1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quán đối, lượm lặt bốn phương.

Chủ đề trong 'Bắc Giang - Bắc Ninh' bởi luc_thao, 09/09/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Giáo sư tiến sĩ ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn: Chữ nghĩa Truyện Kiều cần nhiều người tranh luận!
    Từ tít tắp trời Tây, đầu tháng 1.2006 ông về Hà Nội, hôm sau cụ ?đồ Nghệ? Nguyễn Tài Cẩn một mình lên tàu về làng Thượng Thọ (nay là xã Thanh Văn, huyện Thanh Chương) để làm bổn phận một hậu duệ dòng họ Nguyễn Tài. Một sáng đẹp trời, tôi theo ông sang Tiên Điền (Hà Tĩnh) dâng hương khu mộ Đại thi hào Nguyễn Du. Chưa được đọc những phát hiện mới nhất về Truyện Kiều của nhà ngôn ngữ học lừng danh, nhưng được một ngày tháp tùng người thầy khả kính, tôi cảm nhận sâu sắc chữ Hiếu, chữ Tâm trong ông.
    >> Thưa thầy, nhiều thế hệ sinh viên ngữ văn Tổng hợp Hà Nội sau nhiều năm ra trường vẫn nhớ lời thầy chỉ dạy: Lên rừng ăn măng xuống biển ăn cá! Đang nghiên cứu ngôn ngữ học, những năm gần đây, thầy chuyển sang nghiên cứu Truyện Kiều qua các bản Kiều cổ, phải chăng thầy đã ?đổi món?, lên rừng ăn cá xuống biển ăn măng?
    - Hai cuốn sách nghiên cứu Truyện Kiều vừa ra, và 500 trường hợp về chữ nghĩa Truyện Kiều tôi sắp công bố không phải là ?đổi món?, nên xem nó như công việc tay trái sau khi tôi nghỉ hưu vậy! Chuyện là, đầu thập niên 80 tôi với nhà tôi (TS Ngữ học Nona Stankevich - G.H ) được cử sang dạy tại ĐH Pari VII thời gian 3 tháng. Sang Pháp hôm trước, hôm sau chúng tôi đến thăm cụ Hoàng Xuân Hãn, tôi đặt vấn đề : ?Thưa bác, sang Pháp, cái gì có thể làm được mà ở Hà Nội không làm được??.
    Cụ Hãn bảo: ?Có hai việc, một, vào cơ quan truyền giáo nước ngoài vì đạo công giáo của mình có từ TK 16-17 đến nay. Hai, thu thập các bản văn cổ, ví dụ như Kiều, mà ở nhà không có?. Thế là vừa lên rừng đã được ăn măng chứ đâu ăn cá! Nhà nước cho đi 3 tháng, tôi dành 2 tháng ?mắc võng? tại cơ quan truyền giáo nước ngoài, bám riết cụ Snayde người Pháp và cụ Hãn để thu thập Truyện Kiều. Hai cụ đánh giá mấy ý kiến rất cơ bản: Ở bên nhà từ đầu TK 20 đến nay chỉ dựa vào bản Kiều Oánh Mậu in năm 1902, thoảng có nhắc bản Liễu Vân Đường 1871 nhưng không có trong tay, vậy ta phải dựa vào những bản TK 19, càng xưa càng tốt, càng nhiều càng tốt, và tôi đã nghiên cứu 8 bản đời Tự Đức có tại nhà cụ Hãn.
    Rất không may, năm 1996 cụ Hãn mất khi chưa kịp ra sách, nhưng cụ vẫn phát biểu được một bài với nhà báo, đăng ở bên Mỹ và đăng trên tạp chí văn học. Sau khi đăng bài cụ Hãn phát biểu, ở bên nhà liền nổ ra cuộc tranh cãi giữa một số ông nghiên cứu.
    >> Thu thập được 9 bản Kiều cổ để nghiên cứu, trong đó thầy rất coi trọng bản Duy Minh Thị. Và giữa các bản có khoảng 1700 câu khác nhau; nay đã thống nhất được khoảng 1300 câu. Điều đó thật vô cùng quý, nhưng vẫn còn hàng trăm câu khác nhau và trong số này lại có khoảng 200 câu dễ giải quyết vì thợ khắc sai nên ai cũng thấy được. Không ngôn ngữ nào dễ bị bút sa nhà cháy như tiếng Việt, cùng ?con giun? ấy nhưng khi dựng lên hoặc nằm ngang dùng làm thanh điệu đã trời vực rồi. Dấu hỏi (?) hay dấu ngã (~), nghỉ hay nghĩ trong Gia tư (...) cũng thường thường bậc trung hoặc chữ ngày ngày hay là Ngay ngày chơi mả Đạm Tiên, thưa thầy?
    - Các cụ đồ Nghệ chép Nguyễn Du hay bản thân Nguyễn Du đi nữa, chữ ?ngay? cũng là ?ngày?. Người Nghệ nói ?đi ba ngay chưa về? thì ngay là ngày; dân Bắc, dân Nam, dân Huế không hiểu chữ ngay là ngày. Người sau đọc Ngày ngày chơi mả Đạm Tiên cảm thấy vô lý bèn đổi thành Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên. Với người Việt để biểu thị ngày và đêm chỉ nói ban thôi : ban ngày ban đêm; Buổi cũng biểu thị thời lượng nhưng ngắn hơn ban: buổi sáng / buổi trưa / buổi chiều / buổi tối; Nói buổi ngày là không đúng, trừ trường hợp nói tắt: bộ phim này chiếu hai buổi, buổi ngày lúc 9h sáng, buổi đêm lúc 23h. Người chép sau không hiểu bản chép trước của người Nghệ nên chỉnh sửa thành Ngày ngày chơi mả Đạm Tiên.
