1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quán đối, lượm lặt bốn phương.

Chủ đề trong 'Bắc Giang - Bắc Ninh' bởi luc_thao, 09/09/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Nàng rằng: "Gió bắt mưa cầm
    Đã cam tệ với TRI ÂM bấy chầy"
    (Câu 385, 386. Kiều tâm sự với Kim Trọng)
    Rằng nghe: "Nổi tiếng cầm đài
    Nước non luống những lắng tai CHUNG KỲ
    (Câu 463, 464. Kim Trọng yêu cầu Kiều đánh đàn)
    Vui là vui gượng kẻo là
    Ai TRI ÂM đó, mặn mà với ai
    (Câu 1247, 1248. Kiều ở thanh lâu lần thứ nhất)
    TRI ÂM: (TRI: biết; ÂM: tiếng)
    CHUNG KỲ: Chung Tử Kỳ, người nghe Bá Nha đà mà biết được ý Bá Nha đang nghĩ gì.
    CẦM ĐÀI: Cái đài để Tư Mã Tương Như ngồi gảy đàn.
    Chữ TRI ÂM dùng để chỉ những tình bạn thân thiết hiểu được ý của nhau như câu chuyện Bá Nha và Chung Tử Kỳ đời Chiến quốc:
    Bá Nha, người nước Sở, nhưng làm Thượng ĐẠi phu nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tinh thông, tuyệt diệu nhất trong đờ, Cây Dao cầm là vật bất ly thân của vị Thượng Đại phu tài hoa ấy,
    Năm nọ, sau khi hoàn thành chuyến đi sứ nước Sở và trên đường trở lại Tấn quốc, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát để thưởng lãm cảnh đẹp của thiên nhiên. Trước cảnh nên thơ của bến Hàm Dương đang độ vào thu, Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm ở trưỚc thuyền, rồi ông đem cây Dao cầm ra so phím thử dây. Thế rồi tiếng đàn réo rắt tuyệt vời của ông vang lên, quyện theo hương trầm cất vút lên cao trong đêm thu tĩnh mịch của bến Tầm Dương dưới ánh trăng trong.
    Đang lúc Bá Nha hứng thú thả lòng bay bổng theo tiếng nhạc thì tơ đồng bỗn đứt một dây.
    Bá Nha cau mày nghĩ ngợi một lúc rồi sang sảng cất tiếng một mình:
    - Có cao nhân nào trên bờ rình nghe tie6''ng đàn của tại hạ, xin vui lòng ra mặt.
    Từ trên tirền núi có tie6''ng đáp vọng xuống:
    - Xin đại nhân thứ lỗi cho, kẻ tiểu nhân đi kiếm củi về muộn, nghe tiếng đàn của đại nhân quá tuyệt diệu nên cất bước không đành.
    Bá Nha cưỜi lớn, hỏi:
    - Người tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn trưỢc mặt ta ?
    Tiếng nói từ trên triền núi lại vọng xuống:
    - Đại nhân nói thế, kẻ hèn này trộm nghĩ là lầm lắm đó. Há đại nhân không nhớ ngưỜi xưa đã từng bảo "Thập thất chi ấp tất hữu trung tín" (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có bậc quân tử thì ngoài cửa cũng có bậc quân tử đến. Còn nếu như đại nhân khinh nơi chốn núi non quê mùa này không có người biết nghe đàn, thì thiết tưởng đại nhân cũng không nên thi thố ngón đàn tuyệt diệu nơi đây làm gì.
    Bá Nha có vẻ ngưỢng khi nghe câu nói ấy của người lạ trên núị Ông biết mình đã lỡ lời bèn bước đến sát mũi thuyền hỏi lớn:
    - Nếu quả người trên bờ biết nghe đàn, thì xin cho biết lúc nãy tại hà đã đàn khúc gì?
    - Thưa đại nhân, đó là khúc Khổng Vọng Vi tức Đức Khổng Tử thương tiếc thầy Nha Hồi, Đàn bị đứt dây nên đại nhân đã đàn thiếu câu chót. Kẻ hèn này xin mạn phép hát nguyên khúc ấy hầu đại nhân:
    "Khá tích Nha Hồi mạng táo vong
    Giáo nhân tư tương mã như sương
    Chí nhơn lậu hạng đơn biều lạc
    Lưu đắc hiền nhân vạn cố dương".
    (Khá tiếc Nhan Uyên ngắn ngủi đời
    Dạy người tóc đã trắng như vôi
    Đai cơm, bầu nước vui ngõ hẹp
    Lưu tiếng hiền nhân với cuộc đời).
    Bá Nha nghe xong cảm thấy lòng phơi phới, vội sai đám tùy tùng bắt cầu lên bờ để rước người lạ xuống thuyền.
