1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TranMinhkhochuoi, 09/06/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    Tôi lại xin lỗi, vì đã bỏ sót mục thành phố Nam Vang trong cái post #2 - sẽ không xảy ra nữa. Hứa!!! :)



    2. Chiếm đất của Việt kiều:


    Tại những nơi không tiện cáp duồn thì người K áp dụng chính sách khủng bố đe dọa, đồng thời lấn chiếm từ từ. Số là dưới thời bảo hộ, Việt kiều từ miền Nam VN (thuộc Pháp) có quyền xin giấy phép khai phá đất hoang, đất rừng để trồng trọt. Sau đó họ nộp thuế để nhận quyền tư hửu. Cũng có nhiều người mua lại đất hay ruộng của người M để làm kế sinh nhai. Nhiều VK nhờ chăm chỉ mà có cả hàng trăm mẫu đất, ruộng.


    Thế nhưng, người K đột ngột tung ra khẩu hiệu: “Đất Miên phải trả lại cho người Miên” và ngang nhiên lấn chiếm. Họ tự động cất nhà trước cửa nhà VK, phóng uế, quăng đồ vật dơ dáy xung quanh nhà để gây chuyện, khủng bố, đe dọa và đuổi khéo chủ nhà. Chủ nhà VK muốn cây trái, rau quả gì trong vườn phải “xin phép”. Họ tự do cày bừa ruộng rẫy. Nếu VK phản đối, họ đánh hoặc rướt chém.


    Kết quả, hàng ngàn nông dân Việt kiều hồi hương về Việt Nam. Số còn lại phải đổi nghề hoặc đi làm công cho chính kẻ đã cướp mình. Đi trình làng, xã, huyện, ngay cả lên Nam Vang khiếu nại với đức vua (nhà vua tiếp xúc dân chúng mỗi tuần một lần) cũng chỉ được hứa sẽ giải quyết.


    3. Việt kiều bắt đầu bị hiếp đáp:


    Cũng từ đó, ở vùng nông thôn, mỗi lần có chuyện xích mích với người Việt Nam thì người Cambodia chỉ cần hô to: “An Nam đánh K” hay “Yuon đánh K” là có ngay cả chục người nổi lên vác gậy xông vào đánh, bất kể già trẻ lớn bé. Nếu xảy ra ở nhà, đàn bà con gái VK chậm chân bỏ chạy là có thể bị hiếp dâm tập thể.


    Tại Phnom Penh, vì có nhiều tai mắt quốc tế, nên chỉ xảy ra những vụ hảm hiếp, trấn lột lẻ tẻ tự phát. Nhiều dân đạp xích lô cũng dám lên mặt với VK. Họ đòi VK phải trả tiền nhiều lần cao hơn bình thường. Nếu không trả, thì họ đánh và kêu lớn “cáp duồn” để đồng nghiệp hay một số người quá khích tiếp tay với họ.


    4. Truyền đơn khích động sự căm thù:


    Cũng trong thời gian Pháp vừa quay lại này, xuất hiện những tờ truyền đơn vẽ hình các tướng VN (thời vua Gia Long sang bảo hộ CM) bắt ba người Khmer chôn đứng dưới đất chỉ ló cái đầu lên trên làm ba ông táo để nấu nước uống. P hay Hoàng gia CM hay cả hai cùng cấu kết để tung ra chiêu bỉ ổi này là chuyện còn giữ bí mật.


    Ngày nay, đảng đối lập Sam Rainsy và những phần tử quá khích người Khmer vẫn thường dùng những bức hình nguỵ tạo đó để cũng cố sự căm ghét người Việt, để nhắc nhở sự độc ác mà người dân Miên sẽ chịu đựng nếu không cảnh giác sự có mặt của người Việt tại Cambodia. Một đòn tâm lý vô cùng thâm độc, góp phần làm cho VK lao đao khốn đốn và “gia hạn” tình thế bần cùng, mù mịt tối tăm và cô độc của cộng đồng VK ở CM và làm cho VK khó ngóc đầu lên được, ngoài trừ phải che dấu hay từ bỏ nguồn cội.


    Một điều ngược ngạo: VN hay người Việt từng bị cáp duồn dã man thì thế hệ trẻ VN ít hay biết, vì bản tính dân tộc Việt Nam thường tha thứ, bỏ qua những chuyện đau lòng của quá khứ, chứ không cất giữ, thù dai. Trong khi VN cứu giúp Cambodia bao nhiêu lần, nhưng vì tự ti mặc cảm hèn yếu, thua kém, và tâm lý phủi ơn mà một số phần tử cực đoan hay bịa đặt, quảng cáo những câu chuyện, hình ảnh không thật về VN và con người VN. Hãy google “prayat kompup te ong” hay nhấn vào đây http://wn.com/Chau_Doc_massacre để xem trò tuyên tuyền thâm độc.

    Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-qformat:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin-top:0in; mso-para-margin-right:0in; mso-para-margin-bottom:10.0pt; mso-para-margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:11.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif"; mso-ascii-font-family:Calibri; mso-ascii-theme-font:minor-latin; mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-theme-font:minor-fareast; mso-hansi-font-family:Calibri; mso-hansi-theme-font:minor-latin;}
    III. TH[FONT=&quot]Ờ[/FONT]I KỲ CAMBODIA Đ[FONT=&quot]Ộ[/FONT]C L[FONT=&quot]Ậ[/FONT]P, SAU 1953
  2. thutrang82

    thutrang82 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    04/11/2006
    Bài viết:
    460
    Đã được thích:
    0
    Khừa khừa, bên Nga cũng có bọn thấy dân Việt là tẩn liền
    Hóa ra bên Cam cũng có à.
    Rõ khổ, đi đâu cũng bị ghét.
  3. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    Bên Nga, Bungaria, Rumania, vv, cũng có nhưng sự việc ở Đông Âu không giống như ở CM, vì người V không phải là nạn nhân duy nhất và đối tượng chuyên tấn công là bọn đầu trọc - không đại diện cho dân tộc hay nước đó. Dĩ nhiên, còn nhiều giải thích khác. Thôi, mình tiếp tục nha!