    Nếu như đúng mẹ Cụ Nguyễn Du chết ở đất Tiên Điền, Cụ ở đây cư tang đến năm 1781 thì tiếng Nghệ trong Cụ cũng đậm đặc lắm! Còn nghĩ ở đây đồng nghĩa với chữ vốn. Trong Truyền kỳ mạn lục mỗi lần có chữ bạt (là vốn) đều dịch là nghĩ, vậy cứ viết dấu ngã mới đúng! Còn ?mắc? về chữ thì nhiều lắm. Bản của Kiều Oánh Mậu 1888 đời Thành Thái vì kỵ huý đã ghi Gió hiu hiu thổi một vài bông lau, nhưng các bản Kiều cổ đều ghi Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau. Ngọn lau nghe không đẹp bằng bông lau nhưng mà đúng vì sinh vật học cho biết hoa lau chỉ nở vào mùa thu, tiết Thanh minh lau chưa nở hoa, mà chưa đến mùa hoa nở thì chỉ có ngọn lau thôi!
    Nguyễn Trung Ngạn viết: Lô kỳ sắc ngạc tân phong (Cờ lau phất trắng đất trời sang thu), mấy trăm năm trước nhà thơ người Việt đã viết vậy, người chép sau cứ nghĩ bông đẹp hơn ngọn nên chép là bông. Hay như một bản Kiều ghi ?Mà lòng trưởng nghĩa khinh tài xiết bao? thì trong một chuyến điều tra điền dã, cụ Hoàng Xuân Hãn bất thình lình hỏi cụ tiến sĩ Nghè Mai (1876-1954, hậu duệ của cụ Nguyễn Du - GH ), suy nghĩ một lúc cụ Nghè Mai đáp: Trong dòng họ nhà tôi nói trưởng nghĩa để kỵ huý tên ông chú là Nguyễn Trọng! Có kỵ huý của triều đình và cũng có kỵ huý của dòng họ. Hậu duệ Cụ Nguyễn Du nói thế không tin sao được. Gần đây anh Ngô Đức Thọ chuyên về kỵ huý đã nghiên cứu chữ trọng viết thừa nét.
    Tất cả các bản Kiều đều nói: Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm, chỉ duy nhất bản Duy Minh Thị in 1872 chép là thư hoạ, và đây là bản đúng. Vì thi hoạ với ca ngâm là lặp, trái lại pha nghề thư hoạ tức là pha nghề thư pháp, hoạ pháp để nói Kiều cũng giỏi món này. Chứng cứ là, Hoạn Thư ghen tuông ghê gớm cũng phải thốt lên: Khen rằng bút pháp đã tinh... Cũng vì cách nói của người Nghệ, viết thư còn gọi là biên thơ, mà từ thư đến thơ rồi từ thơ đến thi chỉ cách nhau gang tấc!
    >> Thưa thầy, không riêng gì lớp thanh thiếu niên, đến như thế hệ U.50 cũng nhiều người chẳng biết khi đang yêu Kim Trọng, cô Thuý Kiều bao nhiêu tuổi?
    - Ta thường đọc tới tuần cập kê hoặc đến tuần cập kê. Tuần cập kê là 15 tuổi, nếu cô Kiều 15 tuổi thì cô Vân 14 và cậu em 13, Kim Trọng tuổi 20. Mà trong sách Tàu, Kim Trọng gọi cậu em Vương Quan là tôn huynh, ông 20 tuổi lại là bạn học với ông 13 tuổi (?), lại gọi ông 13 tuổi là tôn huynh (?), nghe có được không? Riêng bản Duy Minh Thị viết lên tuần cập kê, nghĩa là cao hơn tuần cập kê, cao hơn tuổi 15. Phải công nhận người Pháp tìm hiểu rất sâu văn hoá nước mình.
    Từ năm 1881 đã có bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp của Anbenobesen rồi, ông Tây này sống cùng thời với Duy Minh Thị nên ông ta dựa theo bản Duy Minh Thị và bản Trương Vĩnh Ký. Anbenobesen hỏi Duy Minh Thị: Chữ lên này, thăng trên thì dưới phải chữ liên. Ông Duy Minh Thị bảo: Thợ Trung Quốc khắc sai, trên là chữ thượng thì dưới mới là chữ liên. Cho nên ?trên tuần cập kê?, có thể cô Kiều tuổi 19, cô Vân tuổi 18, Vương Quan tuổi 16 - 17. Mà anh 16 - 17 tuổi có thể chơi thân bạn bè với với anh 20 tuổi còn nghe được.
    >> Trong một câu khi Kim - Kiều tái hợp, Kiều bảo: ?Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng/ Hoa thơm phong nhuỵ trăng vòng tròn gương?. Thì trong ?đạo? hay trong ?sự? đúng, thưa thầy?
