1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

► QUÁN ĐỐI 2012 (Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ - Box ư bách nick log in tiên)

Chủ đề trong 'Bắc Giang - Bắc Ninh' bởi luc_thao, 13/07/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. taosta

    taosta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/04/2009
    Bài viết:
    238
    Đã được thích:
    4
    Khách thì tỉnh lại vờ say
    Lục mây gẹo Nguyệt giữa ban ngày
    Ấy thông thì sáng dăm ba tối
    Chổng mông mặt ghế, ngỏng rồi ngây.
    :))
    Khách vào quán đối thật là hay!
    Được taosta sửa chữa / chuyển vào 16:13 ngày 07/01/2010
  2. kikovn

    kikovn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    31/05/2007
    Bài viết:
    2.631
    Đã được thích:
    0
    các bác định ghẹo nguyệt trong quán à
  3. SaharaSign

    SaharaSign Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2007
    Bài viết:
    334
    Đã được thích:
    0
    Ôi, anh chả biết gì! Người ta bảo, biết nguyệt thì thấy nguyệt, không biết nguyệt thì không thấy nguyệt. Biết nguyệt thì có ngồi trong toa-lét cũng ghẹo nguyệt được chứ đừng có tưởng.
  4. sweetlove_17

    sweetlove_17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2006
    Bài viết:
    2.356
    Đã được thích:
    0
    Quý anh chẳng tỉnh cũng chẳng say
    Quý anh gặp Nguyệt giữa ban ngày
    Ruộng nhà rậm cỏ anh cứ dọn
    Nhưng ruộng nhà người chớ mó tay!
    Ôi giá mà chị dâu em đọc được bài này anh nhỉ! =))
    Bà chị chỉ được cái nói đúng thôi
    Há thấy thu nay mà dễ nguyệt
    Thu sau trông nguyệt nguyệt càng cao
    Em mượn tạm 2 câu thơ của 1 ông trạng thời Hồng Đức (nhưng em quên tên rồi). Ông trạng này vốn chỉ là lính quèn nhưng mà nhờ sáng tác bài thơ có 2 câu thơ này mới được vua Lê Thánh Tông cho về ăn học rồi sau này đỗ trạng. Nhân đây em cũng xin nhờ có thầy nào học cao hiểu rộng nhắc cho em nhớ về bài thơ này và cả ông trạng này giùm em ạ! Nếu có cả bản chữ Hán của bài thơ thì em vote 5* hậu tạ Tại em đọc cái tích về ông trạng này lâu quá rồi mà muốn vào google tìm thì phải nhớ tên bài thơ hoặc tên tác giả trong khi cả tên tác giả cũng ko nhớ thì google bó tay
  5. SaharaSign

    SaharaSign Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2007
    Bài viết:
    334
    Đã được thích:
    0
    Con bé này giỏi!
    Có 2 câu mà nhớ chính xác 1 câu. Được! Được! Gặp chị là quên từ 7 đời rồi .
    Đây, thơ cho em đây!
    ĐÊM TRUNG THU KHÔNG TRĂNG,
    MỘT BÀI THƠ NÔM THỜI HỒNG ĐỨC

