1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quan hệ Việt Nam - Mỹ bước vào thời kỳ mới?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi novemberrain0274, 28/05/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. novemberrain0274

    novemberrain0274 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    141
    Đã được thích:
    1
    Quan hệ Việt Nam - Mỹ bước vào thời kỳ mới?

    (Copy từ vnn.vn)

    Đưa quan hệ Việt - Mỹ lên tầm cao mới


    Chiều 27/5, Bộ Ngoại giao VN chính thức phát đi thông cáo về chuyến thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Phan Văn Khải theo lời mời của Tổng thống Mỹ George Bush, bắt đầu từ ngày 19 đến 25-6. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Dũng cho biết:


    - Chuyến thăm được thực hiện đúng dịp kỷ niệm mười năm ngày VN và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong mười năm qua, quan hệ chính trị, ngoại giao của hai nước được tăng cường. Hai bên đã tiến hành nhiều cuộc tiếp xúc, trao đổi. Các cuộc thăm chính thức của lãnh đạo hai nước, nhất là chuyến thăm VN của tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tháng 11-2000 và các chuyến thăm Hoa Kỳ của các phó thủ tướng VN là những mốc quan trọng trong quan hệ hai nước.

    Chuyến thăm Hoa Kỳ lần này của Thủ tướng Phan Văn Khải là nhằm tiếp tục triển khai chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, trong đó có quan hệ giữa VN với Hoa Kỳ.

    - Sẽ có những cuộc tiếp xúc quan trọng nào được tổ chức giữa hai bên, thưa ông?

    - Về sơ bộ, Thủ tướng sẽ có một cuộc hội đàm với Tổng thống G.Bush, tiếp xúc với các quan chức của chính quyền, của quốc hội, giới doanh nghiệp và đặc biệt là các nhà doanh nghiệp Mỹ về cơ hội đầu tư ở VN. Ngoài thủ đô Washington, Thủ tướng sẽ tới thăm một số bang của Mỹ, tiếp xúc với quan chức chính quyền của các bang.

    Ngoài ra, Thủ tướng sẽ tiếp xúc với cộng đồng người Việt đang làm ăn sinh sống, học tập và công tác ở Hoa Kỳ nhằm khẳng định truyền thống tương thân tương ái là cội nguồn sức mạnh của dân tộc VN.

    - Việc ký kết các văn bản hợp tác giữa hai nước có được xúc tiến thông qua các cuộc tiếp xúc kể trên?

    - Hai bên đang chuẩn bị để có thể ký kết một số văn bản hiệp định nhằm thúc đẩy hơn nữa hợp tác nhiều mặt giữa VN và Mỹ. Nhưng cụ thể thế nào thì hiện nay còn sớm nên chưa thể tiết lộ được.

    - Quá trình đàm phán gia nhập WTO là một trong những nội dung được quan tâm, liệu có thể kỳ vọng một kết quả cụ thể vào chuyến thăm lần này của Thủ tướng?

    - Một trong những mục tiêu chính của hai bên trong chuyến thăm là tập trung hợp tác có hiệu quả hơn nữa giữa hai nước, nhất là các vấn đề về kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật, công nghệ. Trong đó, hai bên sẽ tranh thủ thời gian để thỏa thuận làm sao nhanh chóng kết thúc thời gian đàm phán gia nhập WTO. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong các cuộc tiếp xúc. Hai bên đang tích cực thu hẹp khoảng cách, sớm kết thúc đàm phán. Cụ thể vào thời gian nào thì chưa nói được, nhưng đẩy nhanh quá trình đàm phán với đối tác quan trọng nhất là Mỹ sẽ có tác động tới việc đàm phán với các đối tác khác.

    - Chuyến đi này của Thủ tướng Phan Văn Khải mở ra một chương mới trong quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ?

    - Tôi nghĩ rằng thông điệp chúng ta đưa ra lần này là mong muốn bàn với Mỹ về biện pháp đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới, đáp ứng đòi hỏi hai bên, tiến tới xây dựng một khuôn khổ hợp tác ổn định, lâu dài giữa hai nước trong thời gian tới. VN khẳng định chủ trương nhất quán ?oKhông quên, song gác lại quá khứ, hướng tới tương lai? trong quan hệ với Hoa Kỳ.

