1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TranMinhkhochuoi, 09/06/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. txhan

    txhan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/07/2004
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    Vừa ngó qua cuốn Chiến tranh Đông Dương 3 của Hoàng Dung trên vnthuquan.net, đây lại là 1 cuốn sách ba xu của các bác anti+ . Nói chung rất ít tư liệu lịch sử tin cậy, đa phần là mập mờ hoặc khai thác có chủ ý
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    [QUOTE=:
    Không phải "Việt nam phải đứng hẳn về phe Liên xô" mà là ViệtNam
    phải lấy Liên xô làm đồng minh. Vào phe Liên Xô để làm cái gì?
    Còn chuyện đánh Cambốt là việc trước sau cũng phải làm, nếu mình
    không muốn thành một tỉnh của Trung Quốc .
    Bác Hồ có sống cũng chẳng tài gì mà rửa cái óc bá quyền của Trung
    Quốc được.
  3. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Em không rõ các dân tộc miền trung gọi thế nào. Nhưng nếu Youn chỉ có nghĩa là "người" thì em thấy không ổn. Thế bác biết người Tà ôi gọi người K'' tu là gì không?
  4. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Gửi cho các bác truyện này để đọc thêm về bối cảng cuộc sống và tâm lý người Khmer Nam bộ một thời xa vắng. Một chút tư liệu về đất Gia định xưa. Bác nào ở SG có biết chùa này không?
    Ngôi Chùa Xưa - hay Kiến Tường cổ tự
    - K/S Sagant Phan -
    Ngôi Chùa Xưa hay là Nơi sanh cũa Vua Minh Mạng
    Vì câu chuyện nầy khá dài, chúng tôi không thể nói ngắn vài câu là trọn ý nghĩa nơi sanh cũa Vua Minh Mạng, nên quý bạn đành đọc một phần câu truyện nầy... mà chúng tôi có đăng tại vài tờ báo hãi ngoại... Khá lâu rồi... Đi làm 3 kỳ là xong Sư cụ Thường Chiếu trở bệnh nặng mấy ngày nay.
    Người bị sốt cách nhật từ vài tháng trước, nay chuyển thành sốt thường nhật. Nóng nóng lạnh lạnh (mà ngày nay gọi là sốt rét). Mặc dù Người giõi về cách bốc thuốc,nhưng với bệnh nầy thì rất khó rồi Uống thuốc Bắc thì rất đắc tiền, còn thuốc Nam thì " phước chủ may thầy ", toàn là nghe lời đồn toa nầy trị bệnh rất hay, toa kia không hay lắm.vv.. Uống nào là đọt lá ớt và là sầu đâu nhưng càng thêm mệt rũ người.
    Xóm người Miên bên kia sông giờ đây vắng vẽ đìu hiu. Người Miên họ bỏ sóc đi lên thành Lô Bích từ lâu rồi. Họ nói người " Duồn " không tố, họ đến quá đông, rồi họ cứ tự nhiên xem vùng đất nầy là nhà cũa họ mà không nghĩ gì đến những người Miên sống tại đây hàng chục năm trời có dư. Người " Duồn " họ lội xuống sông mà cứ tự nhiên chặt là dừa nước mà lợp nhà mà không xin ai hết. Họ nói " đất nầy thuộc chim trời cá nước mà? Đất cũa Trời Đất nào cũa ai đâu? ". Làm như vậy lần hồi người Miên họ ghét, và họ lần lựơt bõ xóm mà ra đi tay không. Nhà lá họ cất cao cẵng, và mặt tiền hay cữa cái thì họ đón ngoài sau từ đường sông đi lên nhà. Còn người Việt thì họ làm cữa cái họ đón từ con đường đất lộ nhõ mà vào trong nhà. Hai phương Trời cách biệt với nhau. Người Việt ăn cơm họ dùng đũa, còn người Miên thì tay họ bốc ăn