    NGUYỄN ĐĂNG
    Sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề ghi chép về Bảng nhãn Nguyễn Toàn An, có đoạn viết: Ồng người làng Thời Cử, huyện Đường An (nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng), thuở hàn vi phải sung làm lính cắt cỏ nuôi ngựa trong cấm cung. Một đêm trung thu, vua Lê Thánh Tông cùng quần thần hội họp trước sân điện đón trăng. Chẳng ngờ đêm ấy trăng thu không tỏ, nhà vua bèn ra đề: ?oĐêm thu vô nguyệt? (Đêm trung thu không trăng), sai các quan ngâm vịnh. Bữa ấy Nguyễn Toàn An đến phiên hầu tiệc, ông cảm xúc nảy nở ra tứ thơ, bèn mạnh dạn dâng lên. Bài thơ có hai câu thơ kết là:
    ?oMạc bả kim phiên nhàn kiến nguyệt.
    Lai thu vọng nguyệt, nguyệt di cao?.
    Phần cuối tác giả cho biết, bài thơ nguyên làm bằng quốc âm, ở đây dịch ra Hán văn.
    Nguyên văn là:
    ?oChớ thấy phen này mà rẻ nguyệt.
    Thu sau trông nguyệt, nguyệt càng cao?.
    Nhờ bài thơ này Nguyễn Toàn An được vua ban thưởng cho rất hậu, lại cho giải ngũ về nhà theo việc đèn sách. Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 3 (1472) ông thi đỗ Bảng nhãn. Các sách biên soạn đời sau như Liệt huyệt đăng khoa lục, Hải Dương phong vật chí, Tam khôi bị lục, Giai thoại văn học Việt Nam? đều chép theo như vậy.
    Gần đây chúng tôi mới tìm thấy trong gia phả họ Bùi (Bùi thị gia phả) ở làng Thịnh Liệt huyện Thanh Trì Hà Nội có chép đầy đủ bài thơ này, và ghi rõ tác giả là Bùi Xương Trạch. Bùi thị gia phả(1) là cuốn gia phả do Bùi Xương Tự (1656 - 1728) biên soạn, bài tựa viết năm Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị thứ nhất (1676). Sau này đến đời Cảnh Hưng, cháu nội ông là Bùi Huy Bích (1744 - 1818) tiến hành hiệu đính và viết thêm phần Bổ di. Trong phần Bổ di, Bùi Huy Bích cho biết rằng ông đã khảo cứu kỹ lưỡng trong quốc sử (có lẽ chỉ bộ Đại Việt sử ký toàn thư) thấy chép đêm 16 tháng 8 năm Bích Thiên niên hiệu Hồng Đức thứ 7 (1476) có nguyệt thực toàn phần và đoán định bài thơ được sáng tác vào dịch này. Chúng tôi cũng đã tiến hành kiểm tra lại sách Đại Việt sử ký toàn thư, thấy đúng là năm Hồng Đức thứ 7 có nguyệt thực vào dịp trung thu. Các niên hiệu Hồng Đức trước đó, từ 1470 đến 1475, không thấy Toàn thư chép có nguyệt thực vào dịp trung thu. Nguyễn Toàn An đã đỗ vào năm Hồng Đức thứ 3 (1472), còn Bùi Xương Trạch thì đỗ tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 9 (1478). Bốn năm sau khi Nguyễn Toàn An thi đỗ, mới thấy có nguyệt thực vào trung thu, vậy thì theo logíc câu chuyện, Bùi Xương Trạch có nhiều khả năng là tác giả của bài thơ nôm này. Bùi thị gia phả là sách ghi chép riềng sự tích của một dòng họ, chỉ lưu hành trong phạm vi rất hẹp, còn Công dư tiệp ký tuy ra đời muộn hơn do tính chất của tác phẩm như chính tác giả đã xác nhận trong bài tựa viết năm 1755: ?oTrong phần ghi chép có ngụ ý răn dậy, cũng là để xem chơi lúc thư nhàn??, Lên được lưu truyền phổ biến hơn. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Toàn An được nhiều người ghi nhận là tác giả bài thơ ?oĐêm trung thu không trăng? này, còn Bùi Xương Trạch thì ít được biết đến.
    Về tác giả bài thơ có thể còn tiếp tục nghiên cứu để khẳng định thêm. Song dù thế nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể xác nhận, đây là một bài thơ nôm được sáng tác dưới thời Hồng Đức (1470 - 1497). Hiện nay chúng ta đang tiến hành sưu tập, giám định, chỉnh lý để còn có được một sưu tập thơ nôm thời Hồng Đức chính xác đầy đủ, thì bài thơ nôm Đêm trung thu không trăng này xứng đáng được tuyểt chọn đưa vào.
    Toàn bài là:
    Lề la vặc vặc rạng tơ hào,
    Phải mịt mù nay vì cớ sao?
    Nhân bởi hắc vân(2) ngất phủ,
    Há rằng ngọc thỏ(3) hèn sao.
    Hằng nga(4) chiếm lấy làm song viết(5)
    Thục tế tuồng n(6)i dám ước ao,
    Mựa dắng(7) đêm nay trăng thấy nguyệt,
    Thu qua đông đến quế(8) càng cao.
    CHÚ THÍCH
    (1) Hiện ở Thư viện Hán Nôm có bản chép tay, ký hiệu A.640
    (2) Hắc vân: mây đen.
    (3) Ngọc Thỏ: Chỉ một trăng. Tương truyền trên cung trăng có con thỏ ngọc giã thuốc, nên thơ văn cổ thường dùng hình tượng con thỏ để chỉ mặt trăng.
    (4) Hằng nga: Tên nhân vật trong truyền thuyết cổ đại của Trung Quốc. Tương truyền Hậu Nghệ, chồng của Hằng nga được tiên cho viên thuốc trường sinh bất lão, dự định sẽ cùng vợ chia hưởng. Chẳng dè, một hôm Hậu Nghệ đi vắng, Hằng Nga lấy trộm thuốc của chàng uống vào rồi bay lên cung trăng.
    (5) Song viết: Chưa rõ nghĩa. Ở đây là phiên âm Hán Việt theo một chữ.
    (6) Thục đế tuồng ni: nguyên bản viết là o? 帝 z 尼 chúng tôi chưa rõ là nói về điều gì, tạm phiên theo mặt chữ.
    (7) Mựa dắng: Tiếng cổ có nghĩa là ?ochớ nên bảo rằng?.
    (8) Quế: Chỉ mặt trăng./.
    Đới, vote đơi!
  6. SaharaSign

