1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quán đối, lượm lặt bốn phương.

Chủ đề trong 'Bắc Giang - Bắc Ninh' bởi luc_thao, 09/09/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Truyện Kiều: chuỗi nghĩa lịch đại, chuỗi nghĩa đồng đại
    (st)
    Việc nghiên cứu, phê bình, tiếp nhận "Truyện Kiều" đã gần hai trăm năm mà vẫn chưa bao giờ kết thúc. Dù có ý thức hay không có ý thức, các nhà nghiên cứu và bạn đọc qua nhiều thời đại đã tiếp nhận "Truyện Kiều" và đem đến cho tác phẩm những cách hiểu khác nhau, những quan niệm khác nhau về giá trị của nó. Đó là những "Chuỗi nghĩa lịch đại" và "Chuỗi nghĩa đồng đại".
    Ngay từ khi mới ra đời "Truyện Kiều" đã được dân gian tiếp nhận khá đa dạng. Cảm nhận của dân gian về "Truyện Kiều" vừa gần gũi vừa thiêng liêng nhưng cũng rất chân thành với các hình thức bói Kiều, thơ vịnh Kiều, hát tuồng Kiều, diễn kịch Kiều... Người dân biết Kiều, hiểu Kiều, thưởng thức Kiều như thế nhưng họ đã từng bảo nhau:
    Đàn ông chớ đọc Phan, Trần
    Đàn bà chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều

    (Việt Nam văn học sử yếu - Dương Quảng Hàm)
    Tự Đức trong bài "Dục Tông Anh hoàng đế ngự chế tổng tứ" cũng đi đến kết luận giá trị cơ bản của "Truyện Kiều" là ở chỗ nó phát ngôn cho đạo đức phong kiến:
    Ngẫm lại cổ kim người hào kiệt
    Một thân mà gánh đạo cương thường
    Được thua sướng khổ, thôi đừng nói
    Hẵng đem lời ngọc phủ văn chương!

    Ở đây Kiều được tiếp nhận như là hiện thân của sự hy sinh thân mình để bảo vệ "luân thường đạo lý" phong kiến. Sức thuyết phục của "Truyện Kiều" đối với Tự Đức là rất đáng kể:
    Mê gì như đánh tổ tôm
    Mê ngựa hậu bổ, mê nôm Thuý Kiều

    (Vịnh Kiều)
    Đứng trên quan điểm đạo đức, tiêu biểu cho quan niệm "trung, hiếu, tiết, nghĩa", "tam cương, ngũ thường", Minh Mệnh trong bài "Thánh Tổ Nhân hoàng đế ngự chế tổng thuyết" đã ca ngợi Thúy Kiều là con người biết giữ tròn "đạo hiếu", "biết tiết, biết nghĩa".
    Nguyễn Văn Thắng cũng ca ngợi Thuý Kiều:

    Xét sau trước đủ trung trinh, tiết nghĩa

    Còn đối với Nguyễn Công Trứ thì trái lại, Thuý Kiều chẳng có hiếu hạnh, tiết nghĩa gì cả:

    Đã biết mà hồng thời phận bạc
    Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng
    Chiếc quạt thoa đành phụ nghĩa Kim lang
    Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải.

    (Vịnh Kiều)
    để rồi
    Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải
    Tấm thân tàn đem bán lại thanh lâu
    Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu
    Mà **** chán ong chường cho đến thế.

    (Vịnh Kiều)
    Nguyễn Công Trứ đã lên án Thúy Kiều một cách gay gắt:
    Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
    Đoạn tường cho đáng kiếp tà dâm
    Bán mình trong bấy nhiêu năm
    Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai
    Nghĩ đời mà ngán cho đời.

    (Vịnh Thuý Kiều)
    (còn tiếp....)
  2. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    ....
    Đứng trên quan đểm nhân sinh, quan điểm xã hội để bình luận, nhiều nhà tri thức không chịu sự ràng buộc bởi quan niệm đạo đức, lễ giáo phong kiến và ít nhiều bất mãn với xã hội đương thời thì trong chừng mực nào đó, họ tìm thấy hình bóng cuộc đời mình trong cuộc đời chìm nổi của Thuý Kiều. Phạm Quý Thích đã than thở:
    Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu
    Bạc mệnh cẩm chung oán hậu trường

