1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TranMinhkhochuoi, 09/06/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Vụ mới thì em chưa biết nhưng vụ tranh chấp đền Prết Vi hia ở biên giới Thái -K thì có nhiều năm rồi
    Vụ này dẫn đến bạo động tấn công cty Thái, Đs quán Thái ở PNP
    Cuối cùng thị trưởng PNP mất chức và K phải bồi thường cho Thái 40-50 triệu USD
  2. con_ech_gia

    con_ech_gia Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    1.773
    Đã được thích:
    65
    Tớ thấy dân tộc Kam thật đáng thương. Cũng đã từng là một đế quốc lớn, chỉ vì những cái như Angco Vat mà lụn bại, đến nỗi cả nửa thiên niên kỷ sau vẫn không ngóc đầu lên nổi.
    Thế mới biết, quyết định, chủ trương của những người cầm quyền quan trọng chừng nào.
  3. abtomat47

    abtomat47 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/06/2008
    Bài viết:
    1.083
    Đã được thích:
    1
    Hai tấm ảnh dưới đây là bằng chứng cho thấy Lonnon mở chiến dịch "cáp duồn" đồng bào ta ngay tại Phnom Penh
    Xem thêm thông tin tại
    http://www10.ttvnol.com/forum/quansu/1060245/trang-89.ttvn
    Được abtomat47 sửa chữa / chuyển vào 22:36 ngày 15/07/2008
  4. honglian

