1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quảng Đông?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chieuphong, 20/04/2007.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chieuphong

    chieuphong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2006
    Bài viết:
    154
    Đã được thích:
    0
    Quảng Đông?

    Quảng Đông (trợ giúp·chi tiết) (chữ Hán phồn thể: 廣東; chữ Hán giản thể: 广o), là một tỉnh nằm ven biển phía nam Trung Quốc. Tỉnh lỵ là thành phố Quảng Châu. Quảng Đông là 1 trong những tỉnh giàu nhất Trung Quốc với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đứng đầu trong các đơn vị hành chính cấp tỉnh của Trung Quốc với GDP danh nghĩa là 165 tỷ USD năm 2003 và tăng lên 265 tỷ USD năm 2005 (tương đương Đan Mạch, gấp 5 lần GDP Việt Nam), do đó tỉnh này đã thu hút 30 triệu người nhập cư từ vùng khác của Trung Quốc. GDP của Quảng Đông chiếm 12% tổng GDP của Trung Quốc. Quảng Châu và Thâm Quyến thuộc tỉnh này là 2 trong 4 thành phố quan trọng nhất Trung Quốc.

    "Quảng" có nghĩa là rộng rãi và có liên quan tới khu vực thời Nhà Tấn. "Quảng Đông" có nghĩa là phía đông rộng rãi, Quảng Đông và Quảng Tây được gọi chung là "Lưỡng Quảng" (.廣 liăng guăng). Tên viết tắt hiện nay của Quảng Đông là "Việt" 粵/粤 (Yue), liên quan đến "Bách Việt" (TS), một tên chung chỉ các dân tộc sống ở Quảng Đông và các khu vực xung quanh vào thời xưa.

    Quảng Đông có vị trí xa trung tâm nền văn minh Trung Hoa cổ đại ở đồng bằng phía bắc Trung Hoa. Thời đấy, đây là nơi sinh sống của các tộc người được gọi chung là "Bách Việt" (TS), các tộc người có lẽ là Tai-Kadai có liên quan đến dân tộc Choang ở tỉnh Quảng Tây.

    Vùng đất này thuộc sự quản lý của chính quyền trung ương Trung Quốc bắt đầu từ thời nhà Tần - triều đại thống nhất đế chế Trung Hoa, đã mở rộng về phía nam và lập nên Quận Nam Hải (-海f) tại Phiên Ngu (.禺), ngày nay gần Quảng Châu. Quận này đã từng là một nước Nam Việt độc lập giữa thời kỳ nhà Tần sụp đổ và Hán Vũ Đế lên cai trị Trung Hoa. Nhà Hán cai trị Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Việt Nam (hay Đại Việt với tên gọi là Giao Châu (交z). Dưới thời Đông Ngô thuộc thời kỳ Tam Quốc, Quảng Đông được Đông Ngô lập thành một tỉnh - đó là tỉnh Quảng Châu (廣z) vào năm 226.

    Trải qua thời gian dài, cơ cấu dân cư của khu vực này thay đổi dần dần, dẫn đến người Hán chiếm đa số, đặc biệt là sau nhiều đợt di cư lớn từ phương bắc trong các thời kỳ bất ổn chính trị do các bộ lạc du mục phía bắc Trung Hoa quấy nhiễu kể từ khi nhà Hán sụp đổ trở về sau. Ví dụ như cuộc binh biến do An Lộc Sơn lãnh đạo dẫn đến việc tăng 75% dân số của tỉnh Quảng Châu giữa những năm 740-750 và gia đoạn 800-810.[1]. Khi người Hán đến đây đông hơn, dân địa phương đã dần bị đồng hóa theo văn hóa Trung Hoa. [2], hoặc bị mai một hẳn văn hóa bản địa.

    Cùng với Quảng Tây, Quảng Đông được tạo lập thành một bộ phận của Lĩnh Nam Đạo (嶺-"), năm 627 vào thời nhà Đường. Phần Quảng Đông trong Lĩnh Nam Đạo được đổi tên thành Quảng Nam Đông Đạo năm 971 trong thời nhà Tống - đây là sự bắt nguồn của cái tên Quảng Đông.

