1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quân Đại Việt viễn chinh???

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi lorela, 11/06/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    III/ 1402-1471 ÐÃ XẢY RA QUÁ TRÌNH CHĂM HÓA RỒI SAU ÐÓ MỚI VIỆT HÓA.
    Có thể nói rằng sau 1402 với những cuộc di dân rầm rộ dưới triều Hồ Hán Thương vùng Quảng Nam nay, người Việt đã đến ở và không phải bỏ chạy vì những cuộc phản công đòi đất trở lại của Chiêm Thành khi quân Minh đến hổ trợ cho Chiêm Thành lấy lại đất cũ. Chính quyền Chiêm Thành lấn ra trở lại tới vùng Thuận Hóa ( bắc Hải Vân) dưới thời thuộc Minh, dân Chiêm số người bỏ đi cũng trở lại quê hương bản quán, nhưng các di dân Việt đã vào không phải vì thế mà bỏ đi. SKTT chép "Ðến khi Chiêm Thành cất quân thu lại đất cũ dân di cư sợ chạy tan cả". Tất nhiên là như vậy rồi nhưng ngược lại, trường hợp Nguyễn Rỗ được Chiêm cho làm quan to cho phép ta hình dung tình hình không đến nổi khó khăn lắm đối với các Việt kiều, mặc dù Nguyễn Rỗ đã từng cai trị họ. Gia phả họ Hồ ở Cẩm Sa, Ðiện Nam, Ðiện Bàn là một ví dụ. Gia phả này đã chép được vị thủy tổ dòng họ này đã vào Quảng Nam từ thời đó, dưới triều Hồ Hán Thương. Con cháu đến nay cũng đã đến đời thứ 25-26. Ðây có phải là một trường hợp đặc biệt? Những cuộc điều tra là không khó và chúng tôi tin rằng đây không phải là trường hợp duy nhất.
    Suốt từ đó, 1402, cho đến 1446 thì Nam Hải vân hoàn toàn dưới sự cai trị của người Chiêm, vùng chịu nhiều cảnh binh đao là Hóa Châu, vùng Quảng Trị-Thừa Thiên ngày nay. 44 năm yên bình đối với vùng Quảng Nam. 44 năm hoàn toàn không có những di dân mới. Ðã có hai thế hệ người Việt lớn lên bên cạnh người Chiêm, những cuộc hôn nhân giữa hai dân tộc chắc chắn là nguồn mối của sự tồn tại. Những người Việt có thể phải nói tiếng Chiêm ngoài xã hội nhưng trong gia đình những con dâu, con rể người Chiêm có thể cũng phải nói tiếng Việt. Người Việt nói tiếng Chiêm không thể giống như người Chiêm và dĩ nhiên người Chiêm nói tiếng Việt cũng chẳng giống như người Việt vùng Thanh Hóa- Nghệ An. Dĩ nhiên giai đoạn này tiếng Chiêm là ngôn ngữ chính thống của vùng này. Ðến 1446 thì quân đại Việt đánh một trận lớn đến tận Chà Bàn (Quy Nhơn), bắt vua Chiêm là Bí Cai về Thăng Long. Vua Lê Nhân Tông là một ông vua nhân từ, bao nhiêu tù binh ông đều thả sau khi làm lễ cáo thắng trận ở Thái Miếu. Chính sự bao dung của Lê Nhân Tông trở thành điều quyết định cho số người Chiêm không chọn con đường di tản sau 1471 là đáng kể.
    Giai đoạn 70 năm, 1402-1471 này là một giai đoạn lý thú đối với sự tiếp biến văn hóa Chàm Việt. Nếu 44 năm đầu ở đây diễn ra quá trình Chàm hóa số người Việt đã đến dưới thời nhà Hồ thì 25 năm cuối quá trình Việt hóa diễn ra trên cơ sở hỗ trợ của những Việt kiều vào trước. Chúng tôi nghĩ rằng chính nhờ giai đoạn chuyển tiếp này đã không tạo nên một cú sốc tâm lý đối với những người Chàm ở vùng này. Xin nhắc lại là lúc ấy kinh đô đã ở tận Chà Bàn, Quy Nhơn nay, những người Chàm ở lại vùng Quảng Nam sau khi kinh đô chuyển đi xa như thế hẳn chỉ là những xóm làng chài lưới, nông nghiệp không quan tâm lắm đến chính trị. Cuộc tiến đánh sử chép khá hiền lành năm 1446 có lẽ không gây nên một cú sốc khiến họ phải tất cả cuốn gói ra đi. Ðây là một tiền đề để những di dân sau 1471 đến vùng này không phải là đến vùng đất trắng không bóng người. Ðó là những giả định nhưng quả thật khó mà hình dung mọi chuyện khác đi. Với thời gian chắc chắn rằng sẽ không khó để tìm đủ được những chứng cứ để chứng minh cho những giả định ấy. Tác giả Bình Nguyên Lộc không phải là không có cơ sở khi viết công trình "Nguồn gốc Mã Lai của người Việt". Chúng tôi nhận thấy ở đó thực sự có những bằng chứng thuyết phục, ít ra là xứ Ðàng Trong chứ không phải cả nước Việt nam như Bình Nguyên Lộc cố chứng minh. Thậm chí những cuộc hôn nhân chồng Việt vợ Chàm giai đoạn này rất phổ biến, phổ biến đến mức 1499 SKTT chép rằng: " Kể từ nay, trên từ thân vương, dưới đến dân chúng, đều không được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm vợ (chiếu dụ tháng 8 ngày 9 năm Cảnh Thống thứ 2)". Dĩ nhiên lấy đó làm bằng chứng không lấy vợ Chàm thì thật ngớ ngẩn, đó chẳng qua là vì người ta lấy vợ Chàm quá nhiều, thành phong trào từ thân vương đến dân đen, nên mới có cái chiếu dụ như thế, để cho phong tục được thuần hậu!
