1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quan hệ Việt Nam - Mỹ bước vào thời kỳ mới?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi novemberrain0274, 28/05/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguyensaigon29

    nguyensaigon29 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    21/12/2004
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Nếu tớ nhớ không nhầm người tổng thống (Thủ tướng ) '' Phục vụ nhân dân '' lâu nhất thế giới và cũng được ghi vào sách kỷ lục đó là Phạm Văn đồng chứ không phải là Nguyễn văn thiệu . Già 80 tuổi mà rinh mấy chục va ly sao nổi , có mấy thằng '' tốt bụng '' phỏng Z''...rinh dùm rồi và may nhờ VC Bùi tín thanh minh thanh nga rồi vạch mặt dùm luôn mấy thằng vừa ăn cướp vừa la làng .
    Còn phi công sáng giá nhất hiện nay là Nguyễn thành Trung , Ông nầy nói chung là có văn hoá vì trước kia cũng là sĩ quan không quân của VNCH . Ông Trung lái A37 nếu so với ông Kỳ thì còn thua xa về nhiều thứ ...., để tớ coi thử hen , .uh.....ông nầy thì cở Lý Tống giống nhau cùng lái A37 ..... Còn Nguyễn xuân Hiển thì lái Mig và được đào tạo ở trường phái khác nên hơi thiếu văn hoá không thể so sánh được .
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    To nguyensg: làm gì mà bác phản ứng em ghê thế! Em chỉ nhắc lại quá khứ thôi chứ em có bảo không khép lại quá khứ đâu! Cả thằng Tây Độc cũng vậy mà. Họ cũng chỉ khép lại quá khứ chứ họ không quên quá khứ đâu. Em sợ chính chúng ta mới là những kẻ quên nhanh quá khứ thì có. Chơi với Mỹ hay chơi với bất cứ thằng to nào cũng vậy thôi, họ cũng đều thực dụng cả. Mặc dù sự thực dụng đó thì mỗi ông lại một kiểu khác nhau, tuỳ theo sức mạnh kinh tế, quân sự, truyền thống văn hoá-lịch sử...
    Em cũng công nhận với bác là bi giờ mà không nhờ Mỹ thì mình còn mệt lắm nhưng Mỹ không phải là tất cả!
    Còn chuyện Mr PM nhà ta có "Buôn" hay không thì em xin miễn bình luận đi!
    To tmkien: em cũng biết tác giả viết sách lúc đó thì giọng văn không được khách quan lắm (viết năm 1991) nhưng em chẳng cần nói gì, cử gửi lên đây cho các bác thôi!
    4.Thời kỳ 1954-1960
    Sau Hiệp nghị Geneve, Mỹ đã thiết lập trên một nửa lãnh thổ Việt Nam một chính quyền thân Mỹ. Năm 1955, Diệm lên làm Thủ tướng. Năm 1956, Bảo Đại bị phế truất. Diệm lên làm Tổng thống. Họ hàng Diệm và những tay chân của Diệm đã nắm các vị trí then chốt của chính quyền.
    Để cho đám người này gắn bó chặt chẽ với Mỹ, dựa vào nguồn gốc xuất thân địa chủ và tư sản chưa đủ, có hận thù với cách mạng chưa đủ, dùng áp lực của cảnh sát và mật vụ chưa đủ, mà còn phải cấp bổng lộc. Ngoài tiền lương và những thu nhập chính thức khác, thì hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, ăn cắp, ăn cướp, là những cái gắn liền với viện trợ Mỹ và với những hoạt động của Mỹ, đã bắt đầu trở thành nguồn làm giàu quyết định. Những thủ đoạn làm giầu có tính chất lưu manh đó đã phát triển mạnh hơn trước rất nhiều và dần dần đã nhuốm một mầu sắc giai cấp đặc biệt trên bộ máy chính quyền và quân đội bản xứ.
    So với những chính quyền thân Mỹ ở nhiều nước thuộc địa kiểu mới khác, bộ máy chính quyền miền Nam có một đặc điểm: Từ cách mạng tháng Tám 1945, những lực lượng tiến bộ, những tầng lớp yêu nước, những lương tri và giá trị của dân tộc đều đã quy tụ về cách mạng. Những tay sai mới của Mỹ đều đã có một quá trình làm tay sai cho Pháp, hoặc cho Nhật, hoặc Quốc dân Đảng, hoặc cho cả hai ba thế lực đó. Trước quốc dân, đám người này không còn chút tư cách đại diện, cũng không có uy tín.
    Ở đây, cần tính đến một đặc điểm lịch sử. Mỹ xâm nhập vào miền Nam sau khi cách mạng tháng Tám đã thắng lợi trên toàn quốc. Qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, các lực lượng xã hội đã phân hóa triệt để. Ở Việt Nam, không còn lực lượng đáng kể nào nằm ngoài hai xu hướng chính trị là cách mạng và phản cách mạng. Để có một chỗ dựa, Mỹ không còn cách nào khác là phải tìm lại trong đám tay sai cũ của Pháp. Để ?omua? lại dám người này, chỉ có một cách là dùng bổng lộc nhiều hơn. Chính vì vậy mà dưới trướng của Diệm, vẫn gồm có gần đủ ngần ấy bộ mặt thời Pháp, nhưng bổng lộc cao hơn trước rất nhiều. Có vô số những cai, đội và lính trơn thời Pháp đã được thăng vọt lên cấp úy và cấp tá. Cũng không ít sỹ quan cấp úy thời Pháp được thăng cấp tướng?
    Cũng vì lẽ đó, để dựng lên một bộ máy chính quyền thì việc quan trọng nhất là viện trợ. Tổng số viện trợ các loại của Mỹ cho Diệm từ 1955 đến 1960 vào khoảng gần 2 tỷ đôla. Tính trung bình, mỗi năm trên dưới ba trăm triệu đôla. Với ba trăm triệu đôla hàng năm mà dựng được cả một bộ máy chính quyền bản xứ, nuôi dưỡng và sử dụng được hàng chục vạn quân đánh thuê bản xứ, đó là một giá rẻ. Nếu thuê Pháp làm việc đó (điều này Mỹ đã làm) thì đắt hơn. Mỹ trực tiếp làm lấy (điều này đến các năm sau sẽ thấy) thì càng đắt hơn rất nhiều.