cơm. Hạt gạo là phẩm vật quý cũa Trời Đất mà tại sao dùng đũa khều khều vậy? Khi người Miên cuối cùng rời xóm, thì lục cụ (sãi Miên) N?Tteak Klong cũng bần thần không ít. Ngôi chùa Miên " Traklacbưng " có mặt nơi đây trên 70 năm trời rồi, tự dưng đến ngày tàn - như Đế Thiên Đế Thích vậy, như vậy không làm lục cụ buồn rầu sao được? Ngài nhớ lại thời vàng son, nơi dòng sông lớn này, đến kỳ mừng con nứơc về, mà người Miên gọi là " Thnâycha Prong " nước dâng tràn ngập đến tận chân nhà sàn. Cá nhiều vô số, rồi kéo theo chim Trời bay đến làm tổ đầy cây me và cây sao dầu... như vậy thú rừng về nữa rồi. Người thợ săn cứ việc vác cung tên và lứoi bẫy... thế là thịt ăn không hết quanh năm. Cá quá nhiều ăn không hết thì phơi làm khô và làm mắm " bòhốc ", thịt rừng cũng vậy. Nơi xa là dòng sông to rộng, dùng đua ghe ngo mừng Thần Mưa rất dễ dàng. Có nơi thật xa người ta tham dự đua ghe Ngo bằng cách " ăn nhờ ở đậu nơi chùa Miên nầy. Họ đến hàng trăm người, chia làm 10 toán, mổi toán 10 người. Mổi toán là một chiếc ghe Ngo dài ngoằng, mủi cong vớt lên. Họ đậu ghe đầy khúc sông, có người không chịu ngũ trong chùa, họ nói " ngũ chùa không vui, không ca hát múa " lầmthôn " với mấy cô gái trẽ đẹp được - chùa bắt tụng kinh hoài - còn vui cái nước gì nữa? ". Trong sóc rộn rịp hẵn lên... Trái gái nườm nượp đến chùa, xin phước duyên và " coi bói luôn "... Mặc dầu chùa Miên không nhận thực phẫm để dành, nhưng họ dâng cúng cho chùa nào vãi vóc, cau khô... Cau khô thì đề dành nhai được, nhai với lá trầu xanh thì ngon lắm. Lại cò nhà dẩn đứa con trai vào chùa cho làm lể quy y... xì xụp lạy thành khẩn, đứa con trai được cạo đầu và tu vài tháng hay vài năm báo hiếu cho cha mẹ. Cha mẹ vui và sư lục cụ cũng mừng. Đua ghe thì họ mời lục cụ ngồi ghế danh dự. Khán đài dãn dị thôi. Dựng rạp bằng cây rừng và lớp nóc bằng lá dừa nứơc. Dãn dị nhưng oai nghiêm. Sư cụ làm lể khai quân... Rồi có tiếng trống nổi lên,... ghe Ngo hàng chục chiếc đang nằm hậm hực dưới bải sông.
    Được tranminhkhochuoi sửa chữa / chuyển vào 14:25 ngày 02/07/2008
  5. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Như một bầy cá sấu đen lườn chờ chủ leo lên lưng là " Ùm " xuống nước lập tức. Sưlục cụ đánh Trống thì tất cả chuẩn bị trên bầy cá sấu đen hậm hực đó. Rồi có người đốt một cây pháo lớn. Pháo nổ là bầy cá sấu đen đó pohóng Ùm xuống sông, quẩy nước trắng cả một khúc trời giang sơn... Người trên bờ la hét khan cổ, bầy ghe Ngo ầm ầm quẩy sóng chạy hung dử ra khơi... Rồi phút cjhốc bầy ghwe nầy từ xa ầm ầm trở về > Người ta la làng nữa, đánh trống, dốt pháo... dân làng có gì khua được cho vang tiếng thì họ làm ngay. Nên khi hết cuộc đua thì nồi niêu soong chão " bầm vập " hết... Người thua kẻ thắng gì cũng nhậu tưng bừng... Sau đó sóc Miên trở về khung cảnh đìu hiu âm thầm như thường lệ. Chùa lên đèn và đánh mõ công phu như thường lệ.. đàn ông ra đồng ruộng với bò cày, đàn bà thì ôm con ru võng kẽo kẹt nơi xa... Bầy chim trời uể oãi bay dài nơi góc trời rồi đáp lên khu rừng nơi xa xóm.