    * * *


    III. THỜI KỲ CAMBODIA ĐỘC LẬP, SAU 1953


    Người K vui mừng vì CM được trả độc lập, nhưng người V tỏ ra lo lắng. Thật vậy, tai họa thi nhau đổ ập xuống đầu người V, không phân biệt giàu nghèo, thân Bắc hay Nam (VN). Trước khi đi vào chi tiết, hãy bàn sơ về vua Norodom Sihanouk và tâm lý của dân K đối với Hoàng gia CM.


    1.Quốc vương Sihanouk:


    Sihanouk và vua cha, Quốc vương Suramarit đều là dân học trường Chasseloup Laubat ở sài Gòn nên cả hai đều nói tiếng V rất giỏi. Vợ vua Sihanouk là bà Monique, Pháp lai V, cũng nói tiếng V. Khi Pháp mệt mỏi vì chiến tranh ở VN thì S ra lệnh tạm giải tán chính phủ, bỏ sang Thái Lan sống lưu vong và tuyên bố sẽ không về lại CM nếu Pháp không chấp nhận nền độc lập của CM. Sau khoảng 5 tháng thì P nhượng bộ và công nhận Cambodia là một quốc gia độc lập. Ông S thần tượng, trung thành với Trung Quốc từ lúc đầu cho đến bây giờ, và có cảm tình với Bắc VN. ông từng từ chối nhận viện trợ của Mỹ và chửi Mỹ, tố cáo Mỹ âm mưu hại ô cùng gia đình.



    Từ năm 1966, vì CM quá thanh bình nên S ngủ trên chiến thắng, không lo việc nước mà lo viết nhạc, viết truyện phim, làm phim và thỉnh thoảng đóng phim. Trong phim còn có mặt HH và vài bộ trưởng, bạn bè thân thiết. Chất lượng phim tồi tệ, nhưng S luôn doật giải thưởng lớn tại 2 lần tổ chức lễ hội film quốc tế ở PP, 1968 và 69. Theo tôi, Sihanouk là người đã quyết tâm đánh đổ giá trị, danh vọng và nồi cơm của người Việt tại Cambodia, bằng nhiều thủ đoạn và chính sách.


    Những năm 1960, quân đội của S đã giúp chuyễn vũ khí từ cảng biển CM (từ Tàu TQ, LX và vài nước CS khác) vào căn cứ cho quân đội Bắc V, theo tỉ lệ giữ 1 chuyễn 9. Đổi lại BV giúp huấn luyện một số đơn vị của quân đội CM; và vì để giữ lời với S, BV đã từ chối giúp đở Khmer Rouge, khi Pol Pot lặn lội đến Hà nội nhờ vã. Sau khi bị Lonnol lật đổ, S sống bên TQ, có một lần về lại CM để thăm chiến khu của KR, dù trước đó không lâu S rất thù ghét Pol Pot. S cho rằng khi KR chiến thắng thì thế nào ô cũng được sang sẽ quyền lực. 12/1975, S về thăm PP vài ngày, rồi tháng 4/76, S đưa cả gia đình cùng cận thần, tôi tớ về sống ở PP dưới sự quản thúc của KR.


    2.Dân Khmer chỉ biết có vua:


    Một biến cố quan trọng xảy ra suốt thời bảo hộ: dân K không bằng lòng với sưu cao thuế nặng và lao động cưỡng bách áp đặt bởi chính quyền thực dân, đã lủ lượt kéo nhau từ khắp mọi miền đất nước về PP để tâu lên vua – vua có thông lệ tiếp xúc với dân hai lần mỗi tuần. Theo vài tài liệu thì đã có khoảng 10 ngàn người K kéo về kinh thành trong vòng 2 tháng cuối năm 1915, và có đến 100 ngàn nông dân trên toàn quốc lên tiếng phản đối. Người P ngạc nhiên khi thấy dân quê người K vào Hoàng cung, đã tỏ ra không quan tâm đến sự hiện diện của họ – chỉ thấy và chỉ biết vua .


    Sau đây là những tai họa và chính sách khắc nghiệt
    :


    3. Vào quốc tịch, đổi thẻ căn cước, thẻ cư trú:


    Năm 1945 Nhà Vua có kêu gọi ngoại kiều nhập quốc tịch CM với mọi điều kiện dễ dãi và không tốn tiền. Rất tiếc là có rất ít người tham gia, ngoài trừ một số VK Công giáo đã sống ở Nam Vang từ thời chạy nạn – tránh vụ cấm và giết người Công giáo tại VN – hay những người Tàu làm trong ngành xuất nhập khẩu vì quyền lợi của công việc. Dĩ nhiên là nhà vua không vui. Nay, CM đã độc lập, nhà vua đưa ra những luật lệ rất nghiêm khắt:


    #1. Phải đóng 10 000 riels (Tôi nghĩ sách in lộn con số 10 với 1) tiền cước phí gia nhập quốc tịch. Lúc này, giá chính thức cho việc thay đổi căn cước VN sang căn cước VK (Việt kiều) chỉ tốn 50 riels.


    #2. Phải biết nói, đọc, viết chữ K, ít nhất là những chữ trong các thông báo dán ở nơi công cọng. Sau hai năm kiểm tra lại, nếu không đạt được có thể bị trả lại quốc tịch cũ.


    #3. Trong năm năm, phải tập sống theo phong tục, tập quán của người K; không được vi phạm mọi luật lệ; không được xúc phạm tới người K chính cống và văn hóa K; không được trộm cắp, ăn cướp, làm chính trị, hiếp đáp người khác.


    Điều lệ #2 và #3 như cái án treo đối với VK. Nó tạo điều kiện cho các quan làm tiền VK lâu dài và dễ dàng hơn. Rõ ràng, điều kiện quá khó và lệ phí quá đắt, chưa kể nạn hối lộ, làm tiền. Vì vậy, đa số VK không thể nhập tịch được. Giấy tờ như căn cước riêng dành cho VK và thẻ tạm trú, thường trú cũng hay bị thay đổi. Ngoại kiều nào cũng bị ảnh hưởng bởi thủ tục mới, nhưng chỉ có VK là bị khổ nhiều và khổ dài dài. Hiếm có VK nào chỉ trả đúng giá chính thức hay gặp mọi điều suông sẽ mà không tốn nhiều tiền thêm.