    Người tiều phu xuống thuyền xá Bá Nha một cáị Bá Nha chỉ ghế mời khách ngồi và nói:
    - Xin người xá cho lời nói trịch thượng của tại hạ lúc nãỵ
    Người tiều phu điềm nhiên đáp:
    - Đại nhân quá lời, kẻ hèn này không dám.
    Bá Nha sai tả hữu pha trà. Trong khi chờ đợi trà, Bá Nha hỏi khách:
    - Quý hữu biết nghe đàn, có lẽ cũng hiểu được cây Dao cầm do ai chế tạo ra ?
    Tiều phu cười nhẹ, đáp:
    - Đại nhân đã hỏi thì tiểu nhân xin thưa chứ thật ra không dám múa rìu qua mắt thợ Thưở xưa, vua Phục Hy thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng, và chim phượng hoàng đến đó đậu nên nhà vua biết cây ngô đồng là một loại cây quý, hấp thục tinh hoa của trời đất, có thể dùng để chế tạo nhạc khí được. Nha vua cho hạ cây ngô đồng xuống và dạy cắt ra làm ba đoạn. Khi gõ vào ba đoạn cây,m đoạn ngọn vang lên tiếng trong và nhẹ; đoạn gốc vang lên tiếng đục và nặng; chỉ có đoạn giữa có tiếng vừa trong vừa đục là có thể dùng được. Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây ở giữa dòng nước đúng bảy mươi hai ngày đêm rồi vớt lên phơi trong mát cho thật khô mới khiến thợ khéo chế thành cây Dao cầm. Cây Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên. Mặt trước của đàn rộng tám tấc,án theo tám tiết. Mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùạ Bề dầy hai tất áng theo lưỡng nhị Đàn gồm mười hai phím tượng trưng mười hai tháng trong năm; lại có thêm một phím phụ tượng trưng cho tháng nhuận. Đàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng năm âm: cung, thương, giốc, trủy và vũ.
    Tiều phu ngừng lời nhìn qua Bá Nha một cái, rồi tiếp:
    - Xưa kia, vua Thuấn gảy đàn Ngũ huyền, thiên hạ thái bình . Khi vua Văn Vương ngồi tù nơi Dũ Lý, Bá Ấp Khảo thêm một dây oán gọi là văn huyền (dây văn). Về sau Vũ Vương đánh Trụ, thêm một dây có tính cách phấn khích gọi là vũ huyền (dây vũ). Do đó, Dao cầm trưỚc có năm dây mà sau lại thành bảy dây, Cây Dao cầm có bốn điều kỵ và bảy điều không nên. Bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết rơi lớn. Bảy điều không là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc lòng bấn loạn, không đàn lúc lòng chẳng được thanh sạch, không đàn lúc người bận rộn việc khác, không đàn lúc y trang chẳng chỉnh tề, không đàn lúc chẳng có lò hương và không đàn lúc chẳng có bạn tri âm.
    Tiều phu dứt lời, nhìn Bá Nha đăm đăm. Kẻ tả hữu của quan Thương Đại phu bưng trà nóng ra, Bá Nha nghe tiều phu diễn giải về cây Dao cầm biết người ấy là bậc kỳ tài trong thiên hạ, lấy làm mến lắm. Ông rót trà ra hai chén, trân trọng nâng chén mời khách:
    - Xin mời hiều hữu một chén trà nhạt. Hiền hữu quả là người tinh thông về nhạc lý . Xưa kia Khổng Tử đang gảy đàn, thầy Nhan Uyên bước vào nghe tiếng đàn u trầm biết Khổng Tử có ý tham sát. Thầy Nhan hỏi ra mới biết lúc Đức phu tử đàn có trông thấy con mèo bắt chuột nên ý niệm xấu xuất ra tiếng tơ đồng. Ngày xưa thầy Nhan Uyên nghe tiếng đàn mà biết được lòng Đức phu tử; còn bây giờ hiền hữu nghe ta đàn mà có biết đưỢc lòng ta nghĩ gì chăng ?
    Tiều phu ân cần đáp:
    - Xin đại nhân gảy lại cho tôi nghe một khúc, xem may ra tôi có thông cảm với đại nhân được chăng.
    Bá Nha thay dây đàn và bắt đầu gảy khúc Ý tại non cao
    Tiều phu vừa nghe vừa mỉm cưỜi nói:
    - Tuyệt thay, Ý chí cao vút. Ý tại non cao
    BÁ Nha giật mình ngưng đàn, chấn chỉnh lại tâm thần rồi gảy thêm khúc Ý tại lưu thủỵ
    Tiều phu cưỜi nói:
    - Thật tuyệt thay cảnh bao la trời nước. Ý tại lưu thủy
    Bá Nha thất kinh, buông đàn nhìn tiều phu trân trốị Đoạn ông sai tả hữu dẹp trà, bày tiệc rượu, Đoạn, ông đứng lên trước mặt tiều phu, kính cẩn hỏi:
    - Dám hỏi tiên sinh qúy tính cao danh và quê quán ?