    honglian Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/07/2008
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    14
    Người Việt ở Campuchia
    So với Việt Nam, Campuchia là một nước tương đối ít dân. Dân số hiện nay của Campuchia chỉ có khoảng gần 12 triệu người. Tuy nhiên, cũng giống như Việt Nam, Campuchia là một quốc gia tương đối thuần chủng, có thể được xem là thuần chủng nhất tại vùng Đông Nam Á. Nếu ở Việt Nam, người Kinh chiếm đại đa số thì ở Campuchia, người Khmer cũng giữ vị thế tương tự hoặc hơn thế nữa, với khoảng 90% dân số cả nước.
    Ngoài người Khmer, tại Campuchia còn có một số sắc dân khác, trong đó đông nhất là người Hoa, người Việt Nam, người Chàm và một số dân thiểu số khác sống trên các vùng cao nguyên. Người Hoa đã đến Campuchia từ thời Angkor, tức cách đây cả ngàn năm. Từ khoảng 200 năm trở lại đây, số lượng người Hoa di cư đến Campuchia càng ngày càng nhiều. Trước năm 1975, người Hoa nắm phần lớn các hoạt động kinh tế của Campuchia, được xem là thành phần giàu có nhất nước. Hiện nay, ưu thế ấy đã giảm nhưng phần lớn người Hoa vẫn tập trung trong các thành phố lớn và vẫn có ảnh hưởng rất đáng kể về kinh tế và thương mại. Người Chàm thì đến Campuchia từ lâu, cách đây nhiều thế kỷ, phần lớn theo Hồi giáo và làm các nghề chăn nuôi, trồng trọt hoặc chài lưới.
    Riêng người Việt Nam thì có một lịch sử khá đặc biệt. Một số khá đông qua Campuchia sinh sống từ thời Pháp thuộc; nhưng nhiều nhất là sau năm 1975, nhất là trong thời gian quân đội Việt Nam chiếm đóng Campuchia. Quan hệ giữa người Việt Nam và người bản xứ tại Campuchia có lúc căng thẳng và đẫm máu. Để tìm hiểu về cộng đồng người Việt tại quốc gia láng giềng này, ngày 10/09/2004, phóng viên Minh Nguyệt của Đài Phát thanh Úc châu (Radio ABC) đã phỏng vấn ông Nguyễn Văn Khậy, tác giả cuốn biên khảo "Kampuchea trong bối cảnh chiến tranh Đông Dương" xuất bản tại Úc vào năm 2003.
    *
    Minh Nguyệt: Trước hết, xin anh cho biết người Việt Nam sang sinh sống tại Campuchia trong những thời điểm nào? Và lý do tại sao họ phải di cư sang Campuchia?
    Nguyễn Văn Khậy: Khi người Pháp cai trị toàn cõi Đông Dương, đa số người Việt sang đất bạn làm công chức, tư chức, nhân viên xã ấp cho chánh phủ Cao Miên. Số còn lại là tín đồ đạo Thiên Chúa lánh nạn tôn giáo dưới triều vua Tự Đức.
    Nhóm người Việt các tỉnh miền Bắc, năm 1920 di dân theo cuộc khai mở các khu đồn điền cao su của Pháp, gọi là dân ?~công tra?T, số nầy lên đến cả 100.000 người.
    Người Việt các tỉnh ven biên như: Châu Đốc, Rạch Giá, Tây Ninh... theo dòng người di cư đến làm trong các khu đồn điền mới khai mở. Một số khá đông sống ở vùng Biển hồ để đánh bắt cá.
    Minh Nguyệt: Hiện nay có khoảng bao nhiêu người Việt ở Campuchia?
    Nguyễn Văn Khậy: Hiện nay có khoảng 1 triệu người, xin tạm phân chia ra:
    ?" Khoảng 3 - 400 ngàn thời Pháp thuộc, tức công tư chức, thầy giáo, bác sĩ... nay đã bị đồng hóa thành dân tộc Khmer. Họ nói giỏi tiếng Miên, có điền sản, nhà cửa sống xa thành phố. Có thể nói họ không còn biết tổ tông, quê cha đất tổ là gì.
    ?" Nhóm người Việt là ?ongư phủ ?o sống dọc theo sông Mêkong, vùng Biển Hồ. Con số nầy lên xuống khó kiểm vì vấn đề an ninh của vương quốc (trước và sau 1975).
    ?" Nhóm người Việt sau năm 1993 quay trở lại thủ đô Nam Vang buôn gánh bán bưng sống qua ngày. Tuy là nhóm nhỏ như: thợ mộc, thợ hồ xây cất, thợ sửa xe, thợ hớt tóc, uốn tóc... đây là nguồn nhân lực sống dễ dàng trên đất khách.
    Minh Nguyệt: Người Việt ở Campuchia thường làm nghề gì? Và mức sống chung của họ so với người Campuchia thì như thế nào?
    Nguyễn Văn Khậy: Nếu là thị dân thì họ thuê mướn nhà buôn gánh bán bưng, sống tạm vào các khu phố chợ đông người. Đỡ vất vả hơn họ chạy xe Honda ôm, làm thợ hớt tóc, thợ mộc, thợ hồ, sửa xe... Đây là nguồn nhân lực sống dễ dàng trên đất khách. Họ kiếm được mỗi ngày từ 15.000 đến 24.000 riel (khoảng 4 đến 6 mỹ kim).
    Đây chỉ nói thị dân. Còn dân cạo mủ thì hưởng theo chế độ ?oxã hội chủ nghĩa? trong các khu đồn điền cao su. Còn phần đông người Việt ở Biển Hồ, sống nhờ vào con nước, nổi trôi trên thuyền bè bằng nghề đánh bắt cá, khó lòng lượng định sự nghèo giàu đúng mực.
    Minh Nguyệt: Thưa anh, phần lớn người Việt ở Campuchia có nói tiếng Việt và học tiếng Việt hay không?
    Nguyễn Văn Khậy: Theo thống kê của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp, khoảng 500.000 người nói được tiếng Việt; 500.000 người đang học tiếng Việt, hiểu nghĩa tiếng Việt.
    Minh Nguyệt: Trước năm 1975 cũng như sau này, thỉnh thoảng lại xảy những vụ người Việt Nam định cư tại Campuchia bị người bản xứ thảm sát, hay gọi theo tiếng Miên là cáp duồn. Trước hết, xin anh giải thích "cáp duồn" có nghĩa là gì?
    Nguyễn Văn Khậy: Cáp là chặt, còn duồn là người Việt. Tuy nhiên, từ "duồn" xưa rồi, không còn sử dụng mấy nữa.
    Minh Nguyệt: Thưa anh, tại sao lại có những vụ cáp duồn như thế?
  5. honglian

    honglian Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/07/2008
    Bài viết:
    1.023
    Đã được thích:
    14