    - Xin cảm ơn ông.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cái chủ đề Vn-Hoa Kỳ hôm qua em còn thấy sống mà hôm nay vào đã thấy mod bán khoá rồi! Nhân chuyện quan hệ trong thời mới, nhớ lại quan hệ thời xưa. Xưa ở đây là trong 21 năm từ 1954-1975, thời kỳ Tây Độc tiến hành xâm lược VN!
    Mời các bác đọc quyển "21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam" của Đăng Phong. Đọc quyển này em thấy rõ bản Mỹ là con buôn hơn! Nhiều chỗ bàn luận kinh tế em cũng không hiểu nhiều, nhưng cứ gửi lên đây cho các bác!
    Chương I: Những ý đồ của Mỹ ở Việt Nam
    Theo các con số thống kê chính thức của Mỹ, thì trong 21 năm (từ năm 1954 đến 1975), Mỹ đã viện trợ cho Nam Việt Nam hơn 26 tỷ đôla. Nhưng ngoài số tiền viện trợ cho ngụy quân và ngụy quyền, Mỹ đã trực tiếp đưa cả quân đội, các bộ máy quân sự, dân sự vào miền Nam. Nếu tính tất cả các loại chi phí, trong hơn 20 năm đó, Mỹ đã bỏ vào Việt Nam khoảng hơn 160 tỷ đôla.
    Hầu như chưa có nơi nào trên thế giới mà Mỹ phải bỏ ra nhiều tiền của và nhiều người như thế.
    Mỹ nhằm mục đích gì ở đây?
    Đó là một trong những vấn đề then chốt để hiểu được bản chất của viện trợ Mỹ, ý nghĩa, tác dụng và hậu quả của nó.
    1.Những lợi ích kinh tế trực tiếp
    Trong suốt quá trình dính líu ở Việt Nam và ngay cả trước quá trình đó, tư bản Mỹ đã quan tâm đến những nguồn lợi ở Việt Nam: các tài nguyên, nhất là khoáng sản, các sản phẩm chiến lược, nhất là lúa gạo và cao su, những nguồn cung cấp nhân công, thị trường đầu tư và thị trường tiêu thụ hàng hóa v.v?
    Từ lâu, tài nguyên của Đông Dương đã được báo chí và các chính khách Mỹ nhắc tới.
    Năm 1950, tờ New York Times viết: ?oĐông Dương là một miếng mồi đáng cho chúng ta đánh một ván bài lớn. Nó có thể xuất khẩu thiếc, tungstène, manganèse, than đá, gỗ, gạo, cao su, dừa, hạt tiêu và da thuộc. Cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ hai II, lợi tức thu được ở Đông Dương đã tới khoảng 300 triệu đôla hàng năm? (New York Times, Xã luận, ngày 12-2-1950).
    Tổng thống Eisenhower trong diễn văn đọc ngày 4-8-1953 tại Seatle nói: ?oNếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc và tungstène mà chúng ta đánh giá rất cao sẽ không còn thuộc về tay chúng ta nữa. Chúng ta đang tìm cách nào rẻ tiền nhất để ngăn chặn điều bất hạnh có thể xảy đến, đó là việc mất khả năng lấy được những thứ gì chúng ta muốn lấy từ số tài nguyên giàu có của Đông Dương và Đông Nam Á? (?oNghiên cứu lịch sử? Hà Nội, số 124).
    Ở đây, có một điểm đáng lưu ý:
    -Trong số các tài nguyên và sản phẩm của Đông Dương có những thứ đối với nền công nghiệp hoặc thị trường nội địa của Mỹ, không phải là cần thiết trực tiếp, hoặc không cần tới mức gay gắt như vậy. Nhưng đối với lợi ích toàn cầu của Mỹ, thì đó là những thứ cần phải nắm lấy để chi phối thị trường thế giới (trường hợp gạo, cao su, than đá và gần đây là dầu lửa).
    Tờ New York Times số ra ngày 21-10-1962 nói về điều này: ?oSự buôn bán và các sản phẩm của Đông Nam Á không phải là cần thiết đối với nền kinh tế Mỹ, nhưng lại là rất quan trọng đối với chúng ta và các đồng mình của chúng ta?.
    Cũng vì thế ngay từ trước khi xâm lược Việt Nam, Mỹ đã thông qua con đường thương nghiệp để nắm lấy nhiều sản phẩm quan trọng của Đông Dương. Lúc đó, Mỹ chưa mua nhiều thóc gạo, vì thóc gạo chưa quan trọng chiến lược như sau này. Nhưng cao su thì ngay từ trước đại chiến thế giớ thứ II Mỹ đã mua khá nhiều. Từ năm 1930 đến 1939, Mỹ đã mua 39% tổng số cao su xuất khẩu của Đông Dương. Thời kỳ từ 1946 đến 1950 cao su chiếm 98% giá trị hàng hàng hóa của Đông Dương bán cho Mỹ (Henry Lauque, Activités économiqués americanes. Cahiers Internationaux, No-5-1942).
    Có thể thấy rõ những tham vọng đó qua các ?odự án phát triển? của các cơ quan nghiên cứu Mỹ về triển vọng của nền kinh tế Việt Nam khi chiến tranh chấm dứt (trong các dự án đó, sự chấm dứt chiến tranh phải được giả định là Mỹ thắng). Trong tất cả các dự án đó, điểm được chú ý nhất là: khả năng xuất khẩu, mà đứng đầu là lúa gạo, cao su, gỗ, hải sản và dầu hỏa.
    -Theo con số của nhóm nghiên cứu do Lilienthal phụ trách (công bố vào tháng 12 năm 1970) thì tổng mức xuất khẩu của Nam Việt Nam đến năm 1980 vào khoảng 425 triệu đôla hàng năm (Trích trong báo cáo của D.M.Donald, Giám đốc Phái bộ viện trợ Mỹ ở Sài Gòn (USAID) về tình hình Nam Việt Nam trước Ủy ban Đối ngoại Thượng nghị viện Mỹ ngày 17-3-1970. Tin tức của USIS, Washington, ngày 17-3-1970).
    Các tác giả của dự án trên cũng còn tính đến khoảng 1985, mỗi năm miền Nam Việt Nam sẽ xuất cảng tới 1 tỷ đô la dầu hỏa.
    Đầu tư là sự khai thác ở trình độ cao. Trong các dự án phát triển kinh tế của Nam Việt Nam, các cơ quan điều tra và nghiên cứu của Mỹ dự kiến khả năng thu hồi vốn đầu tư rất nhanh chóng. Có thể nêu một thí dụ: Kế hoạch sông Mê Công. Riêng về thủy điện, kế hoạch dự tính xây dựng cơ bản 1.300 triệu đôla. Nếu được hoàn thành, mỗi năm sẽ lãi 300 triệu đôla. Rồi nhờ có điện, chỉ riêng đẩy mạnh khai khoáng hàng năm cũng thu lợi nhuận khoảng 300 triệu đôla nữa. Vì vậy, Mỹ đã ?tự nguyện? đóng góp 1 tỷ đôla cho kế hoạch này.
    Để nắm độc quyền đầu tư, ngay từ năm 1961 Mỹ đã yêu cầu Ngô Đình Diệm ký bản cam kết ưu đãi đầu tư của Mỹ, gọi là ?oHiệp ước thân hữu và liên lạc kinh tế Việt-Mỹ?. Trong Hiệp ước này, Diệm bảo đảm cho tư bản đầu tư của Mỹ được thuận lợi trong mọi ngành kinh tế, về mọi mặt-trong việc mua đất đai, nguyên liệu, sử dụng các phương tiện công ích, thuê nhân công, chuyển lãi hàng năm về nước, có hiệp đồng tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra, hứa sẽ không quốc hữu hóa trong một thời gian dài (tùy từng nghành, có ngành thì thời gian đó được đảm bảo tới 99 năm)?
    Như vậy, tuy Mỹ chưa thực hiện, hoặc mới thực hiện đầu tư nhỏ giọt, song đó chính là một trong những mục tiêu mà Mỹ đã nhằm và đã chuẩn bị.
    Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Tham vọng này không chỉ nhằm vào viễn cảnh. Nó đã được thực hiện từ lâu. Ngay từ trước chiến tranh thế giới thứ II, tỷ lệ hàng hóa Mỹ trong tổng ngạch nhập khẩu của Đông Dương đã đạt tới mức cao: Trong thời kỳ 1930-1939: bông 27%, sản phẩm dầu lửa 19,1%, máy móc 17,5%, ô tô và phụ tùng 13,4%. Trong thời kỳ 1946-1950; bông, 9,3%, sản phẩm dầu lửa 7,7%, kim khí 4,9%, máy móc 19,3%, ô tô và phụ tùng 10%, sợi và hàng dệt 13,6%, thuốc lá 7,1%.
    Trong thời kỳ tiến hành chiến tranh, việc tiêu thụ hàng hóa không những không gặp khó khăn, mà lại có thêm điều kiện để mở rộng. Số viện trợ hàng chục tỷ đôla và toàn bộ số phí tổn hàng trăm tỷ đôla, suy cho cùng, cũng là sự tiêu thụ một khối lượng hàng hóa khổng lồ.
    Chiến tranh xâm lược đã dẫn đến một hiện tượng lạ lùng: hình như cái đất nước nhỏ bé và nghèo nàn này bỗng nhiên ?otiêu xài? tới vài chục tỷ đôla mỗi năm; Nếu tính theo đầu người thì mỗi người dân Việt Nam mỗi năm tiêu xài gần hai ngàn đôla của Mỹ!
    Nhưng theo chính sự tính toán của các cơ quan nghiên cứu Mỹ, thì thu nhập thực tế của mỗi người dân Việt Nam chỉ vào khoảng trên dưới trăm đôla.
    Vậy, nói đúng ra, trong số hàng trăm tỷ đôla hàng hóa mà Mỹ đổ vào đất nước này, chỉ có một phần rất nhỏ là những thứ hữu ích cho con người. Còn phần lớn là những hàng hóa để giết người và tàn phá (Năm 1968, số viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam là 536 triệu đôla, số đơn đặt hàng của các công ty sản xuất vũ khí cho chiến tranh Việt Nam là 8,4 tỷ đôla. Năm 1969, số viện trợ kinh tế là 413 triệu đôla, số đơn đặt hàng vũ khí cho chiến tranh Việt Nam là 7,4 tỷ đôla. Tin của AP.Washington ngày 19-4-1969).
    Như vậy, phần lớn những khoản gọi là chi phí cho Việt Nam, thực ra, lai là chi phí cho nước Mỹ. Phần lớn cái gọi là viện trợ cho Việt Nam, thực ra, lại vào túi tư bản Mỹ. Điều này báo chí Mỹ cũng đã nói rõ. Tờ U.S.News and World report ngày 6-8-1962 viết: ?oTrong 6,1 tỷ đô la ngoại trợ trong tài khoản 1960-1961, có 4,8 (80%) tỷ được chi ngay ở Mỹ. Sơ dĩ như vậy vì 90% ngân khoản viện trợ quân sự đã ở lại nước Mỹ. Nếu không có viện trợ, xuất cảng của Mỹ sẽ tụt 12%, nông phẩm thừa sẽ tăng lên đáng sợ. Vậy ngoại viện thực ra lại là sự trợ cấp cho nền kinh tế Mỹ?.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ta biết, phần lớn viện trợ và các chi phí của Mỹ là lấy từ ngân sách. Ngân sách là tiền đóng góp của nhân dân Mỹ, thông qua thuế. Nhưng Mỹ hầu như không đem thẳng tiền mặt cấp cho một nước nào cả. Viện trợ hay chi phí đều bằng hàng hóa, chủ yếu là hàng hóa Mỹ, mua của các công ty Mỹ. Như vậy, viện trợ và chi phí chiến tranh chỉ là cơ hội để lấy tiền trong túi nhân dân Mỹ bỏ vào túi các nhà tư bản Mỹ, mà ngân sách là guồng máy thực hiện sự phân phối lại đó. Nguyên Chủ tịch Ngân hàng thế giới Eugener R.Black phân tích như sau:
    ?oChương trình ngoại viện của ta rất có lợi cho các xí nghiệp tư nhân Mỹ. Có ba nguồn lợi chính:
    a.Ngoại viện tạo ra thị trường vững vàng và trực tiếp cho những hàng hóa và dịch vụ của Mỹ.
    b.Ngoại viện khuyến khích sự phát triển thị trường mới ở hải ngoại của các công ty Mỹ.
    c.Ngoại viện hướng nền kinh tế các nước nhận viện trợ vào một hệ thống tự do kinh doanh mà nhờ đó các công ty Mỹ có thể làm giàu? (Columbia Journal of World Business: Autumne, 1965).
    Khi nói về những quyền lợi kinh tế trực tiếp mà Mỹ muốn tìm kiếm ở Việt Nam, có một điểm đáng lưu ý: trong hơn 20 năm dính líu vào Việt Nam, số của cải mà Mỹ đã bỏ vào lớn hơn nhiều so với số đã lấy được. Đó là điều nằm ngoài ý muốn của Mỹ.
    Một là, cho đến tận 30-4 năm 1975, Mỹ vẫn chưa kết thúc được giai đoạn xâm nhập và bình định, là giai đoạn mà số phí tổn để chuẩn bị khai thác thường phải lớn hơn số của cải đã khai thác được.
    Hai là, con số quyết toán cuối cùng những phí tổn của Mỹ ở Việt Nam là con số vượt quá xa dự kiến ban đầu. Năm 1972, khi trả lời phỏng vấn của một tờ báo, rằng ?ocuộc chiến tranh Việt Nam có xứng đáng với cái giá phải trả về sinh mạng và của cải của Mỹ không??, Tướng Tylor trả lời: ?oChắc chắn là cuộc chiến tranh này đã tốn kém hơn rất nhiều, nếu ta tính đến những tổn thất cụ thể đếm được so với những gì cụ thể mà ta thu lợi được? (The Americanin New and World 12-6-1972). Hầu hết các chính khách, các nhà quân sự, các nhà kinh tế và giới kinh doanh Mỹ, khi tham gia hoặc tán thành việc can thiệp vào Việt Nam đều không ngờ rằng những ý đồ của họ được thực hiện chậm trễ và tốn kém đến thế. Nếu như lúc nào, có ai trong họ giác ngộ được điều đó và muốn rút lui, thì người kế tiếp cũng kế tiếp cả sự tính toán chủ quan mà người đi trước đã muốn chấm dứt. Một trong những khía cạnh chua chát nhất trong sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam là: Mỹ đã tính sai liên tiếp, mà những người tỉnh ngộ muốn đi tới con đường đúng đắn thì lại liên tiếp bị đào thảo.
    2.Vì lợi ích chiến lược của Mỹ trên trường quốc tế
    Quả là Mỹ muốn khai thác những món lợi ở Việt Nam. Nhưng đó không phải là động cơ lớn nhất chi phối những hd của Mỹ ở đây. Lúa gạo, cao su, các khoáng sản? có thể là những sự hấp dẫn ban đầu. Càng vào sâu bao nhiêu lại càng thấy việc khai thác khó khăn bấy nhiêu.
    Nhưng Mỹ không rút lui, cũng không dừng lại. Cái logic cay nghiệt đối với Mỹ là: vì tham vọng của Mỹ bị ngăn chặn, cho nên sức mạnh và uy tín của Mỹ bị đặt trước một sự thách thức.
    Như vậy, khi việc khai thác của cải càng gặp khó khăn, thì lại nẩy sinh một động cơ khác, một sự hấp dẫn khác-phải giữ lấy ?ouy tín? của Mỹ, không phải chỉ ở Việt Nam mà còn thông qua Việt Nam để giữ lấy ?ouy tín? của Mỹ trên thế giới. Động cơ này bản thân nó đã rất lớn. Trong quá trình xâm lược, trong quá trình thất bại liên tiếp, động cơ đó càng ngày lớn hơn lên và càng có sức lôi kéo mạnh mẽ đối với ý chí của Mỹ. Sức lôi kéo đó dần dần trở nên mạnh hơn sức lôi kéo của những vựa lúa, những rừng cao su, những bể dầu ở Nam bộ?
    Nếu chỉ vì những món lợi trực tiếp, thì những khó khăn và thất bại có thể làm chi giới chính khách Mỹ phải tính toán lai và dừng bước.