  2. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    IV/. 1471-1671, 200 NĂM CỦA NHỮNG LÀN SÓNG DI DÂN, NGƯỜI CHĂM Ở LẠI HAY RA ÐI?
    Ðến năm 1471, cái mốc quan trọng và dứt khoát để chấm dứt những cuộc giằng co, lấn qua lấn lại giữa Việt và Chiêm thì những cuộc di dân là không thể kiểm soát được nữa. Ngoài số sắc chỉ năm 1476 quy định "tội nhân bị tội lưu đày ở châu gần thì sung làm quân vệ Thăng Hoa, ở châu ngoài thì sung làm quân vệ Tư Nghĩa, những kẻ được tha tội chết thì sung quân vệ Hoài Nhân", chúng ta còn hiểu rằng những năm mất mùa đói kém nhân dân từ Thanh Hóa trở vào cũng sẵn sàng lên đường vào Nam, vụ đại hạn mất mùa từ Nghệ An ra Bắc năm 1608 là một ví dụ. Hình tượng ông Ba Bị có lẽ hình thjành trong giai đoạn này. Sách" Phủ Tập Quảng Nam Ký Sự" , viết vào thế kỷ 16 có nói quân của Bùi Tá Hán nhận lệnh diệt quân mạc ở Cổ Lũy, ông dẫn quân vào cho nghỉ ở cù lao Ré rồi giả làm đoàn người di cư, lén đổ bộ lên bờ và tấn công. Như thế ta hiểu là những đoàn người di cư vào năm 1545 ấy là đông đúc đến dường nào, nó đủ sức để một đạo quân cải trang lẩn trong ấy.
    Những cuộc di dân như thế kéo dài được cho đến năm 1631, năm chuá Nguyễn cho xây lũy Trường Dực, chính thức chia đôi Nam Bắc, có nghĩa không còn di dân tự do. Những dòng họ nào di dân vào giai đoạn này cho đến nay đều có số đời từ 15 (1631) cho đến 21 (1471). Ðiều này cũng đúng với thực tế đối với đa số các gia phả ở Quảng Nam bây giờ. Những gia phả có số đời ít hơn đều có vấn đề để nói và chúng ta sẽ bàn đến kỹ hơn. Ðiều quan trọng nhất cần nhấn mạnh ở giai đoạn này là số lượng người Chàm ở lại là nhiều hay ít? 100 năm sau khi Lê Thánh Tông bình Chiêm, sách"Ô châu cận lục" mô tả vùng Quảng Nam-Thừa Thiên ngày nay: nói tiếng Chiêm có thổ dân làng La Giang, mặc áo Chiêm có con gái làng Thủy Bạn, nhiều xã còn giữ thói dâm phong mây mưa, thói quen cổ truyền cũng đã lâu lắm. Sách"Phủ Tập Quảng Nam ký sự" đã nói kể chuyện ông Bùi Tá Hán trong những năm 1545-1568 có những chính sách với người Chiêm như: lập ở vùng biên giới Tuy Hòa nay, ba đồn lớn ở đó lập ba nơi giao dịch cho phép người Kinh-Chàm mang các thứ tới đây buôn bán. Người Chàm nếu có ai ra vào cửa khẩu vùng biên để thăm bà con thân thuộc thì đều phải trình báo rõ ngày giờ với các quan đồn. Ðiều này cùng với mô tả trong" Ô châu cận lục " cho thấy khu vực người Chiêm còn ở lại là khá rộng, trải từ Quảng Bình tới Phú Yên, Tuy Hòa. Dĩ nhiên tình hình bây giờ không còn giống như hồi 1402-1471, họ buộc phải nói tiếng Việt khi giao tiếp ngoài xã hội. Ðó có phải là tiền đề của giọng người Quảng Nam bây giờ như giáo sư Trần Quốc Vương nói? Số lượng họ là bao nhiêu? Nhiều hay ít? Họ chuyển thành Việt như thế nào? Không ai biết nhưng có một số điều khiến ta có thể nghĩ rằng họ rất nhiều chứ không phải là thưa thớt như lâu nay ta nghĩ.
    1/. Người Việt thời ấy ở ngoài bắc ăn bận như thế nào ta có thể hiểu được khá rõ qua các sắc chỉ về ăn bận của các triều vua mà SKTT ghi lại khá rõ. Nhưng ăn bận như Cristophoro Borri mô tả trong "Xứ Ðàng Trong năm 1621": Phụ nữ mặc tới 5,6 váy lụa trơn, cái nọ chồng lên cái kia, và tất cả có màu sắc khác nhau. Ðàn ông thì quàng một tấm rồi cũng thêm 5 hay 6 áo dài thì quả thật rất khó hiểu, khó hình dung. Trong khi đó y phục của các văn nhân, tiến sĩ và quan lại thì rất quen thuộc và dễ hiểu như: họ choàng lên trên tất cả một áo dài đen. Họ còn khoác lên vai một thứ khăn. Vậy những tấm váy dân lao động mặc kia là ở đâu ra vậy? Bùi tá Hán cũng có một sắc lệnh cấm phụ nữ mặc quần không đáy nhưng đến thời Borri vẫn thế cho thấy lệnh ấy không hiệu quả mấy. Và ở "Ô châu cận lục" ở chương Tổng luận về phong tục, mục huyện Diện Bàn cũng mô tả thật trùng khớp với Cristophoro Borri:" phụ nữ thì để tóc xỏa xuống vai, có người để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là đẹp. Ðàn ông cũng để tóc dài như đàn bà, cho xỏa tóc tới gót chân và cũng đội nón." Người ngoài Bắc không thế.