    Tiều phu cũng đứng lên, chấp tay đáp lễ:
    - Tiện dân họ Chung, tên tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mã Yên nàỵ Còn đại nhân, chẳng hay cao danh qúy tính là chi, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây vãng cảnh.
    Hai người cùng ngồi xuống. Bá Nha thong thả đáp:
    - Tại hạ họ Du tên Thụy, là Đại phu nước Tấn, nhân đi sứ Sở quốc về thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát nên ghé thuyền thưởng lãm. Tại hạ chỉ là một kẻ tài hèn đức bạc mà thôị Còn như tiên sinh đây học thức uyên thâm có sao không xuất lập công danh để phò vua giúp nước mà lại cam tâm ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này ?
    Chung Tử Kỳ đáp:
    - Tại hạ không có anh em mà lại còn cha mẹ già. Phụ mẫu tại, bất khả viễn du (1). Dù cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu cha mẹ của tại hạ
    Giọng Bá Nha đầy phấn khích:
    - Hay a, trong đời được mấy ai là người con chí hiếu như tiên sinh. Chẳng hay tiên sinh năm nay đưỢc bao nhiêu tuổi ?
    Tử Kỳ đáp:
    - Bẩm quan Đại phu, tiểu dân năm nay được hai mươi bảy tuổi
    Bá Nha cười tươi nói:
    - Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổi, Nếu tiên sinh không chê tiện chức là kẻ thô lậu, xin được cùng kết nghĩ đệ huynh cho thoải tình tri âm mà trong đời tiện chức chỉ mới được gặp
    Chung Tử Kỳ khiêm nhượng đáp:
    - Đại nhân là bậc công khanh chốn triều đình, còn tại hạ chỉ là kẻ áo vải chốn sơn lâm thì làm sao kết bạn với nhau đưỢc, xin đại nhân miễn cho
    Bá Nha cả cười nói:
    - Giá trị con người không ở chỗ sang hèn quý tiện, mà cốt ở đức hạnh tài năng. Nay tiệc chức thực lòng muốn kết nghĩa đệ huynh, nếu tiên sinh không khước từ thì thật là vạn hạnh cho kẻ thô lậu này,
    Chung Tử Kỳ làm thin h không từ chối nữạ Bá Nha có vẻ mừng, sai quân hầu đốt lại lò hương mới, lập hương án trước thuyền, rót ba chén rượu rồi cùng Tử Kỳ lạy trời đất tám lạy nhận nhau làm anh em khác họ: Bá Nha lớn tuổi hơn, làm anh Tử Kỳ, Rồi hai ngưỜi cùng đối ẩm chuyện trò với nhau ra rất tương đắc.
    Khi tiếng gà eo óc vang lên trong thôn và ngàn sao trên bầu trời khuya nhạt dần, hai người mới nghĩ đến chuyên chia taỵ Bá Nha xúc động nói:
    - Lòng huynh quá cảm mộ hiền đệ nên chưa muốn rời xa, vậy mời hiền đệ cùng đi với ngu huynh một đoạn đường, cùng nhau du sơn du thủy và cùng nhau trút cạn mối tâm tình.
    Chung Tử Kỳ ngậm ngùi:
    - Theo lễ thì đệ phải tiễn huynh mấy dặm đưỜng, hiềm vì song thân của tiểu đệ ở nhà đang trông ngóng, dám xin hiền huynh thứ lỗi cho
    Bá Nha hỏi:
    - Hiền đệ có thể xin phép bá phụ bá mẫu để sang chơi kinh đô Tấn quốc chứ ?
    - Tiểu đệ không dám phụ lòng ái một của hiền huynh, song lại cũng không dám hứa chắc với hiền huynh được. Nhỡ tiểu đệ không đưỢc song đường cho phép thì hoá ra thất tín với hiền huynh.
    Bá Nha rất đổi ngậm ngùi:
    - Lòng hiếu thảo của hiền đệ thật đáng kính trọng biết baọ Vậy thì sau này huynh sẽ tìm cách đến đây thăm đệ
    - Bao giờ thì hiền huynh sẽ trở lại đây ?
    Bá Nha nắm tay Tử Kỳ, giọng khẩn thiết:
    - Sang năm, cũng vào ngày giờ nàỵ
    Tử Kỳ cười:
    - Sang năm, cũng vào ngày giờ này tiểu đệ xin đón hiền huynh nơi đây,
    Bá Nha sai quân lấy ra hai nén vàng, hai tay nâng cao ngang mặt, nói với Tử Kỳ:
    - Ngu huynh có chút lễ mọn xin kính dân lên bá phụ và bá mẫu, hiền đệ chớ từ chối mà phụ tấm lòng thành của ta
    Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không từ chối, Hai người bịn rịn chia tay nhau...