    "Caí nợ sầu của hai chữ tài tình tuy khác đời mà cùng chung một dạ..." là vậy. Chu Mạnh Trinh thì đau xót và cũng nói đến "tình thương người đồng điệu":
    Than ôi!
    Một bước phong trần mấy phen chìm nổi
    Trời tình mù mịt, bể hận mênh mông
    Sợi tơ nhành theo gió đưa đi
    Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch

    (Vịnh Kiều)
    Chu Mạnh Trinh tỏ ra thông cảm và thương xót đối với cuộc đời bất hạnh của Thúy Kiều.
    Nếu như "Mộng Liên Đường chủ nhân" cắt nghĩa "Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy" thì Chu Mạnh Trinh cao hơn một mức: ông cho rằng nguyên nhân sâu xa của bấy nhiêu đau khổ trong cuộc đời Thúy Kiều cũng như cái chết của Từ Hải là do bất công của xã hội. Chu Mạnh Trinh thì nhất định biện hộ cho Kiều trước những lời kết án gay gắt của những người đứng trên quan điểm phong kiến cố chấp.
    Còn Nguyễn Khuyến thì nhận thức sâu sắc về thế lực ma quái của đồng tiền. Đó là nguyên nhân sâu xa của muôn vàn tội ác:
    Số kiếp ở đâu mà lận đận
    Sắc tài cho lắm cũng lôi thôi
    Cành hoa vườn Thúy duyên còn bén
    Ngọn nước sông Tiền nợ chẳng xuôi

    (Tống vịnh Kiều)
    Nhưng Tản Đà lại thông cảm với nỗi lòng đầy bi kịch của Thúy Kiều:
    Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng
    Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan

    (Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến)
    Phạm Quỳnh cũng ca ngợi Thúy Kiều "phong tình mà tiết hạnh". Phạm Quỳnh đã lớn tiếng rằng: "Một nước không thể không có quốc hoa, "Truyện Kiều" là quốc hoa của ta, một nước không thể không có quốc tuý, "Truyện Kiều" là quốc túy của ta, một nước không thể không có quốc hồn, "Truyện Kiều" là quốc hồn của ta... Truyện Kiều còn tiếng ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ" (Nam Phong tạp chí)
    Phạm Quỳnh cho rằng "Thúy Kiều có cái đức nghiêm của người phụ nữ mà lại có cái vẻ phong tình của khách phong lưu, đức hạnh đủ khiến kính, tài tình đủ khiến yêu, giá trị đủ khiến quý, thân thể đủ khiến thương, vì cảnh ngộ mà nặng kiếp đào hoa, trọng tình ý vẫn người tiết nghĩa ; ở nơi ô nhục mà vẫn giữ được tiết hạnh thanh cao, gặp gian nan mà không hề đắm đuối, Kiều nương thật là gồm được bấy nhiêu tư cách nên ai cũng phải kính, phải thương, phải yêu, phải trọng" (Nam Phong số 30-1919)
    Cụ Huỳnh Thúc Kháng lại ví "Truyện Kiều" với chiếc hộp sơn son thiếp vàng, "Về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong lại đựng những vật có chất độc". Rồi mấy lần cụ gọi Thúy Kiều là "Con đĩ Kiều", "Cái giống độc con đĩ Kiều"
    Theo trai gác xó lời cha mẹ
    Làm đĩ phận đành kiếp ngựa trâu.