    Thậm chí đến cuối thế kỷ thứ 18, qua các bức vẽ của người phương Tây vẽ một nhóm người An Nam ở Ðà nẵng ta còn nhận ra y phục của người Ðàng trong rất giống với những gì bây giờ người Chàm, Ninh Thuận đang mặc. Có thể kết luận được không rằng:" số lượng người Chàm ở lại đông đến mức đủ sức áp đặt những thói quen ăn mặc, sinh hoạt, giọng nói cho những di dân mới đến?"
    Thậm chí chúng tôi còn ngờ rằng đây không phải chỉ đơn thuần là sự tiếp thu cái mới của người Việt như một số người bảo vệ quan điểm cho rằng người Việt chỉ tiếp thu một số yếu tố văn hóa của người Chàm ngoài ra không có gì khác.( Ngay cách này cũng bộc lộ mâu thuẫn: con người ta không thể tiếp thu cái gì ở chỗ trống không, người Việt không thể tiếp thu bất cứ điều gì nếu người Chàm đều bỏ đi cả, hoặc giả cứ gặp họ là đuổi đánh, mà cái tiếp thu dược thì nhiều lắm. Vậy những làng người Chàm ấy biến đi đâu?), mà đó là những cộng đồng người Chàm nguyên vẹn 100% chỉ có điều họ không nói tiếng Chàm. Người Việt đến chỉ là số nhỏ, nhưng có quyền lực hòa nhập trong đó. Dĩ nhiên cái tỷ lệ số lượng Chàm - Việt ấy nó không đồng đều, giống nhau từ vùng quê Trung Du, xứ biển làng chài với các khu thị tứ, dinh trấn, bến cảng. Ðọc sử, đọc những ghi chép đương thời đều chỉ thấy người Việt. Những vùng quê như Tiên Phướ`c, Ðại Lộc, Quế Sơn...(những nơi có di tích Chàm) mọi chuyện có thể diễn ra một cách lặng lẽ, không tư liệu nào chép lại, nhưng dữ dội hơn nhiều. Sự tích tháp Bằng An là một ví dụ: Người Việt và người Chàm tranh đất, sau khi đã thỏa thuận nhất trí tổ chức một cuộc thi xây tháp trong một đêm, ai thua phải đi nơi khác. Người Chàm xây bằng gạch thật, người Việt làm một tháp bằng tre bồi giấy và đã thắng. Chúng tôi cũng đã đọc được một bản "Bắc địa tấu từ", một bản tâu gởi triều đình năm Lê triều Ất Hợi, 1455, kể chuyện xây tháp giành đất khiến hơn 3300 người Chàm (cổ thổ nhơn) phải bỏ chạy vào núi. Tháp Bằng An được xây dựng từ năm 977 nên khó mà biết được hư thực bản tấu ấy như thế nào nhưng qua đó và một số bản tấu khác trong giai đoạn này(1446-1471) nó phản ảnh được cái điều là người Việt lấn đất không phải bằng gươm giáo, ít ra là trên chính thống. Vậy những làng người Chàm, cứ cho là họ bị đuổi lên vùng trung du, thì sau này họ biến đi đâu? Và cái chiếu dụ tháng 8 ngày 9 năm Cảnh Thống thứ 2 ấy không lẽ làm ra để cấm cái chuyện không có?
    Có người không đồng ý với ý kiến cho rằng vùng đất Quảng Nam từ 1306 đến 1602, năm Nguyễn Hoàng cho xây ở bờ bắc sông Thu Bồn dinh trấn Thanh Chiêm, là có tròn 300 năm không chính phủ, là 300 năm giao lưu văn hóa Việt - Chàm để hình thành nên tính cách người Quảng Nam. Bằng chứng đưa ra là lúc nào cũng có các quan trấn thủ của nhà Lê ở xứ nầy như Bùi Tá Hán. Chúng tôi không phản đối nhưng nghĩ rằng cần phải phân kỳ ra trước 1471 và sau 1471 lúc có các quan trấn thủ thì quyền lực của quan trấn thủ e cũng không được rộng khắp cho lắm. Ở Quảng Nam giỏi lắm là vùng Ðiện Bàn, Thăng Bình khu vực dọc theo sông Trường Giang ven biển chứ lên đến Ðại Lộc, Quế Sơn, Tiên Phước thì...Ngay cả Bùi Tá Hán thì cũng được SKTT (1568) gọi là thổ quan Quảng Nam cho thấy nền hành chánh ở đây cũng lỏng lẻo lắm, nó không như sau 1602. Chính sự lỏng lẻo ấy là điều kiện cần có để sự giao lưu, giao thoa, tiếp biến v.v...diễn ra một cách tự thân, hồn nhiên và sâu đậm, đủ để trở thành một bản sắc.
  3. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    V/ SAU 1671: NHỮNG DÒNG HỌ Í`T HƠN 13 ÐỜI LÀ Ở ÐÂU RA?