    Thông cáo thì đưa ra đột xuất mà thời hạn thì luôn có giới hạn ngắn ngủi vài ngày. Quan chức thì ung dung chờ VK đưa tiền mới tiến hành giải quyết. Nhiều VK ở tỉnh lẻ hay tin chậm. Thế là bị bắt giam. Có khi bị sạt nghiệp hay bị trục xuất về VN.


    Nói chung, vì các quan làm việc có chính sách, có tổ chức, có hệ thống và có phối hợp các cấp chính quyền. Các quan thường tỏ ra hung hản, quyết liệt, chỉ biết có tiền nên lúc nào VK cũng sợ các quan hù dọa, truy tố, sợ bị tống về VN và là nạn nhân của mọi đổi thay, mọi luật lệ mới. Công chức VK là thành phần ngoại lệ, họ gần như được mời nhập tịch, vì CM cần sự phục vụ của họ.


    4. Luật cấm nghề:
  4. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    đọc trong cuốn Người Việt ở CPC tha hương là rõ hết ấy mà.

    VN có 1 Minh mạng với vài Trương Minh Giảng nữa thì tuyệt.
  5. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    Tôi google "Người Việt ở CPC tha hương", "Người Việt ơ Campuchia tha hương" và "Người Việt tha hương ở Campuchia" mà không thấy gì. Cảm phiền bạn ghi lại chính xác - tên sách và tên tác giả - để tôi và người khác có thể tìm hiểu thêm.

    ***


    4. Luật cấm nghề:


    Tháng 6 năm 1957, CM đưa ra luật cấm ngoại kiều làm 24 nghề. Lúc đầu cấm người không có quốc tịch làm 18 nghề, ba tháng sau cấm thêm 6 nghề. Mỗi tỉnh còn có quyền cấm thêm 6 nghề hay 6 cách sinh hoạt kiếm sống, tuỳ vùng, ví dụ: ở các tỉnh có nhiều sông rạnh như ở Kandal, Preyveng, VK còn bị cấm đặt lờ, đặt lọp, kéo vó (làm đó), mỗi gia đình VK chỉ được quyền có một cần câu cá.


    Đối với thời buổi lúc ấy, cấm như vậy cũng đồng nghĩa với cấm hết mọi nghề. Có những nghề mà người K sẽ không thể nào thay chổ cho người V hay ít ra đòi hỏi một thời gian dài, vẫn bị cấm: Thợ mộc, thợ hồ, đánh cá ở Biển hồ, phu cao su, thợ sửa xe, thợ in, thợ vàng, thợ điện, thợ may, thợ hớt tóc, dược sĩ, công chức, tư chức, vv. Không chỉ cấm nghề mà còn cấm làm chủ và cấm bán nhà cửa, đất đai cho người không phải là K, cũng làm điêu đứng cho VK, vì người K được dịp ép giá tối đa - lúc này nhiều VK đã bắt đầu bán đổ bán tháo nhà cửa, tài sản để hồi hương.


    Dù luật cấm tất cả mọi nghề đối với ngoại kiều là không thực tế và không thể nào thực hiện được, nhưng nó mở cánh cửa cho người K có cơ hội vươn lên; mới là chủ của CM; nâng cao giá trị của người Miên: sang sẽ sự giàu có từ người Việt và người Tàu cho người K; đồng thời tất cả đều nằm trong kế hoạch ngấm ngầm bần cùng hoá người Việt. Trong khi đó, các quan chức K có thêm nhiều cơ hội làm giàu túi tiền một cách công khai hơn. Ngoại kiều chưa vào quốc tịch được sẽ còn bị làm tiền thường xuyên và gặp khó khăn đủ điều.


    5. 70% nhân viên Khmer:


    Vua Sihanouk liên tục kêu gọi dân chúng canh tác ruộng đất bỏ hoang khắp nước, nhất là vùng gần Battambang, đất đai rất màu mở. Chính phủ sẽ hổ trợ mọi thứ, nhưng không ai hưởng ứng. Vua nhận ra dân K lười quá, không có trách nhiệm và có nhiều tật xấu nên chủ Tây, Mỹ, Tàu và Việt không chịu mướn. Vì vậy, ông quyết định ra luật đòi hỏi mọi cửa hiệu, cơ sở, công ty, phải mướn ít nhất 70% nhân viên người K.


    Tháng 7/1958, một năm sau khi cấm nghề, sắc luật được ban hành. Vậy là, ví dụ: Trong một tiệm sửa xe, có ba thợ V nay phải thuê thêm bảy thợ K. Bảy thợ K chỉ có nhiệm vụ quét rửa, dọn dẹp hay ngồi chơi, chứ không dám để họ mó tay vào việc làm – sợ hư đồ. Nếu chủ tử tế cho họ học nghề thì vừa mới biết sơ sơ đã đòi lên lương, rồi muốn làm thì làm, nghỉ thì nghỉ, hễ đuổi thì họ đi thưa, chủ sẽ bị phạt. Theo ô Lê Hương, người từng sống 20 năm ở CM, 1946-66: người K làm biếng, hay ăn cắp, không có lương tâm, không nể sợ người mướn mình, nên nhiều ông chủ thường thuê họ cho lấy có, chứ thợ V và T vẫn giữ lại. Vì vậy, chủ phải đóng lệ phí, nộp tiền phạt mỗi khi quan đến khám (vì dễ có tiền nên quan rất chăm đi khám xét) hay lùa thợ V thợ Tàu đi trốn và dùng thợ “dỏm” người K đóng kịch đổi vai đúng lúc.


    Ở những nơi, những nghề mà V kiều bị cấm làm chủ như tiệm vàng, nhà in, tiệm thuốc Tây… thì phải thuê một người K đứng tên làm chủ. Ngoài ra phải giỏi tổ chức các màn kịch nhằm che mắt các quan. Một hiệu may có 3 người V phải thuê 7 phụ nữ K nấu nướng, giặt giũ, giữ con ngay trong tiệm. Khi quan đến thì thợ V và K đổi vị trí cho nhau.


    6. Cách làm tiền Việt kiều:
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Cuối tuần các bạn rãnh hơn nên tôi post thêm một trang nữa.


    ***


    6. Cách làm tiền Việt kiều:




    Hầu hết các quan người K có danh sách VK đang sống hay hành nghề tại khu vực dưới quyền. Hạng VK tai to, mặt lớn, có tên tuổi, trình độ trí thức cao thì do quan lớn “phụ trách, còn hạng bình dân, lao động thì thuộc vào phạm vi của các quan nhỏ địa phương.