    - Câu này đại ý là ?tôi không còn trinh tiết nữa?, tôi đã ?hoa đời? rồi không còn ?nụ đời? nữa, xin làm bạn với chàng thôi! Cũng như đạo vua tôi, cha con, quân thần, anh em; nghiên cứu cho kỹ khi nói đạo vợ chồng là nói về đạo nghĩa. Ví như đối với chồng thì lễ phép, khi đưa chén trà thì tay nâng ngang mày, khi chồng đang theo học thì đêm đêm quay tơ để nuôi chồng v.v.. Đó là đạo vợ chồng. Đạo không nói ?chuyện ấy? của vợ chồng cho dù cuộc sống có ?chuyện ấy? mới nảy nở sinh sôi giống nòi nhưng Nho giáo không đưa ?chuyện ấy? lên thành đạo, cho nên Cụ Nguyễn Du viết trong bản Duy Minh Thị: Nghĩ rằng trong sự vợ chồng. Nhiều người đánh giá chữ sự cao hơn chữ đạo, mặc dầu thoạt nghe có vẻ kém hơn.
    Lại nữa, Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương. Đã sẵn lại còn phải kiếm nghe có xuôi không? Xuân Diệu nói: Sẵn đây ta thắp một vài nén hương, nghe thì đúng, nhưng về mặt chữ Nôm thì ?kiếm? và ?thắp? khác xa nhau. Cụ Hãn đề xuất: Sẵn đây ta cắm một vài nén hương. Chữ ?kiếm? mà qua chữ ?cắm? là gần nhau, đó là một ý kiến đáng suy nghĩ. Cá nhân Cụ Hoàng Xuân Hãn đánh giá như vậy, cá nhân Nguyễn Tài Cẩn cũng đánh giá như vậy, liệu anh em đồng nghiệp đã đồng ý chưa? Thế nên phải tung ra để cùng nhau thảo luận thì mới thống nhất được. Khoa học phải đoàn kết. Để thấy rằng việc nghiên cứu văn bản Truyện Kiều là rất khó.
    Trầm tư trước cuốn sổ lưu niệm, ?đồ Nghệ? Nguyễn Tài Cẩn lần đọc hết những lưu bút của những người đến trước: Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Thủ tướng Phan Văn Khải, Bộ trưởng Bộ VHTT Phạm Quang Nghị...., cụ đề xuất với Ban quản lý Khu Di tích Nguyễn Du cho phép được trừ lại mấy trang giấy trắng để mời những nhà văn, nhà thơ, nhà văn hoá lớn trong và ngoài nước ghi trước đã, rồi mới đến trang viết của mình, vì ?tôi chỉ là người nghiên cứu ngôn ngữ học? - cụ viết.
    (Theo Lao động)


  2. sinh_vien_thuc_tap

    sinh_vien_thuc_tap Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2006
    Bài viết:
    3.946
    Đã được thích:
    0
    Hay thật, không đọc thì không biết được đâu nhỉ
  3. sinh_vien_thuc_tap

    sinh_vien_thuc_tap Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2006
    Bài viết:
    3.946
    Đã được thích:
    0
  4. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    ''''Sính...tặc''''
    Không hiểu sao dạo này cánh nhà báo chúng ta lại "sính" dùng chữ tặc đến thế? Hễ nơi đâu có xảy ra những hiện tượng tiêu cực có tính chất đồng loạt thì cứ đem chữ tặc gán vô ! Do thấy chữ tặc xuất hiện quá nhiều trên mặt báo nên tôi thử... sưu tập các loại... tặc. Nay xin được mạo muội "công bố"...
    Trước hết là cái tin Đủ loại tặc trên... báo nhà: "Mỗi độ hè về, du khách thập phương đổ về Sầm Sơn (Thanh Hóa) tắm biển... Có điều không hiểu sao nhiều "tặc" đến thế. Nào là "xích lô tặc", "ghế tặc", "ngựa tặc", "rác tặc"... Mùa hè này lại xuất hiện thêm "điện tặc" (Báo Thanh Niên, trang 14 ngày 16/5/2005).
    Đọc đoạn tin này chúng ta có thể hiểu được: giới đạp xe xích lô, cánh cho thuê ghế, thuê ngựa... chèo kéo, ******** làm tội dẫn đến... làm tiền du khách, còn "rác tặc", "điện tặc" thì... phải đọc kỹ mới hiểu ! Vậy thì ta cùng đi từ "tặc... dễ hiểu" đến "tặc... khó hiểu" nhé!
    Nạn rải đinh cho xe mô tô cán ("Đinh tặc" - Báo Thời Trang Trẻ, trang 46 ngày 25/8/2004). Nạn đốt rừng và phá rừng: Rừng Thái Nguyên - cuộc chiến với hỏa tặc và lâm tặc (Báo Nhân Dân hằng tháng số 88/8-2004). Nạn phá hoại trên mạng Internet: bài Brazil, "thủ đô tin tặc" của thế giới (Báo Người Lao Động ngày 16/9/2004). Nạn đào đãi vàng, khoáng sản trái phép, vô tổ chức: tin Quảng Nam: tập kích "vàng tặc"... (Báo Tuổi Trẻ ngày 13/9/2004).