    Ðến năm 1648 có một đợt lưu dân to lớn đông đến 30.000 trai đinh nam giới đổ vào các thôn xóm Quảng Nam (bao gồm cả Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên). Ðó là số tù binh của Chúa Nguyễn bắt đưộc của Chúa Trịnh trong cuộc chiến ở cửa biển Nhật Lệ. Có tài liệu nói số tù binh chỉ là 3.000. Nhưng số lượng thế nào chăng nữa thì chắc ở đó cũng có đủ tất cả các họ của Người Việt, và đây là những " Thủy Tổ" cuối cùng của các dòng họ Quảng Nam. Từ đó đến 1671 Trịnh- Nguyễn nhiều lần đem quân đánh ra hoặc đánh vào, có thể giai đoạn này có thêm một ít tù binh nữa nhưng khôngthấy sử chép thành vấn đề. Ông tổ của nhà Tây sơn cũng là tù binhtrong những trận giao chiến qiai đoạn này. Và đến 1671 thì hai họ thôi chiến tranh, lấy sông Gianh làm ranh giới Nam Bắc.
    Biên giới Trịnh -Nguyễn là biên giới quân sự, không được qua lại. Năm 1716 Chúa Nguyễn Phúc Chu mật sai hai người khách buôn Phước Kiến là Bình và Qúy (không rõ họ) sang Quảng Tây rồi qua ngõ Nam Quan mà vào Thăng Long để xem xét tình hình Ðàng Ngoài. Vào đến Nghệ An thì không thể đến Bố Chính được vì trấn thủ là Lê Thì Liêu cấm ngặt, ai không có giấy hộ chiếu của các trấn, ty cấp thì không được vào châu Bố Chính. Có nghĩa là, như a thường nói, một con chuột cũng không lọt. Thâm chí đến 1738 Lê Duy Mật là con vua Dụ Tông ly khai chống Trịnh, xin chúa Nguyễn mở cửa biên giới đón nhận rồi hợp lực chống Trịnh. Lời thư rất tha thiết nhưng chúa Nguyễn chỉ hậu đãi sứ giả rồi từ khước việc mở cửa biên giới. Rõ ràng suốt giai đoạn 1671 về sau những cuộc di dân là chấm dứt, tù binh cũng không còn. Có thể có một số dân vượt biên bằng đường biển, đường núi nhưng chắc chắn số lượng không đáng kể và không đủ để tạo nên vấn đề.
    Sau đó không có cuộc di dân nào nữa cho đến khi Tây Sơn thống nhất đất nước rồi nhà Nguyễn lên ngôi. Những cuộc di dân sau Tây Sơn không còn dừng lại ở vùng Quảng Nam nữa.
    Có một câu hỏi cực lớn được đặt ra là: những người miền Bắc cuối cùng vào tạo nên các dòng họ là những năm 1648-1671 đến nay tròn 350 năm. Cứ 23,5 năm là một đời thì đến nay ít nhất cũng được 14 đời. Vậy những dòng họ có số đời 10-12, thậm chí 8-9 là ở đâu ra?
    Số dòng họ có số đời như thế, dưới 13 ở Quảng Nam lại khá nhiều, thậm chí rất nhiều. Lý do đưa ra có thể là số ông bà "thỷ tổ" vào trước 1671 ấy ít học, không ghi chép gì. Ðến nhiều đời sau khi con cháu có người có điều kiện học hành thì mới tiến hành ghi chép làm gia phả. Dĩ nhiên là vậy nhưng điều này không thể giải thích được là tại sao lại có những làng, những xã không tìm đâu ra một dòng họ có số đời trên 14. Chưa có công trình điều tra về chuyện này nhưng một số nơi chúng tôi biết được như phường Nại Hiên Ðông, Mân Thái thuộc thành phố Ða Nẵng chẳng hạn, ở đây khó tìm thấy một nhà thờ tộc họ, ý niệm về dòng họ khá mờ nhạt, nếu có thì không có mộ họ nào quá con số 12 đời mặc dù vùng đất này đã có người ở suốt từ đời Chămpa qua Ðại Việt. Khu vực chùa Bà Quảng phường Hòa Cường Thành phố Ðà Nẵng có họ Nguyễn gia phả ghi 12 đời và giữ một phong tục không giống nơi khác là khi chôn người chết đều để nắp hòm ra ngoài, không chôn. Ở huyện Thăng Bình anh Lê Ðình Cương giáo viên ở Tam Kỳ kể vài phong tục rất lạ đến nay vẫn còn mộtsố người thực hiện. Chưa kiểm chứng nhưng chúng tôi nghĩ rằng nếu hỏi về số đời của họ chắc chắn sẽ có lắm điều hay, nhiều họ sẽ không quá số 12 đời. Họ từ đâu tới? Có thể lý giải được chuyện này không?
    Sau khi chiến thắng Chiêm Thành trở về, tháng 9 vua Lê Thánh Tông ra sắc chỉ:" những người nguyên quán là quan lại ngụy, những người là cha Ngô mẹ Việt, bọn phản nghịch và người Ai Lao, Chiêm Thành hết thảy là nô lệ của nhà nước. Con cái còn bé cho thay đổi họ tên làm dân thường". Ðến tháng 9 năm 1472 lại ra sắc chỉ:" cho Thái bộc tự khanh xét họ tên của bọn người Chiêm, người Man. Họ của người Chiêm thì mới cũ theo đúng quy chế, họ của người Man thì dồn lại".(Trong kho Hán Nôm có còn lưu giữ lại mấy quy chế này?) Ta không hiểu được quy chế đặt ra cho việc đặt họ của người Chiêm là như thế nào, nhưng biết chắc một điều rằng từ nay người Chiêm phải ghi họ tên mình bằng chữ Hán. Những con cái có cha mẹ cứng đầu thì phải mang họ Việt và trở thành người Việt. Ngoài một số họ như Ông, Ma, Trà, Chế rất đặc trưng họ Chàm ra, ta còn biết một số họ được viết và đọc bằng âm Hán là Phạm, Phan, Ðặng, Ðinh...