    Khi quân Mông Cổ ở phương bắc xâm lược Trung Hoa vào thế kỷ thứ 13, triều đại Nam Tống rút lui về phía nam, cuối cùng dừng lại ở địa điểm của tỉnh Quảng Đông ngày nay. Hải chiến Nhai Sơn năm 1279 ở Quảng Đông đã kết thúc triều đại Nam Tống. Trong thời nhà Nguyên thuộc Mông Cổ, Quảng Đông là một phần của Giang Tây. Tên gọi Tỉnh Quảng Đông ngày nay được quy định vào giai đoạn đầu của nhà Minh.

    Từ thế kỷ 16, Quảng Đông có những mối quan hệ thương mại với thế giới bên ngoài. Các nhà buôn châu Âu đã đến phía bắc thông qua eo biển Malacca và Biển Đông, đặc biệt là các nhà buôn Anh thông qua Quảng Đông. Macao nằm ở bờ nam của Quảng Đông là nơi định cư đầu tiên của người châu Âu ở Trung Quốc từ 1557. Việc buôn bán thuốc phiện thông qua Quảng Châu đã dẫn đến Chiến tranh nha phiến, mở ra một kỷ nguyên ngoại quốc xâm lược và can thiệp vào Trung Hoa. Ngoài Macao là nhượng địa cho Bồ Đào Nha, Hồng Kông thành nhượng địa cho Anh và Quảng Châu Loan cho người Pháp. Vào thế kỷ 19, Quảng Đông cũng là cảng chính cho làn sóng người lao động ra đi đến Đông Nam Á, miền Tây Hoa Kỳ và Canada.

    Về mặt lịch sử, nhiều cộng đồng Hoa Kiều xuất thân từ Quảng Đông và đặc biệt là Đài Sơn và cùng với những người di cư từ Hồng Kông, tiếng Quảng Đông và tiếng Đài Sơn (phương ngữ ở Đài Sơn) được gần 10% dân số Trung Quốc sử dụng, có nhiều người Hoa Kiều chiếm tỷ lệ cao hơn tỷ lệ người nói ngôn ngữ này ở Trung Quốc.

    Trong thời kỳ những năm 1850, Thái bình thiên quốc nổ ra ở Quảng Đông. Do là địa phương có tiếp xúc nhiều với phương Tây, Quảng Đông là trung tâm của các phong trào chống Mãn Châu và chống đế quốc. Tôn Trung Sơn cũng xuất phát từ Quảng Đông.

    Vào đầu những năm 1920 thời Trung Hoa Dân Quốc, Quảng Đông là bàn đạp để Quốc Dân Đảng chuẩn bị Bắc Phạt trong một nỗ lực thống nhất tất cả các địa chủ về dưới quyền kiểm soát của chính quyền trung ương. Học viện Sĩ quan Lục quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc đã được xây gần Quảng Châu để huấn luyện các sĩ quan chỉ huy.

    Trong những năm gần đây, tỉnh này đã trải qua một thời kỳ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục do có các mối quan hệ kinh tế gần gũi với Hồng Kông giáp giới. Tỉnh này có GDP cao nhất trong các đơn vị cấp tỉnh Trung Quốc. Đảo Hải Nam trước đây là một bộ phận của tỉnh Quảng Đông nhưng được tách ra thành một tỉnh từ năm 1988.


