1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quẳng gánh lo đi và vui sống , Dale Carnegie

Chủ đề trong 'Mỹ (United States)' bởi alleykat, 23/08/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống
    (tiếp theo)
    Làm sao trừ được 50% các nỗi lo lắng về công việc làm ăn của chúng ta?
    Nếu bạn là một nhà doanh nghiệp, chắc bạn nghĩ: " Chủ đề chương này thật là bố láo bố lếu. Ta đây làm ăn đã 20 năm nay. Nếu có người nào biết cách trừ được 50 phần trăm nỗi lo lắng về công việc làm ăn, thì người đó tất phải là ta chớ còn ai nữa. Bây giờ lại có kẻ muốn dạy khôn ta, có vô lý hay không?
    Đúng lắm. Mấy năm trước, giá có đọc một nhan đề như vậy, tôi cũng nghĩ y như bạn. Nhan đề đó hứa hẹn nhiều quá. Hứa hẹn suống có tốn gì đâu?
    Chúng ta nên thành thật : Có thể rằng tôi giúp bạn tẩy được 50% nỗi lo lắng về công việc và làm ăn của bạn. Không ai làm được việc đó hết, trừ phi chính bạn, Nhưng điều mà tôi có thể làm được là chỉ cho bạn biết những người khác trừ 50% nỗi lo của họ ra sao- còn bạn phải tự trừ nỗi lo của bạn!
    Chắc bạn nhớ rằng ở một chương trên tôi đã dẫn một câu danh ngôn của bác sĩ Alexis Carrel: Những nhà kinh doanh không biết thắng ưu sầu sẽ chết sớm".
    Vì ưu sầu tai hại như vậy, cho nên nếu tôi giúp bạn trừ được 10% nỗi ưu sầu của bạn thôi, bạn cũng đã thích rồi chứ ?... Thích... Được lắm! Vậy dể tôi kể cho bạn nghe chuyện một nhà kinh doanh đã trẻ nổi 50% ưu tư của ông ta mà lại còn tiết kiệm được 75 % thời giờ bỏ phí trong các cuộc hội nghị để giải quyết vấn đề làm ăn nữa.
    Tôi không kể chuyện ông "X", ông "Y" nào, hoặc "một người quen ở Ohio" cho bạn nghe đâu. Những chuyện như vậy hàm hồ quá, bạn không kiểm tra được hết.
    Chuyện tôi sắp kể là chuyện một người có thật, ông Leoson Shimkin, vừa có cổ phần lại vừa làm giám đốc một nhà xuất bản lâu đời nhất tại Mỹ: Nhà xuất bản Simon Schuster ở Nữu ước.
    Ông Léon Shimkin kể chuyện mình như sau này: "Trong 15 năm, tôi phải bỏ một nửa thời gian làm việc để họp hội nghị và bàn cãi về các vấn đề làm ăn. Chúng tôi hỏi nhau: Nên làm thế nầy? Chúng tôi cáu kỉnh ngồi không yên trong ghế? đi đi lại lại trong phòng, bàn cãi trong vòng lẩn quẩn. Tối đến, tôi mệt lắm, và tin rằng không có cách nào khác hết. Tôi theo cách đó 15 năm và không bao giờ nghĩ rằng có thể kiếm cách khác hiệu quả hơn được. Nếu lúc đó có ai bảo rằng tôi có thể tiết kiệm ba phần tư thời gian dùng trong những hội nghị quay cuồng ấy, và ba phần tư nỗi mệt nhọc về tinh thần của tôi thì chắc tôi đã cho người đó là quá lạc quan, hơi điên và không thực tế chút nào cả. Ấy vậy mà sau này tôi đã kiếm được một phương pháp kết qủa đúng như thế. Tôi đã dùng phương pháp đó tám năm. Kết quả lạ lùng về năng lực cũng như về sức khoẻ và hạnh phúc gia đình của tôi.
    "Có vẻ một trò magic - nhưng cũng như các trò ảo thuật, một khi bạn đã biết, thì thấy nó vô cùng gỉản dị".
    "Đây là bí quyết đó: Trước hết tôi bỏ hẳn cách làm việc mà tôi đã theo 15 năm rồi. Trước kia chúng tôi vào phòng hội nghị, lo lắng, kể lể hết những chõ bất mãn, thất bại trong công việc làm ăn để rồi sau cùng hỏi nhau: "Làm sao bây giờ?" Tôi bỏ hẳn lõi đó đi, lập ra một một quy tắc mới: "Hội viên nào muốn đưa một vấn đề ra bàn cãi, trước hết phải thảo và trình tờ chép những câu trả lời cho bốn câu hỏi này:
    Câu hỏi thứ nhất: Nỗi khó khăn ra sao?
    (Trước kia tôi thường phí một hoặc hai giờ để lo lắng than thở mà chẳng ai biết được một cách rõ ràng vấn đề đó khó khăn ở chỗ nào. Chúng tôi thường phí sức, bàn cãi về nỗi lo của chúng tôi mà không bao giờ chịu khó ghi chép rõ nó lên giấy).
    Câu hỏi thứ nhì: Nguyên nhân nỗi khó khăn ở đâu?
    (Nhớ lại hồi trước mà tôi hong: tôi phí biết bao thời giờ và những bàn cãi, lo lắng mà không bao giờ chịu tìm rõ nguyên nhân đầu tiên của nỗi khó khăn hết).
    Câu thứ ba: Có những giải pháp nào?
    (Hồi trước, mỗi hội viên đề nghị một giải pháp và một hội viên khác chỉ trích giải pháp đó. Ai nấy nổi nóng lên, rồi ra ngoài dầu đề, rốt cuộc không ai nghi lại những giải pháp có thể theo được c).
    Câu hỏi thứ tư: Bạn đề nghị giải pháp nào!
    (Một trong bốn hội viên thường phí hàng giờ để lo lắng quay cuồng về một tình thế nào đó, không bao giờ chịu nghĩ về tất cả những giải pháp có thẻ đưa ra được và cũng không bao giờ chịu ghi lại: Đây, theo ý tôi, giải pháp nầy hơn hết).
    Bây giờ, các hội viên của tôi rất ít khi đem những nỗi khó khăn ra bàn với tôi lắm. Tại sao? Vì muốn trả lời bốn câu hỏi ấy họ phải thu thập đủ các sự kiện à suy nghĩ kỹ về vấn đề. Và sau khi làm những công việc ấy rôi, họ thấy trong bốn trường hợp có tới ba trường hợp họ khỏi phải hỏi ý tôi nữa, vì giải pháp hỏi ý tôi, thì trước kia bàn cãi mất ba giờ, nay cũng chỉ mất một giờ thôi. Vì chúng tôi tuần tự theo một con đường hợp lý để tới một kết quả hữu lý. Vì thế trong hãng Simmon hiện nay chúng tôi phí rất ít thời giờ để lo lắng và bàn tán về những chỗ hư hỏng, sơ sót, mà hành động rất nhiều để cải thiện công việc.
    Bạn tôi, ông Frank Bettger, nhân viên một công ty bảo hiểm quan trọng nhất ở Mỹ nói với tôi rằng ông không những diệt bớt được ưu tư về công việc của ông mà còn tăng số lời lên gấp đôi, nhờ một phương pháp tương tự. Ông nói: "Hồi xưa, khi mới giúp việc cho công ty bảo hiểm, tôi vô cùng hăng hái và yêu nghề. Rồi lần là tôi thất vọng đến nỗi khinh nghề và có ý giải nghệ. Mà có lẽ tôi đã giải nghệ rồi, nếu một buổi sáng kia tôi không ngồi suy nghĩ, ráng kiếm nguyên nhân nỗi thất vọng của tôi.

    1- Trước tiên tôi tự hỏi: "Nguyên nhân thất vọng ở đâu ? ở chỗ kiếm được ít hoa hồng quá, không bõ công vất vả đi chào khách. Trong khi đi chào khách, công việc gì cũng dễ hết, trừ lúc khách ký hợp đồng. Lúc đó thật chán ngắt, hoặc "Thôi để lần sau gặp ông sẽ tính lại". Thế là toi công, chào khách năm lần bẩy lượt như vậy làm cho tôi thất vọng.
    2- Rồi tự hỏi: "Có những giải pháp nào?" Muốn trả lời câu đó, tôi phải tìm tòi sự kiện, tài liệu. Tôi bèn mở cuốn sổ tay của tôi ra và xem xét những con số trong 12 tháng qua. Và tôi tìm thấy một điều làm tôi ngạc nhiên vô cùng là 70% những khách tôi mời được, đều nhận lời ngay từ đầu tôi lại thăm. Thực rõ ràng như mực đen trên giấy trắng. Còn 23 phần trăm nữa nhận lời trong làn thứ nhì. Chỉ có 7 % nhận lời trong những lần mới thứ ba, thứ tư, thứ năm... Mà chính 7 phần trăm đó làm cho tôi cứ mệt nhọc, bực tức mất thời gian. Nói một cách khác thì tôi đã phí 50% cái thời gian làm việc để lượm được một kết quả rất nhỏ là 7 %.
    3. Vậy bây giờ phải làm sao? Không còn phải suy nghĩ gì cả. Tôi giải quyết tức thì: Không mời ai tới hoa hồng nữa và để thời gian đó kiếm mối khác. Kết quả không ngờ. Chỉ trong một thời gian ngắn, tôi làm tăng số hoa hồng lên gần gấp đôi. Như tôi đã nói, ông Frank Bettger hiện nay là một nhân viên công ty bảo hiểm, được nhiều người biết nhất ở Mỹ. Ông làm việc cho công ty Fidelity ở Philadelphia và mỗi năm ký được một triệu mỹ kim hợp đồng bảo hiểm. Vậy mà hồi trước có lần ông tính giải nghệ, chịu nhận là thất bại, cho đến khi ông phân tích được nỗi khó khăn thẳng tiến trên đường thành công.
    Vậy sao bạn không dùng bốn câu hỏi của ông để giải quyết nỗi khó khăn trong việc làm ăn của bạn? Nó sẽ giúp bạn trừ được 50% nỗi lo. Bạn thử xem được không nào? Tôi xin nhắc lại bốn câu hỏi ấy:
    1-Nỗi khó khăn ra sao?
    2-Nguyên nhân ở đâu?
    3-Có cách nào giải quyết được?
    4-Giải pháp nào hơn cả?
    Được alleykat sửa chữa / chuyển vào 01:07 ngày 24/08/2003
  2. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống
    (tiếp theo)
    Chín lời khuyên để đọc cuốn sách này cho có lợi nhiều hơn
    1.Luyện có một lòng ham muốn sâu xa, nhiệt liệt có những quy tắc thắng ưu tư.
    2.Đọc mỗi chương hai lần rồi hãy qua chương sau.
    3.Trong khi đọc thường ngừng lại và tự hỏi xem nên áp dụng mỗi quy tắc cách nào?
    4.Gạch dưới mỗi ý quan trọng.
    6. Áp dụng những quy tắc trong mỗi cơ hội. Coi cuốn này như một cuốn sổ tay trong khi làm việc; dùng nó để giải quyết áp dụng những nỗi khó khăn hàng ngày.
    7.Đặt ra lệ: hễ bạn nào bắt gặp ta không theo đúng những quy tắc trong sách thì phải nộp người đó 10 đồng.
    8.Ghi lại những tiến bộ của ta trong mỗi tuần. Tự hỏi: ta đã lầm lẫn chỗ nào? Ta đã cải thiện được ở chỗ nào? Đã học thêm được bài gì?
    9.Có một tập nhật ký ghi rõ ràng ngày nào ta đã áp dụng những quy tắc trong cuốn này và áp dụng ra sao?
    Phần thứ ba
    Diệt tật ưu phiền đi, đừng để nó diệt ta
    Chương VI
    Khuyên ai chớ có ngồi rồi
    Tôi không bao giờ quên đêm đó, cách đây ít năm, khi ông Marcon J.Douglas theo học một trong những lớp giảng của tôi. Dưới đây là chuyện thiệt do ông kể cho tôi nghe. Gia đình ông gặp tai họa liên tiếp. Lần đầu, đứa con gái cưng của ông, mới năm tuổi, thình lình chết. Hai vợ chồng ông tưởng không sao chịu nổi cảnh từ biệt đó. Mười tháng sau ông bà lại bỏ một người con gái nữa, sanh được năm ngày.