    Dân Miên không bao giờ giết chim làm thịt. Họ nói chim là cũa Ông Trời bà Trời hay thần thánh dùng cởi đi chơi. Nhưng từ khi người Duồn về, từ một nhà, hai nhà đến chục nhà rồi trăm nhà... thì họ nói thịt chim ăn ngon lắm. Rồi họ thả vịt đến phá cả ruộng non cũa người Miên đang trổ lùa " đòng đòng ". Người Miên đến gặp lục cụ mà thưa kiện nhờ phân xử chuyện nầy. Lục cụ đành phãi xuống xóm người Việt mà gặp trưỡng xóm mới được. Dể chịu là ông trưỡng xóm biết lẽ phãi, ông mời lục cụ uống nước dừa rồi ông hứa sẽ nói với chủ vịt đừng cho đàn vịt đến phá lúa người Miên nữa. Lục cụ nhìn tướng người trưỡng xóm nầy.. Tướng người tầm thước, giọng nói hơi nặng, nhưng ánh mắt thì đôi lúc hiền đôi lúc cương quyết. Trưỡng Xóm nói họ là người từ đàng Trong mà vào lập nghiệp nơi nầy. Nơi đó là xứ nhiều đất đai khô cằn sỏi đá. Dân đông nhưng làm không đủ mà ăn. Mưa nơi đó rất ít và nạn châu chấu làm thất mùa hoài. Rồi hạn hán rồi lụt nữa... Còn nơi nầy là xứ Trời cho, thọt tay xuống nước là có cá... Lục cụ N?Tteak Klong mĩm cừơi vì câu nói cũa trưỡng Xóm người Việt " xứ Trời cho "... đâu phãi xứ Trời cho, xứ nầy của người Miên hàng trăm năm nay rồi. Mồ mã người Miên có cái tính được trên 200 năm có hơn... Nhưng bề gì trưỡng Xóm là người biết điều, Ông ấy nói là ông ấy giữ lời. Ông tên là Nguyễn Đạt, gốc Quãng Trị từ xa.
    Nay thời vàng son đó trôi mất tiêu rồi. Người " Duồn " họ đào thệm kinh rạch nhõ vào khu vườn cũa họ, làm cho mực nước sông cái ngoài khơi cạn dần theo năm tháng. Mưa lại ít về nữa. Ít nước, thì ít cá - mà ít cá thì ít chim và thú rừng. Dòng sông cạn kiệt tài nguyên. Dân Miên họ bỏ đi là đúng, họ về lại thành La Vích mà người Duồn gọi là thành Nam Vang... Nơi đó họ gặp lại Vua cũa họ.
    Sư lục cụ N?Tteak Klong lẩm nhẩm hồi kinh cầu an trong miệng. Lục cụ phãi quyết định dứt khoát trong ngày nay. Bỏ chùa hay cho chùa cho một người Việt nào đó. TRong đầu óc lục cụ tự nhiên nghĩ đến người Trưỡng Xóm Việt. Lục cụ đến gặp Nguyễn Đạt vào một buổi chiều...
  6. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Sư cụ Thường Chiếu trở bệnh nặng mấy ngày nay. Người bị sốt cách nhật từ vài tháng trước, nay chuyển thành sốt thường nhật... Từ khi nhận chùa Miên đến nay cũng thấm thoát hơn chục năm trời có lẽ... Vì chùa dựng toàn loại cây tầm thường, nên mối mọt làm xập lần hồi hết., mưa gió bảo bùng. Lúc trước, khi còn người Miên thì dân làng rất đông. Trai nhiều mà gái cũng nhiều nữa.. Nhưng từ khi người Miên bõ xứ mà đi lên Cao Miên thì người Việt cũng bị " nạn " luôn. Giặc giã khắp nơi, nào là binh lính triều đình Tây Sơn, rồi binh lính nhóm Đông Sơn, rồi thêm tướng quân Tàu Dương ngạn Địch và Trần thắng Tài hùng cứ mổi người một phương. Kình chống nhau, giết hại lẩn nhau. Mai dốt nhà xóm nầy, mốt phóng hỏa thiêu rụi xóm kia.Trai làng bị bắt lính gần hết. Làng