tôi đã từng trao đổi. Theo các nguồn tin ít biết là theo truyền thuyết Triệu Đà là giòng dõi của vua Hùng. Theo sách TQ như Sử Kí là Triệu Đà ở Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, TQ =&gt; Dễ thấy là thời Chiến Quốc: Chân Định thuộc nước Triệu. Triệu Đà làm huyện lệnh Long Xuyên, quận Nam Hải, ít ra trước đó nước Triệu vẫn tồn tại cho đến năm 228 TCN, rồi bị nước Tần diệt. Vậy Triệu Đà là người nước Triệu, gọi là người Hán thì phải đợi đến Lưu Bang sau này cơ.
    2- Quận Nam Hải có huyện Long Xuyên trước là vùng man di thuộc Bách Việt như sử gia TQ gọi, Tần chiếm và lập quận huyện từ năm 214 TCN. Nhà Tần suy bại, Triệu Đà dựng nước Nam Việt ở vùng Bách Việt này là nước không phải "nước Hán". Khi Triệu Đà mất, không làm ma nước Hán, người Hán, bởi vì khi đó người ở Quảng Đông bây giờ không phải là người Hán. Thời Tam Quốc là sau thời Hán lãnh thổ khi đó đã chiếm được Nam Việt rồi không phải là thời Tần, Tây Hán nữa. Biện luận của bác nguy hiểm là thời Tam Quốc, Bắc Việt Nam thời đó là Giao Châu thuộc nước Đông Ngô đó. Nếu bác cứ theo ý này thì bác đã thừa nhận thời Hán, Đường mà Việt Nam thuộc TQ luôn cả.
    3- Tôi không thấy tác giả "nhận vơ Triệu Đà là tiền nhân Việt Nam" như bác nói. Triệu Đà được phần lớn các sử gia và các triều đại ở Việt Nam xem trọng, và xem là vua chính thống.
    4- Các tên Việt Nam, Đại Việt, Đại Nam, Đại Cồ Việt mà nay người Kinh dùng làm quốc hiệu là đúng là từ 2 tiếng Nam Việt mà thành, không sai đâu. Thời Hùng vương, An Dương theo truyền thuyết không dùng từ Việt làm quốc hiệu mà dùng Văn Lang, Âu Lạc.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 07:07 ngày 09/04/2007
  6. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    Đọc kỹ lại thấy có nhiều chỗ cần trao đổi thêm với bác Du nhưng tại thời điểm khuya khoắt này tôi chỉ muốn trao đổi với bác cái câu tôi tô vàng vì bác lại sa vào chuyện chứng minh dân VN hiện nay CÓ THỂ CÓ nguồn gốc từ cái nước Việt của Câu Tiễn:
    - Không có 1 bằng chứng lịch sử nào, một chứng cứ dân tộc học hay khảo cổ học nào cho thấy chỉ sau khi con cháu của Việt Câu Tiễn tời vùng đồng bằng Bắc Bộ thì ở đấy mới có Hùng Vương và nhà nước Văn Lang.
    - Về chuyện các thành phần của Bách Việt, các nhà khoa học đều xác nhận họ là "Đại đồng tiểu dị", đừng vì 1 cái "cắt tóc xâm mình" mà vơ ngay Việt Câu Tiễn vào sử VN như thế.
    - Tôi thấy nhiều người đã từng tranh luận về vấn đề này với nick @Redcrystalheart (không biết có phải của bác không) từ khá lâu, mời bác đọc lại:http://www9.ttvnol.com/forum/f_533/489251/trang-4.ttvn
  7. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Không kể quốc hiệu Văn Lang, Âu Lạc thời cổ nhất được cho là từ khi Việt Nam bắt đầu. Còn quốc hiệu Nam Việt từ thời nhà Triệu để chỉ cả vùng rộng lớn cả Quảng Đông, Quảng Tây nữa.
    Do lịch sử biến chuyển, bây giờ người Kinh ở lãnh thổ dải đất bên bờ Thái Bình Dương có hình chữ S này thôi. Kể từ khi Lí Bí dựng nước Vạn Xuân, xưng Nam Việt đế về sau, người Kinh đều có dùng chữ Việt, cho đến nay là Việt Nam. Cái tên Việt Nam hiện nay đã thấm sâu trong suy nghĩ của người Kinh rồi, khó mà thay thế cái tên nào nữa, nhưng mọi thứ đều có nguồn gốc, không mấy ai nghĩ đến ý nghĩa của từ Việt Nam, nguồn gốc khi nó đặt quốc hiệu:
    - Cái tên Việt Nam có thể đã có trước khi nhà Nguyễn đặt quốc hiệu, nhưng việc đặt quốc hiệu này là một vấn đề khác, nó có vẻ khiên cưỡng khi mà nhà Nguyễn đành chịu nhận tước phong của nhà Thanh mà thôi, không thể hiện được tính tự cường độc lập của một quốc gia có đế vương, quân trưởng hay nguyên thủ, người đứng đầu. Việt Nam ở đây là có ý nghĩa là "người/ nước Việt ở phương Nam", phía Nam ở đây là so sánh với Trung Quốc, bởi lâu nay ta vẫn biết phía Bắc là Trung Quốc, vẫn phải phụ thuộc vào vị trí của Trung Quốc khi đặt tên.