    Hai cái tang kế nhau, đau đớn thay! Ông mất ngủ, mất ăn, cũng không nghỉ ngơi được nữa. Bộ thần kinh của ông xúc động mạnh quá, lòng tin tưởng tiêu tan. Sau cùng ông lại khám bác sĩ. Ông ta thử cả hai, nhưng đều vô hiệu. Cơ thể ông như bị kẹp vào một chiếc kìm, mà hai mỏ kìm mỗi ngày một siết chặt lại. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!
    Ông kể: "Nhưng cũng may, tôi còn một đứa con trai bốn tuổi. Nhờ cháu, tôi tìm được giải pháp cho tình thế bi thảm đó. Một buổi chiều, trong kho tôi ngồi than thờ một mình, cháu bảo tôi: "Ba ơi, đóng cho con chiếc tàu, ba nhé!". Tôi không buồn đóng tàu chút nào, mà cũng không buồn làm việc gì cả. Nhưng cháu nằng nặc đòi cho kỳ được. Tôi đành phải chiều cháu.
    Đóng chiếc đồ chơi đó, mất khoảng ba giờ. Lúc đã xong, tôi nhận thấy rằng đã mấy tháng nay, lần đó tôi mới được hưởng ba giờ bình tĩnh, hưu dưỡng tinh thần.
    Nhờ sự phát giác ấy mà tinh thần tôi ra khỏi cõi mê man và bắt đầu suy nghĩ được một chút. Trước kia óc tôi quay cuồng, có nghĩ ngợi gì được đâu. Tôi nhân thấy là trong khi bận làm một việc nào đó, cần phải tính toán, nỗi lo buồn khó mà tồn tại được. Trong trường hợp của tôi, công việc đóng tàu đã thắng nỗi buồn của tôi. Cho nên tôi quyết định kiếm việc mà làm để khỏi ngồi không.
    Ngay đêm đó, tôi đi khắp phòng này sang phòng khác, lập tức một bảng kê những việc cần phải thi hành. Có biết bao đồ đạc phải sửa lại: tủ sách, bực thang, cửa sổ, mái ngói, quả nắm, ống khoá, vòi rỉ nước. Thiệt là lạ lùng, trong hai tuần lễ, tôi kể ra được 242 công việc sửa chữa phải làm.
    Trong hai năm nay, tôi đã sửa chữa gần hết. Hơn nữa tôi lại còn làm nhiều việc khuyến khích kẻ khác, thành thử đời tôi đã được đầy đủ. Mỗi tuần tôi bỏ ra hai đêm theo lớp giảng cho người lớn ở Nữu ước. Tôi giúp việc xã hội trong châu thành, làm hội trưởng hội học sinh. Tôi dự hàng chục cuộc hội họp và quyên tiền giúp hội Hồng thập tự. Còn nhiều hoạt động khác nữa. Bây giờ tôi bận việc tới nỗi không có thời gian để lo buồn.
    "Không có thời gian để lo lắng!" Chính ông Winston Churrchill cũng nói vậy khi ông làm việc 18 giờ một ngày trong những tháng nguy kịch nhất hồi chiến tranh. Người ta hỏi ông có lo về nhiệm vụ ghê gớm của ông không, ông đáp: "Tôi quá bận, không có thời gian để lo chi tiết".
    Ông Charles Ketting cũng ở trong tình trạng đó khi ông bắt đầu chế một thứ máy cho xe hơi tự động, khỏi cần quay. Ông mới từ chức phó trưởng ban nghiên cứu của hãng đó. Ban Motors và qua giúp việc cho ban nghiên cứu của hãng đó. Ban này nổi tiếng khắp thế giới. Nhưng hồi ấy ông nghèo tới nỗi phải dùng một cái nhà để chứa cỏ khô làm phòng thí nghiệm. Nhờ có 1.500 mỹ kim của vợ ông ký cóp trong khi dạy đàn Piano mà ông có tiền độ nhật, nhưng ông lại phải mượn trước 500 mỹ kim ở số tiền bảo hiểm nhân mạng của ông nữa mới đủ sống. Tôi hỏi bà Kettering trong mấy năm ấy bà có lo buồn không. Bà đáp: "Có, Tôi lo buồn đến nỗi mất ngủ; nhưng nhà tôi thì không. Nhà tôi say sưa làm việc, không hề còn biết lo buồn".
    Nhà bác học trứ danh Pasteur, đã nói về "sự bình tĩnh tạo các thư viện và các phòng thí nghiệm". Tại sao vậy? Vì những người ở trong những phòng ấy thường mê man vào công việc của họ, không còn thời giờ để lo nghĩ về mình. Những nhà nghiên cứu ít khi bị bệnh thần kinh suy nhược. Họ không có thời giờ để phung phí.
    Chỉ làm việc không ngừng, cũng đủ cho nỗi lo âu phải tiêu tan. Tại sao lại gin dị như vậy? Đó là nhờ luật sau này, một trong những luật quan trọng nhất mà các tâm lý gia đã tìm ra được; óc người ta, dù thông minh đến đâu đi nữa, cũng không thể đồng thời nghĩ đến hai điều. Bạn không tin vậy ư? Được, bây giờ bạn thí nghiệm đi. Bạn hãy ngả lưng vào ghế, nhắm mắt lại, rồi ráng cùng một lúc nghĩ tới tượng nữ thần Tự Do và tới công việc bạn định làm sáng mai. Bạn thấy rằng nghĩ tới cái này rồi tới cái kia thì được, còn đồng thời nghĩ tới cả hai thì không thể nào đuợc phải không? Những cảm xúc của ta cũng vậy. Không thể đồng thời thấy hăng hái nhiệt liệt về một công việc nào đó và thấy chán nản thất vọng vì một nỗi lo buồn khác. Cảm xúc này xô đẩy cảm xúc kia đi và sự phát giác giản dị ấy đã giúp các y sĩ chuyên trị bệnh thần kinh trong quân đội làm được việc phi thường, hồi chiến tranh vừa rồi. Khi binh sĩ ở mặt trận về, tinh thần hoảng loạn đến nỗi thành bệnh thì các bác sĩ ra phương thuốc: "Đừng cho họ ngồi không". Người ta không để các bệnh nhân được ngồi yên một phút nào, thường là bắt họ phải hoạt động ở ngoài trời như câu cá, săn bắn, đánh banh, chơi cầu, chụp hình, làm vườn, hoặc khiêu vũ khiến họ chẳng có phút nào rảnh để nhớ lại những nỗi ghê gớm ở trận tiền. Phương pháp trị bệnh thần kinh đó của các bác sĩ tên là "tác động liệu pháp", thật không mới mẻ gì. Các y sĩ Hy Lạp cũng đã dùng nó 500 năm trước Thiên Chúa Giáng Sinh.
    Thời ông Benjamin Franklin, các tín đồ phái Quaker cũng thường dùng nó ở tỉnh Philadephia. Năm 1774 một người lại thăm dưỡng đường do một tín đồ phái ấy lập ra, đã lấy làm bất bình khi thấy những người đau bệnh thần kinh bị bắt phải đan giỏ mây và y liền cho rằng các tín đồ đã lợi dụng những kẻ khốn cùng kia. Các tín đồ bèn giảng cho y hay rằng họ nhận thấy hễ người bệnh làm một chút thì bệnh nhân tình bớt đi, vì thần kinh của bệnh nhân được yên tĩnh.
    Những nhà chữa bệnh thần kinh đều nói rằng công việc - nghĩa là luôn luôn có việc làm - là thứ thuốc an thần hiệu nghiệm nhất.
    Ông Longfelow, một thi hào Mỹ, đã tìm được chân lý đó khi bà vợ trẻ của ông mất. Nguyên một hôm bà đương đốt xi trên ngọn nến thì áo bỗng bắt lửa. Ông nghe tiếng kêu, chạy lại, thì đã không cứu được nữa vì bị phỏng quá nặng. Trong một thời gian khá lâu, thi hào nhớ cảnh ghê rợn ấy nên đau xót quá đến gần hoá điên; nhưng may sao ông còn ba đứa con nhỏ phải chăm sóc. Thế là mặc dầu đau xót trong lòng, ông ráng làm tròn bổn phận "gà trống nuôn con". Ông dắt chúng đi chơi, kể chuyện cho chúng nghe, đùa với chúng, và viết bài thơ bất hủ "Giờ của trẻ em" để tả cảnh thân mật với trẻ con. Ông cũng đã dịch những tác phẩm của Dante và tất cả những công việc đó làm ông luôn luôn bận rộn, quên hẳn bản thân để mà lấy lại được sự bình yên trong tâm hồn. Đúng như lời Tennyson đã nói khi bạn thân nhất của ông là Arrthur Hallam qua đời: " Tôi phải cắm đầu làm việc, không thì sự thất vọng cũng sẽ giết tôi thôi".
    Được alleykat sửa chữa / chuyển vào 22:56 ngày 25/08/2003
  3. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống
    (tiếp theo)
    Chín lời khuyên để đọc cuốn sách này cho có lợi nhiều hơn
    1.Luyện có một lòng ham muốn sâu xa, nhiệt liệt có những quy tắc thắng ưu tư.
    2.Đọc mỗi chương hai lần rồi hãy qua chương sau.
    3.Trong khi đọc thường ngừng lại và tự hỏi xem nên áp dụng mỗi quy tắc cách nào?
    4.Gạch dưới mỗi ý quan trọng.
    6. Áp dụng những quy tắc trong mỗi cơ hội. Coi cuốn này như một cuốn sổ tay trong khi làm việc; dùng nó để giải quyết áp dụng những nỗi khó khăn hàng ngày.
    7.Đặt ra lệ: hễ bạn nào bắt gặp ta không theo đúng những quy tắc trong sách thì phải nộp người đó 10 đồng.
    8.Ghi lại những tiến bộ của ta trong mỗi tuần. Tự hỏi: ta đã lầm lẫn chỗ nào? Ta đã cải thiện được ở chỗ nào? Đã học thêm được bài gì?
    9.Có một tập nhật ký ghi rõ ràng ngày nào ta đã áp dụng những quy tắc trong cuốn này và áp dụng ra sao?
    Phần thứ ba
    Diệt tật ưu phiền đi, đừng để nó diệt ta
    Chương VI
    Khuyên ai chớ có ngồi rồi
    Tôi không bao giờ quên đêm đó, cách đây ít năm, khi ông Marcon J.Douglas theo học một trong những lớp giảng của tôi. Dưới đây là chuyện thiệt do ông kể cho tôi nghe. Gia đình ông gặp tai họa liên tiếp. Lần đầu, đứa con gái cưng của ông, mới năm tuổi, thình lình chết. Hai vợ chồng ông tưởng không sao chịu nổi cảnh từ biệt đó. Mười tháng sau ông bà lại bỏ một người con gái nữa, sanh được năm ngày.
    Hai cái tang kế nhau, đau đớn thay! Ông mất ngủ, mất ăn, cũng không nghỉ ngơi được nữa. Bộ thần kinh của ông xúc động mạnh quá, lòng tin tưởng tiêu tan. Sau cùng ông lại khám bác sĩ. Ông ta thử cả hai, nhưng đều vô hiệu. Cơ thể ông như bị kẹp vào một chiếc kìm, mà hai mỏ kìm mỗi ngày một siết chặt lại. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!
    Ông kể: "Nhưng cũng may, tôi còn một đứa con trai bốn tuổi. Nhờ cháu, tôi tìm được giải pháp cho tình thế bi thảm đó. Một buổi chiều, trong kho tôi ngồi than thờ một mình, cháu bảo tôi: "Ba ơi, đóng cho con chiếc tàu, ba nhé!". Tôi không buồn đóng tàu chút nào, mà cũng không buồn làm việc gì cả. Nhưng cháu nằng nặc đòi cho kỳ được. Tôi đành phải chiều cháu.
    Đóng chiếc đồ chơi đó, mất khoảng ba giờ. Lúc đã xong, tôi nhận thấy rằng đã mấy tháng nay, lần đó tôi mới được hưởng ba giờ bình tĩnh, hưu dưỡng tinh thần.