người Việt làn lần thiếu dân đinh, ruộng không người cày là chuyện thường. Chùa lâm vào cảnh túng quẩn lần hồi... Khngô còn ai bố thí cúng dường chi nữa. Bữa đói bữa no là chuyện thường. Trong Chùa chỉ còn lại có 4 người kể luôn phương trượng Thường Chiếu. Môt chú tiểu trẽ, mà ngày xưa ấy, lâu lắm rồi, cha mẹ đứa trẽ nầy bị giặc bắt đi người cha, rồi người mẹ bị giặc hiếp chết khi đứa trẽ vừa tròn 1 tuổi, bò quanh trong nhà... không cha không mẹ, đứa bé đói khóc 2 ngày trời. Nếu không nhờ phương trượng Thường Chiếu chèo ghe đi ngang qua, nhân dịp đi bốc thuốc cho một gia đình xóm trên nhờ. Tiếng khóc khàn khàn cũa đứa bé lim dần trong không gian, nhưng văng vẳng làm kinh hoàng đến phương trượng. Người lật đật quày nguợc ghe nhõ về nhà sàn đứa bé. Mình mẩy đứa bé bị kiến đỏ bu đầy người, hên là kiến chừa đôi mắt đứa bé mà không đốt cắn. Phương Trượng lật đật cổi áo choàng bên ngoài mà lau chùi đứa bé. Rồi người bồng đứa bé xuống ghe, chèo đến nhà người bệnh mà xin sữa cho đứa bé... Rồi ngừoi cùng 2 dân làng đến chôn xác người mẹ mà xác gần thành ương rữa. Chôn dưới gốc cây me kế góc vườn.. Sau đó dân làng phóng hõa đốt ngôi nhà xấu số đó vì không ai dám ở hết. Ma Quỉ hiện về hàng đêm khóc đòi con mà.Thầy có đến đọc kinh Vãng Sanh độ hồn vài lần, nhưng cũng không xong. Dân làng đành phãi đốt nhà đó ra tro.
    Nay đứa bé nầy được đặt pháp danh là " Ngộ Đạt "... gần 15 tuổi rồi. Được Thầy dạy chữ Nho tụng đọc kinh công phu. Tánh hiền, ít nói, ít cười, ngoan ngõan dể thương. Nhưng một hôm khi ?~ Ngộ Đạt " hỏi Thầy cha mẹ con đâu rồi? Thì nước mắt Thầy rơi xuống lúc nào không hay. Thầy không biết được đâu con à !...
    Người thứ ba trong chùa là chú Tư Cui. Người tầm thứơc, thuộc loại cũi lục âm thầm, ít cười, tối ngày lui cui lo trồng rau cho chùa. Từng bắp cãi thật to lớn, được chú Tư Cui gồng gánh xuống chợ nơi xa mà đồi gạo đem về nuôi chùa. Trước đó chú Tư làm nghề hầm than. Nghề nầy cực nhiều hơn vui. Lựa từng khúc cây đước nơi tràm ven rừng, phơi khô thời gian rồi chất đầy vào lò hầm. Hầm ngày đệm liên tục, chú Tư Cui ngưỡi mùi khói bốc ra từ cữa lò bịt kín là chú biết than chín hay chưa. Ngày kia chú Tư bổng nổi điên, cầm bó lữa đốt nhà cũa mình cháy hừng hực, chú định đốt thêm vài căn nhà lối xóm mới vui dạ. Lối xóm người tay búa tay dao bao vây chú định xơi tái chú rồi, nhưng người ta cũng ngại đến gần vì chú tay cầm bó lữa tay kia cũng cầm búa chặt cũi rừng to lớn lăm lăm. Sư cụ Thường Chiếu được lối xóm báo tin dữ. Sư Cụ đến gần, vừa đến vừa đọc kinh vang trời. Chú Tư Cui chưa kịp hiểu ý nghĩa kinh kệ thì thị bị thầy nhập nội, rồi bị Thầy xô xuống sông gần đó. Dân làng nhào xuống sông trói gô chú Tư Cui định giãi cho quan xử tội. Sư cụ Thường Chiếu xin lãnh chú về chùa nuôi. Từ đó đến giờ trên chục năm rồi. Tóc chú Tư giờ đây điểm hoa râm theo năm tháng ngày.