    Lúc này các chúa Nguyễn cần tăng cường sức mạnh quân sự và một trong những điều phải làm là nắm chắc dân số, tiến hành làm hộ tịch, hộ khẩu của tất cả các địa phương kể cả các thôn xóm xa xôi hẻo lánh nhất. Một điều tất nhiên phải xảy ra đối với những "cán bộ" đi làm hộ tịch, hộ khẩu khi đến các gia đình, thâm chí các làng người Chàm, như trong Ô châu cận lục đã nói, chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi ghi tên họ của những người Chàm bằng chữ Hán, nhất là đối với đa số dân Chàm trong các làng nông nghiệp hoặc chài lưới như ( vùng Nại Hiên Ðông chẳng hạn) đềuít học và không biết chữ. Người Chàm không có họ nhưng ngay trong trường hợp có họ thì đa số các họ đều không thể ghi bằng chữ Hán. Vua Lê Thánh Tông đã có một sắc chỉ về chuyện này, nhưng chúng ta không biết các chúa Nguyễn xử lý chuyện này như thế nào.Ở phường Nại Hiên Ðông Ðà Nẵng chúng tôi gặp rất nhiều người có tên ghi giấy khai sinh là Chén, Ðóc, Nư, Tồi, Hứ, Gà, Cốc, Rô, Mãi... Giả sử, xin nhắc là giả sử những người đó là người Chăm thì ông"cán bộ" hộ tịch, hộ khẩu làm sao phân biệt thằng Rô này với thằng Rô kia, làm sao phân biệt thằng Hứ với con Hứ? Mà chuyện đó thì rất quan trọng trong việc gọi quân. Hình như các "cán bộ" hộ tịch, hộ khẩu thời các chúa Nguyễn giải quyết bằng cách: thôi thì mày lấy đại họ gì đó cũng được, miễn là cha con giống nhau, con trai thì đệm chữ Văn, con gái thì đệm chữ Thị. Tình hình có thể cũng giống như năm 1998 này ở Trà My, hồi tháng tám, chúng tôi có dự buổi bế giảng một lớp y tế thôn bản cho đối tượng là các con em ngưới Cor, Mơ Nong. Danh sách tên 76 học viên đều có đủ các họ mà người Kinh đang có như Ðinh, Lê, Lý, Trần, Trịnh, Phan, Nguyễn, Phạm, Hoàng...Bởi vì không thể ghi khai sinh bằng một cái tên Tắc hoặc Mia hoặc Nhim được. Người Ca Dong, Mơ Nong ở Phước Sơn, Giằng thì đơn giản hơn. Họ Nguyễn ở Quảng Nam nhiều có phải cũng là vì như thế? Chỉ cần ba đời là những người cháu nghĩ rằng mình có họ đó thật rồi, mình là người Việt thật rồi. Thêm nữa qua câu khấn cúng đất: "Ma Chàm, ma Chợ, ma Mọi, ma Rợ, thương vong đói khát, ma Lồi, ma Lạc, hữ danh vô vị, hữu vị vô danh, đẳng chúng cô hồn, đồng lai thụ hưởng" . Giúp ta hiểu những người Chàm ở lại, họ mong muốn càng mau chóng quên gốc gác càng tốt, họ không kể gốc gác lại cho con cháu, nếu có thì cũng chỉ hai ba đời là hết. Trong kho lưu trữ Hán Nôm thời Nguyễn có ở đâu đó chép lại sự kiện nầy? Nếu không thì trong thực tế, ít ra cái giả định như thế nó cũng góp phần giải thích được là tại sao ở Quảng Nam lại có những làng, những xóm, toàn là họ Nguyễn, gia phả hình thành nhiều lắm chỉ 10, 12 đời. Vùng Quảng Ngãi, Bình Ðịnh nay, cũng rất ít có họ nào trên 14 đời, nhưng đó có thể là những di dân đi từ Quảng Nam sau 1648. Nếu ở đó có những dòng họ không phải có gốc Quảng Nam thì sao?
    Quả thật chuyện là quá lớn và xin nhắc lại, tất cả chỉ là những giả định. Chúng tôi tin rằng với thời gian sẽ tìm ra được các bằng chứng đủ để chứng minh những giả định là sự thật. Ngay cả trong trường hợi có đủ bằng chứng để phủ nhận một giả định nào đó thì ít nhiều nó vẫn giúp chúng ta hiểu được những gì đã xẩy ra với cha ông mà vì nhiều lý do phần lớn ký ức, phần lớn lịch sử đã bị lãng quên.
    Tóm lại cuộc di dân của người Việt vào vùng nam Hải Vân là không phải kéo dài 700 năm suốt từ nhà Lý đến thời các vua Nguyễn mà có thể chia làm mấy giai đoạn chính:
    1/- Từ 1360 đến 1402 là sự ổn định của vùng Bắc Hải Vân, mặc dù từ 1306 trên giấy tờ biên giới đã đến sông Thu Bồn.
    2/- Từ 1402 đến 1407 là 5 năm của những cuộc do dân đầu tiên được tổ chức qui mô, cẩnthận, nghiêm khắc và cương quyết dưới sự chỉ đạo của triều đình nhà Hồ. Ðối tượng không phải là những người nghèo, tội nhân đi đày mà chính là những người có của, có học, thân cận với triều đình họ Hồ. Giai đoạn nầy người Việt vào sống bên cạnh người Chiêm là chuyện không cần phải bàn. Ðây chính là giai đoạn tiền đề rất quan trọng để hình thành nên sự giao thoa của hai nền Văn Hóa Chiêm Thành - Việt Nam, hoặc có thể nói cường điệu là của hai nền văn hóa khổng lồ của nhân loại là Ấn Ðộ và Trung Hoa, để từ đó hình thành nên bản sắc văn hóa độc đáo của người Quảng Nam rồi sau đó là cả xứ Ðàng Trong đến tận Cà Mau sau nầy.