    Hơn nữa, viện trợ trong giai đoạn này lại có xu hướng giảm dần. Từ các năm 1959, 1960, viện trợ chỉ còn khoảng hơn trăm triệu đôla. Ta biết, thời kỳ 1957-1960 là thời kỳ tương đối ổn định của Mỹ-ngụy. Trong những năm 1958, 1959, không những Mỹ giảm viện trợ, mà còn có kế hoạch chuẩn bị khai thác và kinh doanh (Tháng 5-1957, Diệm tuyên bố tại Mỹ: ?oMiền Nam sẽ mở rộng cho việc đầu tư và thương mại quốc tế, giành đặc lợi cho ngoại quốc đầu tư và không xem việc đầu tư của Mỹ như một mối đe dọa cho độc lập quốc gia?. Sau đó Rookefeller đến thăm Sài Gòn. Phái đoàn Goodrich đến miền Nam nghiên cứu kế hoạch sông Mê Kông. Các phái bộ của ?oQuỹ tiền tệ quốc tế?, ?oViện khảo cứu và kiểm soát hối đoái? của Mỹ cũng liên tiếp đến Sài Gòn). Mỹ hy vọng giai đoạn bình định sẽ sớm kết thúc, có thể chuyển dần sang khai thác. Chính những diễn biến đó cho phép ta thể nghiệm những tính quy luật sau đây: Nếu cuộc kháng chiến mà suy yếu đi, thì viện trợ sẽ diễn biến như thế nào.
    Kèm theo viện trợ, một biện pháp quan trọng nữa để khống chế đời sống xã hội miền Nam là: đưa người Mỹ vào.
    Ngay từ năm 1955, khi Diệm mới lên cầm quyền, Nixon, lúc đó là phó Tổng thống đã chỉ thị cho trường Đại học chính trị Michigan cử một đoàn cố vấn tối cao, gồm 54 người, sang giúp Diệm xây dựng về mọi mặt: lập hiến pháp, xây dựng quân đội, hệ thống tình báo, cảnh sát, nhà tù, bộ máy ngoại giao, tổ chức các cấp hành chính, chế độ kinh tế, tài chính và tiền tệ, tổ chức ngoại thương, cải cách điền địa? Mỗi cố vấn đảm nhiệm một công tác kể trên như một bộ trưởng của Chính phủ Diệm. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, nước Mỹ cử một phái đoàn cố vấn cao cấp đông và toàn diện như thế ra nước ngoài, gần như xuất cảng cả một chính phủ sang lắp ráp ở một nước khác.
    Nhưng khác với chế độ thực dân Pháp, Mỹ không có một cơ quan nào trực tiếp cai trị ở đây. Không có toàn quyền. Không có công sứ và khâm sứ. Nam Việt Nam vẫn có danh nghĩa một quốc gia có chủ quyền. Mỹ chỉ đặt đại sứ, các phái bộ ngoại giao, kinh tế, văn hóa xã hội, quân sự. Các nhân viên Mỹ thuộc các cơ quan này làm việc bên cạnh người Việt Nam với tư cách cố vấn.
    Trong thời kỳ 1955-1960, số lượng các cố vấn chưa nhiều. Ngoài số cố vấn cao cấp như đã nói, có một số cố vấn cho các ngành, tổng cộng khoảng trên một ngàn người. Thời kỳ này Mỹ chưa có khả năng nắm đến tận làng xã, cũng chưa có cố vấn tới các đơn vị quân đội ở cơ sở.
    Nhìn lại, trong 5 năm đầu xâm nhập, Mỹ đã đạt được những gì?
    Việc chủ yếu nhất là: Mỹ đã dựng được lên một bộ máy chính quyền. Hơn ba trăm triệu đôla hàng năm đủ nuôi cả bộ máy đó. Với sự kèm cặp trực tiếp của đại sứ Mỹ và các cố vấn Mỹ, bộ máy đó đã hoạt động theo yêu cầu của Mỹ.
    Trong mấy năm đầu cầm quyền, Diệm đã thanh toán xong những lực lượng đối lập thân Pháp. Chính quyền đã nằm trong tay Diệm. Quân đội đã nằm trong tay Diệm. Về sự gắn bó với Mỹ, thì Diệm đã được các Tổng thống Mỹ gọi là, có ?ođức tính của C.Washington?, có ?osự dũng cảm của Wilson?, có ?otính sâu sắc của Roosevelt?, còn về quyết tâm chống cộng thì Diệm được coi là một ?oChurchill của châu Á? (Lời của L.Johnson trong diễn văn đọc tại Sài Gòn tháng 5-1961).
    Về chính trị và tư tưởng, với đôla Mỹ, Diệm cũng có những sách báo và những người viết sách báo, có nhà in, có đài phát thanh, phim, ảnh, ca nhạc, các trường học, các sách giáo khoa? Bằng những thứ đó, Diệm cũng đã dựng lên những thuyết, những tư tưởng, những giáo lý, những quốc sách, những khẩu hiệu, như ?othuyết duy linh, tư tưởng ?oquốc gia?, ?ocần lao?, ?onhân vị?, ?obài phong phản thực?, ?obào tồn dân tộc??
    Về mặt kinh tế, Diệm chưa xây dựng được gì, vì hàng viện trợ phần lớn là hàng tiêu dùng trực tiếp. Nhưng số hàng viện trợ này, khi đem bán ra thị trường để lấy tiền cho ngân sách, cũng thấm một phần ra dân chúng, nhất là dân đô thị. Việc đó cũng tạo ra cho xã hội một bộ mặt phồn vinh.
    Nhưng ở nông thông thì tình hình kinh tế vẫn không có sự cải thiện nào đáng kể. Hàng viện trợ Mỹ chưa thấm tới nông thôn là bao. Người nông dân cũng chưa tìm thấy ở người Mỹ và chính quyền Diệm một nguồn tiêu thụ nông phẩm mạnh mẽ tới mức có thể cải thiên kinh tế của họ. Vấn đề căn bản nhất là vấn đề ruộng đất vẫn chưa giải quyết. Kế hoạch ?oCải cách điền địa? do cố vấn Mỹ Lade Jinsky hoạch định hầu như không thực hiện được gì. Việc cải thiện đời sống của nông dân bị coi rất nhẹ. Đây có lẽ là một trong những điểm bất đồng đáng kể nhất giữa Diệm và Mỹ. Đây cũng là một trong những ?othiếu sót? lớn nhất sẽ đưa Diệm vào cái chết thê thảm.
    Việc coi nhẹ vấn đề nông dân còn gắn liền với chủ trương chống cộng cực đoan và mù quáng của Diệm. Dưới con mắt của Diệm, nông thôn là thành trì của cộng sản. Đối với Diệm, vấn đề chỉ đơn giản là đập nát cái thành trì kiên cố đó, Diệm coi đó là việc lớn nhất. Chống cộng được Diệm coi là ?oquốc sách số 1?.
    Tuy những tiếng súng ròn rã nhất của quân đội Diệm là những tiếng súng bắn vào quân đội các giáo phái, nhưng Diệm vẫn thấy kẻ thù số 1 của mình là cộng sản. Tham vọng chủ yếu của Diệm là ?ochặt đầu cộng sản?. Trong các chiến dịch chống cộng, ít thấy những tiếng đại bác và những đoàn quân xa ồn ào. Nhưng đây vẫn là chiến sĩ to lớn nhất, quyết liệt nhất của Diệm. Trong chiến dịch này, Diệm huy động tới hàng chục vạn cảnh sát, mật vụ, thám báo, cai ngục, đao phủ, tỏa đi khắp miền Nam. Đội quân này ít dùng đại bác và chiến xa, nhưng dùng súng lục, chó săn, thuốc độc, xích sắt, gông, cùm, xà lim và máy chém. Miền Nam đã đổ bao nhiêu máu và nước mắt trong chiến dịch này. Nhưng lực lượng cách mạng vẫn không bị bóp chết.