  7. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Vừa rồi chú đến gặp Thầy: " Thưa Thầy ! tối hôm rồi Hổ đến rình mình, dấu chân có lớn bằng cái tô canh vậy đó ". Thấy Thường Chiếu cười nhẹ: " Con đừng lo xa, Hổ nó lòng hại mình thì minh cũng chịu thôi. Con xem chùa mình tòan ván mõng, Hổ nó xô nhẹ cũng xập rồi, nếu nó bắt mình khi mình đang ngũ say thì làm sao đây? Nếu mình có nghiệp bị Hổ vồ thì cũng đành chịu nghiệp mà thôi. Luân hồi không cưỡng được đâu con ". Thầy định nói thêm nhưng Thầy im lặng. Thầy sợ chú Tư nói tin Chùa có Hổ rình rập thì thập phương bá tánh nào ai dám lên thăm chùa? Vã lại nơi xa phố Chợ Thầy Ngạn (Đề Ngạn = Thầy Ngoồn = SàiGòn) người người tấp nập mà có lần cọp về bắt nguyên một con ngựa cũa quan nơi đó đem đi mất., huống chi nơi nầy gần rừng gần sông gần tràm đước?
    Người thứ tư là Dì năm chột. Dì có đứa con gái độc nhất, ngày kia lấy chồng. Vợ chồng mần ăn khá giã, nhưng lại quên mẹ già nuôi mình tháng ngày khôn lớn. Họ bõ bà mẹ chơ vơ trong nhà chòi nhỏ rồi họ lên phố Chợ mần ăn. Nghe nói họ rất giàu, nhưng biệt âm tín từ đó. Bà mẹ lượm cũi mà bán độ nhật quanh vùng. Bq dùng rựa mà chặt những cành cây to, để khô rồi chất lại đem đi bán. Ngày kia một mãnh cây vụn văng từ khúi cũi đâm vào mắt bà làm bà đui một bên. Nghề lượm cũi hết thời, vì đi sâu vào rừng thì không được vì giậc nổi lên tứ phương trời. Họ cấm rừng.. không cho ai lai vãng vào đây. cuối cùng bà gỏ cữa chùa xin chùa nhận nơi nầy làm quê hương. Từ đó Bà lo nấu ăn bếp núc cho Chùa. Thầh đặt tên cho bà là Diệu Nghiệp. Kinh giãng nhiều nhưng bà chỉ thuộc nằm lòng bài Tán Hương Niệm Phật và vài câu Thủ Lăng Nghiêm, thế thôi. Vào một đêm hạ ngươn tháng 8... chú tiểu Ngộ Đạt nghe dộng cửa chùa gấp rút, chú tiều mở cữa ra thì đụng ngay nhóm quan quân triều đình Tây Sơn đến khám chùa.Họ đứng chật sân chùa, sắc khí hừng hừng. Đèn đuốc sáng choang...
    Chú tiểu vội chạy vaò hậu liêu báo tin cho Thầy. "- Thưa Thầy quan quân đến khám chùa gấp lắm, họ cầm đèn đuốc và khí giới sáng ngời, họ nói họ muốn gặp chủ chùa ". Sư Thường Chiếu vội xả thiền, Ngài tìm đôi dép cỏ xỏ chân vào
    Ngòai sân độ trên 20 người, tay cầm đuốc cháy phừng phực, khí giới hung hãn. Quan võ đến chào Ngài và nói " Xin Thầy cho chúng tôi xét chùa, chùa có chứa người nào lạ vào đây hay không? ".- Phương Trượng Thường Chiếu vội đáp: " Mô Phật ! bần tăng và chùa nghèo hổm rày không có một người khác nào vãng lại đến đây hết. Xin Quan cứ tự tiện vào xét chùa không sao ".