    Nạn phá hoại cây cối, hoa màu: bài Một nông dân điêu đứng vì 6 lần bị "nông tặc" (Báo Pháp Luật ngày 29/9/2004). Bài La Le - "khoáng tặc" lộng hành (Báo Tiền Phong ngày 23/8/2004), bài Bao giờ "khoáng tặc" hết hoành hành? (Báo Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 12/9/2004), bài Chính quyền xã Trà Thanh có tiếp tay cho "vàng tặc"? (Báo Tiền Phong 15/9/2004), bài TP Hồ Chí Minh: "kiểng tặc" lộng hành ở vùng ven (Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 22/10/2004), bài Vào vùng "thiếc tặc" lộng hành (ngày 3/6/2005),...
    Đó là những chữ tặc tương đối dễ hiểu, còn rất nhiều những tặc "hiểu chết liền": Lũ mèo hoang phá phách (tin Mèo "tặc" - Báo Lao Động ngày 26/8/2004). Bọn trộm sử dụng ghe, tàu ra giữa biển bắt trói hành hung những người nuôi nghêu và cào luôn các "vật nuôi" của họ ("Nghêu tặc" lộng hành - Báo Người Lao Động ngày 1/9/2004).
    Chỉ trong một số Báo Pháp Luật TP.HCM ra ngày 18/8/2004 có đến 2 loại "tặc" đó là "tiêu tặc" và "béc tặc" khó hiểu: hóa ra ai đó đã "sát thủ" hết hơn 100 nọc tiêu của một bà lão nông dân tội nghiệp ở Long Khánh (Đồng Nai) vậy là có cái tin ngắn ?otiêu tặc", nhưng vẫn chưa "siêu" bằng kiểu gọi "béc tặc": dân trồng rau ở Đà Lạt luôn bị mất trộm cái van tưới bằng kim loại gắn ở đầu các ống dẫn nước để có thể tưới xoay chiều tự động - gọi là cái "béc" (bài Đà Lạt: "Béc tặc" quấy nhiễu các vườn rau, trong bài còn hai lần dùng từ "nông tặc").
    Ở Bến Lức (Long An) gần đây có những kẻ "bệnh hoạn" khoái kè theo chị em phụ nữ rồi bất ngờ phóng kim tiêm vào... vòng số 3 của họ rồi bỏ chạy. Đó là bài "Mông tặc" tái xuất giang hồ ở Long An (Báo Người Lao Động ngày 25/5/2005), bài Long An: nạn "mông... tặc" lại hoành hành (Báo An Ninh Thế Giới ngày 1/6/2005).
    Trên Báo Pháp Luật TP.HCM có đăng bài Bạc Liêu: 22 "dê tặc" bị bắt ! - đọc tựa đề, rất dễ hiểu nhầm là cả một "trung đội" này rủ nhau đi "khám điền thổ" và bị tó. Nhưng không phải: "dê tặc? cứ rảo quanh xóm dò la, thấy được là... dắt dê đi dù giữa ban ngày. Chỉ trong 2 tháng chúng đã trộm khoảng 300 con dê".
    "Tặc" - từ Hán - Việt, có nghĩa: làm loạn, phản - cướp bóc - làm hủy hoại, hư hỏng..., nên chỉ có thể ghép với một từ Hán-Việt khác: nghịch tặc, phản tặc, hải tặc, không tặc, lâm tặc, khoáng tặc... Còn nếu ghép chữ "tặc" với những từ "thuần Việt" như: vàng, đinh, kiểng, tiêu, dê, mèo... thì e rằng chúng ta đang đơn giản hóa tiếng mẹ đẻ. Dẫu sao, quyền thẩm định thuộc về những nhà ngôn ngữ học. Còn đây, chỉ là "Lời quê chắp nhặt dông dài...
    Theo Thanh Niên
  5. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Ý kiến cụ Tài Cẩn xác đáng quá còn gì, Truyện Kiều thực ra cần mổ nhiều, xẻ nhiều, nhưng nếu để hỏi được tính xác thực của câu truyện, có lẽ phải lội ngược dòng về xuất xứ câu chuyện, tận bên anh Tàu, chứ không hẳn là của ta,
    Về phiên bản của Truyện Kiều, ngay cả ta cũng thành nhiều dị bản, tức là các bản truyện, bản in, với một số câu khác, hoặc khác dăm ba chữ, vì phương ngữ, hay vì phạm húy mà thôi,
    Chúng ta cũng không thể rõ được là cụ Nguyễn Du đã mượn cốt truyện, mà trong số Dị bản tại anh tàu, để viết nên cuốn của cụ, mà nhờ vào đó, cụ đã đạt là danh nhân văn hóa thế giới, và càng không rõ hơn các nhà ngôn ngữ, đã mất bao nhiêu công lao, thời gian để ngẫm Kiều, ngẫm về Thanh Tâm tài nhân, Tố Như, hay truyện Kiều của ông,
    Vì vậy, ngay như ý ở đầu topic, vắn tắt thôi, cũng là để ham vui thôi mà
    dù sao, thì câu kết, cụ Nguyễn cũng đã viết
    "Mua vui cũng được một vài trống canh"
    Chính câu kết này đã làm cho mọi nghi án trong Kiều rồi cũng về không cả mà thôi, phải không nào:-)
  6. sinh_vien_thuc_tap

    sinh_vien_thuc_tap Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2006
    Bài viết:
    3.946
    Đã được thích:
    0
    Chẹp, cứ rối tung rối nhằng cả lên.