    (.................)
  2. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0

    Thời gian lặng lẽ trôi, và thấm thoát một năm đã qua. Trời đất lại vào thụ Bá Nha nhớ lời ước hẹn với Tử Kỳ năm xưa nên xin với Tấn Vương cho mình về thăm quê nhà. Tấn vương chấp thuận. Thế là Bá Nha cùng với các người tùy tùng xuống thuyền, trực chỉ Hàm Dương; không quên mang theo cây Dao Cầm.
    Đến bến Hàm Dương, Bá Nha ra lệnh cho trạo phu dừng thuyền dưới núi Mã Yên. Khi thuyền đã cắm sào yên vị, ông ra trưỚc mũi thuyền nhìn ngắm lại cảnh cũ, nơi mà mình đã kết giao được một người bạn tri âm. Chiều dần dần đậu mà Bá Nha trông ngóng mãi mà sao chẳng thấy bóng dáng Tử Kỳ xuất hiện như lời hứa năm xưa. Quá sốt ruột, ông sai quân hầu đốt lò hương rồi lấy cây Dao cầm ra đàn một khúc, hy vọng Tử Kỳ lẫn quất đâu đó, nghe tiếng đàn sẽ đến.
    Trong cơn gio nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình có giọng ai oán não nùng nên thất kinh, ngưng đàn suy nghĩ : "Cung thương bỗng nhiên nghe ai oán như thế này, hẳn Chung Tử Kỳ đã bị nạn rồi, Sáng mai ta phải lên bờ dò xét mới được".
    Đêm hôm ấy Bá Nha trăn trở suốt đêm không làm sao chợp mắt đưỢc. Lòng ông nóng như lửa đốt lại lẫn một nỗi trầm uất rất khó tả.
    Tờ mờ sáng hôm sau, Bá Nha khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi dắt vài tên quân hầu lên bờ, nhắm hướng thôn trang sau chân núi Mã Yên tiến bước. Ra khỏi trie6`n núi, gặp một con đường khá lớn băng ngang lối đi, Bá Nha không biết nên đi đường nào nên ngồi xuống vệ đường nghỉ chân, định bụng chờ người qua lại để hỏi thăm đường về thôn Tập Hiền. Một lúc sau, Bá Nha trông thấy trước mặt mình có một ông lão tay xách bị, tay chống gậy trúc đang đi tới. Bá Nha đứng cúi mình thi lễ. Ông lão lên tiếng trước:
    - Quý nhân có điều chi cần hỏi lão phu phải không?
    Bá Nha kính cẩn đáp:
    - Thưa lão trượng, xin lão trượng vui lòng chỉ cho tiểu sinh con đường nào về Tập Hiền thôn ?
    Ông lão nhìn Bá Nha một lúc rồi đáp:
    - Cả hai con đường đều dẫn về Tập Hiền thôn. Đường bên phải về thôn Tập Hiền thượng, còn đường bên trái về thôn Tập Hiền hạ Tiên sinh cần đến thôn nào ?
    Bá Nha lại hỏi:
    - Thưa lão trượng, người Tử Kỳ học Chung ở thôn nào ạ ?
    Vừa nghe Bá Nha nhắc đến Chung Tử Kỳ, ông lão sa sầm nét mặt ngaỵ Ông nhìn thẳng vào mặt Bá Nha một lúc lâu rồi rung rung giọng nói:
    - Chung Tử Kỳ là con trai của lão phu, Năm ngoái cũng vào ngày này tháng này, nó đi đốn củi về có gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩ đệ huynh với vị quan ấy vì chỗ đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, Bá Nha có tặng cho con trai lão hai nén vàng. Về nhà, con trai lão dùng số vàng ấy đi mua sách đọc, bất kể ngày đêm, giờ giấc ngoài việc đốn củi mưu sinh. Vì quá lao nhọc như thế nên chẳng bao lâu con lão lâm bệnh mà qua đời rồi
    Nghe ông lão nói thế, Bá Nha không cầm được nước mắt và cảm thấy nghẹ cổ chẳng thốt được nên lời, Ông lão thấy thế bèn hỏi tên quân hầu của Bá Nha:
    - Tiên sinh đây là ai vậy ?
    Tên quân hầu đáp:
    - Thưa lão trượng, đây là quan Thượng Đại phu nước Tấn, Du Bá Nha.
    Ông lão giật mình kêu lên thảng thốt "Trời ơi", rồi nghẹn ngào không nói thêm gì được. Bấy giờ, một già một trẻ đều im lặng nhìn nhau mà khóc. Một lúc sau, Chung lão gạt nước mắt nói:
    - Mang ơn Du Đại phu không chê cảnh bần tiện mà kết giao cùng con trai lão.