    + Thật ra, loại quan nào cũng có thể kiếm được tiền nếu biết đó là VK. Ví dụ: nhân viên ty vệ sinh làm lơ khi thấy người Tàu quậy phân tưới rau cải – mùi hôi thúi bay khắp xóm nhằm ngay giờ cơm chiều. Trái lại, vào nhà VK kiểm tra vệ sinh thì hạch xách đủ điều, chẳng hạn như, thấy lót gạch dưới sàn thì đòi xem giấy phép

    – quan doạ tố cáo trước toà án nếu chủ nhà không chịu đưa tiền. Vừa rồi là một dẫn chứng làm tiền đối với VK bình dân.




    + Việt kiều khá giả có sự nghiệp, có cửa hàng thì quan áp dụng chiến thuật có bài bản hẳn hoi. VK được mời đến văn phòng, quan đưa ra một cái cớ nào đó (đâu có ai dại gì bảo quan nói xạo hay cải lại), tạm giử vài ngày, rồi cho đám tay chân thông báo thân nhân nộp tiền chuộc. Số tiền nhiều ít tuỳ quan ấn định dựa vào
    gia tài của VK. Cứ thế xảy ra mỗi vài ba tháng.




    + Đối với Việt kiều làm ăn lớn, có tiếng trong xã hội thì khi đến văn phòng, quan đệ nghị thẳng: hội từ thiện này, đoàn thể nọ mới thành lập, công trình lớn kia đang tiến hành, nhờ ông ký tên đóng góp vào sổ vàng. Trường hợp quan chưa vừa lòng với số tiền ký sổ thì khó mà xin về.




    7. Một câu chuyện điển hình về nạn hội lộ và vô lương tâm:




    Đây là câu chuyện mà người Việt, người Tàu nào cũng thuộc lòng vào những năm 1960 ở CM. Ở góc đường Piquet và Charles Thompson, có một xe bán hủ tiếu. Mỗi buổi sáng có một quan cảnh sát có nhiệm vụ trực khúc đường ấy đến ăn một tô. Quan hay gọi nước uống, người bán hàng phải bó tiền túi đi mua nước hầu quan. Ăn xong quan gọi thêm một tô để đem về cho vợ. Sự việc cứ thế diễn ra hết tháng này sang tháng khác và quan không bao giờ trả tiền. Một hôm, sau khi quan và vợ ăn xong, quan bảo: “lâu quá, không phạt anh lần nào, bửa nay xin phạt một lần”. Người bán hàng tưởng quan đùa, nên mỉm cười. Quan nổi giận, trợn mắt lớn tiếng nạt: “Bộ tao giỡn với mày sao, hả? Giấy tờ đâu, đưa đây coi!”




    8. Vụ ám sát hụt Quốc vương và Hoàng hậu:




    Vào đầu tháng 5/1959, có hộp quà, có chứa chất nổ bên trong, được gởi tặng Hoàng hậu. Hoàng thân Norodom Rakkrivan, vì mở quà dùm cho HH, bị nổ chết tan xác cùng 4 cận vệ. Vua và HH thoát chết nhờ vừa bỏ đi tiếp khách. Qua sự mô tả của bé hầu 10 tuổi, ô chủ báo Phan Vĩnh Tòng bị bắt. Ra toà, đứa bé không xác nhận ô T sau 3 lần tra hỏi. Lần thứ tư, sau khi dắt vào trong đánh cho một trận, mặt mày đỏ ửng, nước mắt ước mi, con bé nói: “nưng hơi”, tức là phải rồi.




    Vậy là, ô T bị tịch thu 2 nhà in, 6 căn phố và bị xử tử hình, nhưng bản án (hình như) không bao giờ thi hành. Trong tù, hằng ngày ô T dạy đám con các vị bộ trưởng và con giám đốc trại tù, cả mấy con của ô cũng được phép vào học.




    Hơn 1000 VK bị mang họa lây. Có nhều người bị oan. Ví dụ: Có một ông chú hơi điên điên từ Sài Gòn sang thăm đứa cháu, đang mở tiệm bán nước giải khát, ở quá 15 ngày phép mà chưa gia hạn thêm 15 ngày nữa. Một đêm ô chú đi dạo trước nhà bị CA bắt đem về đồn để điều tra lý lịch và hỏi về thân nhân tại Nam Vang. Ô nói, ông thấy người cháu đóng thùng gỗ, ý nói, đóng thùng gỗ đựng mấy chai nước. Vậy là người cháu bị buộc tội đóng hộp gỗ đựng bom cố sát vua. Người cháu và vợ lập tức bị bắt tù, Chiếc xe hơi bị tịch thu; nhà cửa cũng bị tịch thu và mọi vàng bạc cất dấu hay đổ quí giá trong nhà đều bị các quan vơ vét.




    Ngày mai sẽ sang phần “Những sinh hoạt của người Việt ở Cambodia”
  6. thutrang82

    thutrang82 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    04/11/2006
    Bài viết:
    460
    Đã được thích:
    0
    khổ thế thì về hết đi ở làm gì
    Tây nguyên còn đầy đất
    Có khi mình đưa quân sang dọn sạch mọi Miên này mà mở rộng quốc
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    khổ thế thì về hết đi ở làm gì
    Tây nguyên còn đầy đất
    Có khi mình đưa quân sang dọn sạch mọi Miên này mà mở rộng quốc thổ
  7. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    Có nhiều lý do tại sao nhiều người không về, sẽ được đề cập ở phần sau.


    ***

    III. Những sinh hoạt của người Việt



    1. Trường dạy tiếng Việt:



    Như đã trình bày ở trên, những năm 1920, người V đổ xô sang CM tìm việc và làm ăn. Lúc này, nơi nào có đông VK là trẻ em V có thể học theo chương trình giáo dục tiếng V song song với chương trình tiếng K, nghĩa là chỉ học tiếng V và tiếng P ở bậc tiểu học, lên trung học thì học thêm tiếng K. Năm 1945, trong khi Pháp chưa kịp quay trở lại thì Hoàng gia CM ra lệnh cấm dạy tiếng V ở trường công. Lập tức, vô số trường tư được mở ra cho con em VK. Chính phủ liền đòi hỏi phải có giờ học tiếng K cho mọi cấp lớp. Vậy là, số giờ học tiếng K được đề nghị tăng dần mỗi năm, trong khi giờ tiếng V bị giảm dần cho đến khi tiếng V chỉ còn dạy vài giờ một uần, giống như là một môn ngoại ngữ tại trường tư Việt ngữ.



