1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TranMinhkhochuoi, 09/06/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    họ là người Miên thì ta gọi là miên, chẳng có gì bất lịch sự cả
    ko lẽ bọn tầu gọi ta là người Việt mà bất lịch sự à.
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    HVB là viết tắt của Hồng Vệ Binh, đám lính trẻ con thời Cách Mạng
    Văn Hoá ở Trung Quốc, bị bọn Bốn người nhồi sọ để làm công cụ đấu
    tố trù giập và bức hại những người dân yêu nước chân chính . Chủ
    tịch Lưu Thiếu Kỳ đã bị bọn lính nhí HVB này bức hại đến chết .
    Bây giờ HVB để gọi những kẻ bị nhồi sọ chỉ biết bức hại người chân
    chính mà cứ ngỡ rằng mình yêu nước. Dù sao, Sinh_Nhầm hay lạm dụng
    từ này để gọi những người không cùng ý kiến với mình.
    Tham gia những topic nóng sốt, bạn sẽ dễ dàng nhận ra những HVB
    và những anti-HVB của TTVNOL. HVB thì hay xài từ ngữ "*********" và
    muốn bỏ tù hay giết những người bị họ chụp mũ "*********." Người
    biết phải trái thì không xài từ "*********" và lời ăn tiếng nói cũng
    ôn hoà hơn.
  3. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Đây là bài phản hồi của độc giả, (không thấy ông Huy trả lời lại sau đó)
    [Re: Cộng đồng người Khmer tại miền Nam
    by (Doc gia) ngày 15/11/2005 lúc 02:34:40 CST
    Gửi tác giả bài báo Nguyễn Văn Huy,
    Tôi có một vài suy nghĩ về bài viết của ông và muốn trao đổi với ông về một vài điểm mà giới trẻ như tôi vẫn chưa có câu trả lời và không biết hỏi ai liên quan một chút về lịch sử (tôi muốn nói là sự thật về lịch sử) vì hiện nay lịch sử Việt Nam đang cần phải viết lại về sự hình thành vùng đất miền nam Việt Nam hiện nay, cũng như liên quan đến tộc người Khmer ở vùng đất này.
    Trước khi đọc bài viết của ông, tôi cứ nghĩ là tổ tiên của chúng ta (người Kinh) không phải là người bản địa ở nơi này, mà người bản địa là người Khmer, nhưng khi đọc xong bài viết của ông làm cho tôi cảm thấy thắc mắc vì trước đây (năm 1998), tôi học lớp 12 thì giáo viên dạy môn lịch sử nói là nước Việt Nam hiện này là sự sáp nhập của 3 quốc gia bao gồm nuớc Việt, Chămpa và Phù nam, tôi cứ tự hỏi vậy chúng ta (người kinh) không phải là người bản địa à!.
    Đến năm 2000, Việt Nam tổ chức kỷ niệm SÀI GÒN 300 NĂM, lúc ấy tôi là sinh viên ĐH Kinh Tế thì tôi thấy rằng về suy nghĩ của tôi là chúng ta không phải là người bản địa ở vùng đất này là đúng khi nghe Ban tổ chức buổi lễ đọc bài sơ lược về sự hình thành và phát triển của SÀI GÒN mà tên gọi cũng được dịch từ tiếng Khmer, và SÀI GÒN lúc đó (năm 2000) cũng vừa tròn 300 năm tuổi thế thì trước đó 300 năm là của của ai? Sài Gòn đã có chưa?
    Từ đó tôi đã tìm đến một vị Phó Tiến Sĩ về sử học giảng dạy tại trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Tp.HCM thì được ông ta khẳng định với tôi rằng chúng ta (người kinh) là người đến sau và người Khmer là người bản địa ở vùng đất này, sau đó vài tiếng đồng hồ tôi lại đi thăm Dinh Độc Lập thì tiếp tục nghe cô hướng dẫn viên sinh đẹp ở đây giới thiệu lịch sử hình thành Dinh độc lập thì cô ta gọi là Dinh NARODOM, tôi không hiểu NARODOM là gì thì cô ta lại nói tiếp, NARODOM là tên của một vị vua của người Campuchia?.?????