    Phải có nhiều biện pháp, phải tốn kém hơn nữa.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    5.Thời kỳ 1961-1964
    Ngày 16-9-1960, trong báo gửi về Washington, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn E.Dubrow viết: ?oNếu những tiến bộ hiên nay của cộng sản cứ tiếp diễn, thì có nghĩa là sẽ mất Việt Nam tự do vào tay cộng sản? (The Pentagon?T Papers, đã dẫn, P.115).
    Ngày 10-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được thành lập, đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.
    Kennedy lên làm Tổng thống từ tháng 1 năm 1960. Cả Tổng thống Mỹ lẫn Ngô Đình Diệm đều thấy khó hy vọng kết thúc sớm giai đoạn bình định. Phải quyết đấu một hiệp nữa. Muốn vậy, phải dùng sức mạnh hơn trước vượt bậc. Kennedy nói: ?oViệt Nam là nơi duy nhất trên thế giới mà chính quyền phải đương đầu với một chính cố gắng phát triển rất tốt của cộng sản nhằm lật đổ một chính phủ thân phương Tây. Đây là một sự thách thức không thể bỏ qua. Eisenhower đã phải chịu những hậu quả chính trị của Điện Biên Phủ và việc tống cổ những người phương Tây ra khỏi Việt Nam năm 1954. Ngày nay, tôi không thể cho phép thất bại như 1954 nữa? (Jr.Schlesinger. The Bitter Heritage Di sản cay đắng Ed.Andre Deutsch, London, 1966,p.311).
    Kennedy đã tập hợp những chuyên gia suất sắc thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu một cách toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tâm lý, tham khảo kinh nghiệm chống du kích tại nhiều nơi trên thế giới, để hoạch định đường lối mới, quyết tâm giành thắng lợi trong cuộc thách thức này.
    Năm 1961, Mc.Namara cho ra đời bản ?oĐường lối và chiến thuật chống chiến tranh du kích ở Nam Việt Nam?.
    Cũng năm đó, đại tướng Maxwel Taylor cho ra đời chiến lược ?ophản ứng linh hoạt?, trong đó hoạch định ba mức độ phản ứng: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, chiến tranh tổng lực.
    Cái mới của giai đoạn này không phải chỉ là một quả đấm thép lớn hơn, mà còn là một ?obàn tay? mềm mại hơn (J.Schlesinger, đã dẫn P.317). Kèm theo chiến tranh đàn áp và tàn phá khốc liệt, Mỹ có hàng loạt kế hoạch ?ohòa bình? mới: ?ođội hòa bình?, ?olương thực vì hòa bình?? Viện trợ kinh tế tăng lên. Chương trình ?ocải cách điền địa? được Mỹ thảo và buộc Diệm thi hành.
    Vào năm 1961, tướng De Gaulle, với kinh nghiệm của một người ?otừng trải? và của một nước ?otừng trải?, đã nói với Kennedy: ?oĐối với các ông, sự can thiệp trong khu vực đó sẽ là vướng vào một cái guồng máy không bao giờ kết thúc. Khi mà một dân tộc đã thức tỉnh, thì không một quyền lực bên ngoài nào, dù có phương tiện đến đâu, có khả năng đánh bại được họ. Rồi các ông sẽ thấy.
    Nếu các ông tìm thấy tại chỗ những chính phủ vì quyền lợi, bằng lòng tuân lệnh các ông, thì trái lại, nhân dân không chịu nghe theo, vả lại, họ cũng chẳng gọi các ông đến.
    Ý thức hệ mà các ông nêu ra cũng chẳng thay đổi được gì, các ông càng lao vào chống chủ nghĩa cộng sản ở đó thì những người cộng sản càng nổi bật lên là những chiến sĩ của độc lập dân tộc và càng được ủng hộ.
    Những người Pháp chúng tôi đã học được kinh nghiệm đó.
    Những người Mỹ các ông, ngày hôm qua, muốn chiếm lấy chỗ của chúng tôi ở Đông Dương. Ngày hôm nay, các ông lại muốn bắt chước chúng tôi nhen lên một cuộc chiến tranh mà chúng tôi đã chấm dứt. Tôi xin nói trước với các ông rằng: Mỗi bước, các ông sẽ ngập thêm vào cái vũng lầy quân sự và chính trị không có đáy, bất kể các ông có thể ném vào đó những tốn kém và chi tiêu đến thế nào? (Trích trong báo Thời mới, Liên Xô (Temps Nouveaux)) No42, 10-72). Nhưng Kennedy lại nghĩ: ?oĐó là nước Pháp. Đây là nước Mỹ? (J.Schlesinger, đã dẫn, P.370). Cái bi kịch của Mỹ lúc này vẫn là: nếu có kẻ nào sớm nhận thấy phải thay đổi chính sách, thì không vì thế mà đường lối của Mỹ thay đổi, chỉ bản thân kẻ đó bị thay đổi thôi.
    Để thực hiện chiến lược mới, viện trợ quân sự tăng vọt. Từ năm 1961 trở đi, số viện trợ quân sự bắt đầu vượt viện trợ kinh tế: Năm 1962, viện trợ tăng gấp đôi năm 1961. Đến năm 1964, lại tăng gấp rưỡi năm 1962. Tính trung bình, viện trợ quân sự trực tiếp trong thời gian này tới 300 triệu đôla 1 năm.
    Năm 1960, quân số ngụy mới có 223.000. Đến đầu 1965 đã lên tới 571.200. Với tiền viện trợ, Diệm tăng cường hệ thống sỹ quan để củng cố bộ khung của quân đội. Số sỹ quan từ 12.513 năm 1960 lên 22.853 năm 1964, chiếm 16% quân số (Đây chỉ kể số tướng tá và đại úy). Nếu xét tỷ lệ của số tân binh mới tuyển mới 1 năm trong quân đội, thì năm 1957 chỉ có 2,9%, đến năm 1961 lên 23%, năm 1962 lên 19,6%, năm 1964 lên 39%.
    Theo quan điểm của Kennedy, những biện pháp quân sự muốn thu được kết quả phải có sự phối hợp chặt chẽ của các biện pháp chính trị và kinh tế. Viện trợ kinh tế vẫn được duy trì ở mức xấp xỉ 200 triệu đôla hàng năm. Trong thư gửi tướng Taylor ngày 13-10-1961, Kennedy viết: ?oTrong lúc phần quân sự của vấn đề có tầm quan trọng lớn lao, thì những yếu tố chính trị, xã hội và kinh tế cũng có tầm quan trọng không kém. Tôi mong được sự đánh giá và những ý kiến đề đạt của ông?.