    Giám đốc và chủ trường cũng thường bị các quan chức CM hạch sách, kiếm chuyện làm tiền. Cuối cùng, sau khi Cao Miên độc lập, chương trình tiếng Việt bị cấm luôn ở nhà trường; tụ tập học tiếng V ở nhà cũng không được quá 5 học sinh. Trong khi đó trường tư của người Tàu với chương trình riêng đặc biệt của họ vẫn luôn được mở cửa, gần như không bị ảnh hưởng bởi chính sách của chính phủ CM.



    2. Sinh hoạt báo chí tiếng Việt:



    Dưới thời bảo hộ, Việt kiều tha hồ xem sách báo từ Sài Gòn gởi sang, được bán tại các sạp báo. Sau ngày độc lập, sách báo từ SG bị cấm. Nếu bị phát hiện có, ngay cả một tờ giấy báo cũ rách đang gói đồ cũng có thể bị ngồi tù nếu không đưa hối lộ. Bởi vậy, báo chí tiếng Việt đua nhau phát hành, hết tờ này đến tờ khác. Tuy nhiên, bài viết thường nịnh chính phủ Hoàng gia (bài viết nịnh cũng như tấm bùa hộ mệnh) và chủ yếu là đánh đá giữa hai nhóm VK với nhau: thân miền Nam hay thân miền Bắc.



    Chủ báo, chủ bút nhiều khi vào tù vì bị VK khác truy tố bài viết có nội dung bất lợi cho Hoàng gia hay văn hoá CM. Thời này có một ít VK xấu tính chuyên đi theo dỏi, ghi thành một cái list VK bất đồng chính kiến rồi báo cáo với các quan chức người K để họ tiêu diệt dùm người mình ghét. Dĩ nhiên, đây là những dịp tốt để quan “làm nghèo” cho VK.



    3. Sinh hoạt văn nghệ của Việt kiều:



    Thời Pháp thuộc, hát cải lương xuất hiện và bùng phát mạnh mẻ. Vì sang CM gần, VK bên đó lại có tiền và vì VN đang có chiến tranh chống Pháp, nên các gánh hát từ Việt Nam tấp nập sang trình diễn ở Nam Vang và các tỉnh của CM còn thường xuyên hơn là ra Trung và Bắc. Sau 1945, vì sự gây khó dễ của chính quyền CM và bị làm tiền một cách trắng trợn nên chỉ có một số đoàn hát nhỏ liều mạng sang CM và ê chề thất bại, lủng túi mò về lại VN. Sau khi Cambodia độc lập, 1953, họ không cho phép người V tự do nhập cảnh vào CM, đoàn hát từ VN cũng bị cấm.



    Sau một thời gian vắng bóng, năm 1959 một VK có quốc tịch CM là ông Tang Long thành lập gánh hát nghiệp dư thành công suốt 5 năm, nhưng gần bị bại sản khi ông giải tán gánh hát. Gánh hát này được hưởng ứng khắp cỏi CM. Chương trình có cả tiết mục múa truyền thống kiểu K để tỏ ra thông cảm và ngưỡng mộ văn hoá K.



    Có lẻ vì thấy ông chủ giàu có, nên chính quyền đề nghị ghi vào đơn xin phép là tự nguyện “dâng cúng” 50% tiền thu được, để giúp đở tài chính vào việc xây cầu bắc ngang sông Tonle Sap ở ngoại ô Nam Vang.



    Thế là chính phủ gởi người đến bán vé, thu tiền. Hết xuất hát, các quan đưa cho đoàn hát 50%, nhưng thật ra chỉ 10-20%, tuỳ ý quan. Khoảng vài năm thì cây cầu lớn được xây xong, chủ gánh hát tưởng đã thoát nợ, từ nay sẽ tự do bán vé thâu tiền, gở gạc lại phần nào, nhưng không phải vậy. Các quan có chiến dịch khác: hát giúp cho hội từ thiện này, đoàn thể xã hội nọ. Cứ thế cho mọi buổi hát.



    Nhiều Việt kiều giàu có cũng đua nhau mở gánh hát. Đôi lúc có tới 3 gánh cùng diễn trong một đêm tại Nam Vang. Lúc này đã có luật rõ ràng là mỗi xuất hát phải đóng góp vào công quỷ 30%. Tuy nhiên, các quan có nhều cách gây khó dễ để làm tiền nên gần chục gánh thay nhau bị sụp tiệm. Cuối cùng, vào khoảng đầu năm 1967 có luật mới: VK không được lập gánh hát cải lương.



    4. Tổ chức cộng đồng của người Việt Nam:
  8. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    4. Tổ chức cộng đồng của người Việt Nam:



    Vào thập niên thứ hai của thế kỷ 17, Quốc vương Chey Ches Da II cưới công chúa Ngọc Vạn, con chúa Sãi. 500 cô gái và 500 lính đã được phái theo để bảo vệ và phục vụ công chúa. Đây là những người Việt Nam chính thức đầu tiên trên đất Cambodia. Vào đầu thế kỷ 19, theo ghi nhận của những nhà truyền giáo Tây phương thì đã có từ 3 tới 5 ngàn ngư phủ người Việt và Chàm hành nghề trên Biển hồ, chổ giữa Battambang và Siêm Reap (Năm 1954, ước đoán có 50-100 ngàn VK sống trên Biển hồ, trong khi toàn CM khoảng 350 ngàn người, cả trên bộ lẫn dưới nước). Rồi hàng ngàn người trốn vụ bắt đạo Công giáo ở VN định cư tại PP. Thế nhưng cho đến năm 1938 mới xuất hiện tổ chức đầu tiên của người Việt Nam.