    Gần đây nhất, trước khi qua đời vào đầu năm 2004, Giáo Sư Trần Quốc Vượng (một trong 4 nhà sử học nổi tiếng nhất VN thời nay) về giảng dạy tại Trà Vinh thì ông ta cũng nói người Khmer là người chiếm cứ vùng đất này truớc tiên, Nhà văn Sơn Nam thì trong các tác phẩm và các bài viết của ông cũng nói như vậy.
    Chúng tôi là những thế hệ sinh sau năm 1975, chúng tôi không biết tin ai trong lúc này vì chưa có những công trình nghiên cứu khoa học nào có giá trị về lịch sử về vùng đầt này, nhưng có điều là bằng những kiến thức thông thường và mắt thấy tay nghe thì tôi vẫn cứ tin rằng chúng ta (người kinh) là người đến sau.
    Sự hiểu sai về lịch sử sẽ dẫn đến hệ quả khó lường được, bằng những logic suy đoán thông thường nếu chúng ta không viết lại lịch sử, không dám nhìn vào sự thật thì tương lai gần tôi e ngại ở VN sẽ xảy ra xung đột giữa các tộc người ở vùng đất này.
    Ông nghĩ sao về suy nghĩ này!.
    Sài gòn, ngày 15 tháng 11 năm 2005
    Nguyễn Nam
    @cácbác: sao em cảm thấy ông Huy này có vẻ sô vanh
    Được tranminhkhochuoi sửa chữa / chuyển vào 11:53 ngày 11/06/2008
  4. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Ts Nguyễn Văn Huy: Xin nhắc lại là cho đến năm 1914, chủ quyền của Việt Nam trên vịnh Xiêm La kéo dài từ Kompong Som (Hương Úc hay Vũng Thơm) đến Hà Tiên. Sự kiện này có thể làm người Khmer thất vọng và phẫn nộ nhưng đó là sự thật.
    -----------------------
    Theo em nghĩ bác Huy nói liều bởi vì sử nhà Nguyễn ghi khác và trong Thế Thứ Các Triều Vua Việt Nam, Nguyễn Khắc Thuần có khẳng định lại
    Về lãnh thổ, năm 1848, vua Tự Đức đã cắt trả cho Chân Lạp 5 châu mà năm 1757. Nặc Tôn (vua Chân Lạp) đã cắt tặng riêng cho Mạc Thiên Tứ (tướng của chúa Nguyễn được cử đem quân đi giúp Nặc Tôn lên ngôi). Năm châu đó là: Sài Mạt, Linh Quỳnh, Cần Bột, Hương Úc và Chân Sum. Bản đồ nước ta ổn định như ngày nay là bắt đầu từ năm 1848
    Bởi vậy em mới hỏi bác Ếch và bác dienthai về uy tín của NVH. Gặp tác gia "đại liều" như ĐVH thì mang ra bàn luận làm gì cho phí thời giờ.
    Được tranminhkhochuoi sửa chữa / chuyển vào 12:27 ngày 11/06/2008
  5. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    hình như có tài liệu nói rằng sau này Pháp lại cắt tiếp cho CPC cảng Xihanuc cùng 1 dải đất ven biển.
  6. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    bản đồ đường biên như bây giờ là do Pháp vẽ đấy , vì Pháp lấy VN làm thủ phủ cho Đông Dương nên ta cũng dc lợi phết !
  7. con_ech_gia

    con_ech_gia Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    1.773
    Đã được thích:
    65
    Nguyễn Văn Huy là tiến sỹ dân tộc học và giáo sư tại Đại học Paris.
    Bài viết của Nguyễn Nam mặc dù đặt nghi vấn chủ yếu là ?ongười Việt (Kinh) có phải là cư dân bản địa ở Nam Bộ??, nhưng lại có ý cho rằng người Khmer mới là cư dân bản địa. Việc tên dinh là Norodom chẳng nói lên điều gì ở đây, cho dù anh ta coi đó là một cơ sở để nghi ngờ.
    Thay vì múa rìu qua mắt thợ, mình xin đăng tiếp một bài khác của một người khác, có thể trong đó có một vài câu trả lời cho thắc mắc của TranMinhkhochuoi: ?oĐến thị trấn Óc Eo, nhớ về một vương quốc xa xưa: Phù Nam?