    Viện trợ tạo cho Diệm những đòn bẩy kinh tế để bắt thêm lính và giữ vững quân ngũ. Hàng loạt chế độ lương, bổng, phụ cấp, đãi ngộ mới được ban hành: Lính quân dịch hàng tháng trước kia chỉ có 400đ sinh hoạt phí, tương đương khoảng 40kg gạo (giá trị trường). Từ 1962, lính quân dịch chỉ sao 4 tháng huấn luyện là có lương. Từ 1964 thì cứ vào lính là có lương ngay. Từ 1961, bảo an được hưởng lương ngang chủ lực. Dân vệ được phụ cấp. Thanh niên chiến đấu được trả lương. Lính đánh ở rừng núi được phụ cấp thêm 1000đ hàng tháng. Thời gian ở chiến trường được hưởng hệ số 2 khi tính thâm niên.
    Để củng cố quân đội, Mỹ tăng cường thêm số cố vấn tới cấp tiểu đoàn. Tổng số cố vấn Mỹ năm 1962 lên tới 3.000. Những cố vấn này không chỉ nắm quân đội, mà còn len lỏi vào tất cả các ngành của bộ máy chính quyền, nhằm đảm bảo cho toàn bộ guồng máy được điều khiển thống nhất. Trong hồi ký của mình, tướng Taylor viết: ?oChúng tôi đề nghị chính phủ Mỹ cung cấp cho chính phủ Diệm những quan chức cai trị người Mỹ để ghép vào bộ máy chính quyền của Diệm. Cách làm này khiến cho chúng ta cải tiến được màng lưới thu thập tình báo của chúng ta, bắt đầu từ cấp tỉnh, rồi sẽ len dần lên cao đến tổ chức tình báo Trung ương? (M.Taylor. Hồi ký).
    Từ tháng 10-1961, Diệm tuyên bố ?oquốc gia đang đi vào một cuộc chiến tranh thực sự?. Chế độ cai trị thời chiến được áp dụng. Toàn miền Nam bước vào một thời kỳ càn quét, chà xát triền miên. Chỉ tính riêng số cuộc hành quân cỡ tiểu đoàn, năm 1960 là 149 cuộc, năm 1963 là 2.135 cuộc, năm 1964 là 2.596 cuộc.
    Dân bị dồn về đô thị, ven đường quốc lộ và nhất là vào các ấp chiến lược. Năm 1961, mới có 153 ấp chiến lược. Đến 1962, số ấp chiến lược lên tới 3.960, năm 1963 lên tới 7.500. Nông thôn sơ xác, tiêu điều. Đây là lúc bắt đầu lan tràn cái cảnh ?oủi trắng và tro tàn?. Viện trợ Mỹ tăng gấp đôi. Nhưng máu chảy, đầu rơi nhiều lên gấp bao nhiêu lần.
    Tuy nhiên, Mỹ vẫn chẳng thu được thắng lợi nào đáng kể.
    Về quân sự, Mỹ vẫn bị thất bại liên tiếp. Các trần càn quét, tảo thanh đều bị bẻ gãy. Số quân tăng gấp đôi, viện trợ tăng gấp đôi, nhưng thương vong lại tăng gấp hơn 10 lần, đào ngũ, rã ngũ tăng gấp 18 lần (Số thương vong của quân ngụy: năm 1960-5.432, 1961-9.000, 1962-15.000, 1963-19.000, 1964-59.000. Số đào ngũ: năm 1960-4.000, 1961-17.000, 1962-31.000, 1963-41.000, 1964-72.000).
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Quốc sách ?oấp chiến lược? cũng bị thất bại nặng. Đến 1964 quá nửa số ấp chiến lược đã bị phá. Tổng số ấp chiến lược từ 7.200 năm 1963, giảm xuống còn 3.300 năm 1964 và 2.200 năm 1965.
    Về kinh tế, tình hình cũng xấu không kém. Viện trợ có làm tăng thêm của cải, hàng hóa và lương bổng cho những tầng lớp gắn bó với Mỹ. Nhưng nền kinh tế Nam Việt Nam thì lại sa sút hơn trước. Ngân sách ngày càng thiếu hụt. Năm 1962, lạm phát 3,9 tỷ. Đến năm 1964, lạm phát thêm 16,4 tỷ. Năm 1960, miền Nam xuất cảng được 84,5 triệu đôla. Đến năm 1964, tỷ lệ đó tụt xuống còn 16%, đến 1965 còn 10%. Sản phẩm chủ yếu, tiêu biểu cho khả năng kinh tế Nam Việt Nam, là lúa gạo. Năm 1960, Nam Việt Nam còn xuất được 350 ngàn tấn, đến năm 1964 chỉ còn xuất được 48 ngàn tấn. Đó cũng là năm xuất cảng gạo cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa. Đến 1965, miền Nam phải nhập 129 ngàn tấn gạo. Các năm sau, con số này tăng lên. Milton Tylor, cố vấn Mỹ giúp Diệm về tài chính, đã nói: ?oSau 6 năm được Mỹ viện trợ to lớn về kinh tế, Nam Việt Nam đã trở thành một kẻ ăn xin thườn trực? (Bernard Fall. Les deux Vietnam (Hai nước Việt Nam) Fd.Payot, Paris 1967, P.333-334).
    Đến tháng 3 năm 1963 Kennedy đã nói gần giống như lời khuyên của De Gaulle trước đó: ?oChúng ta hiện đang ở trong một đường hầm không lối thoát? (The Pentagon?T Papers, đã dẫn P.372).
    Khó khăn và bế tắc làm cho Mỹ-Diệm thêm bất hòa. Vấn đề thay thế Ngô Đình Diệm đã nẩy ra trong đầu óc các chính khách Mỹ và cả các tướng tá của Diệm.
    Trong giai đoạn mới, trước tình hình mới, tập đoàn Ngô Đình Diệm ngày càng tỏ ra bất lực, thậm chí, bất lợi đối với việc thực hiện kế hoạch của Mỹ.
    Diệm, tập đoàn Diệm, quan điểm của Diệm, thậm chí cả những cá tính đáng kể của Diệm, về căn bản, tiêu biểu cho một giai đoạn quá độ: giải quyết của những năm sau 1954.
    Từ sau 1954, qua cái lưới của cách mạng và kháng chiến, nhưng nhân vật trung thành với triều đình phong kiến không còn lý do tồn tại nữa. Lớp tướng tá trung thành với Pháp cũng mất chỗ đứng. Cái tạo nên bộ máy của Mỹ phải là những con người có một khoảng cách nhất định với chế độ chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp, phải có cơ sở xã hội rộng hơn các quân hệ hoàng tộc hay làng Tây, hơn nữa, phải thoát ra khỏi cái nhãn quan hẹp hòi của xã hội thuộc địa và phong kiến về huyết thống, về đẳng cấp. Chỉ bằng cách đó mới có thể mở rộng chỗ dựa xã hội, để đương đầu với những lực lượng cách mạng đã lớn hơn trước nhiều?
    Diệm và tập đoàn Diệm là thế hệ quá độ trong sự chuyển tiếp này.