    Ngày 13/6/1938, hội Nam Kỳ Ái Hữu (Amicale Cochinchinoise du Cambodge) được thành lập. Lúc này, do nạn kỳ thị Bắc Nam được người Pháp khai thác nhiều, nên hội NKAH chỉ nhận VK quê ở miền Nam hay có quốc tịch Pháp gia nhập. Vài tháng sau, hội Việt Kiều Tương Tế (Mutuelle des Annamites du Cambodge) được thành lập. Hội này nhận tất cả mọi người, không phân biệt Nam, Bắc, Trung. Rất tiếc, cả hai hội đều chỉ hoạt động trong phạm vi: phúng điếu hội viên hay tứ thân phụ mẫu từ trần. Phần lớn hội viên là công chức chính phủ. Vì vậy, hai hội này thật ra chỉ có hư danh trong suốt 12 năm trời.



    Năm 1950, ông khâm sứ Pháp De Raymond ở CM kêu gọi hai hội nhập thành một và khuyên nên bỏ chữ Cochinchinoise và Annamites, Vì hai chữ này không còn thích hợp với hoàn cảnh mới của VN, đã gần như thống nhất trở lại. Hai, ba tháng tranh cải quyết liệt – một bên quyết tâm giữ chữ Ái hữu, bên kia thì chữ Tương tế. Khi trình lên toà khâm để xin đăng ký hoạt động thì vị khâm sứ Pháp gạch bỏ cả hai, Ông ghi là Association des Vietnamiens du Cambodge, tức là: Hội Việt kiều tại Cambodge.



    Từ nay, hội mở rộng hoạt động, giúp đở kiều bào nghèo, mở phòng khám bệnh miển phí không phân biệt K, V, T, lào, chàm, Thái…, phát học bổng cho trẻ em nghèo và đại diện cộng đồng tham gia nhiều hoạt động xã hội như: tham gia gian hàng triễn lãm ở hội chợ, tham gia diễn hành. Rất tiếc, tình hình chia rẽ nội bộ vì nạn bất đồng chính kiến: thân Nam hay thân Bắc; nạn mượn tay chính quyền Cao Miên để đánh phá lẫn nhau, mà sau 7 năm hoạt động tích cực, hội bị tan rã.



    Năm 1956, vua Sarumarit lên ngôi (lúc này CM và nam VN chưa trở thành thù địch), quan hệ giữa Hoàng gia CM và hội VK trỏ nên rất thân tình. Có lần vua truyền: "Lâu quá ngài nhớ món ăn VN, vì vậy hội nên tổ chức buổi ăn VN ngay trong cung điện và nhớ dẫn theo vợ cho ngài gặp mặt". Gần 20 người V được phép ngồi chung bàn với Vua, các Hoàng thân, Hoàng tử, Công chúa và một ít khách quí của vua. Hôm ấy nhằm ngày lễ Phật Đản. Sau bửa ăn, vua bảo cả đoàn ở lại xem kịch múa do đoàn vũ Hoàng gia CM trình diễn, vì vua không có gì quí để trả lễ bửa ăn thịnh soạn, món quà đẹp và ý nghĩa mà VK đã tặng cho vua.



    Vua sai người ra ngoài đường thông báo cho phép VK được vào thăm Hoàng cung và xem vỡ kịch vào buổi tối. Vua nói bằng tiếng V, cho phép 500 khán giả VK được phép vổ tay khi nào thích vổ (người K khi xem kịch có mặt vua không được vổ tay), cấm không cho bất cứ người K nào vào. Vở kịch "Vua Rama và Hoàng hậu Rita" hạ màn lúc 11 giờ đêm, nhưng vì cảm thấy vui nên vua đòi mọi người ở lại cùng xem thêm một vở khác. Đó là bửa đón tiếp đặc biệt nhất trong lịch sử Hoàng gia CM: nhà hát nhỏ trong cung điện Hoàng lần đầu tiên như muốn bị vỡ tung bởi tiếng vổ tay của VK; Quá 12 giờ đêm mà Cung điện nhà vua vẫn còn sáng rực ánh đèn; và quá nữa đêm mà vua vẫn còn khách. Sau ngày ấy, thỉnh thoảng vua truyền làm đồ ăn v cho vua. Tuy nhiên, tình hình quan hệ giữa Nam VN và CM bị xuống dốc vào năm kế tiếp nên sự thân tình đối với VK cũng tự động chấm dứt.



    5. Một vài khác biệt giữa cộng đồng Tàu kiều và Cộng đồng Việt kiều:



    Có thể nói người Tàu nắm mọi hoạt động kinh tế: nhà buôn lớn, nhỏ; đại lý phân phối, thu mua; kể cả kiểm soát phần lớn việc xuất nhập khẩu. Họ cũng chuyên nghề bồi bàn, nấu ăn, phục dịnh trong Hoàng cung. Một điều đáng lưu ý: trong một cuộc hội chợ triển lảm quốc tế ở PP vào cuối thập niên 50, tất cả mọi sứ quán đều nhờ người Tàu phục trách về ẩm thực cho gian hàng của quốc gia họ, ngoại trừ gian hàng Việt kiều.
  9. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    5. Một vài khác biệt giữa cộng đồng Tàu kiều và Cộng đồng Việt kiều:



    Có thể nói người Tàu nắm mọi hoạt động kinh tế: nhà buôn lớn, nhỏ; đại lý phân phối, thu mua; kể cả kiểm soát phần lớn việc xuất nhập khẩu. Họ cũng chuyên nghề bồi bàn, nấu ăn, phục dịnh trong Hoàng cung. Một điều đáng lưu ý: trong một cuộc hội chợ triển lảm quốc tế ở PP vào cuối thập niên 50, tất cả mọi sứ quán đều nhờ người Tàu phục trách về ẩm thực cho gian hàng của quốc gia họ, ngoại trừ gian hàng Việt kiều.



    Đa số người T tại CM đến từ chợ Lớn. Kinh nghiệm lâu năm nơi xứ người đã dạy cho người Tàu cách sống có hội, có tổ chức và sống phù hợp với người K, văn hoá K. Lúc mới đến định cư, người T (người V) đều nghèo, người Tàu thường chụp cười liền một cô vợ K (mặc dù nhiều người đã có vợ bên Tàu và sẽ đưa sang sau đó) để học hỏi ngôn ngữ, phong tục tập quán và tạo bộ mặt thân thiện, hoà đồng với người bản xứ. Khi có con, thì họ quyết tâm biến con họ thành Tàu hoàn toàn. Con gái họ nhất định không gả cho người bản xứ. Nếu có thì chỉ gả cho nhà giàu hoặc quan lớn người K để có cơ hội nhờ vả khi cần.