    Nhưng nếu là để cứu vãn uy tín của một cường quốc bá chủ thế giới, thì càng thất bại, cái động cơ đó càng mạnh hơn, càng lôi kéo Mỹ sa lây lâu hơn. Chỉ đến khi nào dùng hết sức mạnh có thể dùng đến, thi hành tất cả những thủ đoạn có thể thi hành, và không còn cách nào cứu vãnnổi thất bại nữa, thì Mỹ mới đành rút lui.
    Các chính khách Mỹ đã tự nói lên điều day dứt của họ trong nhiều thập kỷ:
    ?oThực tế, việc mất Đông Dương tạo ra nguy cơ gây nên mọt phản ứng dây chuyền có thể đưa tới sự sụp đổ của toàn thể khu vực? (phát biểu của Eisenhower tháng 2 năm 1950) (Trích theo P.Deilers J.Laconture. La fin d;une guèrre. Ed du Seuil.P.1960.103)
    ?oNước Mỹ bỏ ra 400 triệu đôla cho cuộc chiến tranh này không phải để vứt đi. Chúng ta đã chọn biện pháp rẻ nhất để ngăn chặn sự biến đổi có thể mang lại những hậu quả khủng khiếp cho nước Mỹ, cho sự an toàn của chúng ta?? (phát biểu của Eisenhower tháng 9 năm 1950) (Humannité 15-2-1950).
    ?oNếu chúng ta mất Đông Dương thì chúng ta sẽ mất cả châu Á và chỉ còn là vấn đề thời gian để đi tới mất phần còn lại của thế giới? (phát biểu tại Quốc hội Mỹ đầu 1954 của Symilton thượng nghị sĩ bang Cleveland) (The Pentagon?T Papers (Tài liệu mật của Lầu Năm Góc).Ek.Bantm, New York, 1971).
    ?oNếu người Pháp không thắng được trong cuộc chiến tranh này thì vị trí chiến lược toàn cầu của chúng tôi cũng như của các ngài có thể sẽ trở thành thảm họa? (Thư của Eisenhower gửi thủ tướng Anh Churchill ngày 4-4-1954, yêu cầu Anh nhúng tay vào Đông Dương).
    ?oMỹ phải giữ lấy miền Nam Việt Nam, y như đã giữ ở Nam Triều Tiên và Đài Loan. Ba vùng đó có một tầm quan trọng quyết định đến vị trí của Mỹ ở Đông Nam Á? (Phát biểu của J.Dulles trước Ủy ban đối ngoại thượng nghị viện Mỹ ngày 30-4-1956).
    ?oViệt Nam đang giới thiệu một sự thí nghiệm về trách nhiệm và quyết tâm của người Mỹ ở châu Á. Nếu như lúc này chúng ta chưa hẳn là cha đẻ của nước Việt Nam nhỏ bé này, thì sau này chắc chắn là chúng ta sẽ là bậc cha mẹ đỡ đầu của nước Việt Nam đó. Chúng ta đã chi phối sự khai sinh ra nó. Chúng ta đã trợ giúp cho cuộc sống của nó? Trong khi ảnh hưởng của Pháp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự suy sụp ở Việt Nam, thì ảnh hưởng của Mỹ phát triển một cách vững vàng. Đó là sản phẩm của chúng ta. Chúng ta không thể bỏ rơi nó.Nước Mỹ nhất định sẽ gánh lấy trách nhiệm. Uy danh của chúng ta nhất định sẽ nâng lên một bước mới? (Lời phát biểu tại Quốc hội Mỹ năm 1956 của John Kennedy, khi đó mới là thượng nghị sĩ, sau này là Tổng thống Mỹ) (Frank N.Trager. Why Vietnam, New York Praeger 1960,p.112).
    ?oKhông thể cắt giảm thật nhiều viện trợ được, trừ khi Mỹ muốn rút khỏi Đông Nam Á và để cho vùng này rơi vào tay cộng sản. Một hành động như vậy dứt khoát không phù hợp với quyền lợi của Mỹ? Chúng tôi cũng muốn giảm bớt gánh nặng lắm chứ. Nhưng trước mắt, không thấy có hy vọng nào như vậy cả? (trả lời của J.Kennedy, Tổng thống Mỹ đối với đề nghị của phái bộ Mansfield về việc cắt giảm viện trợ cho Nam Việt Nam sau khi phái bộ này đi khảo sát ở Nam Việt Nam về, hồi đầu 1963) (Tin tham khảo, ngày 7-3-1963).
    ?oPhải thi hành tất cả mọi biện pháp nhằm ngăn chặn không cho cộng sản thắng lợi? (Tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc.Namara. Tháng 3-1962) (Tin do hãng UPI đưa ngày 11-3-1963).
    ?oMất Việt Nam sẽ làm cho các nước còn lại ở Đông Nam Á đứng trước nguy cơ tiêu vong? Có nhiều lý do rộng lớn chỉ rõ tại sao việc bảo vệ Nam Việt Nam là điều sống còn đối với chúng ta và đối với cả thế giới tự do? (Phát biểu của Dean Ruck, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, tại câu lạc bộ kinh tế New York ngày 21 tháng 4 năm 1963) (AP, ngày 22-4-1963).
    ?oTôi không muốn chứng kiến cái phòng tuyến đó bị bẻ gãy, để cho tất cả Đông Nam Á bị phơi lưng ra? (trả lời của Thượng nghị sĩ Mỹ Dirksen trong cuộc tranh luận với Fulbrigt tại Quốc hội Mỹ 1967) (International Herald Tribune số 7 và 8-10-1967).
    ?oNếu Hạ nghị viện biểu quyết ngừng viện trợ cho Nam Việt Nam trong một năm thì gây ra một thảm họa đối với nền an ninh của bản thân nước Mỹ và sẽ đẻ ra nhiều vấn đề mới đối với toàn thế giới? (Điều trần của T.E.Morgan, Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ nghị viện Mỹ, tháng 7-1968) (Theo tin của hãng Reuter Washington, ngày 16-7-1968).
    ?oNam Việt Nam là một khâu then chốt trong cuộc chiến đấu giữa chủ nghĩa cộng sản và thế giới tự do. Kết quả của cuộc chiến đấu ở Việt Nam sẽ ảnh hưởng lớn đến diễn biến tình hình sau này ở châu Mỹ La tinh, châu Phi và cả châu Âu nữa? (Nixon) (The Pentagon?T Papers đã dẫn).
    ?oTrong ba mươi năm cuối cùng của thế kỷ 20, không phải châu Âu và châu Mỹ La tinh, mà chính là châu Á sẽ gây nên một nguy cơ lớn nhất của một sự đụng độ có thể leo thang dẫn đến chiến tranh thế giới thứ ba? (Nixon) (Chấu Á sau Việt Nam).
    Những đoạn trích dẫn trên giúp ta vừa hiểu rõ ý đồ của Mỹ ở Việt Nam, vừa giải thích sự dính líu chặt chẽ, lâu dài và tốn kém chưa từng thấy của Mỹ trong hơn 20 năm ở Việt Nam.
    Bây giờ, hãy đi vào xem xét những tư tưởng đó được thực hiện trong các giai đoạn lịch sử cụ thể như thế nào.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương II: Quá trình xâm nhập của Mỹ và các giai đoạn của viện trợ Mỹ
    1.Trước Đại chiến thế giới thứ hai
    Từ đầu thế kỷ XX, người dân Đông Dương bắt đầu biết đến Mỹ qua một số sản phẩm do các tầu buôn Mỹ đem tới bán, trong đó thứ được chú ý nhất là dầu hỏam dùng để thắp đèn. Để giúp dân có thể thắp đèn bằng dầu hỏa, Công ty Caltex Petroleum chế tạo một loại đèn mới, lúc đầu đem biếu không, về sau được bán rẻ kèm dầu hỏa. Cũng vì thế, người Việt Nam gọi chiếc đèn này là ?ođèn Hoa Kỳ?. Từ đó, mức tiêu thụ của dầu hỏa tăng lên cùng với sự phổ biến nhanh chóng của ?ođèn Hoa Kỳ?. Công ty Caltex Petroleum bắt đầu đặt những đại lý ở Đông Dương. Đó là những cơ sở đầu tiên của Mỹ ở đây.
    Ngoài dầu lửa, Mỹ còn bán cho Đông Dương bông, một số máy móc, và sau đại chiến thế giới thứ hai thì cả ô tô. Nhưng đối với thứ hàng kể trên, Pháp chỉ cho phép Đông Dương nhập khẩu với số lượng hạn chế, không cho Mỹ đặt đại lý.
    Trong số những thứ Mỹ mua của Đông Dương, trước hết phải kể đến cao su, thiếc.