    Đang thắc mắc: người ta dành cả đời ngâm kíu Kiều để làm gì nhỉ? Có lẽ những gì quá nổi tiếng thường hay bị soi chăng?
  7. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Cái váy và cái quần của các bà
    Nguyễn Dư
    [​IMG]
    Thuở còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, được học bài Hai bà Trưng:
    Bà Trưng quê ở Châu Phong
    Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
    ...
    Hồng quần nhẹ bước chinh yên
    Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành ...
    Nghe thầy giảng lúc ra trận hai bà mặc hồng quần, nghĩa là quần đỏ.
    Cả lớp khoái chí, cười khúc khích.
    Sau này đọc sách thấy nhiều học giả đồng ý với thầy.
    Hồng quần: quần chính nghĩa là cái váy, cái xiêm, phụ nữ xưa mặc quần đỏ. (Đinh Xuân Lâm và Chu Thiên , Đại Nam quốc sử diễn ca, Văn Học, 1966, tr. 87 ).
    Hồng quần: đàn bà (xưa mặc quần đỏ). (Hoàng Xuân Hãn, tập 2, Giáo Dục, 1998, tr. 77).
    Hồng quần: quần đỏ (tức con gái). (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển).
    Hình ảnh hai bà Trưng mặc quần đỏ dẹp giặc đẹp quá!
    Đẹp quá hoá ra ... đáng ngờ!
    Theo truyền thuyết thì thời Hùng Vương, đàn ông Việt Nam đóng khố, đàn bà mặc váy kín (váy chui) hoặc váy mở (váy quấn). (Thời đại Hùng Vương, Khoa Học Xã Hội, 1976, tr.177).
    Sử nước ta lại cho biết thêm:
    Năm 1414, nhà Minh cấm con trai con gái không được cắt tóc; đàn bà con gái thì mặc áo ngắn quần dài, hoá theo phong tục phương Bắc. (Đại Việt sử kí toàn thư).
    Nhà Minh muốn đồng hóa dân ta, cấm đàn bà con gái nước ta mặc váy, bắt phải mặc quần như người Tàu.
    Năm 1428 Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước.
    Sử không cho biết cách ăn mặc của dân ta dưới thời Lê Thái Tổ và mấy triều vua kế tiếp.
    Thời tự chủ, với ý quyết xoá bỏ hết tàn tích nô lệ về y phục, vua Lê Thần Tông niên hiệu Thịnh Đức năm đầu (1653) định phép ăn mặc cho quan dân. Vua Lê Huyền Tông niên hiệu Cảnh Trị thứ ba (1665) cấm đàn bà con gái không được mặc áo có thắt lưng và mặc quần có ống chân (nghĩa là bắt buộc phải mặc váy). (Nhất Thanh, Đất lề quê thói, Đại Nam, tr. 206).
    Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương nam bắt dân gian cải cách y phục. Theo giáo sĩ Koffler thì chúa bắt bỏ lối quần áo thô bỉ của người đường ngoài, mà châm chước theo lối quần áo của người Tàu. (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Bốn Phương, 1961, tr. 173).
    Chúa Võ Vương muốn "Triều đình riêng một góc trời, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà" (Kiều), độc lập đối với vua Lê chúa Trịnh đàng ngoài nên ra lệnh bắt đàn bà đàng trong phải ăn mặc như Tàu. Vì chúa muốn "Thà làm tôi thằng hủi hơn chịu tủi anh em", mà các bà đàng trong phải mặc quần.
    Vua Minh Mạng đi xa thêm một bước nữa:
    Tháng tám (có chỗ hát tháng chín) có chiếu vua ra
    Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
    Không đi thì chợ không đông
    Đi thì bóc lột quần chồng sao đang.
    Thật ra thì chưa chắc đã là tháng tám hay tháng chín vì sử nhà Nguyễn chép: tháng 10 năm 1828, truyền đổi cách ăn mặc từ sông Gianh trở ra Bắc. (Quốc triều chính biên toát yếu, Thuận Hoá, 1998, tr. 188).
    Quần không đáy, "vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có bên Tàu thì không", tức là cái váy. Minh Mạng bắt cả đàn bà đàng ngoài mặc quần, cấm mặc váy.
    Trên lí thuyết thì từ năm 1828 đàn bà cả nước ta đều phải mặc quần theo ý muốn của nhà vua.
    Nhưng thực tế thì ra sao?
    Thực tế thì "phép vua thua lệ làng". Đằng sau luỹ tre xanh, mọi chuyện trong nhà ngoài xóm đều được dàn xếp theo bộ luật bất thành văn "lệnh ông không bằng cồng bà". Vua nói vua nghe, váy bà bà mặc. Minh Mạng làm sao mà đụng được vào cái váy của các bà nhà quê đàng ngoài! Trong lúc tỉnh thành xôn xao kháo nhau cởi váy mặc quần thì thôn quê miền Bắc vẫn khư khư giữ cái váy. Cho mãi đến những năm 1940 vẫn còn cảnh:
    Quanh bếp ấm nồi bánh chưng sùng sục
    Thằng cu con dụi mắt cố chờ ăn
    Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen rức
    Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm
    (Anh Thơ, Đêm ba mươi tết, 1941)
    Cái váy của ta cứ âm thầm "Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi"(Phạm Duy). Nhiều phen được vua yêu, lắm lúc bị chúa ghét! Cái váy cứ nhẫn nhục bám lấy các bà mà tồn tại.