    Cụ Huỳnh Thúc Khánh cho rằng: "Chuyện phong tình hồi tâm kia không đáng làm sách dạy, gieo cái nộc gió trăng hoa liễu trong tâm não thiếu niên nam nữ ta". (Tạp chí Tiếng Dân - 1934)
    Do ý thức yêu nước và quan niệm đạo đức phong kiến, Ngô Đức Kế cho rằng "Truyện Kiều tuy hay mà truyện là truyện phong tình, thì cái vẻ ai, dâm, sầu, oán, đạo dục, tăng bi, tám chữ ấy không tránh đằng naò cho khỏi. Thế mà ngày nay đức văn sĩ giả dối ta biểu dương "Truyên Kiều" lên để khai hoá cho quốc dân, đem "Truyện Kiều" mà làm sách "Quốc văn giáo khoa" (sách dạy), làm sách "Sư phạm giảng nghĩa" (sách thầy)".
    Ông còn chê Phạm Quỳnh là "Một anh giả dối lóp lép đứng đầu sùng bái Kiều, một bọn u mê hờ hững gào hơi, ráng sức để hoạ theo, còn một lớp người chỉ nghe lóm, nhìn mồm thì vỗ tay tán thưởng, khiến người bịt tai, bưng mũi, phải nhức đầu long óc vì những tiếng hô "Quốc văn! Kim Vân Kiều! Nguyễn Du!".
  3. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Ngô Đức Kế còn cho rằng "Truyện Kiều là sách quốc văn ăn vào trong óc, thấm vào trong đầu tỉ như ngoại tà đã nhập vào ngũ tạng, quỷ tà ám mất linh hồn thời dù lang y giỏi đến đâu, pháp sư cao tay ấn đến đâu cũng không cưú được nữa" (tạp chí Hữu Thanh - 1924)
    Hoài Thanh thì nói về "Truyện Kiều" như sau: "Cái đẹp ở "Đoạn trường tân thanh", cái chất thơ bàng bạc ở trong "Truyện Kiều" cũng cần phải được cảm thấy một cách hồn nhiên. Cứ phân tích, cứ giảng giải, nó sẽ tan đi. Đến đây phải im hơi, phaỉ nhẹ bước mới hòng nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng, thùy mị, khi tráng lệ, huy hoàng" (Nghìn thu vọng mãi Hoài Thanh. Tháng 3-1974)
    "Truyện Kiều" trước hết là tiếng kêu bi thương, một lời nguyền rủa, một giấc mơ, tất cả bắt nguồn từ tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người.
    Tiếp nhận "Truyện Kiều" qua "cảm hứng tố cáo chế độ phong kiến", Hoài Thanh đề cao "Từ Hải đã thực hiện một cách gián tiếp ước mơ có lẽ tha thiết nhất trong cuộc đời của Nguyễn Du". Đó chính là ước mơ công lý "Giữa cuộc đời cơ cực của Kiều, Từ Hải đã xuất hiện như một vì sao lạ làm sáng rực cả đời Kiều"
    Lan Khai cho rằng cái đẹp của "Truyện Kiều" là ở chỗ nó diễn đạt được "cái hay nhất của lòng người qua thời gian, cái con người vĩnh viễn":
    Vầng trăng ai xẻ làm đôi
    Nửa in gối chiếc nữa soi dặm trường
    Lưu Trọng Lư tiếp nhận "Truyện Kiều với đầy đủ nghĩa "Kiều như một người của nhân tính muôn thuở".
    Xuân Diệu, với tư cách là một nhà thơ, ông có những rung động thật rằng "Chết mà không nhục, mà còn đánh lại quân thù cho đến hơi thở cuối cùng, rồi ngang nhiên đứng sững đó. Từ Hải chết đứng, bao nhiêu người vùng lên đã bao phen chết đứng. Nhưng qua đời này đến đời nọ, gián tiếp rồi trực tiếp, họ đều đóng góp cho cuộc cách mạng cuối cùng thành công: cách mạng vô sản!"
    Đó chính là cảm hứng xuất phát từ hiện thực rối ren, thối nát của một thời đại đã qua. Nhưng ý kiến tiếp nhận của Trần Trọng Kim lại khác, ông viết "Tình ái như Kiều, trước sau biết nặng lời non nước, biết lấy hiếu làm trinh, biết nhân, biết nghĩa, thì làm sao không cho là luân lý cho được ?" (Minh Văn và Xuân Tước - 1964)
    Đó là những "lời nói", những "giá trị" đã tạo nên chuỗi nghĩa trong lịch sử tiếp nhận "Truyện Kiều" - "chuỗi nghĩa lịch đại".
    Từ sau 1945 đến nay, việc phê bình và tiếp nhận "Truyện Kiều" không đặt ra vấn đề luân lý, đạo đức, không đi vào những chi tiết vụn vặt, không tuyệt đối hoá giá trị văn chương của "Truyện Kiều", không thần bí hoá thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du.
    Ở Nguyễn Du, nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không hồi hộp trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì nghệ sĩ, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được nhưng âm điệu, những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, như oán hờn.
    Chế Lan Viên thì thổn thúc trước số phận nàng Kiều:
    Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
    Sắc tài sao mà lắm truân chuyên
    Bỗng quý Kiều như đời dân tộc
    Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường

    (Văn học lớp 10)
    Lê Đình Kỵ lại có ý kiến thật là khác lạ: "Nguyễn Du không nặn ra một Thúy Kiều để làm rạng danh cho vấn đề đạo đức (tức nói về trung, hiếu, tiết, nghĩa) mà Nguyễn Du xây dựng nhân vật Thuý Kiều theo cái riêng của mình, khác xa chế độ phong kiến".
    Đặng Thanh Lê cho rằng: "Truyện Kiều là một thành tựu đạt đến giá trị mẫu mực cổ điển. Kiệt tác văn học đã tở thành sự kiện văn hoá lớn, thành một tổng thể giá trị văn hoá cộng đồng, xuất hiện và tái sinh trong nhiều lĩnh vực văn hoá khác của một đất nước".
    Nhận xét về Thúy Kiều, Nguyễn Lộc viết: "Thúy Kiều không còn là con người bình thường mà phải là một nhân cách, một thước đo, một nguyên lý cuộc sống để mọi giá trị thực hay giả của đời sống đối chiếu với nó hay soi mình vào đó sẽ bộc lộ tất cả những bản chất tuyệt vời, cao đẹp hay bỉ ổi, xấu xa không thể nguỵ trang che dấu được".
    Mạnh Quân thì bộc bạch cảm nghĩ riêng: "Truyện Kiều dù nhiều người khen tôi vẫn không thích vì các nhân vật trong đó chẳng có mống nào ra hồn, toàn thứ thư sinh ẻo lả hay man trá, lưu manh, chỉ được chút Từ Hải thì lại vì quá mê gái mà tiêu tan sự nghiệp và tính mạng" (Truyện ngắn: Thần tượng của tôi)
    Các nhà lý lận văn học lại nhận xét: "Truyện Kiều là vấn đề số phận con người bị áp bức trong xã hội, đồng thời là tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa cất lên tha thiết từ xã hội đó. Đó là tiếng nói của tầng lớp người đau khổ, đòi tự do yêu đương, đòi công lý".
    "Chuỗi nghĩa lịch đại" và "Chuỗi nghĩa đồng đại" để trên đã tạo nên lịch sử tiếp nhận "Truyện Kiều". Lịch sử tiếp nhận "Truyện Kiều" sẽ còn được nối tiếp bằng ý kiến của bạn đọc hiện tại cũng như bạn đọc trong tương lai, kể cả "các bạn đọc" ở dưới mái nhà trường.
    ./.
    (st)
    ĐÍNH CHÍNH:
    1. Trong trích đoạn trên, câu thơ trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng bích nhớ Thúc Sinh: có câu
    Vần trăng ai xẻ làm đôi (xẻ/sẻ- dễ nhầm lẫn?)
    Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (nửa, chứ không phải NỮA - đây là cách viết, mà người viết trước, hoặc do chú typer nghệ viết sai)
    Nói chung, khi một tượng đài văn học được dựng, ở đây là Tượng đài KIỀU, cô kiều, hay ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH - TRUYỆN KIỀU của Nguyễn Du, thì có rất nhiều người tán thưởng, ngược lại không ít các nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị, và quần chúng PHẢN BÁC, đả kích,
    Chúng ta ở lớp hậu sinh, liệu sau này có còn ai chợt đứng lên phát biểu, tôi /chúng ta khóc cho cô Kiều, khóc cho cụ Nguyễn Thanh Hiên, như cụ đã từng khóc cho cô Kiều, như lời cụ hỏi :
    Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khấp TỐ NHƯ
    2.
    Các nhà Lý LUẬN (lận -> luận)
    (chẳng biết có lí luận ko nữa, hay lấy cái lý, theo kiểu LẬP LỜ ĐÁNH lận con đen :D)
    Còn rất nhiều lỗi typing khác, độc giả thông kảm !
    (hình như tác giả cố tình viết sai hay sao í, tôi sưu tầm bài này, ngõ hầu mang lại một vài ý kiến khác lạ, hoặc đúng/sai thông qua chính tác giả này)
    Được luc_thao sửa chữa / chuyển vào 09:08 ngày 13/06/2007
  4. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2