    Viên võ quan và vài tùy tòng cầm đuốc chai cháy phừng phực khói lữa tiến vào Niệm Phật Đường, rồi từng người vào hậu liêu xét từng nơi... Họ đến nhà bếp, họ mở tung nắp lu đựng gạo... họ nói " chùa gì nghèo dữ vậy không biết, trong lu còn vài chén gạo làm sao nấu cơm cho tụi mình đây? ". Rồi quan quân đi vòng ra sau chùa. Sau chùa là một hồ nước lớn, ăn thông với sông cái..thế thôi. Sau cùng viên võ quan đến chào Thầy và răn đe:" Chùa không có gì hôm nay. Nhưng nếu Chùa chứa chấp người lạ mà không thông báo cho chúng tôi thì chùa sẽ bị tai họa khôn lừờng đó. Thầy nên nhớ kỷ dùm. Thôi được ngày mai hay ngày mốt chúng tôi đến lần nữa và cho người cũa tụi tôi ngũ tại đây đó, Thầy nên chuẩn bị từ đây. "
    Đám quan quân hùng hổ đến, rồi hùng hổ lui. Họ mang danh nghĩa là quan quân triều đình Tây Sơn, nhưng họ còn nguy hiểm hơn trăm lần... họ là nhóm lính Đông Sơn cũa thượng tướng Đổ thành Nhơn. Chủ bị giết thì đám lính Đông Sơn nầy chia tam xẽ tứ liền... nhóm theo chúa Nguyễn, nhóm theo Tây Sơn, nhóm theo Nghĩa Hòa Đoàn cũa tàn quân tướng Tàu Dương ngạn Địch... Quân lính càng đông thì dân càng khổ. Ban ngày theo nhóm màu cờ nầy, trưa theo nhóm màu cờ kia, chiều theo nhóm màu cờ nọ. Lâu lâu ngay ngã tư con nước sông hồ có vài đầu lâu được cắm sào nhe răng trắng thấy mà ớn oan hồn. Nhiều xác người trôi sông, Thầy Thường Chiếu cho ngừơi vớt lên, chính tay Thầy làm lể chôn cất sau bìa rừng, một vài bài kinh kệ đơn lẽ hòa âm cùng tiếng mõ chùa bay vào hư vô, bay vào rừng sâu núi thẵm... Đời người vô thường, nhưng cái chết thì hữu thường, đủ cách, đủ loại...
  8. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Quan quân đi rồi. Chùa trở lại không gian im lìm như xưa. Tiếng dế lại kêu ri rỉ nơi góc cây, tiếng uềnh oang cũa ểnh ương kêu buồn tha thiết. Sư Thường Chiếu vào phòng, Thầy định cầm chân nhang mà kéo ngọn bấc nơi dĩa đèn đậu phụng xuống thấp cho bớt ánh sáng hầu tiết kiệm dầu thắp đèn hàng đêm. Thì một tiếng kêu của con chim ré bay ngang nóc chùa. Thầy lẩm bẩm: "Tại sao lại có chim báo khách vào giờ nầy nữa cà? "... Thầy vừa chợp mắt chưa bao lâu thì Thầy nghe chú tiểu Ngộ Đạt đến gỏ cữa nói nhỏ: " Thưa Thầy có khách lạ vào sân chùa, họ đi đến 5 người nhưng có một phụ nữ... hình như bà nầy đang bị bệnh đi đứng khó khăn..Thầy tính sao? " Sư Thường Chiếu ngồi dậy, cơn chóng mặt và sốt nóng vì rét rừng đang hành Thầy mảnh liệt. Thầy nói: " Con mở cữa sau Chùa cho họ vào,, nhưng con dẩn họ coi chừng vì té xuống sông thì nguy lắm, coi chừng cá sấu rình mồi hoài nơi cây gáo sau chùa đó nghen con ". Nhóm ngừoi lạ 5 người. Họ hình như mất tinh thần và đói nữa. Một người đàn ông trung niên, dáng thấp người. Gương mặt dài, đặc biệt hai gò má có hai nốt rồi to và có lông mọc từ hai nột ruồi đó. Sư Thường Chiếu nói thầm: " Đây là quý tướng khác thường, nhưng sát quân, người nầy chắc là chúa Nguyễn rồi "
    Người đàn ông trung niên đó nói với sư cụ: " Chúng tôi có một phụ nữ gần sanh, Thầy giúp dùm ". THường Chiếu gật đầu " Mô Phật ! cửa chùa rộng mỡ, nhưng trước đó có quan quân Tây Sơn vừa khám chùa, xin quý vị cẩn thận "... Nghe nói có quan quân Tây Sơn thì nhóm người lạ nếy hơi biến sắc. Sư Cụ Thường Chiếu thấy một phụ nữ đang dựa cữa hậu liêu sau chùa, người như sắp sữa bất tỉnh nhân sự. Thầy vội nói với chú Tư Cui đaư bà nầy vào phòng riêng cũa Thầy. Chú Tư Cui hơi bất bình,nhưng vâng lời..Thầy nói theo " Bà nầy sắp lâm bồn, chùa nghèo không có giường chiếu chi nhiều, nhưng cứu mạng là trước hết. Cứ đem bà nầy vào phòng Thầy... " Chú Tư Cui cùng với Bà Diệu Nghiệp đở sãn phụ gần đang hôn mê vì ra máu quá nhiều, lại đi bộ nữa... sãn phụ đuối sức và hôn mê luôn.
