1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quân Đại Việt viễn chinh???

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi lorela, 11/06/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Chào bác Evil Metal, chào em poison-ivy, lâu rồi mới thấy bác với em lại nhà. Poison-ivy lại chủ quan rồi, mấy cái này mà Ph.D viết thì bỉ báng quá, viết thế này thì làm sao mà Ph.D. được. Nhưng mà poison-ivy viết cơ bản là chính xác, muốn như người Khmer thì có mà chia lại thế giới, bọn đế quốc Mỹ + Canada đi hết xuống biển, cho người da đỏ làm cỏ New York chăn bò, bọn Nga ngu ngốc dám từ bỏ thiên đường chủ nghĩa xã hội, cho về công quốc Moscouvite hết, để Siberia lại cho người Ionut, dân Úc liệu liệu mà cuốn gói về Anh, bọn nó mới đến Úc được có hai trăm năm, làm gì có quyền gì so với người Aborigines, còn kém xa người Khmer dũng cảm tiêu diệt bọn Funam uỷ mị từ thế kỷ thứ 7, thứ 8, khai thác đồng bằng SCL tới TK 17 mới nhượng lại cho mấy bác Việt nam làm ăn hiệu quả hơn.
    chỉ có đoạn Indo + Thái rét VN thì tự hào dân tộc hơi cao.
    Cái bài về trống đồng, có trong website này, phân tích + dẫn chứng khá công bằng, cộng thêm nhiều ảnh tư liệu + bình luận về motif, hình vẽ trang trí trống.
    http://www.vietnamjournal.org/
    Có một bác Ph.D. viết sử, có điểu bác này thì có tiếng lắm, Tiến sỹ Po. Dharma, gốc Champa, quốc tịch Pháp, thành viên trường Viễn Đông Bác Cổ, hiện làm cố vấn cho Sứ quán Pháp tại Malay để giúp đỡ cộng đồng Chàm chạy tị nạn chiến tranh VN + Campuchia. Bài viết của các ông này đập những chổ sử VN mình viết không chính xác về Champa, nhưng đọc rất thú vị. Website của nó là http://www.chamyouth.com/his/research.html trong đó có rất nhiều khía cạnh hấp dẫn về lịch sử, địa lý, văn hoá Champa
  2. poison-ivy

    poison-ivy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/03/2002
    Bài viết:
    81
    Đã được thích:
    0
    By Bunroeun Thach, Ph.D. (International Relations/Political Science)
    ------------------------------------------------------
    ơ thì em thấy chữ Ph.D đàng hoàng mà lại còn international relations /political science nữa chứ .
    chuyện tension giữa VN và các nước trong ASEAN trước kia là do hồi em làm research về lợi/hại (chủ yếu là kinh tế, rồi chính trị quân sự ngoại giao ...) của việc VN joined ASEAN đối với các nước ĐNA nói chung và VN nói riêng em mới dám nói thế đấy chứ
  3. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    to bác poison-ivy :
    Em chẳng hiểu thế nào mà bác bảo Champa đã hơn một lần thiêu trụi Thăng Long. Quả thực em chưa nghe và chưa nghĩ đến được đến điều này bao giờ.
    Hồi các cụ ta xưa, em có nghe, sau khi Lào (hồi đó còn gọi là Ai lao) bị cuộc chiến với Xiêm, kiệt quệ và phải "tự nguyện"(điều này chính xác đấy ạ) sát nhập vào ta (hình như là vào thời nhà Nguyễn thì phải). Các cụ cũng đã có ý định đánh sang Xiêm nhưng lại lo quân đội xa nhà lâu, không chắc thắng dễ sinh bất ổn trong nước nên thôi. Chứ từ thời xưa đến bây giờ, quân đội việt nam là vô địch ASEAN.
    Ai chẳng muốn dân tộc mình có một lịch sử hào hùng và sạch sẽ. Cứ nhìn Korea ấy, tự nhận mình là dân tộc áo trắng, chưa từng đem quân đi xâm lược ai. Thế mà ....các bác đã thấy "thành quả" của Quân đọi Park chung hi chưa? Không gì có thể diễn tả nổi.
    Em nói có gì không phải, các bác góp ý cho em với nhé.