    3/- Từ 1471 đến 1671 là 200 năm của những cuộc di dân ồ ạt, tổ chức có, bắt buộc có, tù đày có, lính thú ở lại có, di dân tự phát có, tù binh có, ngoại kiều có...Ðể rồi cha761m dứt một cách hoàn toàn, tuyệt đối sau đó! Cũng như sự chấm dứt di cư 1448, sự chấm dứt di cư 1671 chính là điều kiện cần có để sự giao thoa đã hình thành đi vào ổn định, không bị pha trộn thêm, để cố định một bản sắc vững bền đến mức nhiều biến động sau nầy vẫn không thay đổi. Mãi đến thời Tây Sơn và vua Nguyễn các di dân mới trở lại với số lượng không đáng kể. Ðiều quan trọng cần được xác định làm rõ trong giai đoạn nầy là người Việt vào, là vào ở nơi vùng đất trống huơ không bóng người hay là sống bên cạnh những làng Chàm? Nếu có thì số lượng những làng ấy là nhiều hay ít? Và quá trình chuyển sang Việt của họ diễ ra như thế nào? Chuyện lấy vợ Chàm cần xác định đến đâu? Vai trò của những người vợ Chàm cần phải xác định như thế nào trong việc hình thành văn hóa, tính cách con người xứ Quảng.
    Rõ ràng còn rất nhiều việc phải làm và sự công phu không thể của một người. Ở đây chỉ là một cái nhìn tổng quát bằng phương pháp phân kỳ. Hy vọng rằng sự phân kỳ nầy sẽ hé mở ra một cách tiếp cận mới đối với sự nghiên cứu lịch sử, bản sắc văn hóa của vùng Quảng Nam nói riêng và xứ Ðàng Trong nói chung. Ít ra thì nó cũng gợi nên một phương pháp đối với ngành gia phả học, nguồn gốc các tộc họ ở vùng đất Quảng Nam trở vào./
    One for all, all for one!
  4. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Bác Hector có nhiều bài hay nhỉ. Bác lấy ở đâu thế, cho tớ cái link với

    nghe rơi bao lá vàng
    ngập giòng nước sông Seine
    mưa rơi trên phím đàn
    chừng nào cho tôi quên
  5. Vo_Quoc_Tuan

    Vo_Quoc_Tuan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.374
    Đã được thích:
    11
    Các bác ơi, quả thực em chưa nghe đến chuyện Chiêm đánh được đến Thăng long lần nào. Chuyện đó là thế nào? Có thực không vậy. Bác nào biết, kể cho em với.........................
    Sống tự do, chết thanh thản [/size=8]
  6. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0

    Hừm, bác vo quoc tuan ham học lịch sử vậy, mà xin lỗi bác nhé, bác hơi mất căn bản. Việc quân Chiêm đánh vào Thăng Long được dạy trong nhà trường, cuối cấp 2 đầu cấp 3 gì đó, đoạn nhà Trần sụp đổ, sách dạy rõ ràng là quân Chiêm nhiều lần cướp phá Thăng Long như vào chỗ không người, vua Trần phải sai người đem kho tàng, vàng bạc giấu vào trong núi . . .
    Bác vào website này, load lấy mấy quyển sử Việt nam, đọc một lượt rồi quay ra đây thảo luận tiếp với anh em.
    http://4vn.net/
  7. lorela

    lorela Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/04/2002
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    Các bác nói đến Bắc Bộ và Trung bộ rồi sao không ai nói đến lịch sử vùng Nam bộ thế? Trong LSVN em tra lòi cả mắt cũng không thấy. Trong bản đồ của bác Hector thì đó là đất của Campuchia, chẳng nhẽ tự dưng họ biếu ta à?
    Em muốn thành Rocker
  8. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    lorela đọc trang 2 chưa, có đủ hết tên các tỉnh Nam bộ bằng tiếng Khmer đấy còn gì nữa? Trong Việt nam sử lược của cụ Trần Trọng Kim cũng có nói về quá trình nam tiến của dân ta ở miền Nam bộ đấy thôi, vào 4vn.net có sách đấy.
  9. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Cùng một tác giả bài viết về vua Quang Trung và Hồ Quí Ly, đây là quan điểm của cá nhân tác giả, không nhất thiết phản ánh chính xác hoàn cảnh, sự kiện lịch sử
    ===============================================
    Các sử gia và các nhà bình luận vô tình hay cố ý đã làm cho nhiều người, Việt nam cũng như ngoại quốc, quên rằng miền Nam Việt nam đã được mở ra chủ yếu do một cuộc di dân hòa bình để khai phá đất hoang chứ không phải do một cuộc lấn chiếm bằng bạo lực bờ cõi sẵn có của một nước Cam-bốt hiền hòa.
    Trong thâm tâm, đa số người Việt nam nhìn nhận như một sự thực không cần chứng minh rằng Việt nam có lỗi với Cam-bốt. Những vụ cáp dồn (tiếng Khmer có nghĩa là chém đầu người Việt) dù có gây ra nhiều phẫn nộ cũng không làm thay đổi được mặc cảm này. Đây là một trường hợp điển hình chứng tỏ phải coi chừng những sự thực không cần chứng minh. Trái với một cảm tưởng rất lan tràn, Cam-bốt không phải là đất nước của những con người hiền hòa, nạn nhân của những tham vọng bành trướng và thống trị từ lân bang. Có thể nói đất nước Cam-bốt đã ra đời bằng bạo lực, đã trưởng thành trong bạo lực và đã suy tàn vì bạo lực.