    Người Việt ở Campuchia
    TT
    Nguyễn Văn Khậy: Tôi xin trả lời theo tuần tự của thời gian. Thời Pháp thuộc, người Campuchia bị xách động để trả thù người Việt. Những Việt kiều ở ven các xã Prasath, Soknok, Bavet tỉnh Swayrieng, các tỉnh Kan dal, Preyveng dọc theo sông Tiền Giang gần ranh giới bị thiệt thòi về điền sản, có người mất ít từ 5-20 mẫu, có người mất nhiều cả 100 đến 200 mẫu. Người Miên tung khẩu hiệu: "Đất Miên trả lại dân Miên". Lý do dễ hiểu là người Miên lười không chịu canh tác, trong khi người Việt siêng năng cần cù hơn, lại biết hợp tác với nhau trong việc phá rừng, lập rẫy theo sự khích lệ của chánh phủ Miên, họ được cấp giấy phép canh tác.
    Tôi xin tóm giai đoạn Tổng thống Lon Nol cầm quyền 1970, người Việt bỏ của chạy lấy người. Họ áp dụng chính sách khủng bố và xua đuổi hơn chém giết như thời Pháp. Việt kiều tràn ngập về đến Sàigòn, nhiều nhất lúc đó là ở khu Phạm Thế Hiển. Trông họ thật lạc lõng giữa ?ochợ đời? đồng bào ruột thịt, từ cách ăn mặc đến giọng nói.
    Thời Pol Pot cầm quyền: Mở đầu chiến dịch là thái độ xua đuổi, khủng bố, nhưng động cơ chính của sự ra đi ồ ạt là nạn thảm sát kinh hoàng.
    Trước nạn "cáp duồn", người Việt bị chặt đầu cách dã man. Rồi 41 người bị giết, đầu lìa khỏi xác, trong hai vụ tấn công của Khmer Đỏ. Có hơn 10 vụ thảm sát tập thể người Việt, nạn nhân lên tới 100 người.
    Đó là những đợt đầu. Lâu lâu lại có tin người Việt bị chặt đầu, khi thì bốn người khi thì 8 người, ở nhương địa điểm khác nhau. Một số đàn ông Việt thoát chết khai báo với Uỷ Ban Điều Tra Liên Hiệp Quốc rằng bọn giết người mặc quân phục Khmer Đỏ, tức kiểu do Mao-Trạch-Đông thực hiện cho Hồng quân Trung quốc. Ít nhất 20 tên tham dự vụ giết người Việt nầy, với vũ khí trên tay. Chúng đã nã nhiều tràng đạn AK 47 vào làng xóm có người Việt cư ngụ. Bất cứ người nào chúng gặp đều phải chết, bất luận già trẻ bé lớn, trẻ thơ vô tội.
    Minh Nguyệt: Thưa anh, tại sao người Khmer vẫn luôn tiếp tục duy trì tinh thần ?~bài Việt?T vậy anh?
    Nguyễn Văn Khậy: Có rất nhiều lý do để giải thích. Tạm chia ra 4 yếu tố:
    ?" Trước nhất là sự khác biệt văn hoá. Người Khmer không ghét người Xiêm La (Thái) mà chỉ thù người Việt. Người Thái vì cùng văn hoá Ấn Độ, chỉ có thể là ?ođồng minh?, mặc dù đã là tác giả của biết bao tai họa khiến người Khmer không cất đầu lên nổi: tiêu diệt nền văn minh Angkor, chiếm hữu toàn bộ lãnh thổ phía Tây, vơ vét tài nguyên, bắt người làm nô lệ, bao che những thành phần diệt chủng... Nếu không có sự hiện diện của người Việt có lẽ quốc gia nầy đã nhiều lần bị Xiêm La xóa tên. Bằng chứng thời Pháp cai trị, người Việt từng được ơn là khai hóa họ để có sự tiến bộ nhiều mặt đến ngày hôm nay.
    ?" Thứ hai, vấn đề tâm lý. Người Khmer luôn có mặc cảm bị người Việt hà hiếp. Tâm lý nầy là kết quả của một thời gian dài bị đô hộ bởi người Xiêm La và người Pháp, hai thế lực nầy rất sợ người Việt sẽ dần dần chiếm hữu Cao Miên. Cựu vương quốc Champa là một bằng chứng. Mặc dù là ân nhân của người Khmer trong suốt quá trình giữ nước, vai trò của người Việt tại Cao Miên thường bị hiểu lầm.
    ?" Thứ ba, lý do lịch sử. Người Khmer có mặt tại đồng bằng sông Cửu Long trước người Việt. Lý do nầy ngày nay không còn đứng vững. Người Khmer sống trên đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 17 không đông vì điều kiện sinh sống khó khăn, phần lớn là những người chạy trốn sự hà khắc của các vương triều Khmer. Sau khi tiêu diệt Phù Nam, các vương triều Khmer bỏ rơi đồng bằng sông Cửu Long (như Óc Eo ở Rạch Giá giáp với vùng Tri Tôn) mà chỉ tập trung phát triển khu vực chung quanh Biển Hồ. Người Việt tuy có đến sau thật nhưng đã cùng người Hoa di cư phát triển vùng đất nầy và đang chia xẻ với người Khmer địa phương những phúc lợi chung.
    ?" Thứ tư, lý do kinh tế. Đồng bằng sông Cửu Long ngày nay trở thành trù phú trong khi khu vực Biển Hồ vẫn chìm trong nghèo khổ. Thêm vào đó cộng đồng người Việt tại Cao Miên cần cù chịu khó hơn, có mức sống tương đối cao hơn người Khmer bản địa. Sự kiện nầy có lẽ làm người Khmer không bằng lòng. Nếu đồng bằng sông Cửu Long cằn cỗi như các vùng đất phía Tây và người Khmer có mức sống ngang bằng người Việt, vấn đề tranh chấp đất đai, tâm lý và tinh thần bài Việt không đặt ra.
    ________________________________________
    Cái Đình - 2004
  6. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Lúc trước nhớ trên mạng có khá nhiều ảnh đồng bào tị nạn 1970 từ Campuchia nay cần lại không thấy. Các bác có biết thì chỉ hộ em
  7. con_ech_gia