  8. con_ech_gia

    con_ech_gia Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    1.773
    Đã được thích:
    65
    Đến thị trấn Óc Eo, nhớ về một vương quốc xa xưa: Phù Nam
    [​IMG]
    Đế quốc Phù Nam xưa
    Ngày nay, ở huyện Thoại Sơn, An Giang; hầu hết những gò nhỏ, kể cả gò Óc Eo, từ rất lâu đều đã bị người dân san phẳng để làm ruộng. Chỉ những gò lớn như Gò Cây Thị,Giồng Cát, Giồng Xoài.. là còn tồn tại.
    I.Phần mở đầu:
    Trên bản đồ vị trí hành chính tỉnh An Giang, thị trấn Óc Eo (một phần của xã Vọng Thê cũ) cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 40 cây số, theo tỉnh lộ 943.
    Nơi này đã từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII.
    Đó là một nền văn hoá biển, hình thành và phát triển ở miền Tây sông Hậu, cư dân Oc Eo-Phù Nam đã sớm thành thạo trong kỹ thuật khai thác biển, có kiến thức và kinh nghiệm sâu sắc trong việc trị thuỷ, làm thủy lợi và phát triển kinh tế hải thương.
    Do đón nhận được và biết phát huy những điều kiện thuận lợi của vị thế tự nhiên, Phù Nam đã trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất Đông Nam á đồng thời là nơi tiếp nhận và truyền phát văn hoá giữa hai thế giới phương Đông (Trung Hoa, Ấn Độ) và phương Tây (La Mã, Ba Tư)?
    Chính vì vậy, Óc Eo hiện chứa đựng trong mình một trữ lượng tài liệu lịch sử vô cùng phong phú, minh chứng cho sự tồn tại của một dân tộc, của một nền văn minh, một quốc gia đã từng hiện hữu trên đất nước Việt Nam.
    Đó chính là vương quốc Phù Nam.
    Danh từ Óc Eo có nghĩa là gì?
    Theo nhà dân tộc học người Pháp Pierre Bitard thì từ Óc Eo đồng âm với chữ Khmer địa phương là "Ur Kev". Khi phát âm danh từ đó, nghe gần giống âm ?oÔ kéo? .Từ ấy có nghĩa là rạch ngọc.
    Nhưng nhà nghiên cứu George Coedes lại không đồng tình vì cái tên "Ur Kev" không phải là từ cổ lắm. Bởi lẽ, từ "Kéo"(đá ngọc) là một từ thuộc nhóm ngôn ngữ Thái, nó không hề có ở Kampuchia thời Angkor (thế kỷ VIII - XII), càng khó có thể xuất hiện ở thời Phù Nam (thế kỷ I - VI).
    Câu chuyện vì sao gọi là Óc Eo hẳn còn tiếp tục tranh luận.
    II.Truyền Thuyết dựng nước Phù Nam:
    Theo Khang Thái, sứ giả của Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc chép trong sách Phù Nam thổ tục thì ông vua đầu tiên của nước Phù Nam, có lẽ là một quí tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Balamôn tên Kaunđinya (Sách Trung Quốc gọi là Hỗn Điền).
    Truyền thuyết kể ông ta từ miền Đông Ấn Độ mang theo một chiếc nỏ thần và một đạo quân hơn ngàn người vượt biển sang đánh chiếm xứ Koh Thlok.
    Công chúa xứ này là Sôma (con gái của thần mặt trăng - sách Trung Quốc gọi là Liễu Diệp), con vua Naga, đã chống cự lại kẻ xâm lược.
    Nhưng sau khi bị nỏ thần bắn thủng nhiều chiến thuyền, nàng công chúa đành phải đầu hàng và thuận để cho Kaunđinya lên ngôi vua, lấy mình làm vợ; rồi sinh ra dòng dõi vua chúa thống trị xứ Koh Thlok, sau này là Phù Nam?
    Mặc dầu là truyền thuyết, nhưng ít nhiều nó cũng phản ảnh một thực tế lịch sử:
    Người Khơme vẫn coi Kaunđinya là người sáng lập ra đất nước và đã đem đến cho họ một nền văn hóa mới. Nhờ vị vua này, phụ nữ biết cách ăn mặc che thân, biết ngôn ngữ, văn tự sănxcơri, tôn giáo Balamôn, luật pháp Ấn Độ cùng chế độ chính trị xã hội thịnh hành ở Ấn độ thời bấy giờ?
    Được con_ech_gia sửa chữa / chuyển vào 15:40 ngày 11/06/2008
    Được con_ech_gia sửa chữa / chuyển vào 15:50 ngày 11/06/2008
    lionking_arc thích bài này.