    Nhờ sự phát giác ấy mà tinh thần tôi ra khỏi cõi mê man và bắt đầu suy nghĩ được một chút. Trước kia óc tôi quay cuồng, có nghĩ ngợi gì được đâu. Tôi nhân thấy là trong khi bận làm một việc nào đó, cần phải tính toán, nỗi lo buồn khó mà tồn tại được. Trong trường hợp của tôi, công việc đóng tàu đã thắng nỗi buồn của tôi. Cho nên tôi quyết định kiếm việc mà làm để khỏi ngồi không.
    Ngay đêm đó, tôi đi khắp phòng này sang phòng khác, lập tức một bảng kê những việc cần phải thi hành. Có biết bao đồ đạc phải sửa lại: tủ sách, bực thang, cửa sổ, mái ngói, quả nắm, ống khoá, vòi rỉ nước. Thiệt là lạ lùng, trong hai tuần lễ, tôi kể ra được 242 công việc sửa chữa phải làm.
    Trong hai năm nay, tôi đã sửa chữa gần hết. Hơn nữa tôi lại còn làm nhiều việc khuyến khích kẻ khác, thành thử đời tôi đã được đầy đủ. Mỗi tuần tôi bỏ ra hai đêm theo lớp giảng cho người lớn ở Nữu ước. Tôi giúp việc xã hội trong châu thành, làm hội trưởng hội học sinh. Tôi dự hàng chục cuộc hội họp và quyên tiền giúp hội Hồng thập tự. Còn nhiều hoạt động khác nữa. Bây giờ tôi bận việc tới nỗi không có thời gian để lo buồn.
    "Không có thời gian để lo lắng!" Chính ông Winston Churrchill cũng nói vậy khi ông làm việc 18 giờ một ngày trong những tháng nguy kịch nhất hồi chiến tranh. Người ta hỏi ông có lo về nhiệm vụ ghê gớm của ông không, ông đáp: "Tôi quá bận, không có thời gian để lo chi tiết".
    Ông Charles Ketting cũng ở trong tình trạng đó khi ông bắt đầu chế một thứ máy cho xe hơi tự động, khỏi cần quay. Ông mới từ chức phó trưởng ban nghiên cứu của hãng đó. Ban Motors và qua giúp việc cho ban nghiên cứu của hãng đó. Ban này nổi tiếng khắp thế giới. Nhưng hồi ấy ông nghèo tới nỗi phải dùng một cái nhà để chứa cỏ khô làm phòng thí nghiệm. Nhờ có 1.500 mỹ kim của vợ ông ký cóp trong khi dạy đàn Piano mà ông có tiền độ nhật, nhưng ông lại phải mượn trước 500 mỹ kim ở số tiền bảo hiểm nhân mạng của ông nữa mới đủ sống. Tôi hỏi bà Kettering trong mấy năm ấy bà có lo buồn không. Bà đáp: "Có, Tôi lo buồn đến nỗi mất ngủ; nhưng nhà tôi thì không. Nhà tôi say sưa làm việc, không hề còn biết lo buồn".
    Nhà bác học trứ danh Pasteur, đã nói về "sự bình tĩnh tạo các thư viện và các phòng thí nghiệm". Tại sao vậy? Vì những người ở trong những phòng ấy thường mê man vào công việc của họ, không còn thời giờ để lo nghĩ về mình. Những nhà nghiên cứu ít khi bị bệnh thần kinh suy nhược. Họ không có thời giờ để phung phí.
    Chỉ làm việc không ngừng, cũng đủ cho nỗi lo âu phải tiêu tan. Tại sao lại gin dị như vậy? Đó là nhờ luật sau này, một trong những luật quan trọng nhất mà các tâm lý gia đã tìm ra được; óc người ta, dù thông minh đến đâu đi nữa, cũng không thể đồng thời nghĩ đến hai điều. Bạn không tin vậy ư? Được, bây giờ bạn thí nghiệm đi. Bạn hãy ngả lưng vào ghế, nhắm mắt lại, rồi ráng cùng một lúc nghĩ tới tượng nữ thần Tự Do và tới công việc bạn định làm sáng mai. Bạn thấy rằng nghĩ tới cái này rồi tới cái kia thì được, còn đồng thời nghĩ tới cả hai thì không thể nào đuợc phải không? Những cảm xúc của ta cũng vậy. Không thể đồng thời thấy hăng hái nhiệt liệt về một công việc nào đó và thấy chán nản thất vọng vì một nỗi lo buồn khác. Cảm xúc này xô đẩy cảm xúc kia đi và sự phát giác giản dị ấy đã giúp các y sĩ chuyên trị bệnh thần kinh trong quân đội làm được việc phi thường, hồi chiến tranh vừa rồi. Khi binh sĩ ở mặt trận về, tinh thần hoảng loạn đến nỗi thành bệnh thì các bác sĩ ra phương thuốc: "Đừng cho họ ngồi không". Người ta không để các bệnh nhân được ngồi yên một phút nào, thường là bắt họ phải hoạt động ở ngoài trời như câu cá, săn bắn, đánh banh, chơi cầu, chụp hình, làm vườn, hoặc khiêu vũ khiến họ chẳng có phút nào rảnh để nhớ lại những nỗi ghê gớm ở trận tiền. Phương pháp trị bệnh thần kinh đó của các bác sĩ tên là "tác động liệu pháp", thật không mới mẻ gì. Các y sĩ Hy Lạp cũng đã dùng nó 500 năm trước Thiên Chúa Giáng Sinh.
    Thời ông Benjamin Franklin, các tín đồ phái Quaker cũng thường dùng nó ở tỉnh Philadephia. Năm 1774 một người lại thăm dưỡng đường do một tín đồ phái ấy lập ra, đã lấy làm bất bình khi thấy những người đau bệnh thần kinh bị bắt phải đan giỏ mây và y liền cho rằng các tín đồ đã lợi dụng những kẻ khốn cùng kia. Các tín đồ bèn giảng cho y hay rằng họ nhận thấy hễ người bệnh làm một chút thì bệnh nhân tình bớt đi, vì thần kinh của bệnh nhân được yên tĩnh.
    Những nhà chữa bệnh thần kinh đều nói rằng công việc - nghĩa là luôn luôn có việc làm - là thứ thuốc an thần hiệu nghiệm nhất.
    Ông Longfelow, một thi hào Mỹ, đã tìm được chân lý đó khi bà vợ trẻ của ông mất. Nguyên một hôm bà đương đốt xi trên ngọn nến thì áo bỗng bắt lửa. Ông nghe tiếng kêu, chạy lại, thì đã không cứu được nữa vì bị phỏng quá nặng. Trong một thời gian khá lâu, thi hào nhớ cảnh ghê rợn ấy nên đau xót quá đến gần hoá điên; nhưng may sao ông còn ba đứa con nhỏ phải chăm sóc. Thế là mặc dầu đau xót trong lòng, ông ráng làm tròn bổn phận "gà trống nuôn con". Ông dắt chúng đi chơi, kể chuyện cho chúng nghe, đùa với chúng, và viết bài thơ bất hủ "Giờ của trẻ em" để tả cảnh thân mật với trẻ con. Ông cũng đã dịch những tác phẩm của Dante và tất cả những công việc đó làm ông luôn luôn bận rộn, quên hẳn bản thân để mà lấy lại được sự bình yên trong tâm hồn. Đúng như lời Tennyson đã nói khi bạn thân nhất của ông là Arrthur Hallam qua đời: " Tôi phải cắm đầu làm việc, không thì sự thất vọng cũng sẽ giết tôi thôi".
    Được alleykat sửa chữa / chuyển vào 22:56 ngày 25/08/2003
  4. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống
    (tiếp theo)
    Khuyên ai chớ có ngồi rồi
    Trong những lúc cắm đầu cắm cổ làm việc hàng ngày như con trâu kéo cầy, thì phần đông chúng ta không thấy sao hết. Nhưng những ngày nghỉ mới là những giờ nguy hiểm nhất. Chính lúc ta được rảnh rang để hưởng vui thú trên đời và đáng lẽ được sung sướng thì nỗi buồn chán, lo lắng len lỏi vào tâm hồn ta. Lúc đó là lúc ta tự hỏi đời người ta rồi đấu có nên cái thá gì không? Ông chủ của ta muốn nói gì khi ông vừa chỉ trích ta? Mà sao đầu ta càng ngày càng hói đi như vậy nhỉ? Khi không có việc gì làm thì óc ta như trông rỗng. Mà các sinh viên đại học đều biết rằng: "Tạo hoá ghét sự trống rỗng lắm". Bạn và tôi, chúng ta thường thấy một vật gần như trống rỗng; bóng đèn điện. Đập vỡ nó đi tức thì không khí ùa vào lấp khoảng trống ấy.
    Óc ta cũng vậy. Khi nó trống rỗng thì tạo hoá cho một cái gì ùa vào trong đó liền. Cái đó là cái gì? Thường thì là những cảm xúc như lo lắng, sợ sệt, ghen ghét, oán hờn, vì từ khi tổ tiên ta còn ăn lông ở lỗ, những nghịch cảnh thiên nhiên đã gây ở trong lòng loài người những cảm xúc rất mạnh ấy, mạnh tới nỗi đuổi ra khỏi óc ta tất cả những cảm xúc và tư tương vui vẻ, êm ái, dịu dàng.
    Ông James L. Mursel dạy môn giáo khoa ở trường sư phạm Columbia, đã nhận rõ như vậy khi ông nói : "Sự lo buồn giầy vò bạn không phải trong lúc bạn làm việc, mà trong lúc bạn nghỉ ngơi. Lúc đó óc tưởng tượng của bạn hỗn loạn. Bạn tưởng tượng được cả những cái vô lý, lố bịch nhất và phải phóng đại cả những lỗi lầm cực nhỏ... Lúc đó, óc bạn như một cái máy quay thả cửa, quay tít mù, khiến cho những bộ phận chỗng đỡ có thể bị cháy hoặc tan tành ra từng mảnh. Vậy thì muốn trị chứng lo buồn không gì bằng kiếm việc ích lợi để rồi say sưa làm việc đó".
    Nhưng không cần phải là một giáo sư đại học mới nhận thấy và thi hành cái chân lý ấy đâu. Trong chiến tranh vừa rồi, một bà cụ già ở Chicago đã tự nhận ra rằng "phương thức trị bệnh lo buồn là luôn luôn kiếm một việc gì ích lợi để làm". Tôi gặp bà ta ngồi với ông chồng trong một toa xe lửa có phòng ăn, từ New York về một xứ có nông trại của tôi là tôi vốn ghét lối kể thí dụ mà không cho biết tên và địa chỉ của các nhân vật để chứng minh cho câu chuyện.
    Hai ông bà kể với tôi rằng hôm trước có vụ oanh tạc Trân Châu Cảng thì hôm sau người con độc nhất của ông bà phải nhập ngũ. Rồi lo lắng về con quá, bà ta gầy ốm hẳn đi vì những câu hỏi thầm: "Con ta ở đâu ? " Có được ở yên không? Hay là đã ra trận? Có bị thương không? hay là chết rồi? Khi tôi hỏi làm sao dẹp được nỗi lo âu ấy, bà đáp: "Tôi bầy ra việc để làm. Mới đầu tôi cho người giúp việc nghỉ và tự làm hết việc trong nhà cho khỏi ngồi không. Nhưng bấy nhiêu chưa đủ, vì những công việc làm đó gần như máy chạy không phông phải suy nghĩ, cho nên tôi vẫn lo buồn. Khi làm giường, rửa chén, thấy rằng phút nào nghỉ ngơi mới được. Và tôi liền xin một chân bán hàng ở một tiệm lớn".
    Bà tiếp: "Như vậy có hiệu quả. Từ đó tôi phải lăng xăng: khách hàng bao vây tôi, hỏi giá cả, đòi coi màu sắc, kích thước. Không bao giờ tôi rảnh một giây để lo tới cái gì khác ngoài công việc đương làm, và đem tới, chân đau như dần, cũng không còn nghĩ gì được. Vừa mới ăn xong là ném mình xuống giường và ngủ li bì. Thật tôi không còn thì giờ mà cũng không còn sức để lo lắng nữa". Như vậy bà ấy đã tự tìm thấy chân lý của John Cower Powy trong cuốn: "Nghệ thuật để quên điều bất hạnh". Ông viết: " Khi mê man vào công việc cần phải làm, ta thấy yên ổn dễ chịu, bình tĩnh hoàn toàn trong tâm khảm và khoan khoái dịu được thần kinh".