    Thế mà hai bà Trưng đã tung ra mốt mặc quần từ những năm 40-43, nghĩa là gần 14 thế kỉ trước khi nhà Minh ra lệnh bắt đàn bà nước ta mặc quần, gần 18 thế kỉ trước khi vua Minh Mạng cấm mặc váy!
    Đầu thế kỉ 20, đàn bà nước ta "quần phần nhiều mặc quần sồi, lĩnh thâm, đôi khi cũng có người mặc quần nhiễu đỏ; ở Nam kỳ và Trung kỳ thì người phong lưu mặc quần nhiễu trắng, chốn quê mặc quần vải xanh". (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng hợp Đồng Tháp,1990, tr. 330).
    Đến khoảng 1938, dân ta "quần thì chỉ dùng sắc trắng và nâu. Những người già cả mà giàu sang thì ngày hội hè tết nhất mới dùng quần đỏ". (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, sđd, tr. 173).
    Hai bà Trưng nhìn xa, đi trước thiên hạ hay cái quần của hai bà ... có vấn đề?
    Bàn về quần, trước hết phải đặt câu hỏi quần là cái gì? Chết thật! Ngần này tuổi đầu mà không biết quần là cái gì à?
    Quần (chữ hán, bộ y) được Huỳnh Tịnh Của và Đào Duy Anh định nghĩa là đồ để che phần dưới thân thể.
    Tự điển Génibrel dịch chữ quần là pantalon (quần dài), culotte (quần đùi), jupe (váy đàn bà), vêtement descendant depuis les reins jusqu''aux pieds (đồ mặc che từ eo xuống đến chân).
    Quần được Thiều Chửu dịch là cái quần, cái xiêm.
    Đang tìm hiểu cái quần lại bị vướng vào cái xiêm. Vậy xiêm là cái gì?
    Xiêm là áo choàng che trước ngực (Thiều Chửu), áo che đàng trước (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển), cái váy (Đào Duy Anh, Từ điển truyện Kiều), đồ bận dưới, cái củn (củn là đồ bận trên), cái váy (Huỳnh Tịnh Của), jupe (váy dài), jupon (váy ngắn), vêtement inférieur (đồ mặc che phần dưới) (Génibrel), manteau (áo choàng) (Gustave Hue).
    Đúc kết các định nghĩa trên, chúng ta hiểu rằng xiêm là cái áo choàng, áo mặc ngoài. Xiêm ngắn, chỉ che phần trên thân thể, thì chỉ có một tên gọi là xiêm. Xiêm dài (che cả phần dưới thân thể) thì ngoài tên xiêm, còn được gọi là quần, hay váy.
    Quần là chữ dùng để chỉ đồ mặc che phần dưới thân thể. Quần được dùng cho cả đàn ông và đàn bà. Quần có thể là cái sa rông của người Miên, cái kilt của người Ecosse ... Đàn ông và đàn bà Tàu đều mặc quần hai ống, cho nên quần đàn ông hay quần đàn bà Tàu đều là ... quần (như cách hiểu ngày nay).
    Chỉ có cái quần đàn bà Việt Nam mới lận đận, rắc rối.
    Ngày xưa (tạm cho là trước thời thuộc Minh) đàn bà nước ta không mặc quần. Thế à? Các bà không mặc quần hai ống như ngày nay mà chỉ mặc váy thôi.
    Chữ quần (hán), chỉ đồ mặc để che phần dưới thân thể của đàn bà Việt Nam ngày xưa, phải được hiểu và phải được dịch nôm là cái váy để khỏi nhầm lẫn với cái quần đàn ông.
    Điều này đã được tranh dân gian Oger (1909) chứng minh rõ ràng hơn qua một tấm vẽ đàn bà mặc váy. Tranh được ghi chú bằng chữ hán nôm "dã phụ y thử quần, tục danh quần đùm" (váy của đàn bà nhà quê, tục gọi là váy đùm). Người đàn bà trong tranh mặc váy, do đó chữ quần (hán) phải được dịch (nôm) là váy. Váy đùm là váy buộc túm cạp lại.
    Dường như chỉ có văn học mới dùng hồng quần hay quần hồng để chỉ cái váy.
    Bốn cột lang, nha cắm để chồng
    Ả thì đánh cái, ả còn ngong
    Tế hậu thổ khom khom cật,
    Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
    Tám bức quần hồng bay phới phới,
    Hai hàng chân ngọc đứng song song.
    Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
    Cột nhổ đem về để lỗ không.
    (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)
    Hai cô gái đánh đu, khoe "tám bức quần hồng". Vậy là mỗi cô có "bốn bức quần hồng". Hồ Xuân Hương cũng đưa ra "bốn mảnh quần hồng" trong bài Đánh đu:
    ( ...)
    Trai du gối hạc khom khom cật
    Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng
    Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
    Hai hàng chân ngọc duỗi song song ...