  9. con_ech_gia

    con_ech_gia Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    1.773
    Đã được thích:
    65
    III.Điểm qua vài thư tịch cổ viết về Phù Nam
    Danh xưng ?oPhù Nam? là gọi theo tiếng Trung Quốc, có lẽ do họ phiên âm từ tiếng Môn-Khơme cổ ?oboman?.(ngày nay nó được đọc là ?ophnom?, có nghĩa là núi, và các vua của vương quốc này đều lấy vương hiệu là ?o kurung boman? có nghĩa là ?ovua Núi?).
    Thủ đô của Phù Nam có thể là Vyađapura, gần ngọn núi Ba phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prây Veng.(ngày nay vẫn còn giữ nguyên tên cũ- Có giả thuyết khác cho rằng thủ đô đặt ở Angkor Borei)
    Và quyển sách có niên đại sớm nhất đề cập tới Phù Nam là Dị vật chí của Dương Phù thời Đông Hán (25-220).
    Đến thời Tam Quốc (220-280), Phù Nam đã thiết lập quan hệ bang giao với nước Ngô.
    Theo Ngô thư thì vào tháng chạp năm Xích Ô thứ sáu (243), Vua Phù Nam là Phạm Chiên sai sứ sang dâng nhạc công và nhiều sản vật địa phương.Sau này khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, Vua Ngô cũng đã sai người đến các nước phương Nam. Vua các nước Phù Nam, Lâm Ấp và Minh Đường đều sai sứ dâng cống.
    Sách Lương thư còn cho biết Tôn Quyền nước Ngô đã sai Chu Ứng và Khang Thái đi sứ các nước phía Nam, trong đó có Phù Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển Phù Nam thổ tục còn gọi là Phù Nam truyện (người soạn có nói đến ở phần đầu).
    Các sách có liên đại muộn hơn vào các thế kỷ VI-VII như Trần thư, Tuỳ thư, Thông điển, Tân Đường thư... đều có chép khá tỉ mỉ về vương quốc.
    Như vậy, những nguồn sử liệu thư tịch kể trên không chỉ ghi nhận sự tồn tại của Vương quốc Phù Nam mà còn ghi nhận các mối quan hệ rộng và rất thường xuyên của vương quốc này với các triều đại phong kiến Trung Quốc.
    Không chỉ vậy, qua những dấu tích vật chất ta biết họ còn có mối quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới bên ngoài như Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải.
    Theo một văn bản viết hồi thế kỷ thứ V do nhà học giả Pháp P.Pelliot dẫn dụng, thì vua Phù Nam là Phạm Chuyên có phái sứ thần của mình sang Ấn Độ. Sứ thần được đón tiếp nồng nhiệt và lúc ra về họ được vua triều Murunđa trao cho 4 con ngựa chiến để đem về tặng nhà vua Phù Nam?
    Tuy nhiên, trong một thời gian dài nền văn minh cổ đại của cư dân Nam Bộ chỉ được biết đến qua các thư tịch cổ.
    Cho đến năm 1944, nhà khảo cổ học Pháp Ma-lơ-rê (Louis Malleret) đã tiến hành một cuộc khai quật có ý nghĩa lịch sử ở địa điểm Óc Eo. Nhiều di tích kiến trúc và hiện vật quý đã phát hiện.
    Sau này còn nhiều cuộc khai quật khác nữa, và tất cả cho thấy nền văn hoá này phân bố rất trù mật trên địa bàn các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và nhiều địa điểm khác thuộc đồng bằng Nam Bộ.
    IV. Phù Nam: hưng thịnh và suy tàn
    1/ Thời hưng Thịnh:
    Phù Nam là một quốc gia ven biển mà trung tâm là vùng Nam Bộ ngày nay của Việt Nam, cư dân chủ thể là người Mã Lai- Đa Đảo có truyền thống hàng hải và thương nghiệp khá phát triển .
    Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng từ thế kỷ III đến thế kỷ VI, Phù Nam đã phát triển thành đế chế lớn mạnh.
    Theo sử liệu Trung Hoa, các vua Phù Nam bắt đầu từ đời thứ 5 là Phạm Mạn đã liên tục thôn tính hơn 10 nước mở rộng lãnh thổ đến 5,6 nghìn dặm bao gồm các nước Đô Côn, Cửu Trì, Đốn Tốn, Xích Thổ, Bàn Bàn, Đan Đan...những tiểu quốc này đều nằm trên bán đảo Mã Lai và một phần hạ lưu sông Mê Nam.