    - Cái tên Việt Nam gần như là thay đổi lại thứ tự của cái tên Nam Việt, tuy thế ý nghĩa sẽ khác nhau theo ngữ nghĩa. Nam Việt = Nước/ người ở phía Nam vùng Việt. Ở đây gọi vùng Việt làm điểm mốc so sánh, nước Nam Việt là nước ở phía Nam của vùng Việt, hàm nghĩa là một phần của vùng Việt đó. Vùng Việt là vùng man di Bách Việt mà người Trung Quốc gọi, và qua hàng ngàn năm đã sáp nhập vào Trung Quốc. Cái tên Nam Việt có lịch sử lâu đời hơn, ý nghĩa rõ ràng và ít bị phụ thuộc vào Trung Quốc và thể hiện tính tự cường nhiều hơn.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 13:21 ngày 12/04/2007
  8. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
  9. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Post trên là của một người chuyên nghiên cứu ngữ âm học. Hơi khó hiểu nhưng đã bổ xung rất rõ ràng giả định Âu = U = Mẹ với ví dụ rất sát:
    Âu sầu = U sầu.
    Vậy là đã rõ, chữ Âu trong Âu Lạc xuất phát từ nước Việt của Câu Tiễn.
    Khi hai dân tộc, hai nền văn hóa vì những biến động lịch sử vô tình hòa vào nhau, kết hợp làm một, nó sẽ để lại dấu tích trong ngôn ngữ. Đó sẽ là những tổ hợp từ sinh ra trên cơ sở phối hợp hai từ đồng nghĩa của hai nền văn hóa riêng biệt. Từ mới nọ tất nhiên phải đồng nghĩa với hai từ cũ. Ví dụ:
    Chó = Má = Chó má (Thái + Việt)
    Chia = Ly = Chia ly (Việt + Hán)
    Âu Lạc chính là hợp từ sinh ra bởi Âu và Lạc.
    Lạc là từ chỉ tổ quốc, xứ sở của người bản địa trên đất Việt Nam xưa.
    Âu cũng là từ chỉ tổ quốc, xứ sở của người Việt di cư từ phương bắc xuống.
    Sự kết hợp ấy sinh ra từ Âu Lạc.
    Tính bản địa của văn minh Việt Nam xem ra đã lung lay khá mạnh.
  10. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Theo các quan điểm khác tôi biết thì Âu Lạc là hợp bởi hai tộc Âu Việt và Lạc Việt. Thục Phán là tộc Âu Việt đã sáp nhập tộc Lạc Việt (Văn Lang) thành nước Âu Lạc. Tuy nhiên chưa ai chứng minh được rõ ràng cả.
    Về cách nghĩ mới này của bác, bác có quyền tin vào cái mình tìm ra, nhưng với mọi người thì vẫn cần có thời gian và thêm các chứng lí, chứng minh hơn nữa bác Du ạ. Đó là quy luật của các phát hiện mới, không chỉ sớm chiều mà chứng minh được đúng hết. Ít ra bác vẫn dẫn tài liệu chữ Hán ra để chứng minh, vẫn để lộ ra một khả năng đó. Hơn nữa tôi có suy nghĩ, các quốc hiệu Văn Lang, Âu Lạc có thực là các vua Hùng, An Dương có đặt như thế không nữa, đơn giản là thời sơ khai dựng nước ấy, quốc hiệu có vẻ như không quan trọng lắm.
    Người Âu Việt / Ư Việt, có phải là người U Việt không vậy? Tôi nghĩ âm Âu cũng biến thành U nên mới có từ U Việt mà tôi nghe và dùng nó để chỉ nước của Câu Tiễn thời Chiến Quốc ở miền Cối Kê.
    Về văn minh Việt Nam, nếu tính cho dải đất và con người Việt Nam hiện nay, không hẳn là hoàn toàn bản địa, có các yếu tố từ nơi khác đến, vẫn không loại trừ khả năng người U Việt vẫn chạy loạn đến. Việc dân chạy loạn từ phía bắc đến, kể từ thời Bắc thuộc là liên tiếp, không ngớt như tổ tiên Lí Bí, Hồ Quý Li... Nhưng ta nên hiểu, những người đến tị nạn hay di cư này vẫn đưa văn hóa nơi vùng đất mình sinh sống đến, không hẳn đều là của Hán tộc. Nếu người U Việt di cư, tị nạn đến thì họ không phải là người Hán rồi.

Chia sẻ trang này