    Phái thì cho rằng: Truyện Kiều là một cuốn Kinh Thánh về thi ca của nền văn học Việt Nam. Bút pháp của Nguyễn Du đạt đến mức mẫu mực về sáng tạo. Ngày nay, phải đọc những tập thơ nhờ nhợt của các nhà thơ mà cảm thấy buồn vì hậu sinh khả ố.
    [nick] [nick]
    [nick]hieulambacphai sửa chữa / chuyển vào 21:49 ngày [nick]2007 [nick]
    Được thieulambacphai sửa chữa / chuyển vào 21:50 ngày 12/06/2007
  5. sinh_vien_thuc_tap

    sinh_vien_thuc_tap Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2006
    Bài viết:
    3.946
    Đã được thích:
    0
    nhà thơ đây:
    http://www9.ttvnol.com/forum/KBC/466507/trang-1.ttvn
    http://www9.ttvnol.com/forum/KBC/473699/trang-1.ttvn
  6. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    DUYÊN ĐẰNG thuận nẻo gió đưa
    Cùng chàng kết tóc, se tơ những ngày
    (Câu 1531, 1532. Họan Thư, vợ Thúc Sinh)
    Câu ?oDuyên đằng thuận nẻo gió đưa?, Nguyễn Du mượn ý câu thơ cổ ?oThời lai phong tống Đằng vương các? (thời tới thì gió đưa đến gác Đằng Vương). Câu này ngụ ý nói sự may mắn ở đời .
    Tương truyền vua Đường Cao Tông cho một người con làm Thứ Sử Hồng Châu, quân Nam Xương thuộc tỉnh Giang Tây và phong người con ấy tước Đằng Vượng . Đằng Vương cho xây một cái gác ở nơi ấy, đặt tên là Đằng Vương Các .
    Khi Diêm Bá Dư đến nhận chức Đô Đốc ở Hồng Châu, đặt tiệc ở gác Đằng Vương để thết đãi tân khách và các bậc văn mặc . Diêm Bá Chư cũng yêu cầu tân khách đến dự tiệc, mỗi người nên làm một bài tự nói về gác Đằng Vương ngay trong bữa yến .
    Vương Bột (1) năm ấy mới mười sáu tuổi, hay tin nhưng lại ở xa mấy trăm dặm nên không biết làm sao đến họp mặt với các văn nhân thi sĩ ở các Đằng Vương . Có một cụ già khuyên Vương Bột cứ chuẩn bị thuyền, chèo và buồm thì tự nhiên sẽ có gió đưa chàng tới nơi . Vương Bột nghe lời cụ già, chuẩn bị đầy đủ thì quả nhiên đêm ấy có gió lớn nổi lên . Chàng dong buồm cho thuyền khởi hành và hôm sau đã đến Đằng Vương các, kịp vào dự tiệc .
    Đô Đốc Diêm Bá Dư thấy Vương Bột, còn nhỏ quá, có ý coi thường nhưng cũng miễn cưỡng cấp giấy bút cho chàng để làm bài tự Đăng Vương các . Lại sai một người đứng cạnh bên chàng, hễ Vương viết xong câu nào thì người ấy phải sao lại đem trình cho Bá Dư ngay .
    Mới đọc mấy câu đầu của bài tự, Diêm Bá Dư rất lấy làm ngạc nhiên về lối văn già dặn của chàng thiếu niên Vương Bột .
    Đọc đến hai câu:
    ?Lạc hà dữ cô vụ tề phi
    Thu thúy cộng tràng thiên nhất sắc?. (2)
    Thì Diêm Bá Dư tỏ ra khâm phục Vương Bột vô cùng . Kết cuộc, bài tự Đằng Vương các của Vương Bột trội hơn tất cả các bài của tân khách trong việc . Từ đó, Vương Bột vang danh khắp nơi .
    (1) VƯƠNG BỘT (648 ?" 675) tự Tử An, sáu tuổi đã biết làm văn . Mười sáu tuổi đã nổi danh với bài tự Đằng Vương các . Vương hạ bút thành câu, văn chương trác nguyệt . Tiếc thay, người tài cao nhưng mệnh yểu; năm hai mươi tám tuổi bị chết đuối ở Nam Hải trong chuyến đi thăm cha làm Thứ Sử Giao Châu .
    Vương Bột là một trong bốn thi sĩ cao danh thời Sơ Đường . Ba người kia là Dương Quýnh, Lư Chiếu Lan và Lạc Tân Vương .
    (2) Ráng chiều với cò lẻ cùng bay
    Nước thu cùng trời dài một sắc .
  7. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Lạ gì bỉ sắc, tư phong
    Trời xanh quen thói MÁ HỒNG đánh ghen
    (Câu 5,6. Mở đầu truyện Kiều)
    "Phận HỒNG NHAN có mong manh
    Nửa chừng xuân thoát gãy cành thiên hương"
    (Câu 65, 66. Vương Quan dẫn giải về Đạm Tiên)
    "Phũ phàng chi bấy hoá công
    Ngày xanh mòn mỏi, MÁ HỒNG phôi pha"
    (Câu 85, 86. Kiều khóc Đạm Tiên)
    Rằng: HỒNG NHAN tự nghìn xưa
    Cái điều BẠC MỆNH có chừa ai đâu".
    (Câu 107, 108. Kiều trả lời Thuý Vân ở mộ Đạm Tiên)