    --->love<---
    [/size=8]
  4. homosapiens

    homosapiens Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/12/2001
    Bài viết:
    156
    Đã được thích:
    0
    Chú voquoctuan không biết gì. Bọn Chiêm Thành lúc nào mạnh lên đều đánh ta thùi thụi ấy chứ. Năm 1389 Chế Bồng Nga đánh lên, quân ta thua tan tác, thượng hoàng Trần Nghệ Tông sợ vãi, sau Trần Khát Chân may mắn bắn đại bác trúng thuyền của Chế Bồng Nga khiến hắn chết tươi nên quân địch mới tan. Nếu không giờ này anh em thành những thằng họ Chế đang bi bô bằng tiếng Chiêm Thành hết rồi.
  5. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Hì hì, không đến nỗi thế đâu. Người Chiêm đánh Đại Việt, chỉ cướp phá rồi rút về nước, hơi sức đâu mà chiếm giữ và đồng hoá vì so với Đại Việt thì dân số Chiêm ít hơn nhiều. Chế Bồng Nga là một hiện tượng quật khởi của người Chiêm, chỉ nổi lên được trong vài chục năm, còn thì trong lịch sử quan hệ Việt-Chiêm thì Chiêm luôn luôn ở thế yếu, phu thuộc phải cống nạp, và nhiều lần bị Đại Việt đánh chiếm kinh thành. Ngay cả thời Chế Bồng Nga tuy ba lần đánh đến Thăng Long, từng giết chết vua Trần Duệ Tông, đánh bại 10 vạn quân Đại Việt, nhưng cũng chỉ là nỗ lực quật khởi cuối cùng của một dân tộc đang trên đà đi xuống, dồn tất cả lực lượng lại vào canh bạc cuối cùng theo kiểu "con giun xéo lắm cũng phải quằn". Hơn nữa nhà Trần lúc này cực kỳ thối nát và suy yếu, đến một ông sư nổi loạn đưọc vài tháng cũng còn chiếm được thành Thăng Long nữa là. Đến khi Chế Bồng Nga chết thì nước Chiêm Thành coi như vĩnh viễn không thể hồi phục được vì nguyên khí bị tổn thương quá nặng nề trong cuộc chiến chống lại một đối thủ vốn có sức lực dồi dào hơn.
    Thời nhà Nguyễn, đa số đất đai của Lào ngày nay phụ thuộc Việt Nam. So sánh bản đồ thời nhà Nguyễn với bản đồ ngày nay thì hình thể của Việt Nam thời đó không "thắt đáy lưng ong" như bây giờ. Việt và Xiêm tranh giành quyền bảo hộ Camphuchia, về sau nước này đành chịu cảnh một cổ hai tròng, chịu sự đồng bảo hộ của cả Việt và Xiêm. Cũng khổ cho họ vì hễ theo Việt thì bị Xiêm đánh mà nếu theo Xiêm thì Việt lại rục rịch đưa quân sang.

    nghe rơi bao lá vàng
    ngập giòng nước sông Seine
    mưa rơi trên phím đàn
    chừng nào cho tôi quên
  6. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Hê hê, bác VNHL nói vậy mới đáng mặt là người lớn chứ. Ai như bác homosapiens, coi thường người khác quá, bác đừng mang cái hiểu biết của bác ra doạ em. Coi thường nhau quá đó. Chuyện em không biết Chiêm thành đánh đến Thăng long thì là do em con nông cạn, chưa biết nhiều. Bác nói thế em ... khó chịu quá. Em nói có gì không phải mong bác thông cảm nhé, đang bực mình, lại đọc được bài của bác......Hừm.