    Được bồi đắp từ lòng biển do phù sa sông Cửu Long, vùng đất gồm nước Cam-bốt và miền Nam Việt nam mới đầu thuộc đế quốc Phù Nam với những sắc dân đến từ biển, nhất là từ Indonesia và từ ấn Độ qua ngả Miến Điện và Thái Lan. Phù Nam đã mau chóng biến thành một đế quốc hiếu chiến. Vào thế kỷ thứ 7, người Khmer, một sắc dân theo văn minh ấn Độ, từ miền Nam Lào tràn xuống tiêu diệt đế quốc Phù Nam và dần dần khắc phục các sắc dân địa phương, chiếm quyền bá chủ trong vùng để lập ra đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer còn tỏ ra hiếu chiến và bạo ngược hơn hẳn đế quốc Phù Nam. Đế quốc Khmer đã chế ngự được cả một vùng rộng lớn bao gồm cả Thái Lan, một phần Miến Điện và cả miền Nam Việt nam. Vào thế kỷ 12 đế quốc Khmer còn bành trướng về phía Bắc, chiếm gần hết đất Chiêm Thành, đến tận đèo Hải Vân của Việt nam hiện nay. Nhưng lãnh thổ thực sự của nó tập trung ở vùng Angkor. Nhưng đền đài Angkor không phải chỉ là dấu tích của một nền văn minh mà trước hết là di tích của sự tàn bạo. Những sử liệu ít ỏi còn lại, mà đặc sắc nhất là ký ức của Chu Tá Quan, một sứ giả của nhà Nguyễn có mặt tại Cam-bốt, mô tả cảnh những người nô lệ bị xiềng xích vào nhau để xây đền đài dưới sự điều động tàn bạo của các tăng sĩ và chiến sĩ Khmer. Họ phải lao lực đến kiệt sức và khi chết thi hài được lôi ra làm thức ăn cho cầm thú. Từ thế kỷ 13 trở đi, người Thái Lan bắt đầu tiến lên, sức mạnh của họ đã dần dần bắt kịp và vượt người Khmer. Họ giành được độc lập rồi tiến đánh trả thù người Khmer trong hàng thế kỷ đã bắt họ làm nô lệ xây đèn đài cung điện. Họ đã hủy diệt đế quốc Khmer, tàn phá Angkor Vát và bắt người Khmer về làm nô lệ xây đền đài cho họ. Nền văn minh Angkor cáo chung vào năm 1431 với sự phá hủy lần cuối cùng thủ đô Angkor. Đế quốc Khmer xây dựng trên sự tàn bạo đã sụp đổ trong sự tàn bạo. Sự tàn phá và tàn sát của người Thái Lan đã khủng khiếp đến độ tất cả dấu tích đồ sộ của trung tâm Angkor bị chìm mất trong rừng sâu và không một nhân chứng nào sống sót để nhớ lại sự hiện hữu của nó. Phải đợi đến năm 1850, một nhà khảo cứu Pháp mới tình cờ khám phá lại di tích Angkor mà ngay những người Cam-bốt cách đó hai trăm cây số không hề biết đến nữa.
    Kể từ 1431 chung quanh Phnom Penh chỉ còn lại một triều đại Chân Lạp yếu nhược với ảnh hưởng không đáng kể trên những vùng đất trước kia thuộc ảnh hưởng của đế quốc Khmer. Cuộc nam tiến của người Việt đã đến rất lâu sau khi vùng đất miền Nam trở thành vô chủ. Những người Việt đầu tiên khai phá miền Nam không phải là những đạo quân viễn chinh mà phần lớn là những người nông dân nghèo khổ, chạy trốn cuộc chiến phân tranh Trịnh - Nguyễn. Từ năm 1623 trở đi, trong khoảng một thế kỷ rưởi, Việt nam đã sát nhập nhiều vùng đất mới ở phía Nam. Những những sát nhập hành chánh này chỉ là sự hợp thức hóa một thực tại; những phần đất ấy từ lâu đã do người Việt sinh sống và khai thác. Cuộc nam tiến của nước ta chủ yếu là một sự bành trướng trong hòa bình. Sự mở mang lãnh thổ Việt nam đã chấm dứt khi anh em Tây Sơn nổi lên năm 1771 và Việt nam bắt đầu lâm vào nội chiến. Vua Sihanouk, bằng thái độ và bằng hành động của ông, lập lại y hệt hình ảnh của những vị vua Chân Lạp trong hai thế kỷ 17 và 18. Sihanouk trở mặt như chong chóng và đổi đồng minh như thay áo, ông được nhiều nhà bình luận chính trị phương Tây coi là khôn ngoan và mưu lược, nhưng tài trí của ông đã chỉ khiến nước Cam-bốt phải chịu những tàn phá kinh khủng nhất.