    "Tuồng chi là giống hôi tanh
    Thân nghìn vàng để ô danh MÁ HỒNG"
    (Câu 853, 854. Kiều nghĩ khi đã bị Mã Giám Sinh phá thân)
    "Số còn nặng nợ MÁ ĐÀO
    Người đà muốn quyết, trời nào đã cho"
    (Câu 997, 998. Đạm Tiên nói với Kiều trong mơ)
    "PHẬN sao BẠC chẳng vừa thôi
    Khăng khăng buộc mãi lấy người HỒNG NHAN"
    (Câu 1763, 1764. Kiều than thở khi ở nhà Hoạn bà)
    Rằng: "Nàng chút phận HỒNG NHAN
    Gặp cơn binh cách nhiễu nàn cũng thương".
    (Câu 2541, 2542. Hồ Tôn Hiến nói với Kiều)
    "Bấy lâu nghe tiếng MÁ ĐÀO
    Mắt xanh chẳng để ai vào phải không".
    (Câu 2181, 2182. Từ Hải hỏi Kiều)
    "Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
    Vô duyên là phận HỒNG NHAN đã đành".
    (Câu 2659, 2660. Tamp hợp đạo cô nói với Giác Duyên)
    "Nàng đà gieo ngọc trầm châu
    Sông Tiền Đường đó, ấy mồ HỒNG NHAN".
    (Câu 2963, 2964. Kim và Vương được trả lời về Kiều).
    "Còn chi là cái HỒNG NHAN
    Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào".
    (Câu 3101, 3102. Kiều nói với Kim Trọng)
    "Canh khuya bức gấm rũ thao
    Dưới đèn tỏ rạng, MÁ ĐÀO thêm xuân".
    (Câu 3141, 3142. Kim Kiều hội ngộ)
    ==============================================================
    "Khúc nhà tay lựa nên chương
    Một thiên BẠC MỆNH nghĩ càng não nhân".
    (Câu 33, 34. Khúc đàn của Kiều)
    "Đau đớn thay, phận đàn bà
    Lời rằng BẠC MỆNH cũng là lời chung".
    (Câu 83, 84. Kiều tỏ lời thương xót Đạm Tiên)
    "Anh hoa phát tiết ra ngoài
    Ngàn năm BẠC MỆNH một đời tài hoa".
    (Câu 415, 416. Kiều tâm sự với Kim Trọng)
    "Dù em nên vợ, nên chồng
    Xót ngườiMỆNH BẠC, ắt lòng chẳng quên".
    (Câu 737, 738. Kiều cậy Thúy Vân gá nghĩa với Kim Trọng)
    Sinh rằng: "Thật có như lời
    HỒNG NHAN BẠC MỆNH, một người nào vay".
    (Câu 1095, 1096. Thúc Sinh bào chữa cho Kiều).
    Tiểu thư rằng: "Ý trong tờ
    Rắp đem MỆNH BẠC xin nhờ cửa Không".
    (Câu 1909, 1910. Hoạn Thư nói với Thúc Sinh)
    Thưa rằng: "BẠC MỆNH khúc này
    Phổ vào đàn ấy, những ngày còn thơ".
    (Câu 2575, 2576. Kiều đàn dưới trướng Hồ Tôn Hiến).
    "Cung cầm lựa những ngày xưa
    Mà gương BẠC MỆNH bây giờ là đây".
    (Câu 2577, 2588. Kiều đàn cho Hồ Tôn Hiến nghẹ)
    HỒNG NHAN, MÁ HỒNG, MÁ ĐÀO cùng một nghĩa để chỉ người phụ nữ có nhan sắc hơn đờị
    MỆNH BẠC hay BẠC MỆNH là số phận mỏng manh, không được hưởng sự suôn sẻ, hạnh phúc trong đời sống; thường gặp những điều bất trắc, khổ đau tột cùng ...
    Bạc mệnh thường đi chung với hồng nhan và đã trở thành một thành ngữ thông tục. Nhà thơ Tô Đông Pha đời nhà Tống đã bảo "tự cổ hồng nhan đa bạc mệnh" (Từ xưa khách má hồng thì phần nhiều là phận mỏng). Sách Tình sử cũng có câu "Tạo vật đố hồng nhan"; nghĩ là tạo hoá hay ghen ghét người đàn bà đẹp.
    Hồng nhan mà để trở thành mệnh bạc thì không phải chỉ cần có sắc đẹp không thôị Đẹp hơn người đã đành, nhưng phải là người thông minh, tài hoa, mẫn tiệp đa tình... Nếu đẹp mà ngu, bất tài thì chả ai thèm nhìn đến; thế thì làm sao mang lấy kiếp bạc mệnh được. Cái lý bạc mệnh của hồng nhan là do sự thông tuệ tài tình nên mới gây thành sóng gió...
    Theo luật "Tài mệnh tương đố" (Tài và mệnh đố kỵ nhau, người đàn bà có được ưu điểm ở phương diện này thì phải bị khuyết điểm ở phương diện khác (phong vu bỉ, sắc vu thử).
    Trong lịch sử những người đẹp trên thế gian này xưa nay, không biết bao nhiêu người sắc nước hương trời, tài hoa tuyệt diệu phải lâm vào cảnh bạc mê.nh. Thế cuộc đời của những khách hồng nhan bạc mệnh như thế nào ? Chết non yểụ Sớm goá buạ . Làm thân nàng hầu, lẽ mọn. Liễu ngõ hoa tường, thanh lâu kỹ viện, bèo dạt hoa trôi ...