    Nếu tính bằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Đông Dương thì phần buôn bán với Mỹ trong thời kỳ 1925-1929 là 2,6%, trong thời kỳ 1930-1034 là 2,3%, trong thời kỳ 1935-1939 là 6,6%.
    Nếu tính riêng xuất và nhập thì trong thời kỳ giữa hai đại chiến Mỹ chiếm 3,8% nhập cảng, 8,4% xuất cảng của Đông Dương.
    Nếu xét riêng một số mặt hàng xuất và nhập chủ yếu, ta có những con số sau đây: thời kỳ 1935-1939, Mỹ chiếm 27% bông, 19,1% sản phẩm dầu lửa, 17,5% máy móc, 13,4% ô tô và phụ tùng nhập vào Đông Dương. Cũng thời kỳ đó, Mỹ mua tới 92.000 tấn cao su Đông Dương, bằng 38% tổng số cao su xuất cảng của Đông Dương bán cho Mỹ.
    2.Trong Đại chiến thế giới thứ II
    Tháng 9-1940, Nhật đột nhập vào Lạng Sơn và sau đó xâm nhập toàn Đông Dương. Sau này, giới sử học Mỹ vẫn coi đó là sự kiện đầu tiên thôi thúc sự quan tâm của Mỹ đối với Đông Dương. Mùa xuân năm 1941 Cục Hải quân Mỹ gửi một báo cáo đặc biệt về Đông Dương lên Tổng thống Mỹ Roosevelt. Đây có lẽ là tài liệu đầu tiên của Mỹ phản ánh tương đối toàn diện tình hình các mặt về tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương đối với Mỹ. Từ đó, chính sách của Mỹ đối với khu vực này có nhiều thay đổi. Như một sử gia Mỹ nhận xét: ?oTừ cuối năm 1940, Mỹ bắt đầu nhận thấy ý nghĩa chiến lược quan trọng của Việt Nam. Và đến đầu năm 1941, trên thực tế, Mỹ đã xem Việt Nam có tầm quan trọng chiến lược lớn đến mức là một cuộc xung đột về quyền lợi với Nhật ở đó đã trở thành nguyên nhận chủ yếu của cuộc chiến tranh giữa hai nước? (Edward Drachman United States Policy Towards Viet Nam 1940-1945 Cambủy New Jersey, Associated University Press 1970.P.62)
    Ngày 7-12-1941, Nhật bất ngờ đánh Trân Châu Cảng, trực tiếp lôi cuốn Mỹ vào cuộc chiến. Lúc này, Mỹ thấy cần và có thể loại trừ được thực dân Pháp, nhưng chưa đủ lý do và điều kiện để trực tiếp nhúng tay vào khu vực này. Thời kỳ 1942 và 1945 là thời kỳ Mỹ tìm kiếm một thế lực thứ 3 ở Đông Dương, trong đó không có Pháp. Đã có lúc, Mỹ đề nghị sát nhập Việt Nam vào Trung Hoa, mà Tưởng Giới Thạch là đại diện. Nhưng chính Tưởng cũng phải khước từ đề nghị đó (11/1943) vì thấy quá vô lý với tình hình và khả năng thực tế. Dần dần, Mỹ tìm cách vận động thiết lập sự kiểm soát quốc tế đối với Đông Dương.
    Tháng 3-1943, Roosevelt chỉ thị cho Bộ Ngoại giao Mỹ dự thảo về kế hoạch chế độ ủng hộ quốc tế đối với Đông Dương và dựa trên nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương để phủ định sự thống trị độc quyền cũ của Pháp.
    Tháng 10-1943, tại Hội nghị các nước đồng minh họp tại Maskva, Mỹ đưa ra ?oKế hoạch ủy trị quốc tế đối với các nước thuộc địa chưa sẵn sàng giành độc lập?, trong đó có Đông Dương. Kế hoạch này lại được Mỹ đưa ra một lần nữa tại Hội nghị Teheran (20-11 đến 1-12-1943). Roosevelt đã biện bạch cho kế hoạch đó rằng ?oĐồng minh đổ máy không phải nhằm khôi phục ách thống trị của Pháp ở Đông Dương?. Chủ trương này dù sao cũng tiến bộ hơn việc duy trì chế độ thuộc địa kiểu cũ. Trong những điều kiện lúc đó, Liên Xô đã tán thành đề nghị này. Anh và Pháp thì phản đối quyết liệt.
    Nhưng đến mùa hè năm 1944 thì chính Mỹ lại thay đổi kiến và muốn tự phủ định đề nghị của mình. Tại Hội nghị Đồng minh ở Dumbarton Oaks (tháng 8-1944), Mỹ không còn nhắc đến kế hoạch ủy trị quốc tế đối với Đông Dương nữa. Tình thế lúc này đã đổi khác. Có hai nhân tố trực tiếp để buộc Mỹ phải tính toán lại:
    -Chiến tranh sắp kết thúc. Việc đánh bại Nhật Bản không còn xa. Nước Nhật đang nhích vào tầm tay của Mỹ. Chế độ ủy trị quốc tế, là cái có lợi cho Mỹ xâm nhập Đông Dương, thì lúc này lại tạo ra khó khăn và bất lợi cho Mỹ độc chiếm Nhật Bản.
    -Trước những thắng lới của Liên Xô và phong trào giải phóng ở các nước châu Âu, Mỹ thấy cần phải củng cố lại khối liên minh với Anh và Pháp. Việc làm Pháp suy yếu và gây bất hòa với Pháp là việc không có lợi. Nhất là từ tháng 7-1944, khi De Gaulle đã công bố kế hoạch về quyền tự trị của Đông Dương trong Liên hợp Pháp, thì việc Mỹ can thiệp vào Đông Dương không còn thuận lợi như trước nữa.
    Tháng 2-1945, Roosevelt công nhận lực lượng chống Nhật của Pháp ở Đông Dương trong hàng ngũ Đồng minh và quyết định ủng hộ lực lượng đó. Cuối tháng 3-1945, những máy bay của Tướng Mỹ Chemeult được lệnh chở vũ khí tiếp tế cho những nhóm kháng chiến của Pháp ở Đông Dương.
    Tháng 5-1945, Đức đầu hàng. Tháng 8-1945 đến lượt Nhật đầu hàng. Vấn đề ám ảnh Mỹ từ những năm 1942, 1943, nay lại đặt ra như một thực tế cấp bách: Làm sao ngăn cản Pháp lập lại quyền thống trị ở đây, để Mỹ có một chân ở đó?
    Giữa lúc đó thì cách mạng tháng Tám bùng nổ.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    3.Thời kỳ 1945-1954
    Cách mạng tháng 8-1945 thành công. Bằng nhiều thủ đoạn ngoại giao, Truman đã đưa được quân đội Tưởng Giới Thạchvào Bắc Việt Nam và quân Anh vào Nam Việt Nam, dưới danh nghĩa ?oGiám sát sự đầu hàng của Nhật?. Thực ra, đây là một ngón đòn rất xảo quyệt của Truman: vừa quét sạch quân Nhật, vừa không để cho Pháp trở về, vừa muốn dùng quân Anh và quân Tưởng kiềm chế những lực lượng cách mạng trong nước, vừa thông qua hai ?ođồng minh? này mở đường cho Mỹ xâm nhập Đông Dương.
    Hiệp ước 6-3-1946 đã giúp ta đẩy quân Tưởng ra khỏi miền Bắc một cách êm thấm. Pháp trở lại Việt Nam. Đối với Mỹ lúc này, vấn đề là không phải lựa chọn giữa Tưởng Giới Thạch và Pháp nữa, mà là giữa Pháp và chính quyền cách mạng Việt Nam. Đầu năm 1952, Truman triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ. Trong quyết nghị của Hội đồng có nói rõ: ?oBảo vệ thành công Bắc kỳ là điều quan trọng nhất để gữ cho Đông Nam Á không nằm trong tay các lực lượng cộng sản?.
    Mỹ đã giúp Pháp, đứng đằng sau Pháp để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
    Ngày 8-5-1950, Truman chính thức quyết định viện trợ cho Pháp trong chiến tranh Đông Dương. Theo các ?oTài liệu mật của Lầu Năm Góc?, đó là ?obước đầu tiên làm cho nước Mỹ trực tiếp dính líu vào tấn bi kịch đang phát triển ở Nam Việt Nam (The Pentagon?T Papers, đã dẫn, P.130).