    --->love<---
    [/size=8]
  7. yuyu

    yuyu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/06/2002
    Bài viết:
    969
    Đã được thích:
    2
    Trong lịch sử , Chiêm Thành tấn công Đại Việt nhiều hơn, nhưng cuối cùng nước Chiêm bị diệt vong vì một sai lầm chiến lược : Trong khi người dân Việt bám trụ ở lại mỗi khi bị ngoại xâm chiếm đóng thì dân Chiêm đều bỏ đất chạy " di tản " hết khi quan Việt đến nơi, chính vì thế Việt Nam tiến chậm nhưng chắc trong quá trình thôn tính nước Chiêm . Đánh đến đâu là ăn chắc ở đấy. không những thế , những người Chiêm còn sót lại không chạy kịp đều bị quân Việt mang tập trung ra miền Bắc để tránh làm nội ứng cho lực lượng kháng chiến phục quốc Champa. Ở vùng ngoại thành Hà Nội ngày nay có nhiều địa danh mang chữ Sở như Ngã Tư Sở, Kẻ Sở v.v...tương truyền ngày xưa là nơi tập trung người Chiêm bại trận theo cách của người Hán gọi dân khinh miệt những giống dân ngoài Trung Nguyên là dân Sở.
    Tuy nhiên phải nói trình độ văn minh của dân Chiêm khác cao , ít nhất là cao hơn Đại Việt vì nguwòi Chiêm có chữ viết riêng và riêng kiến trúc và điêu khắc thì hơn hẳn người Việt .< Thời Lý , Trần, điêu khắc Việt Nam đã ảnh hưởng và học tập điêu khắc Chiêm khá nhiều , nếu không muốn nói nhiều tác phẩm điêu khắc , kiến trúc Phật giáo bằng đá nổi tiếng thời kỳ này như tượng Phật Thích Ca chùa Phật Tích hoặc chùa Bút Tháp Hà Bắc có thể là do các nhà điêu khắc ( tù binh ) Chiêm thực hiện .
  8. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Ở vùng ngoại thành Hà Nội ngày nay có nhiều địa danh mang chữ Sở như Ngã Tư Sở, Kẻ Sở v.v...tương truyền ngày xưa là nơi tập trung người Chiêm bại trận theo cách của người Hán gọi dân khinh miệt những giống dân ngoài Trung Nguyên là dân Sở.
    [/quote]
    Tớ tưởng người Hán gọi các giống dân ngoài Trung Nguyên một cách khinh miệt là Di, Địch, Khương, Nhung, Hồ chứ nước Sở có từ thời đầu nhà Chu, cũng là đất phong của nhà Chu. Đến đời Chiến Quốc, Sở đã được xem như là đất của người Hán rồi, làm sao lại có chuyện gọi khinh miệt dân ngoài Trung Nguyên là Sở được. Hạng Vũ tự xưng là Tây Sở Bá Vương, hoá ra là tự nhận mình là giống man di ư.
    Tớ cũng không biết là người Việt gọi dân Chiêm một cách khinh miệt là Sở. Bác yuyu có thể nói rõ hơn về điểm này không?

    nghe rơi bao lá vàng
    ngập giòng nước sông Seine
    mưa rơi trên phím đàn
    chừng nào cho tôi quên
  9. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Tớ cũng chưa bao giờ nghe đến việc gọi người Chiêm là Sở cả, còn việc người Chiêm di tản, người Việt bám trụ chỉ là suy đoán. Hiện các bác người xứ Quảng đang suy luận khá logic là người Việt miền Trung, Nam có hơn 1/2 máu là Chiêm, tớ post bài này lên để các bác đọc, chứ không nói gì cũng độc một câu, chẳng có lập luận cụ thể gì thì khó mà hết câi nhau được
    =================================================
    Nam tiến ở vùng Quảng Nam
    HỒ TRUNG TÚ
    LTS: Ðây là bài Viết của Tác giả HỒ TRUNG TÚ về lịch sử hình thành các Dòng Họ QUẢNG NAM. Bài viết rất công phu và có sự nghiên cứu tỉ mỉ (đúng hay sai trong lập luận nầy, cần phải có thêm các nghiên cứu khác hoặc bổ túc của các nhà Sử Học). Ðây là một Ðặc San Quảng Nam, những gì liên quan tới Xứ Quảng của chúng tôi, mà chúng tôi tìm thấy được là chúng tôi đưa lên để bà con chúng tôi đọc để biết về cội nguồn của mình. Cám ơn anh chị Ðỗ Xuân Quang (Georgia) đã cung cấp cho chúng tôi tài liệu nầy.