    SaharaSign Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2007
    Bài viết:
    334
    Đã được thích:
    0
    Nào nào văn võ bá cổ quan
    Hay hay tao nhân mặc kệ khách
    Giả hôm nay là "Đêm thu vô nguyệt"
    Thử ứng thơ vịnh cái tiết vô duyên
    Em trước:
    Ngóng cổ chờ trăng, sao nỏ thấy
    Kìn kịt mây đen kéo xuống đầy
    Khách đứng, khách ngồi, khách ngáp
    Đêm thu mà chán cái bàn tay
  7. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Công tác điều nghiên khảo cứu ...được:)
    Tôi cũng cho rằng Bùi Xương Trạch mần bài thơ này:) và có lẽ mấy nhà đặt tên phố cũng cho rằng vậy:)
    Danh nhân Bùi Xương Trạch còn được đặt tên cho một con phố ở Khương Trung - Đống Đa - Hà Nội ngày nay:) còn Nguyễn Tòan An tôi chưa thấy bao giờ:)
    Vốt nửa tá sao:-)
  8. SaharaSign

    SaharaSign Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2007
    Bài viết:
    334
    Đã được thích:
    0

    Đúng roài, hậu bối mà đòi thấy tiền nhân thì hậu bối thành "người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ" phỏng?
    Có 2 ý:
    - Đêm thu không trăng ở năm Hồng Đức thứ 3
    - Nguyệt thực toàn phần ở năm Hồng Đức thứ 9
    Nếu dùng 2 dữ kiện này để so sánh thì rất phi lô-gic.
    Cơ sở nào để nói rằng: đêm thu không trăng nhất định phải là một đêm nguyệt thực? Trăng có thể bị mây che, suốt đêm, chuyện đó bình thường như con đường Hà Nội kẹt xe
    Cơ sở nào để khẳng định đêm thu nguyệt thực toàn phần thì không thấy trăng? Thường thời gian xảy ra nguyệt thực toàn phần cùng lắm là nửa tiếng, du di cho hẳn một tiếng để nàng Hằng Nga che màn, tắm, trang điểm này nọ ra chào quan khách thì thời gian trước đó và sau đó, có thể trông thấy trăng bình thường. Và giả sử đêm đó cũng mây mù u ám thì... người ta biết đêm ấy nguyệt thực bằng niềm tin à. Tất nhiên hậu thế tài năng hoành tráng có thể tính toán để biết đêm ấy ở VN có nguyệt thực toàn phần, nhưng rõ ràng không thể dùng nó để kết luận bài này ra đời vào năm Hồng Đức thứ 9.
    Em vẫn nghiêng về năm Hồng Đức thứ 3, nếu không còn chứng liệu nào khác. Cái gì chứ việc đạo tác phẩm thì người xưa cũng biết chứ bộ.
  9. sweetlove_17

    sweetlove_17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2006
    Bài viết:
    2.356
    Đã được thích:
    0
    @SVTT: Thanks bà chị! TTVN lỗi thế này thì vote bằng niềm tin rồi chị ah!
    @Thầy đồ: Tài liệu em đọc được là cuốn giai thoại về các danh nhân thời Hồng Đức. Em đọc thấy hay nên nhớ được đúng 2 câu cuối. Giờ đọc lại bài của chị SVTT mới nhớ ra. Trong cuốn sách em đọc thì nó ghi là bài thơ sáng tác vào thời Hồng Đức thứ 3, tác giả là Nguyễn Toàn An. Có thể có sự sai sót nhưng em vẫn nghiêng về ý này hơn vì vào năm Hồng Đức thứ 3 thì Nguyễn Toàn An còn trẻ chứ đến tận năm Hồng Đức thứ 9 thì ông ý là trạng rồi trong khi bài thơ này được sáng tác trước khi ông đỗ trạng
  10. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Vậy ra, câu chuyện cũng là một nghi án ...đạo văn nhểyD:

Chia sẻ trang này