    Đứa bé ra đời, điều đặc biệt là đứa bé chỉ khóc có một tiếng rồi im không khóc. Đứa bé biết tánh mạng nhiều người tùy theo tiếng khóc cũa mình, quân địch khắp nơi.
    Bé được sư Thường Chiếu nấu cho chút nước cháo hòa tan với đừơng thẽ trong đêm khuya đó. Sư Thường Chiếu chính tay Ngài đở đẽ cho sãn phụ đó. Thầy gọi Bà Diệu Nghiệp dặn nhỏ: " Con vào trong xóm ráng xin sữa cũa bà mẹ nào đang cho con bú, nhưng con khá cẩn thận. Nếu quan quân biết được thì Thầy chết không sao, nhưng còn kéo theo nhiều người nữa kể luôn đứa bé nầy "...
    Đứa bé ra đời vào ngày hạ ngươn tháng tám âm lịch, năm Tân Hợi (1791). Được Thầy đặt cho Pháp danh: " Ngộ Phúc "... Thầy lắc đầu: " Chúa tướng ra đời trăm sự yên, vạn sự thịnh... nhưng ngôi chùa này sẽ không còn nữa vì đã từng đón chân mạng thiên tữ rồi. Chùa không đủ phước trường thọ với thời gian... vì luật Trời đất mà... "
    Rồi 13 năm sau, đó là năm 1804 Cao Hoàng Đế GIa Long nhớ ơn chùa cưu mang và độ cứu con mình ra đời trong thuỡ hàn vi - Con mình là Hoàng tử Đãm... vì can đãm khộng khóc đề cứu mạng quan quân mình... Đãm là can đãm vậy... - chùa nghèo và mình cũng nghèo luôn. Cao Hoàng Đế gởi tặng chùa một tượng Phật bằng gổ mít, cao gần bằng đứa bé 5 tuổi. Sơn son thếp vàng. Cao Hoàng ban chiếu đổi tên chùa ra là chùa Kiến Tường. Sư ông mất vài năm sau đó.
  9. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Đến năm 1859 Thượng tướng Nguyễn tri Phương được lệnh đem quân về miền Nam chống giữ giặc Pháp. Đồn được lập nơi ngã tư khúc sông. Vào đêm khuya (ngày 6 tháng 12 năm 1860) có một toán quan quân Pháp từ nơi xa kéo về gần đồn. Quan quân Nguyễn tri Phương đón đường phục kích đoàn quân nầy. Bị lọt vào ổ phục kích quan Ba Barbe bị trrúng đạn chết. Qua ngày sau quân Pháp kéo đông tới, lớp đi tàu chiến lớp cởi ngựa và lính dõng theo sau... Họ không thấy ai hết ngoài ngôi chùa nghèo Kiến Tường..họ phóng hõa ngôi chùa nầy ra tro không còn nữa... Đúng như Phương Trượng Thường Chiếu tiên đoán..chùa không còn nữa... nhưng tượng Phật thì còn. Ngày nay tượng Phật bằng gổ mít cũa Vua Gia Long đang ngồi yên lặng hàng trăm năm tại Viện Khảo Cổ gần Thảo Cầm Viên Saigon.Tượng Phật còn nhớ gì ngày xưa đứa bé ra đời trong ngôi chùa Miên nghèo nầy hay không? Đứa bé đó là Vua Minh Mạng sau nầy..Khi Vua Minh Mạng lên ngôi thì bốn phương Thái Bình, trăm họ âu ca an hòa... Chùa được trùng tu và phong sắc nhiều lần bởi vua Minh Mạng... nhưng chục năm sau thì... cát bụi trở về với cát bụi... chùa Miên... rồi chùa Việt... rồi chùa Kiến Tường... Nay không còn nữa... cát bụi trở vế cát bụi... lời sư Thường Chiếu nói trúng cho chục năm sau nầy
    Năm 67-68-69 tại Saigon là những năm sôi động. Sinh viên biểu tình liên miên, phong traò nhạc phản chiến bùng nổ khắp nơi. Tại phòng trà, tại vũ trường, tại câu lạc bộ sinh viên, tại các quán cà phê lộ thiên... nhạc phản chiến hay nhạc ngao ngán chiến tranh được nghe, được uống vào tâm can từng lời.