    [sửa] Địa lý
    Quảng Đông giáp Biển Đông về phía nam và có 4300 km bờ biển. Bản đảo Lôi Châu là vùng cực nam đất liền của tỉnh này. Ở trên Bán đảo Lôi Châu vẫn còn một số núi lửa đang ngừng hoạt động. Đồng bằng châu thổ Châu Giang là nơi tụ hợp của 3 sông thượng lưu là Đông Giang, Tây Giang và Bắc Giang. Vùng đồng bằng châu thổ này bao gồm hàng trăm hòn đảo nhỏ. Tỉnh Quảng Đông bị chia cắt về mặt địa lý khỏi phía bắc bởi một ít dãy núi có tên gọi chung là Nam Lĩnh (-岭). Đỉnh cao nhất của tỉnh này có độ cao 1600 km so với mực nước biển. Quảng Đông giáp Phúc Kiến về phía đông bắc, Giang Tây và Hồ Nam về phía bắc, Quảng Tây về phía tây và Hồng Kông, Macao về phía nam. Đảo Hải Nam nằm ngoài khơi tỉnh này gần Bán đảo Lôi Châu.

    Các thành phố xung quanh Đồng bằng châu thổ Châu Giang có: Đông Hoản, Phật Sơn, Quảng Châu, Huệ Châu, Giang Môn, Thâm Quyến, Thuận Đức, Đài Sơn, Trung San và Chu Hải. Các thành phố khác có: Triều Châu, Trừng Hải, Khai Bình, Nam Hải, Sán Đầu, Thiều Quan, Tân Hội, Đam Giang và Triệu Khánh.

    Quảng Đông có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (phía nam nhiệt đới) với mùa đông ngắn, ôn hòa, khô ráo và mùa hè dài, ẩm và nóng. Nhiệt độ cao nhất trong ngày vào tháng Giêng và tháng 7 là 18 độ C và 33 độ C. Sương mù thì hiếm khi có ở vùng ven biển nhưng có xảy ra một vài ngày ở các vùng sâu trong đất liền.

    http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3ng_%C4%90%C3%B4ng
    Tiếng Quảng Đông (Hán phồn thể: 粵z; Hán giản thể: 粤语, Việt ngữ) là một nhóm ngữ âm chính trong tiếng Trung Quốc được nói chủ yếu ở các vùng Đông Nam của Trung Quốc, Hồng Kông, Ma Cao; nó cũng được dùng bởi một số Hoa kiều sống ở Đông Nam Á và các nơi khác trên thế giới.

    Tại Trung Quốc, tiếng Quảng Đông còn được gọi là "Việt ngữ" (粵z) vì hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây nguyên trước là đất của Bách Việt (T粵), nên họ gọi hai tỉnh ấy là tỉnh Việt.

    Trong tiếng Quảng Đông cũng có rất nhiều thổ ngữ. Phổ biến nhất là thổ ngữ Quảng Châu. Thổ ngữ Quảng Châu không chỉ tồn tại ở Quảng Đông mà còn ở khắp toàn cầu. Số người nói thổ ngữ này được ước tính lên tới 70 triệu người.

    Tiếng Quảng Đông rất khác biệt với các ngữ âm khác trong tiếng Trung Quốc, đặc trưng cho đặc điểm văn hóa và đặc tính dân tộc của một bộ phận người Trung Quốc.

    http://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng_Qu%E1%BA%A3ng_%C4%90%C3%B4ng