    Mới đây người nữ thám hiểm nổi danh nhất thế giới là bà Osa Johnson cho tôi nghe cách bà diệt ưu phiền. Bà đọc cuốn "Tôi kết hôn với mạo hiểm" sẽ biết đời bà nếu có một phụ nữ nào đã đính hôn với Mạo hiểm thì chính là bà vậy. Ông Martin Johnson cưới bà khi bà mới 16 tuổi, đã lôi bà khỏi châu thành Chanute tại Kansas và đặt bà ngay vào giữa khi rừng ở Bornéo. Trong một phần tư thế kỷ, cặp vợ chồng gốc gác ở Kansas dó, du lịch khắp thế giời, quay phim về đời sống man dã của những bộ lạc mọi gần bị diệt chủng ở Á Châu và Phi Châu. Cách đây chín năm ông bà trở về Mỹ, đi diễn thuyết cùng chiếu nhưng phim tài liệu ấy khắp tỉnh này sang tỉnh khác. Do đó có lần ông bà đi máy bay từ Denver tới bờ biến Thái Bình Dương, và máy bay đâm vào một trái núi. Ông chết tức thì, còn bà bị thương nặng đến nỗi bác sĩ nói phải suốt đời nằm liệt. Họ nói vậy là vì họ chưa biết bà Osa Johnson: Ba tháng sau bà ngồi trong một cái ghế có bánh xe diễn thuyết trước một số thính giả rất đông. Rồi mùa đó, bà dùng kiểu ấy diễn thuyết trên 100 lần. Khi tôi hỏi bà tại sao lại tự buộc khổ vào thân mà làm vậy, bà đáp: "Để khỏi có thời gian ưu tư buồn chán". Bà Osa Johnson đã tìm thấy chân lý mà Tennyson đã phô diễn vào thi ca cách đây khoảng một thế kỷ: "Tôi phải cặm cụi làm việc nếu không thì sự thất vọng chán nản sẽ giết tôi mất".
    Đô Đốc Byrd cũng đã tìm ra chân lý ấy khi ông sống một mình trong một cái chòi bị vùi lấp dưới lớp băng tuyết mênh mông, bao phủ Nam cực như một cái nón đội lên trái đất - một lớp đá băng trùm một đại lục bí mật, rộng lớn hơn cả diện tích của Châu Âu và nước Mỹ cộng lại. Đô đốc Byrd sống cô độc ở đó trong năm tháng. Suốt một trăm dậm ở chung quanh không có một sinh vật nào hết. Tiết trời lạnh tới nỗi ông nghe thấy hơi thở của ông đóng băng lại thành những tinh thể nhỏ xíu mỗi khi gió đánh bạt hơi thở qua tai. Trong cuốn "Cô đơn" , ông đã kể rõ 5 tháng sống trong bối cảnh đêm tối, làm cho ta phát nản phát điên. Ngày cũng tối như đêm. Ông phải kiếm việc làm để cho tinh thần khỏi bị rối loạn. Ông nói: "Đêm tới, trước khi tắt đèn, ông tập thói quen vạch rõ công việc hôm sau. Ví dụ như định để một giờ đào hầm ra, nửa giờ san phẳng đống tuyết, một giờ chêm đống thùng xăng cho được vững, một giờ đục những ngăn chứa sách trong bức tường hầm đựng thức ăn và hai giờ để thay một cây ngang gẫy trong chiếc xe". Ông tiếp: "Nhờ đó tôi thấy tự chủ được mình. Không thế thì chuỗi ngày của tôi không có mục đích, mà không có mục đích thì đời tôi chắc đã tan rã rồi tàn luôn vậy".
    Cho nên nếu bạn và tôi, ta có ưu phiền thì cứ nhớ tới phương thuốc cũ kỹ những rất công hiệu ấy, là bày ra việc làm. Lời khuyên đó không phải riêng của bác sĩ Richard C. Cabol (trước làm ở đại học y khoa Harvard) mà thôi đâu. Trong cuốn: "Loài người sống bằng gì?". Ông nói: "Vì là y sĩ, tôi có cái vui thấy sự hoạt động chữa được người mắc bệnh thần kinh chân ray run run, tê liệt. Bệnh ấy do nghi ngờ, do dự, sợ sệt quá mà sinh ra. - Sự làm việc đem lại cho ta sự can đảm, mà sự can đảm, cũng như lòng tự tin, đã giúp ông Emerson lưu danh muôn thuở".
    Nếu bạn và tôi không kiếm ra việc để làm, cứ ngồi không mà nghĩ vẩn vơ, thì sẽ có một bầy quỷ dữ sinh ra và đục khoét, phá tan năng lực hành động và ý chí của ta. Tôi được biết một nhà buôn ở New York đã thắng bầy quỷ dữ đó bằng cách cắm đầu làm việc luôn tay, đến nỗi không còn thời giờ để ưu phiền nữa. Ông tên Tromper Longmay và hãng ông nằm tại số 40 đường Wall street, NY. Ông theo lớp giảng của tôi. Câu chuyện của ông hay và cảm động tới nỗi sau mỗi buổi học, tôi mời ông lại dùng bữa tối với tôi. Ông ngồi ở khách sạn tới quá nửa đêm, bàn bạc về những kinh nghiệm của ông. Ông kể với tôi như vầy: "Mười tám năm trước, tôi ưu phiền tới mất ngủ. Tôi nhăn nhó, cáu kỉnh... Tôi có cảm tưởng sắp bị thần kinh suy loạn. Mà tôi ưu phiền không phải là vô cớ. Nguyên tôi làm thủ quỹ một công ty bán trái cây ở New York. Chúng tôi bỏ ra nửa triệu mỹ kim để mua trái dâu về đóng hộp. Đã 20 năm rồi chúng tôi bán dâu hộp cho những hãng nước đá. Thình lình bán không được nữa vì hãng như National Dairyand Borden gia tăng năng lực sản xuất lên rất nhanh và chỉ nhận mua dâu đóng thùng, cho được rẻ và đỡ mất thời gian. Thế là không những nửa triệu mỹ kim trái dâu ấy đành bỏ ế, mà lại còn số dâu trị giá môt triệu mỹ kim, theo giao kèo, phải mua trong 12 tháng sau nữa. Làm sao tiêu thụ được bây giờ? Chúng tôi đã vay ngân hàng 350.000 dollars. Không có cách nào trả nổi mà cũng không vay thêm được. Vậy tôi có lo lắng cũng là lẽ tự nhiên. Tôi chạy lại xưởng ở California, ráng làm cho ông hội trưởng hiều rằng thời vận đã xui, và chính tôi đang bị phá sản. Ông nhất định không tin, ông đổ lỗi cho cơ quan thương mại của chúng tôi ở New York. Tội nghiệp cho họ! Sau tôi phải thuyết phục mất mấy ngày, ông mới chịu ngưng đóng hộp dâu và đem dâu tươi bán ở chợ San Francisco. Như vậy là nỗi khó khăn của chúng tôi gần giải quyết xong. Đáng lẽ tôi phải hết lo , nhưng trái lại, lo lắng là một thói quen, mà tôi có thói tệ hại ấy đuợc đâu. Khi tôi trở lại New York, cái gì cũng làm cho tôi lo, lo về số trái cây mua từ Italy, hay ở Hawai và trăm ngàn thứ nữa. Tôi nhăn nhó càu nhàu mất ngủ và như vừa mới nói, tôi muốn loạn óc.

    Đến khi gần tuyệt vọng, tôi quyết định một lối sống mới, nhờ đó mà ngủ được và hết lo. Tôi đi tìm việc làm. Tôi cặm cụi vào những việc nào choán hết tâm trí tôi, đến nỗi tôi không còn chút thời giờ nào để lo buồn nữa. Trước kia tôi làm việc 7 giờ một ngày, Bây giờ một ngày tôi làm 15, 16 giờ. Tôi nhận thêm những phận sự, trách nhiệm mới. Nửa đêm về nhà, tôi mệt mỏi đến nỗi vừa lăn xuống giường được vài giây đã thiếp đi rồi. Tôi theo đúng chương trình này trong khoảng ba tháng, thành thử tôi đã bỏ được tật hay lo, sau đó trở lại làm việc bảy tám giờ như đời sống cũ. Chuyện đó xảy ra 18 năm trước. Từ đó đến nay không bao giờ tôi lo lắng hoặc mất ngủ nữa''.
    Ông Bernard Shaw có lý. Ông tóm tắt hết những điều đó trong câu này: "Có muốn khốn khổ thì cứ phí công ngồi tự hỏi xem mình sướng hay khổ ". Vậy bạn đừng bao giờ phí công nghĩ đến điều đó nhé! Hãy xắn tay áo lên và làm việc. Máu bạn sẽ lưu thông, óc bạn sẽ họat động và chẳng lâu đâu, sự dồi dào của nhựa sống chạy khắp cơ thể bạn sẽ đuổi ưu phiền ra khỏi đầu óc bạn ngay. Kiếm việc ra mà làm. Đừng ngồi không đó là phương thức rẻ nhất ở đời - mà cũng thần hiệu nhất nữa.
    All you need is Love . . .
  5. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống
    (tiếp theo)
    Khuyên ai chớ có ngồi rồi
    Trong những lúc cắm đầu cắm cổ làm việc hàng ngày như con trâu kéo cầy, thì phần đông chúng ta không thấy sao hết. Nhưng những ngày nghỉ mới là những giờ nguy hiểm nhất. Chính lúc ta được rảnh rang để hưởng vui thú trên đời và đáng lẽ được sung sướng thì nỗi buồn chán, lo lắng len lỏi vào tâm hồn ta. Lúc đó là lúc ta tự hỏi đời người ta rồi đấu có nên cái thá gì không? Ông chủ của ta muốn nói gì khi ông vừa chỉ trích ta? Mà sao đầu ta càng ngày càng hói đi như vậy nhỉ? Khi không có việc gì làm thì óc ta như trông rỗng. Mà các sinh viên đại học đều biết rằng: "Tạo hoá ghét sự trống rỗng lắm". Bạn và tôi, chúng ta thường thấy một vật gần như trống rỗng; bóng đèn điện. Đập vỡ nó đi tức thì không khí ùa vào lấp khoảng trống ấy.
    Óc ta cũng vậy. Khi nó trống rỗng thì tạo hoá cho một cái gì ùa vào trong đó liền. Cái đó là cái gì? Thường thì là những cảm xúc như lo lắng, sợ sệt, ghen ghét, oán hờn, vì từ khi tổ tiên ta còn ăn lông ở lỗ, những nghịch cảnh thiên nhiên đã gây ở trong lòng loài người những cảm xúc rất mạnh ấy, mạnh tới nỗi đuổi ra khỏi óc ta tất cả những cảm xúc và tư tương vui vẻ, êm ái, dịu dàng.
    Ông James L. Mursel dạy môn giáo khoa ở trường sư phạm Columbia, đã nhận rõ như vậy khi ông nói : "Sự lo buồn giầy vò bạn không phải trong lúc bạn làm việc, mà trong lúc bạn nghỉ ngơi. Lúc đó óc tưởng tượng của bạn hỗn loạn. Bạn tưởng tượng được cả những cái vô lý, lố bịch nhất và phải phóng đại cả những lỗi lầm cực nhỏ... Lúc đó, óc bạn như một cái máy quay thả cửa, quay tít mù, khiến cho những bộ phận chỗng đỡ có thể bị cháy hoặc tan tành ra từng mảnh. Vậy thì muốn trị chứng lo buồn không gì bằng kiếm việc ích lợi để rồi say sưa làm việc đó".
    Nhưng không cần phải là một giáo sư đại học mới nhận thấy và thi hành cái chân lý ấy đâu. Trong chiến tranh vừa rồi, một bà cụ già ở Chicago đã tự nhận ra rằng "phương thức trị bệnh lo buồn là luôn luôn kiếm một việc gì ích lợi để làm". Tôi gặp bà ta ngồi với ông chồng trong một toa xe lửa có phòng ăn, từ New York về một xứ có nông trại của tôi là tôi vốn ghét lối kể thí dụ mà không cho biết tên và địa chỉ của các nhân vật để chứng minh cho câu chuyện.