    Diệm thân Mỹ. Diệm đã thu hút được tín nhiệm của các phần tử chống cách mạng, khi phần lớn các con bài thân Pháp đã mất hết tác dụng. Diệm có mở đường tiến thân cho một số sỹ quan, địa chủ, cường hào, tư sản, mà dưới thời Pháp chưa chen chân nổi vào các hàng ghế giành cho tầng lớp thượng lưu.
    Nhưng Diệm chỉ đi theo kịp những yêu cầu đó trong mấy năm đầu. Bước vào nhữn năm 1960, trong giai đoạn mới, những yêu cầu mới, Diệm tỏ ra bất lực. Có những thế hệ mà lịch sử chỉ tạo ra để dùng trong vài năm thôi. Diệm không đủ sức đi xa hơn nữa.
    Đối với vấn đề ruộng đất và nông dân, Diệm tỏ ra quá hẹp hòi và thiển cận. Xuất thân là một quan lại phong kiến, Diệm khó có thể chấp nhận nổi việc tư sản hóa nông thông, dù cho việc đó chỉ là để bắt lính. Diệm vẫn bo bo bảo vệ một cách mù quáng những quyền lợi đã quá lỗi thời của giai cấp địa chủ, là giai cấp đã bị đánh cho tả tơi, không còn chỗ đứng trong lòng dân nữa. Quy chế cải cách điền địa của Diệm vẫn cho phép địa chủ được sở hữu tới 100ha. Những ruộng đất của địa chủ mà cách mạng đã tịch thu để chia cho nông dân, nay bị đoạt lại. Người được cấp, nếu muốn tiếp tục hưởng, phải trả tiền chuộc cho địa chủ. Ý đồ của Diệm là: phải cứu lấy giai cấp địa chủ. Ý đồ của Mỹ là: phải giành lấy địa vị ở nông thôn. Mỹ thấy rõ hơn Diệm rằng lúc này địa chủ chỉ còn là một giai cấp đã mục nát, gồm một dúm người cổ lỗ, thế lực kinh tế đã suy yếu, thế lực chính trị và tinh thần thì còn thảm hại hơn. Đến lúc này mà chỉ dựa vào giai cấp đó để nắm nông thôn, thì sẽ mất tất. Mỹ hiểu rõ hơn Diệm rằng lúc này nông dân là sức mạnh quyết định ở nông thôn. Nếu muốn mở rộng quy mô chiến tranh hơn trước rất nhiều, bắt tới cả triệu lính trong một đất nước 17 triệu dân, mà có tới 12 triệu nông dân (Dân số miền Nam 1966) thì không thể không chú ý đến nông dân. Để hạn chế bớt ảnh hưởng của cách mạng trong nông thông, để nắm lấy một nguồn cung cấp lính, cung cấp nông sản và tiêu thụ hàng hóa, phải biến nông dân thành một tầng lớp khá giả, có điều sản, có cơ nghiệp, có nguồn sống. Đó là cái đích mà Mỹ nhằm trong chương trình cải cách điền địa.
    Diệm đã trở thành một trở ngại cho Mỹ.
    Đối với giai cấp tư sản, trong lĩnh vực thương nghiệp cũng vậy. Ta biết, giai cấp tư sản Việt Nam dưới thời Pháp là một giai cấp yếu đuối. Nếu dựa vào giai cấp này, Mỹ cũng chỉ có được một cơ sở rất ọp ẹp ở các đô thị. Nhưng khác với giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản là giai cấp còn có thể dùng đôla để vực dậy được. Trong viện trợ Mỹ, cái ý đồ này có được tính đến. Số tư sản miền Nam và miền Bắc di cư đã được Mỹ bơm cho lớn lên bằng đôla.
    Buôn bán kinh doanh, đầu cơ, lập các nhà máy chế biến hàng viện trợ Mỹ, mở khách sạn, lập ngân hàng, bao thầy? tất cả đều tìm thấy ở viện trợ Mỹ một thứ phân bón màu mỡ để mọc lên các nhà triệu phú.
    Nhưng chính sách của Diệm thì khác hơn. Diệm muốn đóng khung phần lớn sự phát triển đó trong khuôn khổ họ hàng và vây cánh của mình. Anh, chị, em và tay chân Diệm đã độc quyền hàng loạt nguồn làm giàu. Viện trợ Mỹ không phát huy được cái hiệu quả như Mỹ mong muốn là mở rộng thật nhanh thế lực của giai cấp tư sản, làm chỗ dựa kinh tế và xã hội ở các đô thị.
    Trong việc xây dựng bộ máy quân đội và chính quyền, Mỹ cũng gặp một trở ngại tương tự. Để đương đầu với lực lượng cách mạng đã lớn hơn trước gấp bội, Mỹ cần có một chính quyền và một đội quân mạnh hơn rất nhiều. Mỹ muốn dung nạp thêm vào bộ máy này một loạt tay chân mới, có năng lực hơn, hợp với những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tình thần của giai đoạn mới. Mỹ sẵn sàng mở rộng cái két tiền và mở rộng hơn cái kho mề đay và quân hàm, để bằng cách đó, mở rộng chỗ dựa trong quân đội. Nhưng Diệm lại quá hẹp hòi. Diệm bo bo giữ cho họ hàng và vây cánh gần như tất cả những ghế quan trọng trong chính quyền, trong quân đội, trong các và các tỉnh. Điều đó đã gây bất mãn và phản ứng trong hàng ngũ tướng tá. Cuộc đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi tháng 11 năm 1960, những vụ âm mưu ám sát Diệm liên tiếp, là những dấu hiệu làm Mỹ lo sợ.
    Từ 1960, Mỹ đã cảnh cáo Diệm nhiều làn, không có kết quả. Tháng 1 năm 1962, Mỹ quyết định ngừng viện trợ một số khoản: cắt 3 triệu đôla viện trợ cho các lực lượng đặc biệt, đình chỉ chương trình viện trợ thương mại, bãi bỏ khoảng 25 vạn đôla nuôi quân cận vệ của Diệm? Mỹ coi đó là biện pháp quyết định để buộc Diệm thay đổi chính sách. Nhưng Diệm biết rằng cắt viện trợ thì cũng là Mỹ tự sát. Quả là chỉ vài tháng sau, Mỹ phải bãi bỏ biện pháp này. Mỹ hiểu rằng ngụy quyền chết tức là chính quyền sẽ về tay nhân dân.
    Sau nhiều lần đắn đo, bàn bạc, ngày 1 tháng 11 năm 1963 Mỹ buộc phải bố trí một cuộc đảo chính, thay ngựa giữa dòng. Diệm bị giết.
    Mặc dầu sau này có kẻ nào đó trong hàng ngũ Mỹ ngụy ?olấy làm tiếc? về việc đó, mặc dầu, như chính Nixon nói, ?ođó là một trong những điểm đen tối nhất trong lịch sử ngoại giao Mỹ?, thì xét theo yêu cầu khách quan của tình hình, xét theo những lợi ích của Mỹ, việc thay ngựa giữa dòng đó là tất yếu.