    Lúc sắp lâm chung, Chung Tử Kỳ có trối trăn với lão rằng "Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để được trọn nghĩa bạn bè cùng quan đại phu nước Tấn". Theo lời trối của con, lão phu đã chôn Tử Kỳ ở ven đường dưới chân núi, Con đường mà đại nhân vừa đi qua, phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ đấy,.Tử Kỳ chết đến nay đã được một trăm ngày, lão vừa đi viếng mộ nó trở về thì gặp đại nhân.
    Bá Nha ngậm ngùi:
    - Ôi sự đời may rủi khó lường... Xin lão bá cho tiểu sinh viếng mộ Chung hiền đệ cho vơi bớt nỗi đau thương trong lòng.
    Mọi người quay trở lại chân núi. Đến trước nấm mộ của Tử Kỳ, Bá Nha thắp hương rồi vừa lạy vừa khóc; tuy ông không nói được lời nào nhưng lòng của ông đã nói lên tất cả tấm tình dành cho người bạn tri âm. Lạy mộ Tử Kỳ xong, Bá Nha ngồi lên một tảng đá, mở đàn ra trân trọng gảy lên khúc "Thiên thu trường hận". Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm thì mọi người bỗng nghe tiếng gió ngàn rít mạnh, và thấy ánh sáng trong bầu trời đổi màu u ám, rồi có tiếng chim vọng lại từ xa nghe u uất não nùng...
    Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít. Trời trong sáng trở lạị Tiếng chim ai oán ngừng kêụ Bá Nha nhình Chung lão, nói:
    - Có lẽ hồn Tử Kỳ đã hiện về chứng giám cho tấm lòng thành của tiểu sinh. Tiểu sinh vừ đàn một khúc đoản ca để viếng người bạn tri âm tài hoa bạc mệnh. Bài đó như thế này:
    "Ức tính khí niên xuân
    Giang thượng tàng hội quân
    Kim nhật trùn lai phóng
    Bất kiến tri ân nhân
    Đán kiến nhất phân thố
    Ân nhiên thương ngã tâm
    Bất giác lệ phân phân
    Lai hoan khứ hà khố
    Giang ban khơi sầu xuân
    Tử Kỳ, Tử Kỳ hề
    Nghĩ, ngã thiên kim nghĩa
    Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
    Thứ khúc chung hề bất phụ đàn
    Tam xích Dao cầm vị quân tứ
    (Từ nhớ thưở mùa thu năm trước
    Bến trường giang gặp bạn cố nhân
    Nam nay lại đến giang tân
    Dòng sông lạnh ngắt, cố nhân đâu rồi ?
    Buồn chi mấy nấm mồ bên núi
    Cõi ngàn năm sao khỏi đau lòng
    Ôi thương tâm, ôi thương tâm
    Sụt sùi lai láng bao dòng lệ rơi
    Mây sầu loang loáng chân trời
    Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau
    Tử Kỳ đâu, Tử Kỳ đâu ?
    Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can
    Thôi từ nay, với phím đàn
    Ngàn thu thôi hết mơ màng cố nhân ...)
    Đọc xong bài ca, Bá Nha giơ cao cây Dao cầm lên và đập mạnh xuống tảng đá. Cây đàn qúy vỡ tung ra từng mảnh nhỏ, rơi vãi khắp nơi
    Chung lão hoảng hốt, hỏi:
    - Ô kìa, đại nhân bất bình điều chi mà lại đập vỡ cây đàn quý như thế ?
    Bá Nha ứng khẩu đọc tiếp một bài thơ tứ tuyệt để đáp lời Chung lão:
    "Thối đoái Dao cầm phượng vĩ hàn
    Tử Kỳ bất tại, hướng thùy đàn ?
    Xuân phong mãn diện gia bằng hữu
    Dục mịch tri âm, nan thượng nan".
    (Dao cầm đập vỡ đau lòng phượng
    Đã mất Tử Kỳ, đàn với ai
    Gió xuân bốn mặt bao bè bạn
    Muốn kiếm tri âm, thật khó thay)."
    Chung lão nghe thế, ngậm ngùi than:
    - Ôi, chỉ vì không có người biết nghe đàn mà kẻ đánh đàn thất vọng đến thế ư ...