    Một vài tìm hiểu, mong các bác tiếp tục chỉ giáo. Không biết cộng đồng Bách Việt trước kia có mối liên quan nào về ngôn ngữ không nhỉ. Và tiếng quảng đông khác nhau như thế nào so với tiếng việt?
  2. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Quảng Đông còn gọi Việt Đông, giống như Quảng Tây còn gọi là Việt Tây. Quảng Đông, Quảng Tây cũng gọi là Việt, Lưỡng Việt, Lưỡng Quảng.
    Theo nghĩa tiếng Hán:
    Việt Đông = phía đông của tỉnh/ vùng Việt.
    Theo nghĩa này sẽ liên tưởng đến cái tên Việt Nam = phía nam của tỉnh/ vùng/ đất Việt.
    Bây giờ tôi mới hiểu ý của nhà Thanh khi mà không công nhận quốc hiệu Nam Việt (nghĩa là nước/ vùng/ đất Việt ở phương nam) mà vua Gia Long cầu phong, mà lại đổi thứ tự lại sẽ thành nghĩa khác. Quốc hiệu Nam Việt mà vua Gia Long muốn đặt ẩn ý rằng Quảng Đông, Quảng Tây là của Nam Việt, tức là cố thổ đã hãm vào TQ. Còn tên Việt Nam nhà Thanh bẻ trở lại thì thành ra là một bộ phận của vùng Việt là vùng/ tỉnh của TQ. Hoặc trước đó, đã có dùng tên Việt Nam thì cũng gợi ý là Việt Nam là một bộ phận của vùng Việt khi xưa.
    Tuy nhiên cái tên Việt Nam, người Kinh có thể hiểu là quốc hiệu Việt - Nam là tên ghép, nhưng người Hán lại cứ nghĩ là Việt Nam là phía nam của vùng/ tỉnh Việt.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 16:33 ngày 21/04/2007
  3. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Việt đông, Việt tây và VIệt nam .... cái này buồn cười quá, có thể gọi là Tam Việt thay thế cho Lưỡng Quảng ko?
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Quảng Đông còn gọi là Lĩnh Nam, nghĩa là vùng sau núi .
    Núi đó là dãy Núi Nam (Nam Lĩnh) vì dãy này ở tận cùng
    nam của trung châu (đất giữa). Kho tàng văn học của người
    Việt chúng ta có cuốn "Lĩnh Nam chích quái" có ý coi chúng
    ta là người Quảng Đông, và người Quảng Châu.
    Thời Tần, người Hán đã ở Phiên Ngung (không phải Ngu,
    mất âm ng) và thành trung tâm, chợ và phố lớn ở đây. Bây
    giờ, cách thành phố Quảng Châu xuôi giòng sông ra HongKong
    khoảng 4 chục cây số, còn có một huyện lấy tên là Phiên Ngung
    nhưng nó không phải Phiên Ngung ngày xưa. Dù sao, nơi
    đây cũng được coi là đất gốc của người nói tiếng Quảng .
    Triệu Đà làm quan đời Tần, đã xin 50 vạn người Hán di dân
    đến đây, và dần dần, người Hán càng đến nhiều, làm cả tỉnh
    Quảng Đông thành Hán . Người bản xứ dạt về miền quê và
    miền núi hẻo lánh, làm nghề nông .
    Tiếng Quảng Châu (Cantonese) là một tiếng Hán cổ hơn tiếng
    phổ thông (Mandarin) ngày nay, vì người Quảng Đông có tinh
    thần chống lại nhà Thanh, không chịu nói tiếng nhà Thanh, là
    tiếng Hán có pha nhiều từ ngữ và ngữ pháp Mãn Châu.
    Không chỉ tiếng Cantonese, 7 tiếng Hán địa phương khác,
    cũng ở miền biển từ Thượn Hải chạy xuống Quảng Đông . Miền
    giữa và miền bắc Trung Quốc mới nói tiếng phổ thông . Vì thế
    người Quảng Đông, nhất là người Quảng Châu mới khinh
    những người nói tiếng phổ thông, cho rằng họ ngu muội, không
    có lòng tự trọng dân tộc. Theo thứ tự trọng khinh, thì cao nhất
    là người nói giọng Quảng Châu, rồi đến giọng HongKong, rồi
    giọng Quảng Tây, các giọng Phúc Kiến, Thượng Hải, rồi cuối
    cùng mới đến giọng Bắc Kinh.
    Tiếng Việt vốn gốc là tiếng Việt Mường, một trong hàng trăm
    ngôn ngữ các dân tộc miền nam Trung Quốc và bắc ViệtNam .
    Các bạn xem hơn 70 dân thiểu số Trung Quốc và ViệtNam
    dồn ở miền này . Chỉ còn vài dân tộc thiểu số Trung Quốc ở
    vùng khác mà thôi, như Duy Ngô Nhĩ (da trắng, mũi lõ), Mông
    Cổ, Triều Tiên, Tây Tạng mới ở vùng biên giới Trung Quốc ở
    phía bắc và tây bắc. Ngày xưa bọn quan lại Hán ngu dốt và khinh
    dể dân thiểu số mới gọi gộp chung 100 dân tộc ở đây là Bách
    Việt . Dần dần, họ hiểu ra, và có tên riêng cho từng dân tộc .
    Ngày nay, còn nhiều người chưa hiểu, cứ cho rằng tất cả các
    dân tộc ở đây chỉ là một dân tộc có tên là Trăm Việt.
    Chuyện vua Gia Long muốn lấy tên là Nam Việt vì có ý đồ gì,
    thì chỉ có nắm xương tàn của ông ta mới biết . Cái ý nghĩ cho
    rằng người Quảng Châu thời nước Nam Việt cùng là người
    Việt như chúng ta là một ý nghĩ thiếu hiểu biết.
  5. dhlv