    Bốn bức hay bốn mảnh quần hồng ở đây là cái gì? Nếu chỉ là cái quần hai ống thì mỗi ống phải xẻ hai. Ta không có kiểu quần tân kì như thế. Cũng không phải là một mình cái váy vì không có váy nào lại xẻ tư như vậy. Chỉ còn cái áo tứ thân (áo tứ thân có 2 vạt đằng trước, 1 vạt đằng sau) cộng với cái váy mới hợp thành bốn mảnh quần hồng. Cái áo tứ thân (cái xiêm của ta) đã được các tác giả gọi là cái quần. Chúng ta hiểu vì sao Thiều Chửu đã định nghĩa quần là cái xiêm, và Huỳnh Tịnh Của lại định nghĩa cái xiêm là đồ bận dưới, tức là cái quần.
    Trong bài Chỗ lội làng Ngang Nguyễn Khuyến có nói đến cái quần đàn bà:
    Đầu làng Ngang có một chỗ lội
    Có đền ông Cuội cao vòi vọi
    Đàn bà đến đấy vén quần lên
    Chỗ thì đến háng chỗ đến gối
    Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười
    Cái gì trăng trắng như con cúi
    Đàn bà khép nép đứng liền thưa
    Con trót hớ hênh ông xá tội ...
    Đàn bà vén quần, hớ hênh, để lộ cả cái gì trăng trắng như con cúi. Các nhà quan sát có thẩm quyền kết luận rằng người đàn bà trong câu chuyện mặc váy. Quần hai ống vén đến gối hay đến háng thì vẫn còn kín đáo, chưa để lộ bí mật.
    Nguyễn Khuyến đã dùng chữ quần theo nghĩa chữ hán, để chỉ cái váy của các bà.
    Hình ảnh vén váy để hở cả cơ đồ còn được thấy qua tấm tranh dân gian Hứng dừa dí dỏm.
    Qua vài thí dụ kể trên thì thấy rằng từ thế kỉ 15 (Hồng Đức quốc âm thi tập) đến đầu thế kỉ 20 (Nguyễn Khuyến) chữ quần đã được văn học Việt Nam dùng theo nghĩa của chữ hán, để chỉ đồ che nửa dưới thân thể. Quần của đàn bà (miền Bắc) Việt Nam ngày xưa là cái váy, cái áo dài (xiêm), chứ chưa phải là cái quần hai ống ngày nay.
    Hồng quần của hai bà Trưng phải được hiểu là cái váy màu đỏ.
    Từ ngày người Pháp cai trị nước ta thì các bà nhà quê miền Bắc mới dần dần mặc quần hai ống như các ông. Một số bà tân thời ở tỉnh thành mặc màu trắng. Dân quê chỉ dùng màu đen hay màu nâu. Ngày nay, cả hai phái nước ta, phái mạnh và phái đè đầu phái mạnh, đều mặc quần hai ống, nhiều màu sắc, kể cả màu hồng, màu đỏ.
    Cái váy, cái quần không những đã ám ảnh vua chúa mà còn đè nặng lên đời sống của đám dân đen.
    Người xưa có phương thuật "chữa mắt hột bằng gấu quần đàn bà".
    Quần nào chả là quần, tại sao không dùng quần đàn ông mà phải dùng quần đàn bà? Chẳng nam nữ bình quyền tí nào cả! Nam nhi thua thiệt quá!
    Thật ra thì phương thuật dùng gấu váy, sau này váy hiếm, khó kiếm người ta mới thay váy bằng quần, dĩ nhiên phải là quần đàn bà.
    Chữ váy, ngoài nghĩa thông dụng là cái váy đàn bà, còn có nghĩa khác là nạo vét, lau chùi (curer, nettoyer, tự điển Génibrel). Váy là dùng vật gì mà vặn xáy (xoáy) hoặc móc ra. Váy tai nghĩa là móc *** ráy trong lỗ tai ( Huỳnh Tịnh Của).
    Váy (đồ mặc) đồng âm với váy (lau chùi, xoáy móc). Do đó, giới bình dân đã dùng cái váy để tượng trưng cho động tác lau chùi. Ai bị đau mắt hột thì lật mí mắt lên, lấy gấu váy dí nhẹ vào mí là tất cả các hột sẽ được đánh sạch.
    Từ ngày các bà không mặc váy nữa thì người ta dùng gấu quần. Đứng về mặt chữ nghĩa thì cái quần không giải thích được ý nghĩa của phương thuật. Phải thông qua cái váy mới rõ nghĩa.
    Quần đàn ông không dính dáng gì đến váy cho nên không chữa được mắt hột! Quần của các ông thua quần các bà chứ không phải các bà kì thị các ông!
    Xưa kia, "thợ may và thợ giặt không nhận may váy, giặt váy cho các bà". Pierre Huard và Maurice Durand (Connaissance du Vietnam, EFEO, Paris, 1954, tr. 178) cho rằng ta bắt chước tục Tàu. Người Tàu kiêng để lẫn lộn quần áo vợ chồng còn trẻ, dưới 70 tuổi.
    Thuyết âm dương của Tàu e rằng cao siêu quá, vượt quá xa cái triết lí bình dân của cái váy của ta:
    Sáng trăng em tưởng tối trời
    Em ngồi em để sự đời em ra
    Sự đời bằng cái lá đa
    Đen như mõm chó, chém cha sự đời.