    Và sau cuộc khai quật vào năm 1944, nhà khảo cổ L.Malleret đã cho rằng Óc Eo là một thành phố cảng lớn và trọng yếu của vương quốc Phù Nam, theo cách gọi của người Hoa thời bấy giờ.
    Bằng chứng về một nền văn hoá đa sắc và rực rỡ:
    Dưới những hố khai quật ở Oc Eo đã tìm thấy nhiều di cốt của vật nuôi như chó, heo, gà, mèo? Trong những hình khắc trên vật dụng và trang sức bằng gốm, đồng và vàng có hình voi được đóng bành trên lưng. Thuần dưỡng được loài súc vật to lớn như voi để làm công cụ, chứng tỏ cư dân Phù Nam cổ đã có một trình độ phát triển rất cao. Việc này thư tịch cổ Tân Đường thi đã ghi: ?oHọ có 5.000 voi chiến (?),thời Trúc Chiên Đàn (vua Phù Nam) xưng vua, sai sứ sang cống voi đã thuần dưỡng??
    Đoạn thư tịch trên còn là bằng chứng: Phù Nam khi ấy đã là một nhà nước tập quyền, trong khi xã hội Sa Huỳnh, một nền văn minh kề cận (kết thúc thế kỷ I), vẫn chưa thấy dấu vết của một nhà nước có tổ chức.
    Theo Lê Hương trong Sử liệu Phù Nam: năm 224 một văn phòng thương mãi Phù Nam thành lập gần thủ phủ Nam Kinh (Trung Quốc) gọi là Phù Nam quán.
    Và theo 2 sứ giả người Hoa là Châu Ứng (Tchou Ying) & Khang Thái (Kang Tai) thời Đông Ngô đã tường thuật lại rằng:
    ?oVương Quốc Phù Nam bề ngang rộng 399 hải lý, có nhiều đô thị, có tường cao bao quanh và bên trong có nhà ở? Nước da người dân màu đen, tóc quăn, xấu xí?Đàn bà mặc cái chăn tròng từ cổ tới chân, xỏ lỗ tai để đeo bông tòn ten.
    Nếp sống tuy rất đơn giản nhưng họ không trộm cắp . Họ làm nghề nông theo lối cổ, gieo trồng một lần gặt hái luôn trong 3 năm. Họ thích điêu khắc và dùng đục chạm trổ rất khéo; nhiều món đồ dùng để ăn cơm như chén đĩa đều làm bằng bạc.Dân chúng đóng thuế bằng vàng bạc, trân châu & dầu thơm.
    Họ biết đọc sách & có văn khố. Văn tự của họ giống như nét chữ của dân Hồ, một sắc dân ở Trung Á dùng Ấn tự.
    Cảnh vật trong xứ rất đẹp??
    2/ Và suy tàn:
    Vào thế kỷ thứ V, tiểu quốc của người Cát Miệt, lúc bấy giờ ở vùng trung lưu sông Mê Kông và khu vực phía Bắc Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề sống chính, cũng trở thành một thuộc quốc Phù Nam.
    Cát Miệt chính là phiên âm chữ Hán tộc danh khơ-me. Trong nhiều thư tịch cổ, thuộc quốc này về sau có tên gọi là Chân Lạp (Tchenla)
    Mặc dù là thuộc quốc của Phù Nam, nhưng Chân Lạp đã nhanh chóng phát triển thành một vương quốc độc lập vào thế kỷ VI và nhân sự suy yếu của Phù Nam sau một thời kỳ phát triển rực rỡ, họ đã tấn công chiếm lấy một phần lãnh thổ của đế chế này vào đầu thế kỷ VII.
    Để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam kia, sách Trung Quốc gọi là "Thủy Chân Lạp'''''''', nhằm phân biệt với vùng đất ?oLục Chân Lạp?, tức là vùng đất gốc của Chân Lạp.
    Mặc dầu chiếm đoạt được, nhưng trên thực tế, việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp gặp rất nhiều khó khăn.
    Trước hết, với truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, dân số còn ít ỏi, người Khmer khi đó khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn một vùng đồng bằng mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy.
    Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Việc cai trị xứ Thủy Chân Lạp vì vậy vẫn phải giao cho những người thuộc dòng dõi Vua Phù Nam.
    Theo những tài liệu bi kí còn lại có thể thấy rằng, vào thế kỷ thứ VIII tại vùng trung tâm của Phù Nam trước đây vẫn còn tồn tại một tiểu quốc tên là Aninđitapura, do một người dòng dõi vua Phù Nam tên là Bala***ya trị vì.
    Và khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ vốn là thuộc quốc hoặc chư hầu cũ nổi lên thành những nước mạnh. Trong số đó có Srivijaya của người Iava.
    Vào nửa sau thế kỷ VIII, quân đội nước này đã liên tục tiến công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương.
    Kết cục là Thủy Chân Lạp bị quân Iava chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết thúc.
    Vậy,trong vòng gần một thế kỷ, vùng đất Nam Bộ lại nằm dưới quyền kiểm soát của người Iava.
    Trở lại vấn đề, một trở ngại khác nữa trong việc cai quản và phát triển vùng Thủy Chân Lạp là tình trạng chiến tranh diễn ra thường xuyên giữa Chân Lạp với Chăm pa, nên mãi cho đến thế kỷ XIII, cư dân ở vùng đất Nam Bộ hãy còn thưa thớt
    Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu gần đây nhất, có thể thấy những di tích khảo cổ học mang dấu ấn Chân Lạp trên đất Nam Bộ trước thế kỷ XVI không nhiều, và ảnh hưởng văn minh Angkor ở vùng này cũng không đậm nét.
    Rồi bắt đầu từ cuối thế kỷ XIV, Chân Lạp còn phải đối phó sự bành trướng của các vương triều Xiêm từ phía Tây, đặc biệt là từ sau khi Vương triều Ayuthaya hình thành vào giữa thế kỷ XIV.
    Trong suốt 78 năm (từ 1353 đến 1431), Ayuthaya và Chân Lạp liên tiếp có chiến tranh trong đó chủ yếu là những cuộc tiến công Chân Lạp từ phía người Thái. Trong thời kỳ đó, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya chiếm đóng.
    Sang thế kỷ XVI, và nhất là từ thế kỷ XVII, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bì chia rẽ sâu sắc.Vương quốc này dần bước vào thời kỳ suy vong.
    Trong bối cảnh như vậy, Chân Lạp hầu như không có khả năng kiểm soát đối với vùng đất còn ngập nước ở phía Nam, vốn là địa phận của Vương quốc Phù Nam.
    [​IMG]
    Linga và Yoni trưng bày tại nhà Bảo Tàng An Giang
    [​IMG]
    Cọc gỗ nhà sàn của cư dân Phù Nam
    [​IMG]
    Tượng thần visnu bằng đất nung
    Được con_ech_gia sửa chữa / chuyển vào 15:49 ngày 11/06/2008
  10. con_ech_gia

    con_ech_gia Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    1.773
    Đã được thích:
    65
    V. Thủy Chân Lạp( Phù Nam thuở nào) dần dà thuộc về các chúa Nguyễn:
    Rất nhiều bài viết đã nói khá kỹ tiến trình này, ở đây tôi chỉ xin điểm lược lại một số ý :
    Từ đầu thế kỷ XVII, đã có lưu dân người Việt ở vùng đất Thuận - Quảng của Chúa Nguyễn đến Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hoà) khai khẩn đất hoang, lập ra những làng người Việt đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ.
    Thế rồi vào năm 1620, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái của mình là Công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II làm Hoàng hậu của Vương triều Chân Lạp
    Và Ngọc Vạn, người công nữ đức hạnh & xinh đẹp này, đã hai lần dẫn đường cho người Việt mở đất về phương nam. Lần thứ nhất sau cuộc hôn nhân năm 1620, lần thứ nhì trong cuộc tranh chấp nội bộ vương quyền Chân Lạp năm 1658, thời trị vì của Batom Reacha Pontana Reja ( tức hoàng thân So, con Ngọc Vạn - xin xem thêm bài soạn cũng cùng người viết: Ngọc Vạn, người không có ?otruyện? trong sử nhà Nguyễn).
    Lý do vương triều Chân Lạp dễ dàng nhượng vùng hạ lưu sông Cửu Long, vì nguyên thủy vùng đất nầy không phải là đất của họ, mà là của nước Phù Nam (Funan) thủa xa xưa.