    Sau bài "Trăm năm Mỹ sơn, nhìn lại" chúng tôi nhận được có nhiều ý kiến từ ủng hộ cho đến phản ứng gay gắt, cảm thấy như bị xúc phạm khi nói rằng người xứ Ðàng Trong có ít nhất 50% huyết thống về dân tộc Chàm. Mọi chuyện tất nhiên không thể giải quyết bằng một bài báo, nó cần thời gian với sự công phu không thể của một người. Ở đây xin được trao đổi những điều cần phải nói thêm cho rõ.
    Có một thực tế diễn ra dưới thời các vua Nguyễn là: Sau những năm dài chiến tranh, loạn lạc (200 năm phân tranh Trịnh-Nguyễn rồi cuộc nỗi dậy của nhà Tây Sơn, chiến tranh giữa chúa Nguyễn với Tây Sơn, Tây Sơn với những cuộc bắc tiến và với nhà Thanh), làng xóm trở lại cảnh thanh bình. Những lễ tục được phục hồi, các dòng họ cũng bắt đầu chú ý đến gốc gác, phổ hệ. Một phong trào viết gia phả nỗi lên khắp nơi, phát sinh môt sự tranh dành tộc to, họ lớn; tranh nhau tiền hiền khai canh, lập ấp. Ai cũng muốn mình là người đầu tiên đặt chân lên mảnh đất làng nầy từ 1471 nên số đông các gia phả Quảng Nam đều ghi: Ngài (Họ) Quý Công đã theo vua Lê Thánh Tông bình Chiêm năm Hồng Ðức nhị niên định cư ở lại làng...từ thời đó. Nhưng số thứ tự các đời thì thường là điều không thể tùy tiện mà dựng nên được. Chính vì thế các gia phả nầy để lộ ra những mâu thuẩn khó có thể trả lời. Sau những thống kê các gia phả học đều thống nhất ở Việt Nam ta mỗi thế hệ trung bình là 23,5 năm (Phương Tây là 25 năm). Vì vậy cứ nhân số thứ tự của đời hiện nay với 23,5 năm, ta có thể tạm biết vị đệ nhất thế tổ ấy đến Quảng Nam vào năm nào. Ví dụ như gia phả họ Huỳnh (Hoàng) làng Xuân Ðài (Ðiện Bàn Quảng Nam) ghi rằng:" Niên hiệu Hồng Ðức năm thứ 30 (thực ra là Hồng Ðức nhị niên) đánh lấy Chiêm Thành mới đặt ra Quảng Nam đạo thừa tuyên và ông Thỉ tổ của chúng ta (người tỉnh Hải Dương) di cư vào Nam từ thuở đó...lập nên cơ nghiệp lưu hạ đến nay đã hơn 10 đời." Gia phả này viết năm Tự Ðức 34, tức 1881, lui về trước 10 đời tức là 235 năm, vậy ông Thỉ tổ dòng họ này vào Quảng nam khoảng năm 1646, cách Lê Thánh Tông bình Chiêm đến 175 năm, tức hơn 7 thế hệ! Rõ ràng họ Huỳnh làng Xuân Ðài khó có thể phản đối lập luận này. Con số 1646 của họ Huỳnh cũng là một con số khá lý thú và chúng ta sẽ trở lại con số này một lần nữa sau này.
    Trước nay chúng ta thường nghĩ rằng lịch sử Nam tiến của người Việt nam trải dài suốt từ thời nhà Lý đến các vua Nguyễn; các năm 1306, 1471 chỉ là những cột mốc đánh dấu cái dòng chảy rất đều, không ngừng nghỉ của các đoàn người Nam tiến. Thực ra nếu nhìn kỹ vào từng giai đoạn ta sẽ thấy cái dòng chảy ấy không đều như ta nghĩ. Nó có những lúc dữ dội để chiếm hữu, lúc lắng lại để định hình, lúc thì nếp ăn nếp ở ngôn ngữ phong tục thiên về Chàm, lúc thì chuyển hẳn sang Việt. Ở đây chúng tôi thử đưa ra một cách phân kỳ để thử xác định mỗi giai đoạn có gì khác nhau. Dĩ nhiên sẽ có người không đồng ý, có cách phân kỳ khác, nhưng như thế cũng không hẳn là nó không cần thiết để thử một lần.
    1/. Trước 1306 những ấn tượng về nhau.