    Sau khi lật đổ Diệm, Mỹ phải mất một thời gian dài lúng túng trong việc tìm kiếm tay chân mới và ổn định cơ cấu chính quyền.
    Nhưng sự phát triển của tình hình lại không chờ đợi Mỹ. Trong bị nội bộ lục đục, đảo chính liên tiếp, thì lực lượng cách mạng lớn mạnh vượt bậc. Những chiến thắng Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài? đầu năm 1965 báo hiệu nguy cơ thất bại của nửa triệu quân lính đánh thuê.
    Tác giả của kế hoạch ?ophản ứng linh hoạt?, người đạo diễn chính của cuộc ?ochiến tranh đặc biệt?, tướng M.Taylor viết: ?oThời kỳ 1965 là một thời kỳ rất khó khăn của chúng ta, bởi vì không những chúng ta phải lo lắng trước sức mạnh quân sự ngày càng tăng của *********, mà còn phải luôn luôn lo lắng duy trì cho được sự ổn định chính trị. Để đối phó với mối đe dọa ngày càng tăng này, chúng ta buộc phải đề ra một chiến lược mới? (M.Taylor. Responsibility and Response. Harper and Row. New York, 1967. P25). Đó chính là sự thừa nhận thất bại của chiến tranh đặc biệt.
    Không còn có cách nào khác nữa. Mỹ phải trực tiếp nhảy vào vòng chiến, nếu Mỹ chưa muốn để cho quân ngụy bị đè bẹp hoàn toàn.
    Tờ New York Times ngày 2-2-1974 bàn về sự tất yếu này: ?oKhi những người du kích miền Nam Việt Nam tự họ đã gần đi dến chỗ đánh bại được chế độ đó, thì Mỹ phải điều quân Mỹ và các phi đội trực thăng Mỹ vào?.
    Lại một cuộc đọ sức mới nữa.
  5. thaonguyenvd

    thaonguyenvd Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2003
    Bài viết:
    519
    Đã được thích:
    0
    Chuyện trên còn một đọan ngắn nữa, đại để thế lày:
    ?o Phái đòan chuyên gia nước ngoài với nhiều kinh nghiệm, quyết định mời ông lão sang các nước phương tây để tìm hiểu cuộc sống & thể chế chính trị đa đảng để cụ hình dung rõ hơn về thế giới. Sau một tuần thăm thú, được tận mắt chứng kiến cuộc sống & vị trí của người dân phương tây, ông trở về cố quốc. Bước xuống cầu dẫn sân bay Tân Sơn Nhất, phóng viên ào đến phỏng vấn ông lão ?" Ông nghĩ gì về sự ưu việt của chế độ một đảng so với thể chế đa đảng phương tây? Ông lão giận đỏ cả tứ chi ?" lục phủ ngũ tạng : ?oMẹ Kiếp, tao già bị lừa không chấp, lũ bay trẻ trung có học mà cũng bị lừa thì thật nhục nhã cho tổ quốc quá.? Xong, ông cắp nón lá, te te đón xe ôm ra bến xe miền tây , mất hút.
  6. nguyensaigon29

    nguyensaigon29 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    21/12/2004
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Bà con kể chuyện nhắm bộ ăn khách ghê (được tặng sao quá xá ) , nguyensg cũng góp vui văn nghệ một bài viết chung quanh mấy mẫu chuyện kể lại nhằm kiếm vài sao chơi :
    Ngố hay không ngố !
    Một số người Việt thường gọi XXX... là '' cán ngố '' . Có người cho là gọi như thế là đúng nhưng cũng có người lại cho là gọi như thế là xuyên tạc, là ác ý, là vu khống. Vậy ta hãy bình tĩnh, vô tư mà suy xét xem xxx... có Ngố hay không Ngố.
    Ðầu năm 1980, có cán bộ ở Trung Ương (oai chưa) về trại Nam-Hà nói chuyện, nên bọn tù '' Cải tạo '' chúng tôi được huy động đi nghe. Ðề tài của buổi nói chuyện đại khái là về '''' chiến thắng của ta tại Mặt trận chống quân Trung Quốc xâm lược '''' , trong đó có đoạn diễn giả nói đến chiến công '''' Hiển Hách '''' ủa một em bé người Tầy, tuy chỉ mới 13 tuổi mà đã bắt được nguyên vẹn một xe tăng TC. Câu chuyện như sau :
    Một xe tăng TC đã đi sâu vào lãnh thổ VN. Vì người lái xe thấy phong cảnh núi rừng VN quá hữu tình, mê mẩn tâm thần, nên mặc dù đã đi lạc đơn vị rất xa, anh ta vẫn không hay biết gì (!). Thế rồi, không cưỡng nổi lòng ham thích, anh ta đã mở nắp xe, đứng nhô cả nửa người ra ngoài xe để mà tận hưởng cảnh đẹp thiên nhiên (!). Lúc đó có một em bé người Tầy, mới 13 tuổi, đang lang thang đi tìm nấm ở trong rừng. Chú bé này thấy anh lính tàu đờ đẫn như người mất hồn (!), bèn nhẹ nhàng nhảy lên phía sau xe, rồi rút con dao tu ra, dùng hết sức bình sinh chém một nhát bay đầu anh lính (!). Sau đó, chú bé chạy đi gọi ?~?~bộ đội của ta?T?T đến lái xe về.
    Ngồi nghe câu chuyện '''' phong thần '''' này, tôi nhếch miệng cười tủm tỉm. Có lẽ vì thấy tôi tủm tỉm nên khi buổi nói chuyện chấm dứt, một số cai tù đã đến hỏi tôi rằng :
    - Nghe cán bộ cấp trên nói chuyện, anh có tin không mà sao thấy anh cứ tủm tỉm hoài.
    - Cán bộ cấp Trung Ương, nói thì tôi phải tin chứ, không tin hóa ra ********* sao ?
    - Không, anh cứ nói thật đi. Anh có tin những điều cán bộ nói hay không ?
    - Các cán bộ muốn tôi nói thật à ? Nếu nói thật, thì chỉ có bò nó mới tin câu chuyện em bé 13 tuổi bắt xe tăng thôi, còn đã là người, có đầu óc, biết suy nghĩ thì không ai tin được. Vì sao ? Vì xe tăng là một đơn vị tác chiến cộng đồng, chứ không phải là ô-tô con để người ta lái đi ngắm cảnh. Trong mỗi chiếc xe tăng, ngoài người lái ra, còn phải có người bắn súng lớn mà các anh gọi là pháo, người bắn sung nhỏ mà các anh gọi là trọng liên, người giữ liên lạc vô tuyến và người trưởng xe. Tóm lại là phải có đủ 5 người, không bao giờ xe tăng lại chỉ có một người cả. Các anh đã chẳng có bài hát '' Năm anh em trong một chiếc xe tăng đó sao '' ? Tôi đâu có nói sai.