    Không như nhiều VK, họ cư xử khôn ngoan, không để lộ cho người K (bình thường) nhận thấy cái xấu, cái sự khinh khi và kỳ thị người K của họ. Lúc tiếp xúc, mua bán với người Miên họ cũng hay hạ mình gọi ông chủ, bà chủ. Họ ý thức rằng quyền lợi của mỗi người T đều có liên hệ với nhau, nên họ luôn luôn quyết tâm đấu tranh và che chở cho nhau một cách đồng nhất. Có thể nói: sức mạnh, tài năng của Tàu kiều là sức mạnh, là tài năng của cả một công đồng hàng trăm hay ngàn người T.



    Thế nhưng, cộng đồng 3- 400 ngàn VK, thật ra, không có sức mạnh tập thể, bởi vì không thành lập những tổ chức đại diện, không đồng nhất, không có/được hướng dẫn cụ thể về đời sống mới nơi xứ người: cách hội nhập vào đời sồng văn hoá K, cách đối phó với những tình huống phức tạp, nên khi gặp nạn thì phần ai nấy lo, nấy chạy. Có quá ít VK tìm hiểu, để ý, và ý thức đúng mức những chuyện tế nhị, nhạy cảm đã xảy ra giữa CM và VN trong lịch sử nhằm tránh tạo thêm sự hiểu lầm giữa hai dân tộc và những rắc rối có thể xảy ra nếu VK hành xữ kém khéo léo, nhưng tin tức, tài liệu, bài viết liên quan cũng hiếm thấy xuất hiện trên các báo chí tiếng Việt – ngay cả thời buổi ngày nay, hình như việc này cũng chưa được chú ý lắm.



    Là dân viễn xứ, sống trên đất người ta, không những coi thường văn hoá và màu da sậm của người K, VK còn hiếm khi lấy vợ hay chồng người K. Có thể vì có vị trí huy hoàng trong xã hội dưới thời Pháp thuộc và vì đã có công trong việc giáo hoá người K nên đa số VK an phận, cảm thấy như đang sống ở quê nhà, mặc nhiên xem người K thấp hèn, ngu dốt không bằng người mình (có lẻ một phần bị ảnh hưởng tâm lý từ người P). Cái bậy nữa là, dưới thời Pháp thuộc có một số ít người Việt lên mặt, bắt nạt người K. Chuyện gì sẽ xảy ra đã xảy ra: VK đã trở tay không kịp, khi người K có cơ hội ra tay.



    Một điều đặc biệt khác mà chỉ xảy ra trong cộng đồng người Việt: nạn bất đồng chính kiến một cách quá khích và không cần thiết (với mức độ như vậy) cho một cộng đồng xa xứ. Điều này vô tình đã làm hao tổn biết bao nhiệt huyết, tinh thần & tài chính; làm chia rẽ VK và làm quên đi chuyện lớn trước mắt đòi hỏi cần có sự đoàn kết để đối phó. Nói một cách khác, trong khi hiểm hoạ đang chụp xuống toàn thể VK thì nhiều người ham mê chính trị, nhiều khuôn mặt sáng của cộng đồng chỉ lo bận rộn, tìm cách đánh phá những VK không có cùng quan điểm chính trị với mình.



    IV. Nạn Cáp duồn
    (danh sách những vụ cáp duồn được ghi chép trong lịch sử):
  10. comauxanh

    comauxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    IV. Nạn Cáp duồn



    + Mồng móng bài Việt tái xuất hiện:



    Năm 1930, Pháp cho mở học viện Phật giáo học. Từ nay, các sư sãi (tu theo phái tiểu thừa) tại CM, Lào và người K ở đồng bằng sông cửu Long (VN) không cần phải đi Bangkok để học các lớp học cấp cao. Một nhóm người thuộc lớp đầu tiên của trường này, trong đó có nhân vật chính trị (sau này) nổi tiếng: Sơn Ngọc Thành, đã xuất bản tờ báo “Nagara Vatta (Angkor Wat) vào năm 1936. Nội dung của tờ báo là đã kích Việt kiều. Nhìn vào #5 của phần: “Các vụ thảm sát người Việt trong lịch sử Cao Miên – cáp duồn” sau đây, thì các bạn sẽ thấy rằng đây là mầm móng của sự kích động bài xích người Việt lần đầu tiên tái xuất hiện sau gần 90 năm, từ 1844-45 đến 1936.



    Danh sách những vụ cáp duồn được ghi chép trong lịch sử:



    #1. Sử Miên ghi: năm 1730 một người Lào tị nạn, tự xưng là tiên tri đã xúi giục một nhóm người K cuồng tín hạ sát tất cả người Việt nào mà họ bắt gặp trong vùng Banam. Đây là vụ cáp duồn đầu tiên.



    #2. Theo nhà văn Pháp Louis-Eugene Louvet, viết trong cuốn sách “Đức cha Adran”: ngày 13/11/1769, một toán cướp K và Tàu kéo nhau đánh phá ngôi nhà của GM Bá Đa Lộc ở hòn Đất, ngoài khơi Hà Tiên. Họ chỉ chém giết, hảm hiếp con chiên người Việt, vì kỳ thị chủng tộc.



    #3. Vẫn trong quyển sách của ông Louvet, giữa năm 1778, một toán cướp K đánh phá nhà thờ Pinha-leu do Giám mục Bá Đa Lộc vừa xây xong ở vùng Hà Tiên và giết mọi người Việt mà chúng bắt gặp.



    #4. Sử Miên ghi: Quốc vương Ang Non II ( 1775-79) rất ghét người Việt, đến nỗi có lần ngài nghĩ sẽ tàn sát tất cả người Việt trên đất CM.



    #5. Sử Miên ghi: Dưới triều Ang Chan II (1796-1834), năm 1818, một số người Việt bị tàn sát ở tỉnh Baphnom và quân VN đang đóng ở CM đã đến nơi can thiệp.