    Trước 1306, khi địa giới còn ở ngoài đèo Ngang, thì người Việt cũng đã nhiều lần đặt chân lên vùng đất phiá Nam Hải Vân này.
    Trước thế kỷ 10 kinh đô Chiêm Thành là vùng Trà Kiệu, thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam hiện nay. Giai đoạn này về trước Chiêm Thành là một quốc gia hùng mạnh, họ nhiều lần đánh ra bắc đèo Ngang, lúc này thuộc nhà Ðường, và dĩ nhiên bắt rất nhiều tù binh người Việt mang về. Ít nhiều những tù binh này tạo được một cái nhìn quen thuộc cho những cư dân Chiêm vùng kinh thành và điều này sẽ khiến người lao động Chiêm Thành, tức những dân quê ít học, ít quan tâm đến chính trị không cảm thấy quá sợ hãi khi những đại quân Việt kéo đến sau này. Thậm chí ngay từ đầu những năm lập quốc của quốc gia Chiêm Thành, một người Giao Châu (Việt?) là Phạm Văn đã làm vua xứ này và tạo thành một vương triều thứ hai kéo dài gần 100 năm. Phạm Văn vốn người Giao Châu (lúc này thuộc Ðường) có cơ hội sang Trung Quốc học hỏi nên lúc về Lâm Ấp đã giúp vua Lâm Ấp là Phạm Dật xây dựng cung điện, làm thành trì và khi Phạm Dật chết thì Phạm Văn tự xưng lên làm vua Chiêm Thành. Quả thực trong mắt của người Việt thì người Chiêm xa lạ, khó hiểu hơn nhiều so với người Chiêm nhìn người Việt. Ðiều này cũng dễ hiểu bởi bản sắc văn hoá của hai dân tộc, trong khi người Chăm vùng Quảng Nam nay quá đậm nét văn hoá Ấn Ðo với những vị thần khó hiểu thì người Việt vùng Thanh- Nghệ lúc thuộc Ðường còn khá mờ nhạt nét văn hóa Trung Hoa, đời sống tâm linh khá hiền lành, đơn giản. Chính điều này sẽ khiến người Việt sau này (sau 1401) khi vào sống cạnh người Chiêm họ sẽ không gây cho người Chiêm những khó chịu, những áp lực tâm lý đến mức không thể chung sống mà phải bỏ đi.
    Và khi Lê Ðại Hành (Lê Hoàn) lên ngôi rồi đem quân đánh Chiêm lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, năm 982 ông cũng đã đem quân vào đến kinh đô Chiêm Thành lúc này là Ðồng Dương (huyện Thanh Bình ngày nay) đóng quân ở đó một năm mới trở ra. Thậm chí một vị quan quản giáp của Lê Ðại Hành là Lưu Kế Tông đã trốn ở lại khi đại quân kéo về rồi tự xưng làm vua nước Chiêm Thành cai trị vùng đất miền bắc nước này. Sau cuộc thất bại này người Chiêm dời kinh đô vào Ðồ Bàn. Bao nhiêu binh lính người Việt cùng với Lưu Kế Tông ở lại sau sự kiện 982? Một năm đóng quân ở đất này chuyện gì xảy ra giữa hàng vạn binh lính và dân Chiêm bản xứ? Lưu Kế Tông làm vua có tạo ra một sự ưu đãi nào đó cho những người Việt Kiều?
    Năm 1020 Lý thái Tổ cử người đi đánh Chiêm Thành nhưng chỉ đến Bố Chính, Quảng Bình ngày nay. Năm 1044 Lý Thái Tông dẫn 12 vạn quân đánh thẳng vào đến sông Thu Bồn, chém đầu vua Chiêm là Sạ Ðẩu ở đây rồi dẫn đại quân về Ðồ Bàn, cho sứ đi khắp các nơi vỗ yên, phủ dụ dân chúng Chiêm Thành. Tầng lớp thượng lưu, giáo sĩ, chính trị hẳn đã bị chú ý thu gom, trừng phạt nhưng đa số dân trong các xóm làng là đối tượng của các cuộc phủ dụ này. Năm 1069 Lý Thánh Tông phạt Chiêm lần thứ hai, bắt vua Chiêm là Chế Củ giải về Thăng Long. Chế Củ phải xin dâng ba châu Bố Chính, Ðịa Lý, Ma Linh để được tha. Biên giới Ðại Việt lúc này là Quảng Bình và một phần Quảng Trị bây giờ.