    ( Xin bạn đọc xem chi tiết trong bài Trước khi lưu dân Việt Nam tới, đất Sài Gòn xưa thuộc cư dân nào? của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, sách Địa chí văn hóa Tp HCM, nxb Tp HCM, năm 1987)
    Vì không phải là đất của mình, lại rất ít dân sinh sống, không có người đủ tài đức cai quản, nguồn lợi thu về không là bao; nên vua chúa Chân Lạp dễ dàng dùng đất nầy làm quà tạ lễ các chúa Nguyễn đã giúp họ lên ngôi, hoặc giúp họ chống lại Xiêm La.
    Vả lại, trong lịch sử, chuyện cắt đất để cầu phong, để củng cố thế lực hoặc cầu bình an cho vương triều là chuyện thường xảy ra ở chế độ phong kiến. Bạn đọc dễ dàng tìm thấy ví dụ trong các sách, nhất là ở sử Tàu ?
    Như thế có nghĩa, người Việt đã không giành chiếm mà chỉ đến (cùng vài dân tộc khác như Hoa, Champa chẳng hạn) cộng cư với dân bản địa, đơn thuần buổi đầu chỉ là lý do mưu sinh với sự đồng thuận của cả hai vương triều.
    Nhưng do tập quán sinh hoạt, canh tác của mỗi dân tộc ít nhiều có điểm khác nhau, như dân bản địa thích chọn ở nơi đất cao (giồng), trồng khoai sắn, làm ruộng chỉ cầu đủ ăn và ít muốn khai thác gì thêm; người Hoa thì thích buôn bán hơn.
    Riêng người Việt,vì bấy lâu bẩn chật nơi mảnh đất miền Trung nhỏ hẹp, nghèo khó, lắm thiên tai; giờ được đứng trước vùng đất phương nam mênh mông nhiều sông nước này; nên cha ông ta với lòng hăm hở cộng thêm đức tính cần cù, không ngại khó; vì thế chẳng bao lâu nơi trước đây còn hoang vu, nhiều đầm lầy, rừng rậm, thú dữ?trở thành vô số những cánh đồng ngút ngàn màu mỡ, trĩu xanh.
    Và cũng vì thói quen sống nên người bản địa thường lánh đi nơi khác...
    Mãi về sau, năm 1698, nghĩa là đã tròn 40 năm, nếu tính từ năm1658, thời trị vì của Batom Reacha Pontana Reja ( tức hoàng thân So, con Ngọc Vạn), Minh Vương Nguyễn Phúc Chu mới cử Nguyễn Hữu Cảnh đến thiết lập chủ quyền nơi vùng đất mới để bảo vệ cuộc sống bình an, sự làm ăn mua bán của cư dân mình vì chính quyền Chân Lạp thời bấy giờ cứ liên tiếp xào xáo, không ổn định.
    Vậy có thể nói gọn:
    Trước mắt của người Đàng Trong là một vùng đất mênh mông hoang vu cần khai khẩn để biến nó thành kho lương thực, thành tài sản quí giá cho người dân và quốc gia.
    Với lòng khao khát này, tất nảy ra ?oCái khó ló cái khôn?:
    Đấy chính là kế sách ?otầm ăn dâu? khôn khéo của các chúa Nguyễn, là đường lối ?odân đi trước, làng nước theo sau?, là tài thao lược khiến đối phương thì qui phục, dân thì tin yêu của các danh tướng như Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại vv?
    Và đặc biệt hơn cả, chính là tấm lòng son của một phận má hồng: Ngọc Vạn.
    Cho nên chỉ sau hơn một thế kỷ, tính từ đầu thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ XVII toàn bộ khu vực Nam Bộ đã hoàn toàn thuộc quyền cai quản của Chúa Nguyễn và nhanh chóng trở thành vùng phát triển kinh tế - xã hội năng động.
    Đây là thành quả lao động cần cù và sáng tạo của tất cả các cộng đồng dâncư trong guồng máy phát triển chung của đất nước, trong đó vai trò của các lớp cư dân người Việt, người Khmer, người Chăm và người Hoa?
    Được con_ech_gia sửa chữa / chuyển vào 15:48 ngày 11/06/2008
    lionking_arc thích bài này.

Chia sẻ trang này