    Tự sát chết thì có hai bà Nữ Anh và Nga Hoàng, vợ vua Thuấn; nàng Lục Châu ái thiếp của đại phú thương Thạch Sùng. Uống thuốc độc chết thì có Vương Chiêu Quân, Triệu Hợp Đức là Chiêu Nghi của Hán Thành Đế; Maryline Moonro nữ tài tử màn bạc Mỹ. Bị giết chết có Dương Quý Phi của vua Đường Huyền Tông ; Triệu Phi Yến chánh cung của Hán Thành Đế; Yên Hậu vợ Tào Phi; Marie Antoinette hoàng hậu của vua Louis 16 nước Pháp. Chết vì sầu khổ triền miên thì có Tề Cẩm Vân, Hồng Hồng ca nữ, Vương Ấu Ngọc kỹ nữ. Bèo dạt hoa trôi thì cóLâm Tứ Nương, Ngư Huyền Cơ, Ngọc Đường Xuân. Làm thân tì thiếp thì có Điêu Thuyền đời Tam Quốc (một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc), Vương Triều Vân, Hồng Tuyến Nữ. Dâm đãng lăng loàn thì có Tề Văng Khương, Tây Thái Hậu, Trương Lệ Hoa, Phan Kim Liên.
    Các điển tích sau đây cho chúng ta thấy rõ kiếp bạc mệnh của người hồng nhan:
    1. Tô Đông Pha, một danh sĩ và là một vị quan lớn của Tống triều, vì bất đồng chính kiến với Tể Tướng Vương An Thạch nên bị biếm đi Hàn Châu,
    Lúc sắp lên đường, nhà thơ được người bạn thân họ Tưởng đến tiễn biệt. Tô Đông Pha sai người thiếp yêu là Xuân Nương thiết tiệc đãi bạn. Trong lúc uống rượu, khách hỏi:
    - Chẳng hay quý nhân có đi theo ngài chăng ?
    Tô Đông Pha đáp:
    - Đường xa xôi vạn dặm, có lẽ Xuân Nương theo không tiện. Tại hạ định cho nàng về với song đường.
    Khách nghe thế, ngỏ ý đem con ngựa bạch của mình đổi lấy mỹ nhân. Tô Đông Pha thuận ngay, Xuân Nương nghe thế bèn bước đến sửa áo thưa rằng:
    - Thiếp trộm nghe, ngày xưa vua Tề Cảnh Công định chém người con ngựa mà Án Tử còn can ngăn. Đức Khổng Tử bị cháy chuồng ngựa, chỉ hỏi đến người chớ không hỏi ngựa. Các điều ấy chứng tỏ người quý hơn vật. Nay Học sĩ đem người đổi lấy ngựa vậy Học sĩ xem vật quí hơn người
    Đoạn, nàng ứng khẩu đọc một bài từ:
    "Làm người thì chớ làm đàn bà
    Mọi điều sướng khổ, quyền người ta
    Nay mới biết người còn kém vật
    Oán ai, thôi sống cũng bằng thừa"
    Rồi Xuân Nương bước xuống thềm và đập đầu vào thân cây hoè tự tận. Tô Đông Pha hối hận, thương tiếc vô cùng. Nhưng than ôi, Xuân Nương nhan sắc và tài hoa đâu còn nữa...
    =========
    2. Ngày xưa đã có nhiều khách má hồng phận bạc như thế. Còn ngày nay thì sao ? Thời nào và ở đâu, cái kiếp mệnh bạc vẫn luôn đeo đẳng lấy người hồng nhan.
    Trong thập niên 1930 ở tỉnh Quảng Đông Trung Quốc có nàng kỹ nữ Kim Kiều nổi danh tài sắc. Tiếng tăm của Kim Kiều vang dội khắp nơi. Người ta chỉ cần nhớ đến hai tiếng Kim Kiều chớ không cần biết tên họ thật của nàng là gì. Vừa có nhan sắc nhạn sa cá lặn mà lại vừa đa tình nên ai trông thấy nàng cũng đâm ra mê mẩn ngay, Không biết bao nhiêu trang phong lưu công tử, bao nhiêu đạt quan quý nhân thời bấy giờ điên đảo vì nàng. Họ sẵn sàng ném tiền qua cửa sổ để mua lấy những "cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm" với nàng kỹ nữ tài hoa ấỵ
    Cuộc đời của nàng Kim Kiều tưởng như luôn luôn được chiều chuộng, thoả mãn trong cảnh vàng son. Nào ngờ đâu một đêm kia, hoả hoạn xảy ra thiêu rụi cả xóm yên hoa và Kim Kiều bị chết cháy trong ngọn lửa vô tình, với tất cả tài sản của nàng.
    Tin Kim Kiều chết được loan truyền đi khắp Trung Hoa. Thật đúng là cái cảnh "nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương". Không biết khách tài hoa phong lưu ở khắp nơi đổ xô về Quảng Châu để thương hương tiếc ngọc. Người ta bới trong đóng tro tàn tìm thấy nắm xương của Kim Kiều đem chôn cất và xây cho nàng một ngôi một thật khang trang.
    Sau đó, các giới văn nghệ sĩ còn sáng tác kịch, bài ca nói về cuộc đời nàng để phổ biến trong dân chúng.
  8. sinh_vien_thuc_tap