    Nào Trịnh công Sơn, nào Trương Thìn, nào Miên đức Thắng... phong trào Du ca Sinh Viên... ngần ngần đốt cháy tâm can thanh niên thiếu nữ Saigon.
    Trên bục gổ quán cà phê Văn, rồi sau đó lan đến sân khấu lớp SPCN thuộc Khoa Học Đại Học Đường mà Khoa Trưỡng là Giáo sư Nguyễn chung Tú đồng ý ngầm... nhạc họ Trịnh như nước vở bờ... ca sỉ Khánh Ly một giọng ca xa lạ, đến từ ĐàLạt được chấp cánh bay lên không gian sâu thẳm. Cô ngự trị nơi đó mà không có đối thủ - nhạc phản chiến kỳ cùng. Nhức nhối hai bên, bên Quốc Gia và bên Cộng Sản...
    Bài hay nhất trọn đời nhạc họ Trịnh là " Gia Tài cũa Mẹ "... Hai phe nghe thật nhức nhối vạn phần, phe Quốc Gia và phe C ộng Sản... .. 1000 năm đô hộ giặc Tàu... 100 năm đô hộ giặc Tây... 20 năm nội chiến từng ngày... Gia Tài cũa mẹ... một bọn lai căng..Gia Tài cũa Mẹ một lũ bội tình... Dạy cho con tiếng nói thật thà... dạy cho con chớ quên màu da... con chớ quên màu da... nước Việt... Khánh Ly gào lên và xoáy động tấm lòng trai trẽ bốn phương trời. Ai mà không rúng động khi nghe lời nhạc tiên tri nầy... Giờ đây di dân nước Việt đến bốn phương Trời... Đông Tây Nam Bắc... họ còn nhớ màu da vàng cũa họ hay không? Từ quán cà phê Văn trong khuôn viên Đại Học Văn Khoa... kế nơi đó là đường Lê quý Đôn... kế xa xa là trtường Pháp lớn là Chasseloup-Laubat, nay là Trường Lê quý Đôn... gần ngã tư đèn xanh đèn đỏ... cách gốc cây me mà thân cây sơn màu trắng độ chừng 25 mét, thụt vào sâu... một gò đất nồng hơi cao hơn mặt đường một tí.
    Vâng nơi đó là chùa Khải Tường. Nơi mà hoàng tử Đãm ra đời trong ngôi chùa nghèo nàn, mà phương trượng là sư Thường Chiếu. Con đường Lê quý Đôn nối dài mà xưa đó là một con sông rộng... trăm năm trước chùa Miên đang đua ghe Ngo khi mùa nước nổi. sư lục cụ cầm dùi trống đánh tiếng trống vang trời, sau đó là phào nổ thì đoàn ghe lứot sóng ra khơi tranh tài... Rồi có tiếng Cọp đêm khuya về hống vài tiếng kêu văng vẳng, làm muôn thú vội vàng nín thở lặng im... Không gian chìm lần... vật đổi sao dời... Nay chùa Khải Tường không còn nữa, chỉ còn một dấu tích là gò đất hơi cao hơn mặt đường lộ tráng nhựa, nơi xa là nơi ngã tư đèn xanh đèn đỏ, gần đó là đường Lê quý Đôn... Thế thôi...
  10. dangnghia

    dangnghia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2003
    Bài viết:
    1.800
    Đã được thích:
    0
    Việc oánh Kam là mình ko tránh được, kể cả nhà mình có ai đi chăng nữa cũng ko thể thay đổi thế cờ đã có sau 1975 được. Thằng Mẽo nó dấm dúi với thằng Tầu khựa lâu rồi. Nó dấm dúi đến mức năm 1972 nó ném bom toàn bộ các cơ sở của K đỏ rồi nó bảo là do Bắc Việt chỉ điểm. Bọn K đỏ nó thanh trừ nội bộ, bắt đầu làm thịt những cán bộ thân VN của nó từ năm 74. Năm 75 mình mới thống nhất đất nước, trước đó ko thể phân thân ra mà xử lý được.

Chia sẻ trang này