    con_ech_gia Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    1.773
    Đã được thích:
    65
    Vàng 1: thể hiện khả năng đọc hiểu kém, hoặc trình cùn rất cao.
    Vàng 2: đừng cố ***g ghép vấn đề khác vào để đánh trống lảng chứ?
  8. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    Có bài viết này trong một blog của wordpress mình muốn chia sẽ cùng các bạn. Bài sẽ được đăng làm nhiều lần.


    Phần I: Người Việt ở Cambodia


    Chúng ta thường xuyên nghe tin tức, những mẫu chuyện về Việt kiều (VK) Mỹ, Pháp, Úc, Canada, vv, nhưng ít khi bàn đến VK ở Cambodia (Cao Miên: CM), dù rằng cộng đồng người Việt ở Cambodia là CĐ lâu đời nhất, (đã có thời) đáng hãnh diện nhất, thành công nhất và hiện nay: nghèo khó nhất. Sách vở viết về VK ở CM một cách đầy đủ cũng không được xuất bản nhiều. Lâu lâu xuất hiện một vài câu chuyện/ tường thuật du lịch hay đời sống VK ở CM, nhưng những chuyện tế nhị, các chi tiết sâu xa gián tiếp hay trực tiếp dẫn đến tình hình hiện tại của hầu hết VK tại Cambodia thường hiếm khi được nhắc đến và luôn có giới hạn.


    Bài viết trích dẫn nhiều dữ liệu thông tin từ cuốn sách: “Việt kiều ở Kampuchea” của soạn giả, nhà văn Lê Hương. Cùng một số sách như: Phnom Penh, a cultural history; Cambodia: report from a tricken land; và từ nhiều nguồn tài liệu, thông tin khác.

    *

    Pháp phải dùng vũ lực cưởng chiếm Việt Nam và đối phó với hàng chục cuộc vùng lên trong suốt gần 100 năm cai trị. Tuy nhiên, nhờ đội ngủ truyền giáo người Tây Phương đã hoạt động tại VN trong suốt vài thế kỷ, đào tạo được hàng ngàn tín đồ và cảm tình viên người Việt, nên việc thiết lập bộ máy cai trị của thực dân Pháp diễn ra nhanh chóng và tương đối suông sẻ. Trong khi đó, tình hình ở Cambodia (Cao Miên: CM) xảy ra một cách trái ngược. Nơi đây, Phật giáo được xem là quốc giáo, mọi công dân đều là Phật tử; sư sãi, nhà chùa có ảnh hưởng rất lớn đối với Hoàng gia và dân tộc Khmer (K). Bởi vậy, cho dù các Quốc vương CM luôn luôn chào đón sự hiện diện của người Pháp, nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc vào hai lân quốc hùng mạnh – Việt Nam và Siam (Thailand) – thì các sư sãi K vẫn không bao giờ khuyến khích Phật tử của họ hợp tác với người Tây phương ngoại đạo. Đa số tín đồ Công giáo tại Cambodia từ 200 năm qua vẫn là người Miên gốc Việt Nam.