    Tháng 12-1950, ký với Pháp Hiệp định viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương.
    Tháng 9-1950, Mỹ
    Từ sau những hiệp định đó, người Việt Nam nghe nói nhiều đến ?oViện trợ Mỹ?, và ngày càng đụng chạm bằng xương bằng thịt với viện trợ Mỹ.
    Ở các đô thị do Pháp chiếm đóng, người ta thấy ngày càng nhiều sữa bột Guigoz, bột Ovemanltine, rượu Whisky, thuốc lá Philip, bút máy Parker v.v? Những thứ đó từ các đô thị bắt đầu lan ra các thị trấn nhro và các chợ thôn quê.
    Đồng thời, trên bầu trời, xuất hiện những máy bay oanh tạc B24, B26, B29, Spitfire, King-Cobra?
    Cũng từ năm 1951, bom napalm bắt đầu được ném xuống Việt Nam. Chợ bắt đầu phải họp ban đêm. Rồi đến các trường học ban đêm?
    Trên các ngả đường hành quân của của quân đội Pháp, người ta thấy những xe GMC, chở lính Pháp, mang súng Mỹ.
    Đó là những vật gửi tới đầu tiên của viện trợ Mỹ.
    Qua mỗi năm, viện trợ Mỹ một tăng lên nhanh chóng. Dần dần, nó trở thành nguồn cung cấp chủ yếu cho chiến tranh của Pháp. Theo tính toán của Pháp, viện trợ Mỹ đã chiếm gần 80% chiến phí của Pháp, tổng cộng khoảng 1.700 triệu đôla. Tất nhiên, trong tổng số 1.700 triệu đôla viện trợ Mỹ đó, tuyệt đại bộ phận là vũ khí và dụng cụ chiến tranh. (Nếu kể từng loại cụ thể, theo ?oTài liệu mật của Lầu Năm Góc? thì tính đến ngày 21-1-1954, Mỹ đã viện trợ cho Pháp 1.400 xe tăng và xe bọc thép, 619 máy bay, 390 tàu đổ bộ, 16.000 ôtô, 175.000 súng trường và súng máy, 2.555 triệu viên đạn, trong đó có 15 triệu viên đại bác. Nếu tính theo đầu người dân Việt Nam lúc đó thì cứ 2 người chịu 1 quả đại bác, mỗi người chịu một viên đạn).
    Đối với người Việt Nam lúc đó không có vấn đề lựa chọn giữa sữa bột Guigoz hay bom napalm, bút Parker hay đạn rocket. Giữa cuộc kháng chiến chống Pháp đã xuất hiện một khẩu hiệu mới: ?oĐả đảo can thiệp Mỹ?. Khẩu hiệu đó xuất hiện trên mỗi mảnh tường, trên mỗi cổng làng, trên mỗi vách đá, và ở khắp mọi nơi trong nước Việt Nam kháng chiến.
    Về phía Mỹ, vấn đề cũng không chỉ đơn giản là giúp Pháp ?ongăn chặn họa cộng sản? ở Đông Dương. Nước cờ mà Mỹ tính phức tạp hơn: giúp Pháp nhưng thắng lợi rơi vào tay Mỹ. Như chính Eisenhower đã nói: Mỹ bỏ đôla vào cuộc chiến tranh này không để tiêu phí. Trong thực tế, khi Mỹ đã trả đến 80% chi phí của cuộc chiến tranh, thì đó không còn là cuộc chiến tranh của Pháp nữa, mà đã là cuộc chiến tranh của Mỹ rồi. Lính Pháp và lính ngụy đánh trận. Nhưng vũ khí của Mỹ, trang bị của Mỹ, lương của Mỹ. Từng bước, Mỹ đã biến cuộc chiến tranh của Pháp thành cuộc chiến tranh của Mỹ, biến người bạn ?ođồng minh? thành kẻ đánh thuê, xâm lược thuê cho Mỹ.
    Cùng với viện trợ, Mỹ thi hành hàng loạt biện pháp nhằm lấn át quyền thống thống trị của Pháp, ràng buộc quyền bản địa và chuẩn bị trực tiếp nắm lấy nó.
    Với lý do ?ođộc lập?, ?obình đẳng?, ?ogiải phóng?, ?ochống chủ nghĩa thực dân?? Mỹ đã gây áp lực với Pháp, buộc Pháp phải cho lập ra một chính quyền bản xứ. Với Hiệp ước Bảo Đại-Auriel ngày 8-3-1949, Chính quyền bản xứ ra đời. Tuy đây vẫn chỉ gồm những tay sai cũ, song về hình thức dù sao đó cũng là những ?ochính khách?, những ?ođại biểu? của một ?oquốc gia?, có bộ máy chính quyền, có chính phủ, có quốc trưởng, có thủ tướng, có các bộ, có quân đội?
    Tháng 5-1950, Chính phủ Pháp bãi bỏ Bộ ?oHải ngoại Pháp quốc? và thay bằng Bộ ?oCác quốc gia liên hiệp?. Các nước Đông Dương nằm trong Liên hiệp Pháp, nhưng được coi là ?ođộc lập?. Trên cơ sở quyền ?ođộc lập? đó, Mỹ có thể kết kết các Hiệp ước thẳng với các quốc gia này.
    Tháng 12-1950, theo sự sắp đặt của Mỹ, Năm chính phủ gồm Mỹ, Pháp, bùn nhìn Việt, Miên, Lào đã ký ?oHiệp định phòng thủ chung Đông Dương?, trong khi khắp Đông Dương không hề có một kẻ ngoại xâm nào ngoài bản thân những kẻ tổ chức ra việc phòng thủ đó.
    Về viện trợ Mỹ, khoản 1, điều III của ?oHiệp nghị phòng thủ chung? quy định: ?oMỗi chính phủ được cấp viện trợ có nhiệm vụ chỉ sử dụng số viện trợ đó vào mục đích phòng thủ Đông Dương?.
    Khoản 2, điều I của Hiệp nghị quy định: Mọi chính phủ nhận trang bị, vật liệu và dụng cụ của Mỹ trên cơ sở Hiệp nghị này, tùy khả năng của mình, phải góp phần sản xuất, vận chuyển và cung cấp cho Chính phủ Mỹ những hàng hóa đặt mua, nguyên liệu, nửa chế phẩm mà Mỹ không có hay chưa khai thác được, phải cung cấp cho Chính phủ Mỹ tiền địa phương để chi phí vào những việc có liên quan đến việc thực hiện hiệp nghị này ở Đông Dương?.
    Đến tháng 9-1951, Mỹ ký thẳng một hiệp ước tay đôi với chính phủ Bảo Đại, gọi là ?oHiệp ước hợp tác kinh tế Việt Mỹ?, nhằm chuyển thẳng một phần viện trợ Mỹ qua tay chính phủ đó và trực tiếp ràng buộc nó vào Mỹ.
    Ngoài một số điểm giống như trong ?oHiệp nghị phòng thủ chung Đông Dương, Mỹ đã tiến xa hơn nữa trong một số điều khoản của Hiệp ước tay đôi này. Chẳng hạn:
    Điều III quy định: ?oChính phủ Việt Nam phải cung cấp cho Chính phủ Mỹ các tài liệu chi tiết cần thiết để đảm bảo việc thi hành các quy định của hiệp ước?, ?oba tháng báo cáo một lần về việc sử dụng các số tiền, sản phẩm, dịch vụ nhận được??
    Điều IV quy định: ?oMỹ đưa vào Việt Nam một ?oPhái đoàn kinh tế và kỹ thuật đặc biệt? để đảm bảo chấp hành những trách nhiệm của Chính phủ Mỹ. Chính phủ Việt Nam để cho phái đoàn và các nhân viên của nó được hưởng những quyền ưu đãi bất khả xâm phạm? hưởng mọi dễ dàng cần thiết để quan sát và kiểm tra việc thực hiện hiệp ước, nhất là việc sử dụng viện trợ đúng theo tinh thần của văn bản hiệp ước?.
    Các điều khoản kể trên là cơ sở để suốt 25 năm sau đó các phái đoàn viện trợ Mỹ trở thành một thứ ?oChính phủ? của Mỹ ở Việt Nam và nhúng tay vào mọi ngóc ngách của đời sống kinh tế Nam Việt Nam.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đến tháng 12-1951, đề gò tất cả các hiệp ước đã ký vào khuôn khổ của ?oLuật an ninh chung? do Quốc hội Mỹ thông qua, Mỹ lại ký với Chính phủ Bảo Đại một bản hiệp nghị nữa, gọi là ?oHiệp nghị an ninh chung?. Trong Hiệp nghị này, các điều khoản của các hiệp định trước được nhắc lại, khẳng định thêm đồng thời có nhấn mạnh tinh thần trong Luật an ninh chung của Mỹ:
    1.Nếu viện trợ-kinh tế không đảm bảo tăng cường nền an ninh của nước Mỹ thì không được phép cấp.
    2.Mọi nước nhận viện trợ, nếu không chấp hành các điều quy định trong các hiệp nghị, thì sẽ bị cắt viện trợ.
    Từ năm 1950 đến 1954, Mỹ đã viện trợ cho Chính phủ Bảo Đại 23 triệu đôla bằng hàng hóa và khoảng 36 triệu đôla bằng tiền Việt Nam (Mỹ có số tiền này do bán hàng, dịch vụ cho chính quyền Bảo Đại đã cung cấp cho Mỹ một số ngân khoản để chi tiêu như điều III Hiệp định phòng thủ chung). Ngoài ra, Mỹ cũng viện trợ thẳng cho Bảo Đại khoảng 15 triệu đôla vũ khí. Tuy nhiên, tổng số các loại viện trợ này, khoảng 75 triệu đôla, vẫn còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với viện trợ cho Pháp.
    Trước khi các hiệp nghị được ký kết, các phái đoàn viện trợ Mỹ đã vào Đông Dương, đã hoạt động, tìm hiểu, lấy tin tức và kiểm tra tình hình. Tháng 5-1950 Robert Blum dẫn đầu phái đoàn viện trợ Mỹ đến Sài Gòn. Đến tháng 9-1950, phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ MAAG được thành lập ở Nam Việt Nam. Từ 1951, các Phòng thông tin Mỹ được đặt ở nhiều trung tâm vùng tạm chiếm. Lãnh sự quán Mỹ ngày càng mở rộng nhà cửa và phạm vi hoạt động. Nhiều công ty tư bản Mỹ đã đặt cơ sở giao dịch ở Hà Nội và sh. Các nhân viên của Công ty phốt phát Florida (Florida Phosphat Company) đã đến lấy tài liệu về các mỏ quặng ở Lào Cai. Các chi nhánh ngân hàng Mỹ ở Hồng Công đã mở những cuộc giao dịch và bàn kế hoạch tài trợ việc xuất cảng cao su, thiếc và hải sản của Việt Nam.
    Năm 1951, Phó Tổng thống Mỹ Nixon đến Hà Nội, Sài Gòn, và trực tiếp đi thăm quan các trận càn quét của quân đội Pháp. Các chính khách Mỹ, tướng tá Mỹ đi về Đông Dương ngày càng tấp nập. Cố vấn Mỹ ngày càng đông.
    Trong tổ chức bộ máy chính quyền và quân đội bản địa, Mỹ đã dần dần thay thế số thân Pháp bằng số thân Mỹ. Ngay từ 1947, đại sứ Mỹ ở Pháp đã được lệnh tìm kiếm những nhân vật Việt Nam để chuẩn bị lập Chính phủ thân Mỹ sau này. Năm 1949, Nguyễn Phan Long (thân Mỹ) lên làm Thủ tướng. Những ai thân Pháp cực đoan, không biết thay đổi thái độ theo thời thế, bị gạt bỏ dần. Các trường và các trung tâm huấn luyện của Mỹ bắt đầu đưa người từ Việt Nam sang học để chuẩn bị xây dựng bộ máy mới. Trong đó có Ngô Đình Diệm.
    Về quân sự, đầu năm 1952, Tổng thống Truman triệu tập Hội nghị an ninh quốc gia, chỉ thị cho Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng phải tích cực củng cố các lực lượng quân sự độc lập của các quốc gia Đông Dương, làm cho nó đứng vững mà không cần có Pháp nữa.
    Tháng 4-1954, Pháp hấp hối ở Điện Biên Phủ. Nixon lúc đó là Phó Tổng thống Mỹ, nói: ?oChính phủ Mỹ phải nhìn nhận một cách tỉnh táo những diễn biến trước mắt và hãy gửi lực lượng sang? (The Pentagon?T Papers đã dẫn).
    Pháp dần dần thấy rõ viện trợ Mỹ thấm đến đâu thì bàn tay Mỹ cũng nhúng tới đó, quyền lợi của Pháp cũng bị cắt xén tới đó. Nhưng tình thế đã buộc Pháp phải chấp nhận điều này. Chiến tranh kéo dài và ngày càng tổn thất lớn. Nền tài chính Pháp kiệt quệ. Không dựa vào Mỹ thì không thể tiếp tục chiến tranh được. Nhưng dựa vào Mỹ thì tất phải lệ thuộc Mỹ, và bị Mỹ chiếm lấy các quyền lợi. Tình cảnh của Pháp lúc này thật khốn quẫn. Trước mặt, đối phương càng đánh càng mạnh, càng dìm Pháp sa lầy sâu hơn trong những thất bại ngày càng lớn.
    Sau lưng, người ?ođồng minh? giầu có giúp đõ càng nhiều thì món nợ càng lớn hơn và cái gia tài Đông Dương ngày càng phải gán dần cho Mỹ. Cho đến cuối cuộc chiến tranh, các nhà chiến lược Pháp đã cảm thấy rằng dù chiến tranh kết thúc như thế nào thì Đông Dương cũng không còn nằm trong tay Pháp nữa. Đó là kết quả thực sự của viện trợ Mỹ đối với Pháp.
    Để kết luận về viện trợ Mỹ trong thời kỳ này, có thể trích tiếng nói của người ?otrong cuộc?.
    Ta còn nhớ Tướng Henri Navarre, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương thời kỳ 1953-1954, thời kỳ cuối cùng ác liệt nhất của chiến tranh, cũng là thời kỳ cao điểm của viện trợ Mỹ. Sau khi thất trận, ngồi bình tĩnh và ngẫm lại quá khứ, trong cuốn ?oĐông Dương hấp hối?, Navarre đã viết:
    Điều nguy khốn nghiêm trọng nhất của viện trợ Mỹ là, về mặt chính trị, nó làm cho Mỹ nhúng tay ngày càng sâu vào các công việc của chúng ta. Nó làm cho ảnh hưởng của Mỹ thay thế dần ảnh hưởng của Pháp đối với các quốc gia liên kết.
    Do nhận viện trợ Mỹ, chúng ta đã lâm vào trạng huống đầy mâu thuẫn? Đó là tấn bi kịch lớn trong đường lối chính sách của chúng ta.
    Bây giờ đến lượt đế quốc Anh và đế quốc của chúng ta bị dòm ngó đến. Nhưng phương pháp thì đã thay đổi. Người ta giúp đỡ các dân tộc thuộc địa. Người ta đặt trên đất nước họ các căn cứ chiến lược. Người ta gửi đến vô số phái đoàn quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, tôn giáo và những ngân khoản lớn.
    Người ta chỉ ra cho thấy, ít nhất là đối với lớp người cầm đầu, rằng trong sự ?oliên minh tự nguyện? với Mỹ thì cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn biết bao so với sự ?ođô hộ? của chúng ta. Trong mọi trường hợp, người ta tỏ thái độ phản đối chúng ta và bày tỏ cảm tình của dân chúng Mỹ đối với những nguyện vọng của ?odân thuộc địa?.
    Nếu cần người ta gọi Liên Hiệp Quốc can thiệp. Dần dần, họ đẩy chúng ta ra ngoài. Nhờ sức mạnh của đồng đôla, họ đã chiếm lấy vị trí của chúng ta, nhưng dưới một hình thức dường như không thấy được. Không có toàn quyền, công sứ, cao ủy Mỹ, nhưng có một đại sứ Mỹ, và không có một điều gì có thể làm được nếu không được ông ta cho phép. Các dân tộc tưởng mình được tự do, mà không thấy rằng mình đã bị tiền bạc chi phối một cách khắc nghiệt, mình chỉ là những con rối của Mỹ?.
    Cũng như nhiều chính khách Pháp, Navarre cho rằng đến những năm 1953, 1954, khi viện trợ Mỹ đã chiếm đến 80% chiến phí, thì ?oChúng ta đã gần như chắc chắn mất Đông Dương, dù rằng viện trợ có giúp chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến tranh? (H.Navarre L?T Agonie L?T Indochine Ed Plon Paris 1957 P.529).
  7. nguyensaigon29