    Các vị vua Chân Lạp, tổ tiên của Sihanouk, cũng đã cư xử không khác gì ông. Một vị vua Chân Lạp có thể ngày hôm nay cầu viện Việt nam để tranh ngôi vua với một người anh em họ, để rồi ngày mai lại cầu viện Thái Lan chống lại Việt nam và ít lâu sau thần phục Việt nam chống lại Thái Lan. Mỗi lần cầu viện ngoại bang họ đầu dâng lễ vật hay dâng đất. Việc dâng đất đối với họ không có gì là quan trọng vì trên thực tế đó là những vùng đất mà họ đã mất chủ quyền từ lâu. Việc dâng đất chỉ có nghĩa là nhìn nhận một thực lại và cam kết sẽ không quấy nhiễu. Một câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao người Cam-bốt lại thù ghét Việt nam hơn Thái Lan, trong khi Thái Lan đã xung đột nhiều hơn với Cam-bốt, đã sát nhập nhiều đất của Cam-bốt hơn, đã từng tàn sát người Cam-bốt một cách dã man, và nhất là đã tiêu diệt đế quốc Khmer?
    Trước hết là sự xung đột giữa hai nền văn minh ấn Độ và Trung Hoa. Người Cam-bốt và người Thái Lan cùng chịu ảnh hưởng của văn minh ấn Độ nên dù đã có cả một quá khứ xung đột vô cùng đẫm máu họ ván thấy gần gũi với nhau trong khi người Việt nam, thuộc ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, đối với họ là những kẻ lạ mặt. Nhưng trầm trọng hơn nữa là chính sách chia để trị của chính quyền thuộc địa Pháp. Người Pháp đã tạo ra cái huyền thoại nước Việt nam tham đất và đói đất để biến Việt nam thành một de doạ và một đối tượng thù ghét cho người Cam-bốt.
    Trong chiều sâu còn một hằng số quan trọng hơn mà ta cần nắm vững khi nhận định về những tương quan giữa nước ta và Cam- bốt: người Cam-bốt rất thực tiễn, họ không đặt nặng những vấn đề văn hóa và lịch sử mà hành động chủ yếu theo những cái lợi trước mắt. Cho tới nay, những người lãnh đạo Cam-bốt luôn luôn hòa hoãn với các quốc gia có thể có ảnh hưởng mạnh lên nước họ và sẵn sàng lấy thái độ thù địch với những quốc gia mà họ nghĩ là không có hay không còn khả năng để dọa họ, nếu họ thấy là có lợi. Họ thường có thái độ thù địch đối với Việt nam vì trong nhiều giai đoạn họ nhận định Việt nam vừa không có lợi gì cho họ lại vừa không làm gì được họ.
    Cũng nên nhìn rô một đặc tính của người Khmer: trong suốt dòng lịch sử họ luôn luôn phải chịu đựng những chế độ hung bạo cho nên sự hung bạo đã ăn rễ trong dân gian; người Cam-bốt rất dễ bị sách động vào các cuộc thảm sát. Trong một quốc gia khác, nhưng lãnh tụ dù khát máu như Pol Pot cũng không thể gây ra một cuộc thảm sát như thế giới đã thấy tại Cam-bốt. Nhìn vào những gì người Cam-bốt đã làm với nhau, ta sẽ thấy rằng sự hung bạo của người Cam-bốt không phải là bằng chứng của hận thù, bởi vì họ hung bạo ngay với đồng bào họ. Do đó không nên coi những vụ thảm sát người Việt tại Cam-bốt như là dấu hiệu của một hận thù không thể vượt qua được.
    Một số đông chúng ta không hiểu rõ lịch sử của chính nước mình, nhất là cuộc nam tiến của dân tộc Việt nam, và do đó vẫn còn bị ảnh hưởng của luận điệu của chính quyền thuộc địa Pháp, rồi cũng mang mặc cảm tội lỗi đối với Cam-bốt. Chúng ta đừng quên rằng, ngoại trừ một vài qui định hành chánh dưới thời Pháp thuộc không nhất thiết có lợi cho Việt nam, biên giới giữa hai nước không hề thay đổi từ hơn hai thế kỷ qua. Đó là một trong những biên giới ổn định nhất thế giới. Điều này đủ để bảo đảm cho khả năng chung sống hòa bình giữa hai nước. Chúng ta cũng đừng quên rằng về phương diện địa lý Cam-bốt cần Việt nam hơn là Việt nam cần Cam-bốt. Trong tương lai, nếu Cam-bốt gượng dậy được từ thảm kịch hiện nay, họ sẽ không có chọn lựa nào khác là hợp tác chặt chẽ với Việt nam, và lúc đó họ sẽ hợp tác với chúng ta một cách rất nồng nhiệt.
    Điều quan trọng trong quan hệ với Cam-bốt là chúng ta cần từ bỏ một mặc cảm tội lỗi không đung để vạch ra một chính sách sống chung trên căn bản tương kính, có lợi cho cả đôi bên. Đối với cuộc nam tiến mở nước của chúng ta, chúng ta cần ghi ân trước hết những hy sinh của những tổ tiên rất khiêm nhường của ta, những tấm áo nâu dắt dìu nhau vào chốn rừng sâu và dắt dìu nhau vào tới Cà Mau. Công mở nước là của họ chứ không phải của các vua chúa và các danh tướng.
  10. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Ha ha, tôi chẳng thấy mặc cảm tội lỗi gì cả mà có lẽ chẳng có ai ở VN này có mặc cảm về chuyện chúng ta sống ở Sài gòn đất cũ của Khme cả! Nhiều khi họ chẳng biết chuyện gì cả.
    Có chăng là cảm giác nuối tiếc tại sao VN nuốt CPC không được nhanh chóng và trọn vẹn lắm. Mấy mảnh đất phía nam này đâu có rộng mấy mà cũng phải mất vài trăm năm. Chắc là tại người VN không có tư tưởng bành trướng như Tàu, cũng không có máu xây dựng thuộc địa như Tây. Kể từ khi Minh Mạng rút quân khỏi CPC thì chẳng ai buồn lấy thêm đất nữa!

Chia sẻ trang này