    Từ đó đến 1306, tức 237 năm, không có cuộc tiến đánh nào của người Việt. Một phần do hợp tác đối phó với nhà Nguyên nên mối quan hệ Việt Chiêm khá tốt, thậm chí vua Trần Nhân tông đã vân du, một chuyến du lịch đến Chiêm Thành, lúc hữu hảo đã vui miệng , hay thực sự kính trọng vua Chiêm, hứa gả công chúa Huyền trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Vua Chiêm dâng hai châu Ô, Lý làm sính lễ. Nhiều người cho rằng hai châu này thực ra đã thuộc về Việt. 237 năm không chiến tranh (thực ra là có nhưng chỉ là những cuộc cướp bóc của những toán thổ phỉ, cướp biển mà người Chiêm thời nào cũng có, thâm chí ở biển Ðông và vịnh Thái Lan bây giờ cũng không thiếu) đủ sức, đủ thời gian để người Việt lấn dần từng bước dưới sự hổ trợ của những người Việt vào trước như đã nói. Cái sự dâng hai châu Ô, Lý của Chế Mân để lấy được một người đẹp là chuyện lịch sử nhân loại ít thấy. Tuy vậy ta vẫn có thể hiểu được hành động này qua trường hợp tương tự của Mạc Ðăng Dung khi cổ buộc dây thừng, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ quân Minh xin hàng và dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù. Thực ra theo "Ðại Việt Ðịa Dư Toàn Biên" thì 6 động ấy chưa bao giờ thuộc về Việt, năm Tuyên Ðức thứ 2 người các động ấy làm phản, về với Giao Chỉ. Nay nhà Mạclấy đất của họ mà trả cho họ, đó là một động tác chính trị và nhà Minh cũng chỉ cần cái danh ấy để không phải động binh lúc này đang rất khó khăn với quân Thanh. Chế Mân hẳn biết rằng so sánh tương quan lực lượng sẽ không bao giờ giữ được Ô, Lý nữa chi bằng làm thế để tăng mối hòa hiếu may ra giữ yên được vùng đồng bằng Quảng Ngãi trở vào trù phú hơn nhiều so với vùng Thừa Thiên, Quảng Trị.
  10. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    II/ 1306-1402 GIAI ÐOẠN TIỀN ÐỀ:
    Nhưng lịch sử không như Chế Mân nghĩ, chỉ một năm sau, vụ giải thoát công chúa Huyền Trân đã khiến người Chiêm nổi giận, họ liên tục quậy phá vùng biên giới đến mức 5 năm sau ngày cưới, vua Trần Anh Tông đã thân chinh chiếm đánh Chiêm Thành. Toàn bộ Chiêm Thành trở thành một Châu của Ðại Việt. Vua nhà Nguyên phản đối nhưng vua Trần vẫn tự cho mình có quyền tông chủ đô hộ trên đất Chiêm Thành, và cũng làm nhiệm vụ là một tông chủ thật sự: năm 1313 Tiêm La lấn cướp Chiêm Thành vua Anh Tông cử người đem binh đi ứng cứu Chiêm Thành. Nửa sau thế kỷ 14 này thì Chiêm Thành phát triển cực mạnh và họ đẩy các cuộc giao chiến ra đến tận vùng sông Mã Thanh Hóa.
    Không thể tìm thấy một sử liệu nào nói về chuyện người Việt đến ở vùng đất Quảng Nam nay,tức nam Hải Vân, trong suốt giai đoạn 100 năm này (1306-1402). Chỉ qua các mối quan hệ của chính quyền hai nước được sử ghi lại chúng ta ít nhiều nghĩ rằng giai đoạn này dầu sao cũng vẫn có các nhóm tù binh Việt đã có mặt nơi này, nhất là giai đoạn 30 năm dưới thời Chế Bồng Nga(1360-1390). Giai đoạn này nếu có những người Việt sinh sống ở đây thì chắc chắn mọi nếp sống, sinh hoạt của họ đều phải theo Chàm. Giai đoạnb này chủ yếu là sự định hình đi vào ổn định vùng Thanh Hóa, bắc Hải Vân. Sau cái chết của Chế Bồng Nga, Chiêm Thành loạn lạc. Hồ Qúy Ly đem quân tiến đánh và chúa Chiêm là Ba Ðích Lại xin dâng Chiêm Ðộng, trọn tỉnh Quảng Nam ngày nay cho Ðại Việt. Hồ Qúy Ly bắt ép phải dâng nộp cả động Cổ Lũy, trọn tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Nhà Hồ chia đất ấy thành bốn châu là Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và đặt người cai trị.