    Hai ông bà kể với tôi rằng hôm trước có vụ oanh tạc Trân Châu Cảng thì hôm sau người con độc nhất của ông bà phải nhập ngũ. Rồi lo lắng về con quá, bà ta gầy ốm hẳn đi vì những câu hỏi thầm: "Con ta ở đâu ? " Có được ở yên không? Hay là đã ra trận? Có bị thương không? hay là chết rồi? Khi tôi hỏi làm sao dẹp được nỗi lo âu ấy, bà đáp: "Tôi bầy ra việc để làm. Mới đầu tôi cho người giúp việc nghỉ và tự làm hết việc trong nhà cho khỏi ngồi không. Nhưng bấy nhiêu chưa đủ, vì những công việc làm đó gần như máy chạy không phông phải suy nghĩ, cho nên tôi vẫn lo buồn. Khi làm giường, rửa chén, thấy rằng phút nào nghỉ ngơi mới được. Và tôi liền xin một chân bán hàng ở một tiệm lớn".
    Bà tiếp: "Như vậy có hiệu quả. Từ đó tôi phải lăng xăng: khách hàng bao vây tôi, hỏi giá cả, đòi coi màu sắc, kích thước. Không bao giờ tôi rảnh một giây để lo tới cái gì khác ngoài công việc đương làm, và đem tới, chân đau như dần, cũng không còn nghĩ gì được. Vừa mới ăn xong là ném mình xuống giường và ngủ li bì. Thật tôi không còn thì giờ mà cũng không còn sức để lo lắng nữa". Như vậy bà ấy đã tự tìm thấy chân lý của John Cower Powy trong cuốn: "Nghệ thuật để quên điều bất hạnh". Ông viết: " Khi mê man vào công việc cần phải làm, ta thấy yên ổn dễ chịu, bình tĩnh hoàn toàn trong tâm khảm và khoan khoái dịu được thần kinh".
    Mới đây người nữ thám hiểm nổi danh nhất thế giới là bà Osa Johnson cho tôi nghe cách bà diệt ưu phiền. Bà đọc cuốn "Tôi kết hôn với mạo hiểm" sẽ biết đời bà nếu có một phụ nữ nào đã đính hôn với Mạo hiểm thì chính là bà vậy. Ông Martin Johnson cưới bà khi bà mới 16 tuổi, đã lôi bà khỏi châu thành Chanute tại Kansas và đặt bà ngay vào giữa khi rừng ở Bornéo. Trong một phần tư thế kỷ, cặp vợ chồng gốc gác ở Kansas dó, du lịch khắp thế giời, quay phim về đời sống man dã của những bộ lạc mọi gần bị diệt chủng ở Á Châu và Phi Châu. Cách đây chín năm ông bà trở về Mỹ, đi diễn thuyết cùng chiếu nhưng phim tài liệu ấy khắp tỉnh này sang tỉnh khác. Do đó có lần ông bà đi máy bay từ Denver tới bờ biến Thái Bình Dương, và máy bay đâm vào một trái núi. Ông chết tức thì, còn bà bị thương nặng đến nỗi bác sĩ nói phải suốt đời nằm liệt. Họ nói vậy là vì họ chưa biết bà Osa Johnson: Ba tháng sau bà ngồi trong một cái ghế có bánh xe diễn thuyết trước một số thính giả rất đông. Rồi mùa đó, bà dùng kiểu ấy diễn thuyết trên 100 lần. Khi tôi hỏi bà tại sao lại tự buộc khổ vào thân mà làm vậy, bà đáp: "Để khỏi có thời gian ưu tư buồn chán". Bà Osa Johnson đã tìm thấy chân lý mà Tennyson đã phô diễn vào thi ca cách đây khoảng một thế kỷ: "Tôi phải cặm cụi làm việc nếu không thì sự thất vọng chán nản sẽ giết tôi mất".
    Đô Đốc Byrd cũng đã tìm ra chân lý ấy khi ông sống một mình trong một cái chòi bị vùi lấp dưới lớp băng tuyết mênh mông, bao phủ Nam cực như một cái nón đội lên trái đất - một lớp đá băng trùm một đại lục bí mật, rộng lớn hơn cả diện tích của Châu Âu và nước Mỹ cộng lại. Đô đốc Byrd sống cô độc ở đó trong năm tháng. Suốt một trăm dậm ở chung quanh không có một sinh vật nào hết. Tiết trời lạnh tới nỗi ông nghe thấy hơi thở của ông đóng băng lại thành những tinh thể nhỏ xíu mỗi khi gió đánh bạt hơi thở qua tai. Trong cuốn "Cô đơn" , ông đã kể rõ 5 tháng sống trong bối cảnh đêm tối, làm cho ta phát nản phát điên. Ngày cũng tối như đêm. Ông phải kiếm việc làm để cho tinh thần khỏi bị rối loạn. Ông nói: "Đêm tới, trước khi tắt đèn, ông tập thói quen vạch rõ công việc hôm sau. Ví dụ như định để một giờ đào hầm ra, nửa giờ san phẳng đống tuyết, một giờ chêm đống thùng xăng cho được vững, một giờ đục những ngăn chứa sách trong bức tường hầm đựng thức ăn và hai giờ để thay một cây ngang gẫy trong chiếc xe". Ông tiếp: "Nhờ đó tôi thấy tự chủ được mình. Không thế thì chuỗi ngày của tôi không có mục đích, mà không có mục đích thì đời tôi chắc đã tan rã rồi tàn luôn vậy".
    Cho nên nếu bạn và tôi, ta có ưu phiền thì cứ nhớ tới phương thuốc cũ kỹ những rất công hiệu ấy, là bày ra việc làm. Lời khuyên đó không phải riêng của bác sĩ Richard C. Cabol (trước làm ở đại học y khoa Harvard) mà thôi đâu. Trong cuốn: "Loài người sống bằng gì?". Ông nói: "Vì là y sĩ, tôi có cái vui thấy sự hoạt động chữa được người mắc bệnh thần kinh chân ray run run, tê liệt. Bệnh ấy do nghi ngờ, do dự, sợ sệt quá mà sinh ra. - Sự làm việc đem lại cho ta sự can đảm, mà sự can đảm, cũng như lòng tự tin, đã giúp ông Emerson lưu danh muôn thuở".
    Nếu bạn và tôi không kiếm ra việc để làm, cứ ngồi không mà nghĩ vẩn vơ, thì sẽ có một bầy quỷ dữ sinh ra và đục khoét, phá tan năng lực hành động và ý chí của ta. Tôi được biết một nhà buôn ở New York đã thắng bầy quỷ dữ đó bằng cách cắm đầu làm việc luôn tay, đến nỗi không còn thời giờ để ưu phiền nữa. Ông tên Tromper Longmay và hãng ông nằm tại số 40 đường Wall street, NY. Ông theo lớp giảng của tôi. Câu chuyện của ông hay và cảm động tới nỗi sau mỗi buổi học, tôi mời ông lại dùng bữa tối với tôi. Ông ngồi ở khách sạn tới quá nửa đêm, bàn bạc về những kinh nghiệm của ông. Ông kể với tôi như vầy: "Mười tám năm trước, tôi ưu phiền tới mất ngủ. Tôi nhăn nhó, cáu kỉnh... Tôi có cảm tưởng sắp bị thần kinh suy loạn. Mà tôi ưu phiền không phải là vô cớ. Nguyên tôi làm thủ quỹ một công ty bán trái cây ở New York. Chúng tôi bỏ ra nửa triệu mỹ kim để mua trái dâu về đóng hộp. Đã 20 năm rồi chúng tôi bán dâu hộp cho những hãng nước đá. Thình lình bán không được nữa vì hãng như National Dairyand Borden gia tăng năng lực sản xuất lên rất nhanh và chỉ nhận mua dâu đóng thùng, cho được rẻ và đỡ mất thời gian. Thế là không những nửa triệu mỹ kim trái dâu ấy đành bỏ ế, mà lại còn số dâu trị giá môt triệu mỹ kim, theo giao kèo, phải mua trong 12 tháng sau nữa. Làm sao tiêu thụ được bây giờ? Chúng tôi đã vay ngân hàng 350.000 dollars. Không có cách nào trả nổi mà cũng không vay thêm được. Vậy tôi có lo lắng cũng là lẽ tự nhiên. Tôi chạy lại xưởng ở California, ráng làm cho ông hội trưởng hiều rằng thời vận đã xui, và chính tôi đang bị phá sản. Ông nhất định không tin, ông đổ lỗi cho cơ quan thương mại của chúng tôi ở New York. Tội nghiệp cho họ! Sau tôi phải thuyết phục mất mấy ngày, ông mới chịu ngưng đóng hộp dâu và đem dâu tươi bán ở chợ San Francisco. Như vậy là nỗi khó khăn của chúng tôi gần giải quyết xong. Đáng lẽ tôi phải hết lo , nhưng trái lại, lo lắng là một thói quen, mà tôi có thói tệ hại ấy đuợc đâu. Khi tôi trở lại New York, cái gì cũng làm cho tôi lo, lo về số trái cây mua từ Italy, hay ở Hawai và trăm ngàn thứ nữa. Tôi nhăn nhó càu nhàu mất ngủ và như vừa mới nói, tôi muốn loạn óc.

    Đến khi gần tuyệt vọng, tôi quyết định một lối sống mới, nhờ đó mà ngủ được và hết lo. Tôi đi tìm việc làm. Tôi cặm cụi vào những việc nào choán hết tâm trí tôi, đến nỗi tôi không còn chút thời giờ nào để lo buồn nữa. Trước kia tôi làm việc 7 giờ một ngày, Bây giờ một ngày tôi làm 15, 16 giờ. Tôi nhận thêm những phận sự, trách nhiệm mới. Nửa đêm về nhà, tôi mệt mỏi đến nỗi vừa lăn xuống giường được vài giây đã thiếp đi rồi. Tôi theo đúng chương trình này trong khoảng ba tháng, thành thử tôi đã bỏ được tật hay lo, sau đó trở lại làm việc bảy tám giờ như đời sống cũ. Chuyện đó xảy ra 18 năm trước. Từ đó đến nay không bao giờ tôi lo lắng hoặc mất ngủ nữa''.
    Ông Bernard Shaw có lý. Ông tóm tắt hết những điều đó trong câu này: "Có muốn khốn khổ thì cứ phí công ngồi tự hỏi xem mình sướng hay khổ ". Vậy bạn đừng bao giờ phí công nghĩ đến điều đó nhé! Hãy xắn tay áo lên và làm việc. Máu bạn sẽ lưu thông, óc bạn sẽ họat động và chẳng lâu đâu, sự dồi dào của nhựa sống chạy khắp cơ thể bạn sẽ đuổi ưu phiền ra khỏi đầu óc bạn ngay. Kiếm việc ra mà làm. Đừng ngồi không đó là phương thức rẻ nhất ở đời - mà cũng thần hiệu nhất nữa.
    All you need is Love . . .
  6. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Đời người ngắn lắm, ai ơi!
    Có lẽ suốt đời tôi không quên chuỵên thê thảm dưới đây do ông Robert Moore ở Newsey kể lại. Ông kể: "Tháng ba năm 1945 tôi đã học được một bài quan trọng nhất trong đời tôi, học được ở ngoài khi bờ biển Đông Dương, dưới mặt nước hơn 90 thước. Bấy giờ thủy thủ đòan chúng tôi gồm 88 người nằm trong chiếc tiềm thuỷ đĩnh Baya SS.318. Nhờ máy RADAR chúng tôi biết có một đoàn tàu nhỏ . Chúng tôi cho tàu ngầm lặn xuống ngay để dùng thủy lôi tấn công. Nhìn vào kính tiềm vọng, tôi thấy một chiếc tàu khu trục hạm, một chiếc tàu tiếp liệu và một chiếc tàu thả mìn. Chúng tôi bắn một thuỷ lôi về phía chiếc tàu hộ tống, nhưng chắc đã có bộ phận nào hư trong máy móc của quả thuỷ lôi ấy nên đã hụt. Tuy nhiên chiếc tàu hộ tống không hay chi hết, vẫn tiến tới. Chúng tôi đang sửa soạn để tấn công chiếc tàu thả mìn đi sau cùng; thì một phi cơ địch đã nhận được vị trí chúng tôi ở dưới 20 thước nước và đã đánh vô tuyến điện cấp báo nên thình lình chiếc tàu này quay mũi tiến thẳng lại.