    Giọng Bá Nha đầy u buồn:
    - Thưa bá phụ, lẽ ra tiểu sinh phải theo bá phụ đến quý thất để vấn an bá mẫu, nhưng nghĩ rằng về đấy cũng chỉ chuốc thêm sầu khổ vào lòng người mà thôi; dám xin bá phụ miễn chọ Nay tiểu sinh có đem theo mười nén vàng, xin thành thâm dâng lên bá phục cùng bá mẫu dùng trong việc cung dưỡng tuổi già, đồng thời tạo mươi mẫu ruộng để làm tự cho Tử Kỳ. Tiểu sinh và Tử Kỳ đã xem nhau như ruột thịt, có lẽ vài bốn năm sau tiểu sinh sẽ từ quan và trở về đây chung sống với bá phụ và bá mẫu
    Nói xong, Bá Nha quỳ xuống dâng cho Chung lão mưỜi nén vàng. Trước tấm chân tình của Bá Nha, Chung lão không từ chốị Bá Nha lạy Chung lão mấy lạy rồi từ giã trở xuống thuyền. Chung lão nhìn theo, lòng đầy ngậm ngùi thương cảm ...
    ====
    (1) Cha mẹ còn sống, làm con không nên đi xa
    (trích "Phụ mẫu tại, bất khả viễn du, du tất hữu phương" nghĩa là cha mẹ còn sống, không nên đi xa, nếu đi, phải có phương hướng)
  3. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0

    Thời gian lặng lẽ trôi, và thấm thoát một năm đã qua. Trời đất lại vào thụ Bá Nha nhớ lời ước hẹn với Tử Kỳ năm xưa nên xin với Tấn Vương cho mình về thăm quê nhà. Tấn vương chấp thuận. Thế là Bá Nha cùng với các người tùy tùng xuống thuyền, trực chỉ Hàm Dương; không quên mang theo cây Dao Cầm.
    Đến bến Hàm Dương, Bá Nha ra lệnh cho trạo phu dừng thuyền dưới núi Mã Yên. Khi thuyền đã cắm sào yên vị, ông ra trưỚc mũi thuyền nhìn ngắm lại cảnh cũ, nơi mà mình đã kết giao được một người bạn tri âm. Chiều dần dần đậu mà Bá Nha trông ngóng mãi mà sao chẳng thấy bóng dáng Tử Kỳ xuất hiện như lời hứa năm xưa. Quá sốt ruột, ông sai quân hầu đốt lò hương rồi lấy cây Dao cầm ra đàn một khúc, hy vọng Tử Kỳ lẫn quất đâu đó, nghe tiếng đàn sẽ đến.
    Trong cơn gio nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình có giọng ai oán não nùng nên thất kinh, ngưng đàn suy nghĩ : "Cung thương bỗng nhiên nghe ai oán như thế này, hẳn Chung Tử Kỳ đã bị nạn rồi, Sáng mai ta phải lên bờ dò xét mới được".
    Đêm hôm ấy Bá Nha trăn trở suốt đêm không làm sao chợp mắt đưỢc. Lòng ông nóng như lửa đốt lại lẫn một nỗi trầm uất rất khó tả.
    Tờ mờ sáng hôm sau, Bá Nha khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi dắt vài tên quân hầu lên bờ, nhắm hướng thôn trang sau chân núi Mã Yên tiến bước. Ra khỏi trie6`n núi, gặp một con đường khá lớn băng ngang lối đi, Bá Nha không biết nên đi đường nào nên ngồi xuống vệ đường nghỉ chân, định bụng chờ người qua lại để hỏi thăm đường về thôn Tập Hiền. Một lúc sau, Bá Nha trông thấy trước mặt mình có một ông lão tay xách bị, tay chống gậy trúc đang đi tới. Bá Nha đứng cúi mình thi lễ. Ông lão lên tiếng trước:
    - Quý nhân có điều chi cần hỏi lão phu phải không?
    Bá Nha kính cẩn đáp:
    - Thưa lão trượng, xin lão trượng vui lòng chỉ cho tiểu sinh con đường nào về Tập Hiền thôn ?
    Ông lão nhìn Bá Nha một lúc rồi đáp:
    - Cả hai con đường đều dẫn về Tập Hiền thôn. Đường bên phải về thôn Tập Hiền thượng, còn đường bên trái về thôn Tập Hiền hạ Tiên sinh cần đến thôn nào ?
    Bá Nha lại hỏi:
    - Thưa lão trượng, người Tử Kỳ học Chung ở thôn nào ạ ?
    Vừa nghe Bá Nha nhắc đến Chung Tử Kỳ, ông lão sa sầm nét mặt ngaỵ Ông nhìn thẳng vào mặt Bá Nha một lúc lâu rồi rung rung giọng nói:
    - Chung Tử Kỳ là con trai của lão phu, Năm ngoái cũng vào ngày này tháng này, nó đi đốn củi về có gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩ đệ huynh với vị quan ấy vì chỗ đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, Bá Nha có tặng cho con trai lão hai nén vàng. Về nhà, con trai lão dùng số vàng ấy đi mua sách đọc, bất kể ngày đêm, giờ giấc ngoài việc đốn củi mưu sinh. Vì quá lao nhọc như thế nên chẳng bao lâu con lão lâm bệnh mà qua đời rồi
    Nghe ông lão nói thế, Bá Nha không cầm được nước mắt và cảm thấy nghẹ cổ chẳng thốt được nên lời, Ông lão thấy thế bèn hỏi tên quân hầu của Bá Nha:
    - Tiên sinh đây là ai vậy ?