    Ngoài ra còn có nguyên tắc dụng binh sơ đẳng mà trong Quân Ðội của chúng tôi, Sĩ quan nào cũng phải biết. Ðó là, trong vận động chiến, xe tăng phải được dùng '''' Cá cặp '''' để có thể bảo vệ lẫn nhau. Trường hợp không đủ cặp, thì phải có Bộ Binh tùng thiết. Sĩ quan nào phái độc một chiếc xe tăng đi tác chiến mà không cho Bộ Binh tùng thiết, thì chắc chắn lập tức bị cho về vườn ngay. Do đó, việc một chiếc xe tăng Trung Quốc đơn độc chạy lang thang trong rừng VN chỉ lòe bịp được trẻ con thôi.
    - Ừ nhỉ, việc rõ ràng, hiển nhiên như thế mà sao mình lại không nghĩ ra nhỉ. Quả là mình ngố thật.
    - Mình vẫn thường hát bài '''' năm anh em trong một chiếc xe tăng '''' đấy chứ, thế mà sao khi nghe người ta nói như thế, mình vẫn tin ngay được nhỉ ?
    - Mình đã bị người ta dùng '' sì-ranh '' hút hết óc ở trong đầu ra, rồi bơm c... trâu vào, nên mình mới ngố đến thế !
    - Không phải đâu, các anh không bị hút với bơm gì hết, mà chỉ bị người ta điều kiện hóa bằng phương pháp Pavlov thôi.
    - Ðiều kiện hóa bằng phương pháp Pavlov là gì ?
    - Ðây là một vấn đề khoa học tâm lý, không đơn giản, không thể nói rõ trong ít phút được.
    - Thế lúc nào rỗi, anh nói cho chúng tôi nghe được không?
    - Ðược chứ, nếu các cán bộ muốn nghe.
    Thấy bài học của mình được '' tiếp thu tốt '' tôi bèn ngẫu hứng và xoáy thêm bằng một bài thơ con ...Bò :
    Hạ giới vô tư nhất chú Bò
    Bị người xỏ mũi chẳng thèm lo
    Người bắt kéo cày, nhơi bỏm bẻm
    Người lôi ra thiến vẫn ?~?~ò ò?T?T
    Ðến khi già yếu cày hết được
    Người đưa đi thịt vẫn êm ro
    Sống kiểu chú mày thanh thản thật
    Chẳng trách người ta khoái giống Bò.
    Vì đâu nên ngố ?
    Nhà sinh lý học kiêm bác sĩ y khoa người Nga, Ivan Petrovitch Pavlov (1849-1936), đã phát minh ra lý thuyết ?~phản ứng theo điều kiện?T (théorie des réflexes con***ionnés), thường được gọi nôm na là lý thuyết Pavlov. Theo lý thuyết này, mọi sinh vật đều có một loại phản ứng câu sinh (đã có ngay từ lúc mới sinh ra đời) hay tuyệt đối (réflexe inné ou absolu) và một loại phản ứng nhân tạo hay tạm thời (réflexe artificiel ou temporaire). Loại phản ứng sau được Pavlov gọi là phản ứng theo điều kiện (réflexe con***ionné). Pavlov đã chứng minh lý thuyết này qua những thử nghiệm trên loài chó, do đó mà có từ ngữ ?~con chó của Pavlov?T để ám chỉ những người đã bị ?~?~điều kiện hóa?T?T theo phương pháp Pavlov. Pavlov đã thử nghiệm như sau :
    - giai đoạn 1 : gõ chuông nhưng không cho thịt, chó không nhễu nước miếng.
    - giai đoạn 2 : không gõ chuông nhưng cho thịt, chó nhễu nước miếng.
    - giai đoạn 3 : gõ chuông và cho thịt, chó nhễu nước miếng.
    - giai đoạn 4 : gõ chuông nhưng không cho thịt, chó vẫn nhễu nước miếng, vì nó đã bị ?~?~điều kiện hóa?T?T, nên cứ tưởng có chuông là đương nhiên có thịt.
    Ðược ăn thì chó nhễu nước miếng, đó là phản ứng câu sinh hay phản ứng tuyệt đối. Ðược huấn tập lâu ngày để cứ khi nghe tiếng chuông là chó nhễu nước miếng - dù chẳng được cho ăn - đó là phản ứng nhân tạo hay phản ứng tạm thời, còn được gọi là phản ứng theo điều kiện.
    Ứng dụng phương pháp Pavlov để điều kiện hóa con người, hầu dễ sai khiến như phù thủy khiến âm binh !
    Trong những năm đầu thập niên 50, trong những cuộc hội họp, hễ nghe diễn giả nói đến từ '' Ðịa chủ '' hay ?~?~Ðế quốc?T?T, là cử tọa phải đồng thanh hô to ?~?~Ðả đảo?T?T và phải hô đủ ba lần mới được ! Nếu nghe nhắc đến tiếng ?~?~Bác?T?T, thì phải hoặc đứng nghiêm, hoặc khép ngay đùi lại theo đúng tư thế ?~?~ngồi nghiêm?T?T (Có cả tư thế ngồi nghiêm nữa đấy) để tỏ lòng kính trọng. Ðây là ứng dụng phương pháp Pavlov, tập cho mọi người quen ?~phản ứng theo điều kiện?T.
    Tương tự nghị quyết xxx.. mới đưa ra, chưa biết kết quả thi hành ra sao, nhưng cứ khen phủ đầu trước cái đã, cho chắc ăn. Khen sau, sợ có thằng nó khen trước, cướp mất đi cái danh hiệu '''' Dũng sĩ tiền phong '''' của mình !!!
    Phương pháp Pavlov để tập cho mọi người chỉ biết ?~nghe và tin?T - nếu thắc mắc sẽ bị cho là thiếu niềm tin vào XXX... và sẽ bị theo dõi phiền hà -. Riết rồi người bị điều kiện hóa, không còn muốn động não nữa - cho nó yên thân -, để rồi mặc nhiên biến thành lớp âm binh, phó mặc số phận mình vào bàn tay phù thủy !!! rồi tự nhiên trở thành những con chó của Pavlov !!!
    Làm sao hết Ngố.
    Không nên vơ đũa cả nắm, cho là tất cả Cán xxx đều ngố cả, kẻo lại bị xxx... cho là ngố.
    Ðại đa số Cán là Ngố vì họ bị một nhúm lãnh tụ xxx... ?~?~điều kiện hóa?T?T, để dễ bề sai khiến như phù thủy khiến âm binh. Còn lại một thiểu số thì không ngố tý nào và thiểu số này, gồm phần lớn những phần tử vẫn còn giữ được lý trí sáng suốt, còn có khả năng tư duy, suy luận nhưng vì bản chất cầu an nên giả câm, giả điếc, tự ý ngố theo để được yên thân (thành phần này gọi là thành phần ?~nín thở qua sông?T). chứ ngố luôn thì làm sao biết lợi dụng đàn em giỏi đến như thế ?!