    Vừa rồi là lý do tại sao người Pháp không gặp sự kháng cự, nhưng họ phải nhờ người Việt giúp họ thiết lập bộ máy chính quyền và truyền bá văn hóa Tây phương đến với người K. Trong khuông khổ giới hạn của bài viết , tôi chỉ nêu lên một số sự kiện đã xảy ra ở CM ảnh hưởng trầm trọng tới đời sống Việt kiều ở CM. Từ một cộng đồng sung túc được nể trọng bởi người Khmer, người Tàu và được cưng chìu bởi người Pháp, bổng trở nên cộng đồng nghèo mạt, không ngóc đầu lên mổi, nhất là kể từ khi CM trở thành một quốc gia độc lập. Cho tới ngày hôm nay, Việt kiều ở CM vẫn còn là nạn nhân của những kẻ quá khích. Họ phải sống âm thầm, luôn luôn cảnh giác và lắm khi phải nhịn nhục để giử lấy thân.


    I. THỜI KỲ BẢO HỘ, TRƯỚC 1945
  9. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    I. THỜI KỲ BẢO HỘ, TRƯỚC 1945


    1. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-qformat:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin-top:0in; mso-para-margin-right:0in; mso-para-margin-bottom:10.0pt; mso-para-margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:11.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif"; mso-ascii-font-family:Calibri; mso-ascii-theme-font:minor-latin; mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-theme-font:minor-fareast; mso-hansi-font-family:Calibri; mso-hansi-theme-font:minor-latin;} Thành phố Phnom Penh:


    Dưới thời Cao Miên được Việt Nam bảo hộ, VN khuyến khích vua CM dời thủ đô từ Udong về Nam Vang. Sau khi vua Ang Chan II mất, VN lập con gái lên ngôi làm bù nhìn nhằm đặt ách đô hộ. Sau đó, Ang Duang được quân Siem đưa về và lên ngôi vua. Ang Duang dời ngôi về lại Udong, lúc đó Hoàng thành chỉ là những ngôi nhà sàn được làm bằng cây và tre. Sau khi ký kết hiệp ước bảo hộ, Người Pháp khuyên Quốc vương CM nên dời đô đến Nam Vang. Lúc đó, ở ngoại ô Nam Vang là nơi định cư của mấy ngàn người Công giáo VK và mấy ngàn người Chàm; người K rất ít và không có một kiến trúc lịch sử nào trước khi Pháp đến.


    Theo lời truyền khẩu thì VK đặt tên Nam Vang có nghĩa là người Việt “Nam vang“ dội trên đất CM. Truyền thuyết khác cho rằng vì ông Trương Minh Giảng khuyên vua CM dời đô về Nam Vang nên VK gọi nó theo tên thân mật của ô. TMG là thành phố Năm Giảng (ông Giảng thứ 5). Năm lần lần đọc thành Nam, còn Giảng đọc thành Giang, mà người Nam đọc giang thành vang. (Tôi ghi luôn vào đây chỉ là giúp vui).


    Việc đọc trại tên xảy ra rất nhiều ở các cộng đồng VK lâu đời: Lào, CM và Thái. Ví dụ: thời cấm đạo, đạo Công giáo (bây giờ) được gọi là Hoa Lang đạo. Ai bị bắt thì bị xâm trên trán: ‘Học Hoa lang đạo.” Xóm người Việt ở khu cầu Sài Gòn tại Nam Vang có tên Gọi là xóm Hoà lang, tức xóm Công giáo thay vì tên Hoa lang như lúc ban đầu.


    2. Người Việt cần thiết cho chính quyền thực dân:


    Ngay từ lúc đầu, Pháp đã nhờ hàng ngàn VK theo đạo Công giáo đang lánh nạn cấm đạo, gia nhập vào guồng máy của chính quyền thực dân tại Lào và Cambodia. Sang thế kỷ 20, người Pháp bắt đầu nhập người V sang CM và Lào. Bắt đầu những năm 1920, nhu cầu cần có trí thức người Việt gia tăng nên học sinh học xong tiểu học là có thể sang CM để làm công chức trong mọi cơ quan chính phủ hay làm tư chức. Học sinh học xong một, hai năm tại trường sư phạm ở VN cũng được cho làm giáo viên cấp thấp.