    #6. Suốt thời gian bảo hộ CM, VN sửa đổi cơ cấu hành chánh, vi phạm phong tục tập quán của người K đã khiến giới sư sãi và dân chúng phẫn uất nên họ vùng lên chống lại. Những năm từ 1841 đến khi quân VN rút khỏi CM (1845), nhiều cuộc tàn sát VK đã diễn ra ở khắp nơi tại Cao Miên và tại miền Tây VN.



    #7. Chiến dịch cáp duồn 1945-46 đã được trình bày trong phần I. Sau vụ này chỉ có PP, Seam Reap và thành phố biển Sihanoukville là tương đối an toàn đối với người Việt trên toàn cỏi Cao Miên - dĩ nhiên là với điều kiện không xảy ra đụng chạm, tranh chấp với người K.



    #8. Năm 1970, chính phủ Cao Miên (Lon nol) phát động chiến dịch cáp duồn toàn quốc. TV, radio, báo chí đua nhau kể tội, nói xấu người Việt mỗi ngày. Bức hình “ba cái đầu người K chụm lại làm ba ông táo” lại tái xuất hiện và nhiều bài viết kích động có tính bịa dặt được tuyên tuyền liên tục nhằm dấy lên làn sóng bài Việt, vốn luôn âm ỉ trong lòng người dân K, sẵn sàng bùng lên khi có cơ hội hoặc bị khích động. Có từ hàng chục đến cả trăm xác chết Việt kiều trôi trên sông Mekong và hồ Tonle Sap mỗi ngày. Người Việt bị ruồng bắt để nhốt tù hay để bắn giết một cách dã man.



    Giới ngoại giao quốc tế đang có mặt ở Nam Vang can gián chính phủ CM, nhưng không được, nên dân ngoại giao và ngoại kiều lục tục rời bỏ CM. Do đó, đã có cả trăm ngàn Việt kiều bỏ của chạy lấy người về Việt Nam. Theo thống kê của VNCH thì có khoảng 400 ngàn VK đang sống tại CM vào năm 1969. Tôi không tìm thấy con số nào, nhưng có tài liệu cho rằng Pol Pot đã xua đuổi gần 200 ngàn người V về nước, vậy phải có từ 100 đến 200 ngàn chạy về VN vào năm 1970.



    Lý do tại sao còn nhiều người Việt không chịu hồi hương về VN:



    - Tại vì đa số VK thân với miền Bắc nên nhiều người sợ bị rắc rối khi về miền Nam.


    - Lúc này chiến tranh đang leo thang ở VN, vì vậy nhiều người sợ về VN sẽ bị bắt đi lính.


    - Sống ở CM quá lâu, ngay cả nhiều người sinh ra và lớn lên tại CM và không còn thân nhân tại VN.


    - Sự nghiệp xây dựng được nơi xứ người quá lớn nên tiếc, không nỡ bỏ.


    - Một số có vợ hay chồng là người Khmer nên hy vọng sẽ được để yên.


    - Năm 67 hay 68, VNCH có chương trình giúp đở cho VK hồi hương, nhưng sự thất bại, thất tín của nó đã làm mất lòng tin cho những VK khác. Lý do thất bại cũng có nhiều điểm giống như khoảng 35 ngàn VK Thái về miền Bắc (VNDCCH).


    - Có nhiều gia đình VK sống dựa vào sự che chở tạm thời của ông bà chủ người ngoại quốc.


    - Một số chạy vào rừng theo quân dội miền Bắc.


    - Nhiều người trong số còn lại phải cải trang, thay tên, đổi họ, đổi nơi cư trú, để tồn tại.



    Chúng ta cũng nên hiểu rằng: hầu hết VK ở CM là những người nghèo hay có học chút đỉnh từ VN sang; do dễ làm ăn sinh sống nên họ trở nên khá giả, vì vậy, dù cho bị bạc đãi, bị làm tiền và nhiều lúc nguy hiểm đến tánh mạng họ cũng quyết tâm bám trụ vì họ vẫn còn hy vọng, mà nếu không vươn lên được thì cũng đã quen nước quen cái; sống nghèo ở CM còn hơn là hồi hương - chỉ được cái an toàn chứ làm sao vươn lên nổi trong cái môi trường cạnh tranh khốc liệt mà 2, 3 thập kỷ trước hay lâu hơn nữa, chính họ hoặc cha mẹ của họ đã chào thua. Còn số công chức VK thì đa số trở thành công dân và bị đồng hoá thành người K. Tuy nhiên họ đã không thoát khỏi bàn tay đẩm máu của chế độ Pol Pot, 5 năm sau.



    #9. Chế độ Pol Pot xua đuổi từ 150 đến 200 trăm ngàn Việt kiều còn lại về Việt Nam. Năm 1977-78, đã có nhiều vụ cáp duồn từ bên kia biên giới tràn vào lãnh thổ Việt Nam, làm thiệt mạng khoảng 5-10 (?) ngàn người.



    Nói chung, vào những thế kỷ trước, cáp duồn chỉ xảy ra lẻ tẻ, tự phát bởi người dân tại một vài đia phương và mức độ thiệt hại không lớn lắm. Tuy nhiên, từ lúc Cambodia trở nên độc lập; dân trí của người Cambodia càng cao; VK ở CM càng đông; quyền lợi trong xã hội của người K càng bị đụng chạm – vì tài năng và sức cạnh tranh trong cuộc sống của người Khmer yếu kém, thua xa VK – thì nạn cáp duồn càng xảy ra quy mô trên toàn quốc do chính quyền Cambodia ngấm ngầm (1945-46) hay công khai phát động (1970).



    Rất tiếc, tôi không tìm thấy có thông kê nào ghi nhận bao nhiêu VK và bao nhiêu người V tại VN đã bị giết một cách dã man trong suốt chiến dịch cáp duồn năm 1945-46 và 1970. Tôi nghĩ, dù không nói ra, nhưng nhiều người có quan tâm đến thời cuộc, gần như đều có chung suy nghĩ: Cáp duồn chắc chắn sẽ xảy ra lần nữa, với mức độ không nghiêm trọng như trong quá khứ, nếu Sam Raíny lên ngôi lãnh đạo tại Cambodia.



    IV. ĐÔI NÉT VỀ TÌNH HÌNH NGƯỜI VIỆT TẠI CAMBODIA:

Chia sẻ trang này