    dhlv Guest

    Em ko có điều kiện để tìm hiểu nhưng mà em có cái Kim Từ Điển Việt - Hán - Quảng Đông thì phiên âm từ Hán - Việt của tiếng Quảng Đông nhiều từ đọc y chang như người Kinh (đa số trên TTVNOL) đọc vậy . Nhiều từ thì lơ lớ nhưng mà cũng luận ra được, còn dễ hơn là luận cách nói chuyện của người xứ Nghệ thuần tuý (quê em) mà các bạn ở HN nếu ít tiếp xúc thì khó nghe lắm.
  6. Kinh_Diec

    Kinh_Diec Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/05/2006
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Hay là bây giờ nước ta đổi lại tên đê :
    Phương án 1 : Việt Nam -----> Bách Việt
    Phương án 2 : Việt Nam -----> Việt
  7. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Đại Việt.
    Hay Hợp chúng/chủng quốc Việt Nam/Đại Việt.
    Được Pagan sửa chữa / chuyển vào 21:09 ngày 21/04/2007
  8. Kinh_Diec

    Kinh_Diec Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/05/2006
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Gì thì gì cái tên Việt Nam cũng là do Gia Long - Nguyễn Ánh xin ý kiến mấy thằng đuôi sam đàn bà. Hơn nữa theo ý kiến của tôi cái tên này nghe ko hay lắm. Tại sao chúng ta không đổi thành Đại Việt chẳng hạn - vốn là cái tên các vị vua Việt đặt. Nếu không thì đổi thành một cái tên khác nghe hay hay một tí.
    Trong ASEAN Burma (Miến Điện) cũng đã đổi thành Myanmar. Ở Châu Âu, vì hoàn cảnh lịch sử Tiệp Khắc đổi thành CH Séc và Slovakia,...
    Ngay như cái tên Hà nội (phía trong con sông ?) nghe cũng chả gợi tả được cái gì. Cả nước có mỗi tên nước, có mỗi một thủ đô tại sao không nghĩ đến một cái tên hay hay. Sắp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà nội phải chăng chúng ta đổi Hà nội thành Thăng Long hay một cái tên khác có ý nghĩa !
  9. chieuphong

    chieuphong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2006
    Bài viết:
    154
    Đã được thích:
    0
    Vậy Việt Nam= nước Việt ở phía nam. Ngoài ra Bách Việt bao gồm rất nhiều dân tộc trong đó có cha ông chúng ta.
    Kaka nếu đổi tên nước lại thành Đại Việt chắc Bia Đại Việt thành quốc bia quá
  10. Kinh_Diec

    Kinh_Diec Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/05/2006
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Theo em nghĩ tiếng nói chính là biểu hiện rõ nét của dân tộc. Việc Trung quốc có rất nhiều tiếng nói là một phần quan trọng cho thấy Tàu là một hợp chủng quốc. Dân Tàu hiện nay là sự hòa trộn rất nhiều dân tộc khác nhau. Bác giải thích thế nào về Tiếng Quảng đông có nhiều âm giống Tiếng Việt ? Thứ hai căn cứ vào đâu mà bác nói rằng Tiếng Quảng đông là một thứ tiếng Hán cổ và cổ hơn tiếng Hán phổ thông ?
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này