    nguyensaigon29 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    21/12/2004
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Về hình ảnh , quan hệ Việt - Mỹ xưa và nay :

  8. tmkien

    tmkien Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    494
    Đã được thích:
    0
    Đúng phong cách bác nguyen, ít lời và nhiều hình ảnh
  9. nguyensaigon29

    nguyensaigon29 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    21/12/2004
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Ông Khải đã nhắc lại nhiều rồi '' Khép lại quá khứ , hướng tới tương lai , hãy mở ra một trang sử mới ... '' . Đồng chí cũng nên dành thời giờ nhiều nói về bước đi mới giữa hai nước và bước đi mới nầy có lợi có hại như thế nào vậy cần thiếc hơn . Nếu tôi nói chỉ có USA mới là một '' Đôi đũa thần '' để vớt nền Kinh tế VN phát triển tốt , phát ngôn vậy đồng chí có théc méc phản bác gì không ? Còn nữa ,tụi Mỹ lúc nào nó không lại thực tế , còn chuyện ông Khải qua Mỹ bàn việc giao dịch kinh tế vậy có phải là đi ''Buôn '' không ?
  10. thaonguyenvd

    thaonguyenvd Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2003
    Bài viết:
    519
    Đã được thích:
    0
    Tớ khóai cụ Thủ Tướng quá mức. Muốn hòa giải thì phải biết chìa tay ra chứ. Chả lại mình sai phải sửa - 30 năm trước định vị lầm lẫn, nay tái định vị Việt Nam trong một chiến lược tòan cầu là khôn vậy (ôm chân mấy chú tàu, chỉ có chết tới bị thương, khó có đường lành lặn).
    Tuy nhiên, tớ có hai điều phật ý.
    Một là, cụ đi để mang hình ảnh Việt Nam đến với người Mỹ - đó phải là một hình ảnh quật cường như ông cha đã làm. Vậy mà cụ lại buôn một câu tỏ ý mong mỏi đồng chí Bill gate đến Việt Nam để làm từ thiện .
    Hai là, khi các ký giả hỏi "tại sao Việt Nam chỉ có một đảng chính trị duy nhất?". Cụ bảo nhân dân Việt Nam cho rằng chỉ một là đủ, vậy cụ có làm cái "sờ váy" nào mà khẳng định như đinh đóng cột vậy!!!
    Dù sao, đây cũng là một chuyến đi lịch sử. Chuyến đi chính thức "đào hố chôn CNCS" trên đất nước Việt Nam thân yêu, mở ra vận hội mà dân tộc đã lỡ đò nhiều chuyến : Một nước Việt Nam Độc Lập - Tự Do, giàu mạnh.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này