    Tên quân hầu đáp:
    - Thưa lão trượng, đây là quan Thượng Đại phu nước Tấn, Du Bá Nha.
    Ông lão giật mình kêu lên thảng thốt "Trời ơi", rồi nghẹn ngào không nói thêm gì được. Bấy giờ, một già một trẻ đều im lặng nhìn nhau mà khóc. Một lúc sau, Chung lão gạt nước mắt nói:
    - Mang ơn Du Đại phu không chê cảnh bần tiện mà kết giao cùng con trai lão.
    Lúc sắp lâm chung, Chung Tử Kỳ có trối trăn với lão rằng "Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để được trọn nghĩa bạn bè cùng quan đại phu nước Tấn". Theo lời trối của con, lão phu đã chôn Tử Kỳ ở ven đường dưới chân núi, Con đường mà đại nhân vừa đi qua, phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ đấy,.Tử Kỳ chết đến nay đã được một trăm ngày, lão vừa đi viếng mộ nó trở về thì gặp đại nhân.
    Bá Nha ngậm ngùi:
    - Ôi sự đời may rủi khó lường... Xin lão bá cho tiểu sinh viếng mộ Chung hiền đệ cho vơi bớt nỗi đau thương trong lòng.
    Mọi người quay trở lại chân núi. Đến trước nấm mộ của Tử Kỳ, Bá Nha thắp hương rồi vừa lạy vừa khóc; tuy ông không nói được lời nào nhưng lòng của ông đã nói lên tất cả tấm tình dành cho người bạn tri âm. Lạy mộ Tử Kỳ xong, Bá Nha ngồi lên một tảng đá, mở đàn ra trân trọng gảy lên khúc "Thiên thu trường hận". Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm thì mọi người bỗng nghe tiếng gió ngàn rít mạnh, và thấy ánh sáng trong bầu trời đổi màu u ám, rồi có tiếng chim vọng lại từ xa nghe u uất não nùng...
    Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít. Trời trong sáng trở lạị Tiếng chim ai oán ngừng kêụ Bá Nha nhình Chung lão, nói:
    - Có lẽ hồn Tử Kỳ đã hiện về chứng giám cho tấm lòng thành của tiểu sinh. Tiểu sinh vừ đàn một khúc đoản ca để viếng người bạn tri âm tài hoa bạc mệnh. Bài đó như thế này:
    "Ức tính khí niên xuân
    Giang thượng tàng hội quân
    Kim nhật trùn lai phóng
    Bất kiến tri ân nhân
    Đán kiến nhất phân thố
    Ân nhiên thương ngã tâm
    Bất giác lệ phân phân
    Lai hoan khứ hà khố
    Giang ban khơi sầu xuân
    Tử Kỳ, Tử Kỳ hề
    Nghĩ, ngã thiên kim nghĩa
    Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
    Thứ khúc chung hề bất phụ đàn
    Tam xích Dao cầm vị quân tứ
    (Từ nhớ thưở mùa thu năm trước
    Bến trường giang gặp bạn cố nhân
    Nam nay lại đến giang tân
    Dòng sông lạnh ngắt, cố nhân đâu rồi ?
    Buồn chi mấy nấm mồ bên núi
    Cõi ngàn năm sao khỏi đau lòng
    Ôi thương tâm, ôi thương tâm
    Sụt sùi lai láng bao dòng lệ rơi
    Mây sầu loang loáng chân trời
    Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau
    Tử Kỳ đâu, Tử Kỳ đâu ?
    Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can
    Thôi từ nay, với phím đàn
    Ngàn thu thôi hết mơ màng cố nhân ...)
    Đọc xong bài ca, Bá Nha giơ cao cây Dao cầm lên và đập mạnh xuống tảng đá. Cây đàn qúy vỡ tung ra từng mảnh nhỏ, rơi vãi khắp nơi
    Chung lão hoảng hốt, hỏi:
    - Ô kìa, đại nhân bất bình điều chi mà lại đập vỡ cây đàn quý như thế ?
    Bá Nha ứng khẩu đọc tiếp một bài thơ tứ tuyệt để đáp lời Chung lão:
    "Thối đoái Dao cầm phượng vĩ hàn
    Tử Kỳ bất tại, hướng thùy đàn ?
    Xuân phong mãn diện gia bằng hữu
    Dục mịch tri âm, nan thượng nan".
    (Dao cầm đập vỡ đau lòng phượng
    Đã mất Tử Kỳ, đàn với ai
    Gió xuân bốn mặt bao bè bạn
    Muốn kiếm tri âm, thật khó thay)."