    Nhờ biết tiếng Pháp nên các công ty tư nhân chủ người Tây chỉ nhận nhân viên VK. Người Tàu, người Ấn cũng tìm nhân viên VK để lo việc sổ sách cho họ, đồng thời giúp họ giao tiếp với quan chức người P trong chính quyền. Lúc này người Pháp bắt đầu mở trường, vì vậy giáo viên VK rất cần thiết. Họ phải học tiếng K để có thể dạy tiếng Pháp cho trẻ em người K. Cần biết là lúc bấy giờ, dân K vẫn còn tôn trọng lối học truyền thống, tức là đến chùa để học tiếng Khmer, do các sư sãi chỉ dạy. Thời này học sinh VK học đầy trường công ở CM.


    3. Nghề nghiệp của Việt kiều ở Cambodia:


    Trong thời kỳ này, người Việt Nam từ Việt Nam sang Cambodia làm ăn cũng đông. Làm ăn mưu sống ở CM rất dễ phát dạt, vì người K không ham làm, ham học. Ngoài làm công chức, tư chức, giáo viên, giáo sư, họ còn buôn bán nhỏ và làm nhiều nghề khác:


    Những nghề điển hình khác của VK: thợ in, chài lưới, làm nước mắm, bán sách báo, phu cao su, làm ruộng rẫy, phá rừng khai hoang, thợ mộc, thợ may, thợ máy, đóng giày, thợ điện, thợ hồ, hớt tóc, mở tiệm vàng. Ngoài ra, VK còn chuyên luôn nghề giúp việc cho hàng ngàn gia đình người Pháp và Âu Mỹ đang sống ở CM : quản gia, tài xế, làm vườn, vú em. Những công trình xây dựng lớn, nhỏ của chính phủ (và phần lớn nhà cửa hiện đại ở CM) đều do bàn tay VK xây lên: Royal Palace, viện bảo tàng, các dinh thự, bệnh viện, cơ quan chính phủ, khu nghĩ mát trên núi Bokor, vv, ở Phnom Penh và khắp nơi, cho đến bàn, ghế, tủ, giường, vv, từ xa xưa đến cả nay.


    Nói chung, trước chiến tranh Indochina I, VK ở CM là lực lượng lao động chính của chính phủ, trong các văn phòng và trong các dinh thự
    của người Âu Mỹ. Có nhiều người có chức vụ chỉ huy cơ quan hay chỉ đứng dưới một người Pháp. Có người giàu có nổi tiếng, đóng góp nhiều tiền bạc hay công sức cho chính phủ Hoàng gia CM nên rất được trọng vọng. Những người sống bằng nghề thủ công, tiểu công nghệ đều có cuộc sống sung túc. Cộng đồng VK ở Nam Vang là một CĐ rất tưng bừng vào các dịp lễ của người V. Thời này nhiều người T, K cũng học tiếng V, vì nhu cầu và vì nể phục.


    Người Việt có tiếng vang về sự cần cù, thông minh, xốc vác, năng nỗ và đa tài. Đó là lý do tại sao người Pháp có một expression nỗi
    tiếng trong thời gian sống ở Đông Dương: “The Vietnamese plant rice, the Cambodian watch it grow and the Lao listen to it grow.” Người Việt ít để ý đến thành ngữ này. Người Khmer thì không muốn nghe ai bảo họ thua người Việt. Còn người Lào thì luôn vui vẻ, dễ dãi, hiền lành, an phận, thành thật – nhiều công ty du lịch Lào thích sử dụng thành ngữ này để nói lên bản tính đặc trưng của người Lào.


    II. THỜI KỲ THUỘC ĐỊA, SAU 1945
  10. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    Cùng các bạn đọc:

    Bàu viết sử dụng tiếng Việt chưa đạt lắm, nhưng chúng ta hãy đánh giá qua thông tin được nêu dẫn và cách lý luận, giải thích của tác giả. Sau đây xin mời xem tiếp!