    Giai đoạn này có một số sự kiện đáng chú ý nếu muốn từ đó lần ra các mối quan hệ để có thể giải thích được ít nhiều các vấn đề thiếu cứ liệu sau này:
    1/ Người Chiêm Thành nào đi thì cho đi. Người ở lại thì bổ làm quan (Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm 1402- SKTT 1402).
    2/ Mộ người có của ở Hội An, Thuận Hóa vào khai khẩn với một chính sách rất ưu đãi nhưng vô cùng nghiêm khắc, buộc phải thích tên châu nơi đến vào cánh tay để
    xem như không còn đường rút về. Năm sau cho thuyền chở vợ con đi theo nhưng giữa đường bị bão đánh chìm. Tất cả đều chết. (SKTT 1403)
    3/ Người Chiêm Thành không có họ. Ai có họ là người Việt đến sau. (Việt sử xứ Ðàng Trong của Phan Khoang, trang 89. Chưa rõ Phan Khoang dẫn ở đâu)
    4/ Ngoại trừ một số họ Chiêm ghi theo âm Hán đọc thành Phan, Phạm, Ðặng thì Hồ Qúy Ly còn ban cho họ Ðinh với một số người Chiêm hàng phục. (SKTT 1397)
    Những sự liệu này cho thấy cái quan điểm cho rằng khi Việt đến thì ngưới Chiêm rút đi hòan toàn là không đúng. Không có chuyện chém giết đến không còn một người ở đây, thậm chí trong toàn bộ lịch sử. Ai đi thì cho đi, ai ở thì bổ làm quan. Dĩ nhiên những làng chài, làng nông nghiệp ít học là cái mà các sử quan thường cho là hạ nhân thì không bàn đến. Người Chiêm Thành không có họ, ai có họ là dân Việt mới đến sau cho thấy cái hình ảnh xã hội lúc ấy. Có nghĩa là không có vấn đề gì lớn đối với chuyện những làng Việt sống cạnh những làng Chiêm, không có mối thâm thù nào lớn giữa người Chiêm và người Việt. Thậm chí một tướng Việt là Nguyễn Rỗ cai trị người Chiêm nhưng khi nhà Hồ tan, Nguyễn Rỗ mâu thuẫn nội bộ dẫn quân và gia quyến sang Chiêm Thành, Chiêm Thành vẫn cho Rỗ làm quan to. Ðiều này nó chứng tỏ khi người Chiêm chiếm trở lại đất trước đó người Việt di dân đến họ cũng không xua đuổi những Việt Kiều này. Chiếu bình Chiêm của Lê Thánh Tông sau này có nêu lý do"đàn ông, đàn bà của ta nó bắt làm nô lệ; tù nhân , phạm nhân của ta nó hết thảy bao dung..." thì ta hiểu đó chỉ là một lý do, nhưng ngay cả trong trường hợp đó là sự thật đi nữa thì sự bao dung của Chiêm Thành đối với kẻ tù nhân, phạm nhân Ðại Việt vẫn cho ta thấy người Việt sống ở vùng này không đến nổi bị bài xích xua đuổi cho lắm.
    Sau này,sau 1471, vua Lê Thánh Tông cũng lại có một sắc chỉ về việc xét họ tên với bọn người Chiêm. Và đến một lúc những người Chiêm không có họ ấy bắt buộc phải mang một họ nào đó là Ðinh, Lê, Lý, Trần, Phan, Nguyễn... để vào sổ hộ tịch lại là một chuyện quan trọng nữa mà chúng ta cần phải bàn đến.

Chia sẻ trang này