    Bọn thợ may, thợ giặt sợ cái váy có lẽ chỉ vì họ tin rằng váy có ma thuật nạo vét của cải, làm hao tài, sạt nghiệp mà thôi.
    Giới trí thức cũng bị váy, quần làm cho vướng mắc lùng bùng ...
    Ngày xưa, "thư sinh, nhà nho kiêng không sờ vào váy, vào quần đàn bà giữa ban ngày".
    Không biết cụ Khổng lúc bé có phải giặt giũ, phơi quần áo giúp mẹ không?
    Nhiều người cho rằng vì váy, quần đàn bà là vật ô uế nên nhà nho không đụng đến. Giải thích như vậy nghe không ổn. Cho dù váy, quần của các bà có ô uế thật đi nữa thì cũng chỉ ô uế vài ngày lúc các bà có tháng thôi. Còn những ngày bình thường thì quần đàn ông hay váy đàn bà đã chắc gì cái nào sạch hơn cái nào? Không riêng gì nhà nho, đến người mù chữ cũng chẳng ai muốn đụng đến những đồ ô uế.
    Nhà nho là người dùi mài kinh sử chuyên nghiệp. Ông nào cũng đầy một bụng chữ thánh hiền. Ban ngày ban mặt, nhỡ mà đụng vào cái váy hấp dẫn kia thì còn đâu là chữ nghĩa nữa! Cái váy sẽ cạo vét, lau chùi sạch sành sanh cái bụng chữ thì làm sao mà mở mày mở mặt với thiên hạ được! Có muốn sờ thì chờ lúc nhá nhem hãy sờ."Tối lửa tắt đèn, nhà ngói cũng như nhà tranh", mèo nào cũng xám như nhau. Tranh tối tranh sáng thì ... có mắt cũng như không, còn thấy đường nào mà cạo với vét!
    Dân gian có một giai thoại về cái váy.
    Chuyện kể rằng ông lí làng kia mới tậu được cái ô đen. Ông rất hãnh diện, đi đâu cũng che ô để khoe với dân làng. Một hôm ông vênh vang đi qua chỗ có mấy cô gái đang làm cỏ ruộng. Một cô hát:
    Hôm qua tôi mất xống thâm
    Hôm nay tôi gặp người cầm ô đen.
    Một cô phụ hoạ thêm:
    -Nói thế thì ra người ta ăn cắp cái xống thâm, cái váy đen của chị về may ô à? Em nhớ là xống thâm của chị tươi đẹp hơn ô đen kia cơ mà. Để em lên mượn, chúng mình xem cho kĩ nhé.
    Ông lí bầm gan tím ruột định mắng mấy con "vén váy không nên" kia, nhưng ông chợt nghĩ nhỡ đụng phải bọn "xắn váy quai cồng" thì thật là nan giải. Nghĩ vậy, ông lí vội cụp ô, chuồn cho nhanh.
    Hải Phòng cũng có một giai thoại tương tự.
    Trong một cuộc hát đúm, cô gái tấn công trước:
    Hôm qua em mất cái váy thâm
    Hôm nay em thấy anh cầm một chiếc ô đen.
    Cô gái chanh chua vừa dứt lời, liền được chàng trai nhã nhặn đáp lễ:
    Em nói thế là em cũng nhầm
    Hôm qua anh thấy ông đội khăn thâm ra đình
    Trong lúc các bà nhà quê phải mất nhiều năm mới bỏ được cái váy sồi, váy đùm, váy đụp, thì mấy cô ở thành thị lại hớn hở tung hô cái váy xoè, váy chẽn, váy cụt của phương Tây.
    Thú phô trương ao ước bấy lâu nay! Giờ mới được mân mê cái váy hiện đại, hiện sinh ... hiện hình!
    Khách bên đường sững sờ liếc trộm cái của lạ muôn màu, muôn vẻ ... Muôn năm!
    Thấy mà chóng cả mặt, chỉ ... muốn nằm!
    Nguyễn Dư
    (Lyon, 8/2003)
  8. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    Thấy anh bạn Tam Lược có cái avatar khá hay:) cũng mới vào quán đối xập xệ này:D thế thì lục mỗ tặng anh món quà là bức ảnh dưới đây nhá:)
    Cũng nhân đây muốn tặng anh chị em nào hay tham dự quán đối bức ảnh chung này, để tăng thêm phần khí thế:D
    Ông Mao viết tại Bát đạt lĩnh một câu giờ được khắc đá là "Bất đáo tràng thành phi hảo hán"
    Nhưng lục mỗ lại là người Việt,Không lẽ, Tây balo du lịch đến đó cũng là người hán sao:-) đến để thăm quan phong cảnh ở đó thôi, và ngưỡng mộ người hán cổ xây trường thành để tự nhốt mình, giờ đây, có lẽ người Hán hiện tại đã đổi mới nhiều, nhiều lắm "đây là dựa trên một y'' trong Totem Sói - Khương Nhung"
    Ảnh đây, mời các bạn thưởng lãm
    [​IMG]
  9. mi_nhon

    mi_nhon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/03/2006
    Bài viết:
    589
    Đã được thích:
    0
    Vạn Lý Trường Thành hùng vĩ nhở
  10. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này