    *

    Thật ra, vào năm 1936, sự xuất hiện của tờ báo “Nagara Vatta” chuyên môn chống người Việt đã bắt đầu gieo mầm mống bài Việt trở lại trong lòng người K, sau gần 90 năm quên lãng. Đề tài này được trình bày ở phần III, chương 11: Mồng móng bài Việt tái xuất hiện.


    II. THỜI KỲ THUỘC ĐỊA, SAU 1945


    Hết chiến tranh thế giới II, Pháp được Hoàng gia CM mừng đón sự trở lại, trong khi tại VN kháng chiến giành độc lập bắt đầu bùng nổ và lan rộng. Hơn nữa, có một số công chức Việt kiều bỏ nhiệm sở, quay về VN tham gia kháng chiến chống P. Có 60-80 ngàn người Việt bỏ chạy sang Thái Lan để tránh sự trả thù của người Pháp – có VK từ Lào, CM, nhưng nhiều nhất là từ miền Trung và Bắc. Người P bắt đầu nghi ngờ và mất dần thiện cảm đối vơi VK và quay sang hợp tác với người K để kiềm chế mọi người V. Việc trước tiên là họ ban hành thẻ Việt kiều và làm ngơ để mặc chính quyền CM bạc đãi người V. Chính quyền CM chụp lấy cơ hội, lập tức ngấm ngầm phát động phong trào trấn lột, hiếp đáp và hạ bệ VK. Bắt đầu là nạn cáp duồn và chiếm đất; hô hào phong trào: ” Đất Miên phải trả lại cho người Miên”. Nạn “cáp duồn” xuất hiện tại CM và ngay cả trên lảnh thổ VN: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, vào cuối 1945, đầu 1946.


    1. Cáp duồn:

    Cáp duồn là gì?

    Cáp : chặt đầu; duồn: yuon hay người Việt.

    Tại sao gọi “yuon” ?


    Người dân ở những nước bị ảnh hưởng văn hoá Ấn độ gọi dân khác văn hoá là yuon, yuan, vv. biến thể từ chữ yuavana, có nghĩa là man di – một hình thức tự cao tự đại, cho rằng văn hoá của mình là số một. Chính vì vậy mà người Thái, các dân tộc sống ở Mã Lai, người K, Bahnar, Stien, Rade các dân tộc thiểu số sống ở VN như: Bà Na, Stiêng, Ra Đê (Bahnar, Stien, Rade) đều dùng yuon để gọi người Kinh. Thời buổi văn minh, tên gọi yuon không còn phổ biến (ngoại trừ người K), vì có ý nghĩa không lành mạnh. Nên biết thêm là người Miến Điện, người theo đạo hồi sống ở Tây Nam TQ, vv, cũng gọi người TQ là yuon. Tuy nhiên, người K tìm đủ mọi cách biện hộ rằng họ không kỳ thị, đừng ép họ phải bỏ chữ duồn.


    Có thể gọi cáp duồn là cuộc thảm sát người Việt gây ra bởi người Khmer. Thông thường cáp duồn đi kèm với nhiều tệ nạn như cướp bóc, hảm hiếp phụ nữ, chiếm đoạt tài sản.


    Dân K họp thành từng đoàn có vũ trang dao gậy, xông vào đuổi VK ra khỏi nhà, không cho mang theo cái gì cả. Nếu chống cự thì họ chặt đầu hay bắt giử phụ nữ để hảm hiếp tập thể. Dĩ nhiên là VK bị mất trắng tay. Có nhiều người nhanh chân chạy về hướng trụ sở huyện thì bị nhóm cáp duồn khác chận lại lột sạch luôn quần áo, nên sau đó phải lấy lá che thân.


    Cáp duồn ở Cambodia chủ yếu là xua duổi để chiếm đoạt, tuy nhiên cũng có nhiều người chết vì chậm chân hay vì chống cự lại. Xác chết thường bị vức xuống giếng, ao, sông hay lạch. Ở VN, có hai loại cáp duồn: do người K đang sống ở VN hay do người K xâm nhập vào lảnh thổ VN gây ra. Cả hai loại đều xảy ra ban đêm: bất ngờ tấn công, hôi của đem về làng của họ, gặp đàn ông là chặt đầu, gặp phụ nữ thì bắt hiếp tập thể – nhiều khi họ mang về CM và chỉ thả nạn nhân sau một vài ngày.


    2. Chiếm đất của Việt kiều:

Chia sẻ trang này