    Chúng tôi vội lặn xuống sâu hơn 50 thước để trốn và để tránh những thuỷ lôi của địch. Rồi tắt hết quạt máy, máy lạnh và tất cả những máy điện để cho im lặng hòan tòan . Nhưng nào có thoát. Ba phút sau, sáu thuỷ lôi nổ chúng quanh chúng tôi như trời long đất lở và đưa chúng tôi xuống đáy biển, sâu trên 90 thước. Chúng tôi vô cùng kinh hỏang. Ở mực sâu chừng 300 thước mà bị tấn công đã là nguy hiểm rồi, nếu lại ở mực không đầy 150 thước thì đành là tận số. Mà chúng tôi bị tấn công ở dưới sâu chỉ già nửa con số sau một chút. Mười phần chắc chìm hết năm. Quân địch thả thuỷ lôi tấn công chúng tôi luôn 15 giờ liền. Nếu có một chiếc nổ cách chiếc tiềm thuỷ đĩnh năm sáu thước thôi, cũng đủ làm thủng một lỗ vỏ tàu và có cả chục chiếc thuỷ lôi đã nổ cách chúng tôi 15 thước. Chúng tôi được lệnh phải nằm yên trên giường không nhúc nhích. Riêng tôi, tôi sợ tới nỗi gần như nghẹt thở, luôn miệng lẩm bẩm: "Chết rồi!... Chết đến nơi rồi!... Chết chắc rồi!"
    Vì chúng tôi đã tắt máy điều hòa và quạt máy, nên nhiệt độ trong tàu tăng lên đến 40 độ C, mặc dù vậy, tôi cũng đã run lên vì quá sợ hãi, và phải mặc thêm một chiếc áo len và một chiếc áo lót lông nửa mà cũng chẳng hết run, hai hàm răng đánh lập cập, mồ hôi vã ra như tắm. Bọn Nhật tiếp tục tấn công như vậy trong 15 giờ rồi có lẽ vì hết mìn, chúng lặng lẽ bỏ đi. Mười lăm giờ đó, chao ôi ! Lâu bằng 15 triệu năm. Lúc ấy tôi nằm nhớ lại hết quãng đời đã qua, nhớ lại những hành vi xấu xa, những nỗi lo lắng lặt vặt.
    Trước khi gia nhập thủy quân, tôi đã giúp việc tại một ngân hàng và hồi ấy tôi hay lo lắng vì việc làm thì nhiều, số lương thì ít , mà rất ít hy vọng được tăng. Tôi lại buồn nản vì không mua nổi một căn nhà, không mua được chiếc xe mới, không sắm được áo mới cho vợ. Và tôi ghét ông chủ của tôi biết bao, cái người mà lúc nào cũng rầy la, quạu quọ. Tôi nhớ có những buổi tối nhiều điều buồn bực, tôi về nhà, lại gắt gỏng vô cớ rồi đâm ra gây sự với nhà tôi. Tôi cũng buồn vì một cái thẹo xấu xí nằm ngay giữa trán do tai nạn xe hơi nữa.
    "Trước đây tôi cho rằng đó là những nỗi ưu tư to tát vô cùng ! Nhưng bây giờ, trong lúc thuỷ lôi của quân giặc vô tình đang muốn mời tôi xuống thăm thần Hà Bá, tôi thấy tất cả vô nghĩa làm sao! Tôi tự hứa "Chuyến này mà thoát chết, còn được trông thấy mặt vợ con thì tôi quyết tâm không bao giờ thèm lo một điều gì nữa. Không bao giờ ! Không bao giờ ! Không bao giờ ! Trong 15 giờ đồng hồ ấy tôi đã học được về nghệ thuật sống nhiều hơn là học sách vở tại trường đại học Syracuse trong bốn năm dài".
    Chúng ta thường can đảm đối phó với những tai nạn ghê gớm, mà lại để cho những nỗi lo lắng nhỏ mọn vô lý nó thắng ta. Chẳng hạn như chuyện ông Harry Vane bị xử trảm do ông Samuel Pepys chép lại trong tập "Nhật ký" của ông. Khi ông Harry bước lên đoạn đầu đài, ông không an ủi, dặn dò vợ con mà chỉ dặn tên đao phủ trong khi chặt đầu đừng chạm tới cái nhọt nhức nhối ở cổ mình.
    Đô đốc Byrd cũng nhận thấy điều đó trong những đêm ở Nam Cực lạnh buốt xương và tối đen như âm phủ. Ông nghe nhân viên phàn nàn về những chuyện lặt vặt hơn là về những việc lớn. Họ vui vẻ về chịu hết mọi sự nguy hiểm, khổ sở vì thời tiết lạnh tới 45 độ dưới số không. Nhưng ông đã thấy hai người chung sống mà giận nhau đến không thèm nói với nhau nửa lời, chỉ vì người này nghi người kia đã lấn sang chỗ để đồ của mình mất vài phân ; và một người nữa không chịu ăn nếu không kiếm được một chỗ khuất để khỏi ngứa mắt vì một tín đồ cuồng tín nọ, cứ mỗi miếng ăn phải nhai cho đủ 28 lần rồi mới nuốt ! Đô đốc nói: "Trong trại chúng tôi đóng ở Nam Cực, những chuyện vụn vặt như vậy làm cho những người dù trọng kỷ luật thế mấy cũng gần phải hoá điên". Ông ta còn có thể nói thêm rằng : "Những chuyện vụn vặt trong hôn nhân có thể làm cho người ta gần hoá điên và có thể sinh ra 50% bệnh đau tim ở thế gian này".
    Đó chính là ý kiến của các nhà chuyên môn. Như ông quan toà Joseph Sabath ở Chicago, một người đã cố hòa giải trên 40 ngàn vụ ly hôn, tuyên bố: "Phần nhiều những cặp vợ chồng xin ly dị đều do chuyện lặt vặt hết"; và ông F.S. Hogan Chưởng Lý New York nói :? Hơn một nửa các vụ xử trong toà đại hình đều phát xuất từ những nguyên nhân rất nhỏ. Thách đố nhau trong quán rượu, kẻ ăn người ở gây gỗ nhau, một câu sỉ nhục, một lời mất lòng, một hành vi thô lỗ, những cái lăng nhăng đó đưa tới ẩu đả rồi án mạng. Rất ít người tàn ác xấu xa lắm. Một nửa những đau đớn của ta là bởi lòng tự ái bị tổn thương nhẹ hoặc lòng kiêu căng bị xúc phạm nặng nề ".
    Khi mới cưới, cô Eleanor Roosevelt ngày nào cũng phải cáu sườn vì người đầu bếp nấu hỏng một món ăn. Nhưng sau cô đã đổi tánh. Cô nói: "Bây giờ thì tôi chỉ nhún vai rồi bỏ qua". Được lắm, như vậy mới là người lớn. Cứ xem Nga Hoàng Catherine chuyên chế làm vậy mà cũng chỉ cười khi người bếp nấu hư một món ăn, huống hồ là chúng ta. Vợ chồng tôi có lần ăn tiệc nhà người bạn là anh John B. ở Chicago. Bạn tôi cắt thịt có vụng hay không, tôi chả thấy, mà nếu có thấy cũng không cần biết. Nhưng chị John để ý rồi nhảy lên la rằng: "Anh John ! anh phải có ý tứ chứ ?" Anh lại không biết cắt thịt rồi!!". Rồi chị quay qua phân trần với chúng tôi : "Anh ấy luôn luôn đỏang như không biết cắt thịt bao giờ". Có lẽ bạn tôi không tập cắt thịt bao giờ thật, nhưng tôi phải khâm phục anh là đã dám sống chung với chị ấy trên 20 năm trường. Thú thật, chẳng thà bắt tôi ăn thịt chuột, cóc chấm muối trong một không khí hoà thuận còn hơn là cho tôi ăn nem công chả phượng mà bắt phải nghe những lời la rầy lèm bèm của chị mỗi ngày .
    Ít lâu sau, chúng tôi mời bạn bè lại nhà dùng bữa. Vừa lúc khách khứa tới thì nhà thôi thấy có ba chiếc khăn ăn không cùng một màu với nắp bàn. Tiệc tan, nhà tôi kể lại: "Em chạy đi kiếm một người dọn bàn thì ra chiếc khăn ăn kia còn ở tiệm giặt. Khách đã tới cửa rồi, không sao thay kịp nữa. Em muốn khóc, thầm nghĩ: "Tại sao lại có sự vô ý kia khiến cho chiều nay mất vui đi như vậy? Nhưng sau em tự nhủ: "Tại sao mất vui? Cứ nhất đinh vui đi nào! và em vô phòng ăn, đành mang tiếng với bạn bè là người nội trợ đỏang, còn hơn là tiếng cáu kỉnh, xấu thói . Nhưng thật ra khách khứa nào có ai để ý tới chiếc khăn ăn ấy đâu!".
    Trong ngành Luật có câu này ai cũng biết: "Luật không kể tới những việc lặt vặt". Người hay ưu tư cũng đừng kể gì những việc lặt vặt, mới có thể được bình yên trong tâm hồn được. Nhiều khi muốn thắng nổi lo lắng lặt vặt, ta chỉ cần xét chúng theo một phương diện mới mẻ. Bạn tôi, ông Homer Croy, tác giả cuốn: "Ta phải đi thăm Paris" và hơn chục cuốn khác nữa, đã thi hành phương pháp ấy và có kết quả lạ thường. Khi ông ngồi viết sách tại bàn giấy, tiếng máy sưởi điện ở trong phòng làm cho ông nhức đầu đến muốn phát điên. Hơi nước do máy xịt ra, khiến ông quạu quọ, cơn giận cũng muốn nổ tung ra. Ông nói: "Rồi một hôm đi cắm trại cùng mấy anh em, tôi nghe tiếng củi nổi lạch tạch, tiếng lửa phun phì phì, mà cảm thấy những tiếng đó không khác chi tiếng máy sưởi ở nhà tôi hết. Tôi tự hỏi tại sao tiếng nọ thì ghét, tiếng này thì ưa thích ? Về nhà, tôi tự nhủ: "Tiếng máy sưởi cũng tương tự tiếng củi nổ lạch tạch, mà tiếng này ta thấy vui tai, thì ta hãy đi ngủ và đừng bực tức về tiếng máy sưởi nữa". Và tôi làm đúng như vậy. Trong ít ngày đầu, còn nghĩ tới máy sưởi, nhưng về sau lần lần tôi quên nó rồi.
    "Những nỗi bực mình nhỏ nhặt của ta cũng vậy. Ta oán ghét, giận dữ, chỉ vì ta coi nó quá quan trọng..." Vì Disraeli có nói: "Đời người tựa bóng mây, hơi đâu mà để ý tới những chuyện lặt vặt ", nên André Maurois đã viết trong tờ "Newsweek": "Câu đó đã giúp tôi giải tỏa được biết bao nỗi đau lòng. Chúng ta thường để cho những chuyện lặt vặt làm ta điên đảo mà đáng lý ta nên bỏ qua và quên nó đi...Chúng ta còn sống được vài năm trên quả đất này, thời gian không trở lại , tại sao lại bỏ phí bao nhiêu giờ để ấp ủ trong lòng ưu tư, bất bình không quan trọng mà chỉ một năm sau là người khác và cả ta nữa đều đã quên hết? Đừng nên vậy, hãy để dành đời ta cho những hành động và tình cảm quý báu, những tư tưởng cao thượng, những tình thương chân thật và những sự nghiệp lâu bền".
    Ấy vậy mà một danh nhân như Rudyard Kipling cũng đã có lần quên rằng "Đời người tựa bóng câu, hơi đâu mà nghĩ tới những chuyện nhỏ lặt vặt". Và kết quả ra sao? Kết quả là ông và ông anh vợ kiện nhau, làm náo động cả miền Vermont như một cuộc chiến tranh về pháp luật vậy, một chiến tranh pháp lý nổi tiếng đến nỗi có người đã viết thành một cuốn sách nhan đề là " Vụ kiện nhau của Rudyard Kipling ở Vermont".