    Chung lão nghe thế, ngậm ngùi than:
    - Ôi, chỉ vì không có người biết nghe đàn mà kẻ đánh đàn thất vọng đến thế ư ...
    Giọng Bá Nha đầy u buồn:
    - Thưa bá phụ, lẽ ra tiểu sinh phải theo bá phụ đến quý thất để vấn an bá mẫu, nhưng nghĩ rằng về đấy cũng chỉ chuốc thêm sầu khổ vào lòng người mà thôi; dám xin bá phụ miễn chọ Nay tiểu sinh có đem theo mười nén vàng, xin thành thâm dâng lên bá phục cùng bá mẫu dùng trong việc cung dưỡng tuổi già, đồng thời tạo mươi mẫu ruộng để làm tự cho Tử Kỳ. Tiểu sinh và Tử Kỳ đã xem nhau như ruột thịt, có lẽ vài bốn năm sau tiểu sinh sẽ từ quan và trở về đây chung sống với bá phụ và bá mẫu
    Nói xong, Bá Nha quỳ xuống dâng cho Chung lão mưỜi nén vàng. Trước tấm chân tình của Bá Nha, Chung lão không từ chốị Bá Nha lạy Chung lão mấy lạy rồi từ giã trở xuống thuyền. Chung lão nhìn theo, lòng đầy ngậm ngùi thương cảm ...
    ====
    (1) Cha mẹ còn sống, làm con không nên đi xa
    (trích "Phụ mẫu tại, bất khả viễn du, du tất hữu phương" nghĩa là cha mẹ còn sống, không nên đi xa, nếu đi, phải có phương hướng)
  4. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Có phần tận tình hơn, nhỉ:))!
  5. sinh_vien_thuc_tap

    sinh_vien_thuc_tap Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2006
    Bài viết:
    3.946
    Đã được thích:
    0
    Hic, 20% cổ phần của mình, sao mà rớt giá thê thảm vậy nè . Thầy đồ ăn gian nhá. Tại sao không phát thưởng cho những người đáp đúng câu hỏi gì hết vậy ?
    He he, ra vế đây, bà con đối dùm nhể:
    - Thuyền ngược xuôi, đi xuôi về ngược.
    - Dăm bận cà kê húng hắng ho.
    Bia đối bia, trà ứng trà, rượu khề khà chỉ ngon khi có bạn.
  6. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Chẳng là SVTT mới ở New Century:D
    nên vẫn nhớ thuốc:))
    Mời bà con viết vế đối của SVTT kìa, lần này trịnh trọng tuyên bố, giải thưởng là Gold, để các bác có thể đi om ba cây
    @ tổng thư ký kiêm tổng thủ quỹ Vịt, về ...để trao giải nào!
  7. nguoidungthoi

    nguoidungthoi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    2.012
    Đã được thích:
    0
    - Thuyền ngược xuôi, đi xuôi về ngược.
    - Giai nhân bạc phận, buồn phận mình bạc
    Được không vậy ?
  8. sinh_vien_thuc_tap

    sinh_vien_thuc_tap Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2006
    Bài viết:
    3.946
    Đã được thích:
    0
    Già nên đọc lại các nguyên tắc câu đối của thầy đồ ở trang đầu tiên ấy
  9. windblowup

    windblowup Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2006
    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Nhân nói về Tương Giang, xin hỏi thầy đồ Lục, ở Bắc Ninh ngày xưa có Tiêu Tương chín khúc . Vậy cái nơi mà Trương Chi thổi sáo đó, bây giờ ở đâu ? Thầy Lục đã tìm hiểu chưa ?
  10. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Tôi lại chưa quan tâm tới món khảo cổ:) cho nên cái việc tìm hiểu về vùng đất Thánh (tạm gọi thế đi, vì dù sao Trương Chi - Mị Nương cũng đã đi vào khá nhiều thơ văn, điển tích,) đó,
    Tôi cũng được nghe nói tới, nơi mà Trưong Chi cắm sào thổi sáo đó, là đầm Mực, nay còn lại ở Phù Lưu, Tân Hồng ngay sát với Đình Bảng, bên lối đi xuống Cống Luốn, từ Từ Sơn đi sang
    Tiêu tương chín Khúc, tôi cũng nghe tới điều này lâu rồi, thậm chí còn lên chùa Tiêu và có một vế liên quan tới Tương giang
    đại để: "Tương khúc cửu hồi giang Nguyệt ánh"
    Có nghĩa là Sông Tương chín khúc lượn vùng lung linh ánh nguyệt, những khúc nào ở đâu, có lẽ nay chẳng còn cụ thể là mấy, nơi đã thành đồng bằng, nơi thành nhà ở, theo diện "Sông Lấp" đó thôi,
    Cũng như Tào Khê vậy, nay còn mấy đoạn?
    Phải vậy chăng?
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này