    Có một cách trị tận gốc bệnh ngố, đó là hướng dẫn cho người dân biết động não, biết suy tư, biết phân biệt đúng/sai, phải/trái, biết tự suy nghĩ cho chính mình, không phó mặc vận mệnh của mình cho xxx.. nữa. Nếu trước đây, dân ta có câu phương ngôn : ?~?~Hòn đất mà biết nói năng, Thì thầy địa lý hàm răng không còn?T?T (tức không còn bịp được thân chủ nữa .
    Ngoài ra người dân phải biết tập nhìn đời cả bằng mắt lẫn bằng trí, vì nếu chỉ nhìn đời bằng mắt không thôi, ta chỉ có thể nhìn thấy lớp vỏ bên ngoài, cái mặt nạ người ta mang và lớp trang trí bên ngoài mà thôi và không nhìn thấu được vào bản chất, vào cái cốt lõi bên trong. Tỷ dụ, nếu chỉ nhìn đời bằng mắt không thôi, thì khi bước chân vào một cảnh chùa VN, thấy một người trọc đầu, mặc áo cà sa đi lại trong sân, theo phản ứng tự nhiên, ta sẽ chắp tay niệm '' Mô Phật, Bạch thầy '' . Nhưng nếu ta biết nhìn đời cả bằng trí nữa, ắt ta có thể phân biệt được vàng thau, thật giả và có thể ta sẽ biết chắc được rằng vị sư này là loại chuyên viên tôn giáo '' Sư quốc doanh '' . Lúc đó, ta sẽ nói chào anh cá chìm !
    Túm lại :
    Nếu biết động não, tư duy, lại biết nhìn đời bằng trí, thì ai còn dám bảo mình là Ngố ?
    Người biết động não, suy tư, biết nhìn đời cả bằng mắt lẫn bằng trí, tức là '' Khai trí , khai văn hoá '' vậy.
  7. phaphai

    phaphai Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/12/2004
    Bài viết:
    1.203
    Đã được thích:
    1.825
    Tại sao bac ptlinh lại trích những cái này ra đây nhỉ?
    Khoét sâu thêm nỗi đau khổ của người khác. Giống như câu "biết rồi khổ lắm nói mãi.." ấy. Họ đặt bao nhiêu giả sử, ví như.... và ngủ mơ tưởng tượng đến ngày phất phất mấy đồng đô la là có thể kéo theo cả đàn Mỹ nữ....
    Nếu hồi ấy, Mỹ không bị thua, đại sứ Mỹ không phải bắt chiếc Thoát Hoan (nhưng không hàon toàn giống: một người chạy hướng núi-một người hướng biển và người chui vào ống đồng-người chui vào trực thăng chỉ giống nhau là ai cũng kéo theo được Trần Ích Tắc), thì bây giờ họ vẫn còn đang hưởng viện trợ Mỹ ăn chơi tại Sài Gòn. Ông Khải sang Mỹ bây giờ là để tifm hướng phát triển chung cho cả nước, từ mấy người dân trông lúa, nuôi cá ba-sa, tôm sú... chứ chẳng thèm để ý riêng gì đến họ. Cứ phải biểu tình, ngăn cản biết đâu người Mỹ họ có thể nhớ lại hận cũ, bỏ qua lợi ích kinh tế trước mắt không thèm quan hệ với VN nữa để người dân Việt Nam phải tiếp tục nghèo khổ thì ba cái dúm đố là họ kiếm được mới còn giá trị trước mấy em Ca-ve Sài Gòn, chứ không vài hôm nữa KT VN khá lên giá các em CV tăng lên vùn vụt thì cũng thật tai hại.
  8. phaphai

    phaphai Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/12/2004
    Bài viết:
    1.203
    Đã được thích:
    1.825
    ''''... Khai trí , khai văn hoá... ''''
    Những câu này hình như cũng giống hệt khẩu hiệu của người Pháp khi vào Việt Nam "Khai hóa" .
    Người Pháp, người Mỹ họ cũng rất kinh người Việt Nam mình "người Việt Nam, da vàng lạc hậu" Hai cuộc chiến tranh phát hoại (bằng không quân) là họ cũng muốn "đưa Miền Bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá"...
    Đại tá Piroth, chỉ huy pháo binh tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cũng tức cười mà chết trong đêm đầu tiên của chiến dịch khi ngắm nhìn mấy anh bộ đội ********* "ngố" làm cái việc không ai làm đưa pháo vào chọi với pháo binh Pháp. Hoặc chắc là Tổng thống VNCH tức cười quá không chơi được tiếp ván cờ khi nhìn mấy anh lính giải phóng "ngố" đáng nhẽ lên Playcu lại đi nhầm về Buôn Ma Thuột.
    Các bác CCS chắc cũng vỡ bụng cười thấy người dân VN "thấp hèn" lại dám ước mơ làm kinh tế đấy!
  9. nguyensaigon7

    nguyensaigon7 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    06/09/2004
    Bài viết:
    16
    Đã được thích:
    0
    Nhưng câu chuyện cũng chưa kết thúc , ông cụ đang dự tính là không ra ngoài trung ương mần việc nữa và từ nay sẽ '' về nhà đuổi gà cho vợ '' , và nếu có thì giờ thì dạy thêm mấy đứa nhỏ dưới quê học hành v.v.v.

    Ông cụ đang ngồi trên cái ghê mây canh mấy con gà đang ăn trước sân & vừa coi vừa ngẫm nghĩ trong đầu bỗng nghe thằng cháu nội tên nguyen đang i .... a..... lãm nhãm tập làm mấy bài toán tiểu học + - x : ở bàn trong nhà ...........
    Cậu nguyen :
    i ....a.......
    ....Một cộng một thì bằng hai , hai cộng hai thì bằng tám (2+2=8 ) .....
    vừa nghe xong câu đó ông cụ liền quát cho cậu nguyen một phát ......
    Lời ông cụ :
    Hai cộng hai thì bằng bốn (2+2=4 ) chứ sao là tám được ?
    Cậu nguyen : Dạ àaaàa thì con nói trừ hao đó nội , nếu nội '' Bỏ bốn '' vậy là đúng rồi !
    Cậu bé vừa dứt lời , ông cụ chợt bắt được một chân lý mới và liền đổi ý định cũ ở luôn dưới miền tây rồi liền bảo bà cụ kêu người bán mấy chục con gà và vài chục giạ lúa , lần nầy không đi xe ôm nữa gom tiền mua cái vé máy bay hầu ra trung ương sớm cho bằng được !
  10. BearMoscow

    BearMoscow Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/02/2004
    Bài viết:
    319
    Đã được thích:
    0
    =============
    Cậu nguyensg,nguyéng7,29,47 vừa đăng một ảnh chửi bậy tục tữu ở topic Little Saigon bên cạnh,để chứng tỏ ở đó có một great number người Việt xứng đáng được người sắc tộc khác gọi là gook. Tôi tưởng vào forum này 100% người có tự trọng,không ngờ cậu cố vào mà chưa out
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này