    Câu chuyện xảy ra như thế này: Rudyard Kipling sau khi cưới một cô vợ tên là Caroline Balestier ở Vermont bèn cất một ngôi nhà xinh xắn ở Brattleboro, hy vọng sẽ lấy đó làm nơi dưỡng già. Rồi nhân vì cùng người anh vợ tên Beatty Balestier thân thiết trong khi làm việc cũng như lúc chơi bời, Kipling mới mua một miếng đất của Balestier và đồng ý để y giữ lại được quyền cắt cỏ. Nhưng một hôm không biết nghĩ sao Kipling lại trồng hoa trên bãi cỏ kia, Balestier thấy vậy liền nổi cáu lên, la ó và chửi rủa um sùm. Kipling không kém, cũng nổi cơn lôi đình. Thế là lời qua tiếng lại, không khí Vermont hoá ra khó thở, u ám.
    Vài ngày sau khi Kipling đang đạp xe trên đường, thình lình gặp người anh vợ đánh xe ngựa ra cản lộ. Ông phải nhẩy vội xuống hố bên lề để tránh và đã quên bẵng câu này mà chính ông đã viết: "Nếu bạn giữ được tâm hồn bình tĩnh trong khi những người chung quanh đã mất lý trí , thì bạn mới thật là con người. "Ông giận quá đến nỗi đòi bắt giam Balestier, để xảy ra một vụ kiện tụng sôi nổi. Các nhà báo ở tỉnh lớn đổ xô về Vermont. Tin tức bay khắp thế giới. Vụ kiện chẳng đi đến đâu nhưng đã làm vợ chồng Kipling phải bỏ ngôi nhà xinh xắn ở Vermont cho tới chết. Thật là bao nỗi oán giận chua chát chỉ vì một nguyên nhân lặt vặt: một bó cỏ khô.
    Dưới đây là một cốt chuyện hay nhất do bác sĩ Harry Emerson Fosdick kể lại, một truyện về những thắng bại của một cây đại thụ trong rừng. Trên sườn núi Long''s Peak ở Colorado, có một cây khổng lồ bị tàn phá còn trơ lại nội một khúc thân. Những nhà thực vật học đoán câu đó đã sống khoảng 400 năm. hồi Columbus đặt chân lên đất San Salvador, nó đã có mọt và khi những di dân đến lập nghiệp ở Plymouth MA, nó mới sống được nửa đời của nó. Trong đời sống dài đằng đẵng suốt bốn thế kỷ đó, nó bị sét đánh 14 bận và trải qua biết bao lần giông bão . Nhưng vì sâu mọt đục khoét , cuối cùng nó đành chịu đổ lăn kềnh ra. Đàn sâu mọt khoét hết lớp vỏ rồi, mỗi ngày đục khóet một chút, liên tiếp không ngừng, tuần tự phá phách sinh lực của cây. Thành thử một cây cổ thụ khổng lồ chống nổi với thời gian, với sấm sét, với giông tố, mà rút cuộc lại bị hạ bởi những con mọt tí hon, nhỏ xíu tới nỗi bạn có thể kẹp nát giữa hai đầu ngón tay! Chúng ta chẳng giống cây khổng lồ trong rừng đó ư ? Chúng ta chẳng thường vinh quang vượt qua được những cảnh sấm sét, bão tố, trời long đất lở trong đời để rồi bị những nỗi lo lắng lặt vặt ấy đánh ngã gục có khác chi chịu thua những con mọt nhỏ kia mà ta có thể bóp bẹp giữa hai đầu ngón tay không?
    Mấy năm trước, tôi du lịch qua vườn Grand Teton ở Wyoming, Charles Seifried và người bạn của ông. Chúng tôi đi thăm quan khu vườn cực đẹp của John D. Rockfeller. Nhưng chẳng may chiếc xe của tôi lạc đường thành thử đi tới khu vườn một giờ sau các xe khác. Ông Seifried giữ chìa khoá để mở cừa vườn, cho nên ông phải đợi tôi một giờ đồng hồ ở trong rừng vừa nóng vừa nhiều muỗi. Muỗi bu lại vo ve làm cho ai cũng muốn phát điên, thế mà không làm ông Charles Seifried bực bội chút nào hết. Và khi chúng tôi đến nơi không thấy ông đang nguyền rủa muỗi mà lại thấy ông đang thổi còi. Tôi giữ chiếc còi nhỏ làm bằng lá cây ấy làm kỷ niệm để nhớ một người đã biết coi thường những chuyện nhỏ nhặt.
    All you need is Love . . .
  7. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Đời người ngắn lắm, ai ơi!
    Có lẽ suốt đời tôi không quên chuỵên thê thảm dưới đây do ông Robert Moore ở Newsey kể lại. Ông kể: "Tháng ba năm 1945 tôi đã học được một bài quan trọng nhất trong đời tôi, học được ở ngoài khi bờ biển Đông Dương, dưới mặt nước hơn 90 thước. Bấy giờ thủy thủ đòan chúng tôi gồm 88 người nằm trong chiếc tiềm thuỷ đĩnh Baya SS.318. Nhờ máy RADAR chúng tôi biết có một đoàn tàu nhỏ . Chúng tôi cho tàu ngầm lặn xuống ngay để dùng thủy lôi tấn công. Nhìn vào kính tiềm vọng, tôi thấy một chiếc tàu khu trục hạm, một chiếc tàu tiếp liệu và một chiếc tàu thả mìn. Chúng tôi bắn một thuỷ lôi về phía chiếc tàu hộ tống, nhưng chắc đã có bộ phận nào hư trong máy móc của quả thuỷ lôi ấy nên đã hụt. Tuy nhiên chiếc tàu hộ tống không hay chi hết, vẫn tiến tới. Chúng tôi đang sửa soạn để tấn công chiếc tàu thả mìn đi sau cùng; thì một phi cơ địch đã nhận được vị trí chúng tôi ở dưới 20 thước nước và đã đánh vô tuyến điện cấp báo nên thình lình chiếc tàu này quay mũi tiến thẳng lại.
    Chúng tôi vội lặn xuống sâu hơn 50 thước để trốn và để tránh những thuỷ lôi của địch. Rồi tắt hết quạt máy, máy lạnh và tất cả những máy điện để cho im lặng hòan tòan . Nhưng nào có thoát. Ba phút sau, sáu thuỷ lôi nổ chúng quanh chúng tôi như trời long đất lở và đưa chúng tôi xuống đáy biển, sâu trên 90 thước. Chúng tôi vô cùng kinh hỏang. Ở mực sâu chừng 300 thước mà bị tấn công đã là nguy hiểm rồi, nếu lại ở mực không đầy 150 thước thì đành là tận số. Mà chúng tôi bị tấn công ở dưới sâu chỉ già nửa con số sau một chút. Mười phần chắc chìm hết năm. Quân địch thả thuỷ lôi tấn công chúng tôi luôn 15 giờ liền. Nếu có một chiếc nổ cách chiếc tiềm thuỷ đĩnh năm sáu thước thôi, cũng đủ làm thủng một lỗ vỏ tàu và có cả chục chiếc thuỷ lôi đã nổ cách chúng tôi 15 thước. Chúng tôi được lệnh phải nằm yên trên giường không nhúc nhích. Riêng tôi, tôi sợ tới nỗi gần như nghẹt thở, luôn miệng lẩm bẩm: "Chết rồi!... Chết đến nơi rồi!... Chết chắc rồi!"
    Vì chúng tôi đã tắt máy điều hòa và quạt máy, nên nhiệt độ trong tàu tăng lên đến 40 độ C, mặc dù vậy, tôi cũng đã run lên vì quá sợ hãi, và phải mặc thêm một chiếc áo len và một chiếc áo lót lông nửa mà cũng chẳng hết run, hai hàm răng đánh lập cập, mồ hôi vã ra như tắm. Bọn Nhật tiếp tục tấn công như vậy trong 15 giờ rồi có lẽ vì hết mìn, chúng lặng lẽ bỏ đi. Mười lăm giờ đó, chao ôi ! Lâu bằng 15 triệu năm. Lúc ấy tôi nằm nhớ lại hết quãng đời đã qua, nhớ lại những hành vi xấu xa, những nỗi lo lắng lặt vặt.
    Trước khi gia nhập thủy quân, tôi đã giúp việc tại một ngân hàng và hồi ấy tôi hay lo lắng vì việc làm thì nhiều, số lương thì ít , mà rất ít hy vọng được tăng. Tôi lại buồn nản vì không mua nổi một căn nhà, không mua được chiếc xe mới, không sắm được áo mới cho vợ. Và tôi ghét ông chủ của tôi biết bao, cái người mà lúc nào cũng rầy la, quạu quọ. Tôi nhớ có những buổi tối nhiều điều buồn bực, tôi về nhà, lại gắt gỏng vô cớ rồi đâm ra gây sự với nhà tôi. Tôi cũng buồn vì một cái thẹo xấu xí nằm ngay giữa trán do tai nạn xe hơi nữa.
    "Trước đây tôi cho rằng đó là những nỗi ưu tư to tát vô cùng ! Nhưng bây giờ, trong lúc thuỷ lôi của quân giặc vô tình đang muốn mời tôi xuống thăm thần Hà Bá, tôi thấy tất cả vô nghĩa làm sao! Tôi tự hứa "Chuyến này mà thoát chết, còn được trông thấy mặt vợ con thì tôi quyết tâm không bao giờ thèm lo một điều gì nữa. Không bao giờ ! Không bao giờ ! Không bao giờ ! Trong 15 giờ đồng hồ ấy tôi đã học được về nghệ thuật sống nhiều hơn là học sách vở tại trường đại học Syracuse trong bốn năm dài".
    Chúng ta thường can đảm đối phó với những tai nạn ghê gớm, mà lại để cho những nỗi lo lắng nhỏ mọn vô lý nó thắng ta. Chẳng hạn như chuyện ông Harry Vane bị xử trảm do ông Samuel Pepys chép lại trong tập "Nhật ký" của ông. Khi ông Harry bước lên đoạn đầu đài, ông không an ủi, dặn dò vợ con mà chỉ dặn tên đao phủ trong khi chặt đầu đừng chạm tới cái nhọt nhức nhối ở cổ mình.
    Đô đốc Byrd cũng nhận thấy điều đó trong những đêm ở Nam Cực lạnh buốt xương và tối đen như âm phủ. Ông nghe nhân viên phàn nàn về những chuyện lặt vặt hơn là về những việc lớn. Họ vui vẻ về chịu hết mọi sự nguy hiểm, khổ sở vì thời tiết lạnh tới 45 độ dưới số không. Nhưng ông đã thấy hai người chung sống mà giận nhau đến không thèm nói với nhau nửa lời, chỉ vì người này nghi người kia đã lấn sang chỗ để đồ của mình mất vài phân ; và một người nữa không chịu ăn nếu không kiếm được một chỗ khuất để khỏi ngứa mắt vì một tín đồ cuồng tín nọ, cứ mỗi miếng ăn phải nhai cho đủ 28 lần rồi mới nuốt ! Đô đốc nói: "Trong trại chúng tôi đóng ở Nam Cực, những chuyện vụn vặt như vậy làm cho những người dù trọng kỷ luật thế mấy cũng gần phải hoá điên". Ông ta còn có thể nói thêm rằng : "Những chuyện vụn vặt trong hôn nhân có thể làm cho người ta gần hoá điên và có thể sinh ra 50% bệnh đau tim ở thế gian này".
    Đó chính là ý kiến của các nhà chuyên môn. Như ông quan toà Joseph Sabath ở Chicago, một người đã cố hòa giải trên 40 ngàn vụ ly hôn, tuyên bố: "Phần nhiều những cặp vợ chồng xin ly dị đều do chuyện lặt vặt hết"; và ông F.S. Hogan Chưởng Lý New York nói :? Hơn một nửa các vụ xử trong toà đại hình đều phát xuất từ những nguyên nhân rất nhỏ. Thách đố nhau trong quán rượu, kẻ ăn người ở gây gỗ nhau, một câu sỉ nhục, một lời mất lòng, một hành vi thô lỗ, những cái lăng nhăng đó đưa tới ẩu đả rồi án mạng. Rất ít người tàn ác xấu xa lắm. Một nửa những đau đớn của ta là bởi lòng tự ái bị tổn thương nhẹ hoặc lòng kiêu căng bị xúc phạm nặng nề ".