    sinh_vien_thuc_tap Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2006
    Bài viết:
    3.946
    Đã được thích:
    0
    Ráng rán lại thịt gà rán.
    Ke ke, đối đê
  9. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    ok, mời các cốc chủ đối đi:D
    Độ này KBC đứng trước một nguy cơ tạm gọi là "tan rã có hệ thống"
    Hiện tượng: các hào trưởng, tù trưởng đứng ra cát cứ mỗi phương, làm cho quần hùng có ý tưỏng " ví thử thân mình chia X được" X = 1,2,....n he he,
    Nguyên nhân: các tù trưởng định lập cứ điểm riêng, và kéo quần hùng về phía mình để tạo lập căn cứ, rồi ..xây một bức tường hình tròn:) và chuẩn bị ...đậy nắp
    Với tình trạng như trên, khéo tránh khỏi căn nhà chung KB online ... đi dần vào chỗ suy vi, không còn hòanh tráng như những tháng năm về trước, ôi, thời gian. He he,
    Thẩm nào, trong cái bóc suy tư của lão cọ, lão í bảo Kim tự tháp cũng phải sợ trước sự tàn khốc của thời gian, huống chi, KB đã đâu phải là một pháo đài, nhỉ!
    Với đà này, Quán đối cũng sẽ ra đi theo thời gian, và ...chìm vào không gian quên lãng,
    Vì vậy, tôi cũng chuẩn bị ... tắt điện, để tiết kiệm điện theo tiêu chí quốc gia
    Kính báo, !
    QUẢN CHÚ:)
  10. sinh_vien_thuc_tap

    sinh_vien_thuc_tap Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2006
    Bài viết:
    3.946
    Đã được thích:
    0
    Cốc cốc booooooonggggg!
    Mênh mênh mang mang, phù vân yên tử
    Âm âm u u, lục thao quán chủ
    Chẳng một bóng người khiến nhện về giăng
    Giữa quán buồn trông Kiều về đối mộng mộng mộng ộng ộng ng ng....
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này