    Khi mới cưới, cô Eleanor Roosevelt ngày nào cũng phải cáu sườn vì người đầu bếp nấu hỏng một món ăn. Nhưng sau cô đã đổi tánh. Cô nói: "Bây giờ thì tôi chỉ nhún vai rồi bỏ qua". Được lắm, như vậy mới là người lớn. Cứ xem Nga Hoàng Catherine chuyên chế làm vậy mà cũng chỉ cười khi người bếp nấu hư một món ăn, huống hồ là chúng ta. Vợ chồng tôi có lần ăn tiệc nhà người bạn là anh John B. ở Chicago. Bạn tôi cắt thịt có vụng hay không, tôi chả thấy, mà nếu có thấy cũng không cần biết. Nhưng chị John để ý rồi nhảy lên la rằng: "Anh John ! anh phải có ý tứ chứ ?" Anh lại không biết cắt thịt rồi!!". Rồi chị quay qua phân trần với chúng tôi : "Anh ấy luôn luôn đỏang như không biết cắt thịt bao giờ". Có lẽ bạn tôi không tập cắt thịt bao giờ thật, nhưng tôi phải khâm phục anh là đã dám sống chung với chị ấy trên 20 năm trường. Thú thật, chẳng thà bắt tôi ăn thịt chuột, cóc chấm muối trong một không khí hoà thuận còn hơn là cho tôi ăn nem công chả phượng mà bắt phải nghe những lời la rầy lèm bèm của chị mỗi ngày .
    Ít lâu sau, chúng tôi mời bạn bè lại nhà dùng bữa. Vừa lúc khách khứa tới thì nhà thôi thấy có ba chiếc khăn ăn không cùng một màu với nắp bàn. Tiệc tan, nhà tôi kể lại: "Em chạy đi kiếm một người dọn bàn thì ra chiếc khăn ăn kia còn ở tiệm giặt. Khách đã tới cửa rồi, không sao thay kịp nữa. Em muốn khóc, thầm nghĩ: "Tại sao lại có sự vô ý kia khiến cho chiều nay mất vui đi như vậy? Nhưng sau em tự nhủ: "Tại sao mất vui? Cứ nhất đinh vui đi nào! và em vô phòng ăn, đành mang tiếng với bạn bè là người nội trợ đỏang, còn hơn là tiếng cáu kỉnh, xấu thói . Nhưng thật ra khách khứa nào có ai để ý tới chiếc khăn ăn ấy đâu!".
    Trong ngành Luật có câu này ai cũng biết: "Luật không kể tới những việc lặt vặt". Người hay ưu tư cũng đừng kể gì những việc lặt vặt, mới có thể được bình yên trong tâm hồn được. Nhiều khi muốn thắng nổi lo lắng lặt vặt, ta chỉ cần xét chúng theo một phương diện mới mẻ. Bạn tôi, ông Homer Croy, tác giả cuốn: "Ta phải đi thăm Paris" và hơn chục cuốn khác nữa, đã thi hành phương pháp ấy và có kết quả lạ thường. Khi ông ngồi viết sách tại bàn giấy, tiếng máy sưởi điện ở trong phòng làm cho ông nhức đầu đến muốn phát điên. Hơi nước do máy xịt ra, khiến ông quạu quọ, cơn giận cũng muốn nổ tung ra. Ông nói: "Rồi một hôm đi cắm trại cùng mấy anh em, tôi nghe tiếng củi nổi lạch tạch, tiếng lửa phun phì phì, mà cảm thấy những tiếng đó không khác chi tiếng máy sưởi ở nhà tôi hết. Tôi tự hỏi tại sao tiếng nọ thì ghét, tiếng này thì ưa thích ? Về nhà, tôi tự nhủ: "Tiếng máy sưởi cũng tương tự tiếng củi nổ lạch tạch, mà tiếng này ta thấy vui tai, thì ta hãy đi ngủ và đừng bực tức về tiếng máy sưởi nữa". Và tôi làm đúng như vậy. Trong ít ngày đầu, còn nghĩ tới máy sưởi, nhưng về sau lần lần tôi quên nó rồi.
    "Những nỗi bực mình nhỏ nhặt của ta cũng vậy. Ta oán ghét, giận dữ, chỉ vì ta coi nó quá quan trọng..." Vì Disraeli có nói: "Đời người tựa bóng mây, hơi đâu mà để ý tới những chuyện lặt vặt ", nên André Maurois đã viết trong tờ "Newsweek": "Câu đó đã giúp tôi giải tỏa được biết bao nỗi đau lòng. Chúng ta thường để cho những chuyện lặt vặt làm ta điên đảo mà đáng lý ta nên bỏ qua và quên nó đi...Chúng ta còn sống được vài năm trên quả đất này, thời gian không trở lại , tại sao lại bỏ phí bao nhiêu giờ để ấp ủ trong lòng ưu tư, bất bình không quan trọng mà chỉ một năm sau là người khác và cả ta nữa đều đã quên hết? Đừng nên vậy, hãy để dành đời ta cho những hành động và tình cảm quý báu, những tư tưởng cao thượng, những tình thương chân thật và những sự nghiệp lâu bền".
    Ấy vậy mà một danh nhân như Rudyard Kipling cũng đã có lần quên rằng "Đời người tựa bóng câu, hơi đâu mà nghĩ tới những chuyện nhỏ lặt vặt". Và kết quả ra sao? Kết quả là ông và ông anh vợ kiện nhau, làm náo động cả miền Vermont như một cuộc chiến tranh về pháp luật vậy, một chiến tranh pháp lý nổi tiếng đến nỗi có người đã viết thành một cuốn sách nhan đề là " Vụ kiện nhau của Rudyard Kipling ở Vermont".
    Câu chuyện xảy ra như thế này: Rudyard Kipling sau khi cưới một cô vợ tên là Caroline Balestier ở Vermont bèn cất một ngôi nhà xinh xắn ở Brattleboro, hy vọng sẽ lấy đó làm nơi dưỡng già. Rồi nhân vì cùng người anh vợ tên Beatty Balestier thân thiết trong khi làm việc cũng như lúc chơi bời, Kipling mới mua một miếng đất của Balestier và đồng ý để y giữ lại được quyền cắt cỏ. Nhưng một hôm không biết nghĩ sao Kipling lại trồng hoa trên bãi cỏ kia, Balestier thấy vậy liền nổi cáu lên, la ó và chửi rủa um sùm. Kipling không kém, cũng nổi cơn lôi đình. Thế là lời qua tiếng lại, không khí Vermont hoá ra khó thở, u ám.
    Vài ngày sau khi Kipling đang đạp xe trên đường, thình lình gặp người anh vợ đánh xe ngựa ra cản lộ. Ông phải nhẩy vội xuống hố bên lề để tránh và đã quên bẵng câu này mà chính ông đã viết: "Nếu bạn giữ được tâm hồn bình tĩnh trong khi những người chung quanh đã mất lý trí , thì bạn mới thật là con người. "Ông giận quá đến nỗi đòi bắt giam Balestier, để xảy ra một vụ kiện tụng sôi nổi. Các nhà báo ở tỉnh lớn đổ xô về Vermont. Tin tức bay khắp thế giới. Vụ kiện chẳng đi đến đâu nhưng đã làm vợ chồng Kipling phải bỏ ngôi nhà xinh xắn ở Vermont cho tới chết. Thật là bao nỗi oán giận chua chát chỉ vì một nguyên nhân lặt vặt: một bó cỏ khô.
    Dưới đây là một cốt chuyện hay nhất do bác sĩ Harry Emerson Fosdick kể lại, một truyện về những thắng bại của một cây đại thụ trong rừng. Trên sườn núi Long''s Peak ở Colorado, có một cây khổng lồ bị tàn phá còn trơ lại nội một khúc thân. Những nhà thực vật học đoán câu đó đã sống khoảng 400 năm. hồi Columbus đặt chân lên đất San Salvador, nó đã có mọt và khi những di dân đến lập nghiệp ở Plymouth MA, nó mới sống được nửa đời của nó. Trong đời sống dài đằng đẵng suốt bốn thế kỷ đó, nó bị sét đánh 14 bận và trải qua biết bao lần giông bão . Nhưng vì sâu mọt đục khoét , cuối cùng nó đành chịu đổ lăn kềnh ra. Đàn sâu mọt khoét hết lớp vỏ rồi, mỗi ngày đục khóet một chút, liên tiếp không ngừng, tuần tự phá phách sinh lực của cây. Thành thử một cây cổ thụ khổng lồ chống nổi với thời gian, với sấm sét, với giông tố, mà rút cuộc lại bị hạ bởi những con mọt tí hon, nhỏ xíu tới nỗi bạn có thể kẹp nát giữa hai đầu ngón tay! Chúng ta chẳng giống cây khổng lồ trong rừng đó ư ? Chúng ta chẳng thường vinh quang vượt qua được những cảnh sấm sét, bão tố, trời long đất lở trong đời để rồi bị những nỗi lo lắng lặt vặt ấy đánh ngã gục có khác chi chịu thua những con mọt nhỏ kia mà ta có thể bóp bẹp giữa hai đầu ngón tay không?
    Mấy năm trước, tôi du lịch qua vườn Grand Teton ở Wyoming, Charles Seifried và người bạn của ông. Chúng tôi đi thăm quan khu vườn cực đẹp của John D. Rockfeller. Nhưng chẳng may chiếc xe của tôi lạc đường thành thử đi tới khu vườn một giờ sau các xe khác. Ông Seifried giữ chìa khoá để mở cừa vườn, cho nên ông phải đợi tôi một giờ đồng hồ ở trong rừng vừa nóng vừa nhiều muỗi. Muỗi bu lại vo ve làm cho ai cũng muốn phát điên, thế mà không làm ông Charles Seifried bực bội chút nào hết. Và khi chúng tôi đến nơi không thấy ông đang nguyền rủa muỗi mà lại thấy ông đang thổi còi. Tôi giữ chiếc còi nhỏ làm bằng lá cây ấy làm kỷ niệm để nhớ một người đã biết coi thường những chuyện nhỏ nhặt.
    All you need is Love . . .
  8. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Một định lệ diệt được nhiều nỗi lo lắng
    Hồi nhỏ tôi sống ở một nông trại tại Missouri, vào một hôm trong khi giúp má tôi lấy một quả đào, tự nhiên tôi oà lên khóc. Má tôi hỏi: ?Dale, tại sao con khóc vậy??o Tôi sụt sùi đáp: ?Con sợ sắp bị chôn sống?o. Thời ấy óc tôi ngập đầy những lo lắng. Trời sấm sét, tôi lo bị sét đánh. Thời tiết làm mất mùa, tôi lo đói. Tôi lo sợ sẽ phải xuống hỏa ngục. Tôi sợ hãi khi nghe một đứa bạn lớn, tên Sam White, doạ sẽ cắt tai tôi. Tôi sợ các cô gái cười chê tôi khi tôi dở nón chào các cô. Tôi lo sợ sau này sẽ không có cô nào thèm yêu tôi. Tôi lo lắng không biết khi mới đón dâu xong, sẽ nói với vợ tôi câu gì. Tôi tưởng tượng sẽ làm lễ cưới tại một nhà thờ thôn quê, rồi ngồi chiếc xe song mã có rèm rủ mà trở về nông trại... Nói chuyện gì với vợ tôi trên suốt quãng đường về trại đó? Làm sao được ? Tôi suy nghĩ hàng giờ tới vấn đề động trời đó trong khi cày ruộng. Và ngày tháng qua, tôi dần dần thấy rừng 99 phần trăm những nỗi lo lắng ấy không bao giờ xảy tới.
    Chẳng hạn như trên kia đã nói, tôi sợ bị sét đánh, thì bây giờ tôi biết rằng, theo bảng thống kê mỗi năm của quốc gia trong số 350.000 người chị có một người bị sét đánh ( nghĩa là phần rủi ro chỉ là 1/350.000). Còn sợ bị chôn sống mới càng vô lý nữa chứ, tôi không tin rằn trong 10 triệu người có tới một người bị chôn sống, vậy mà tôi đã lo sợ tới khóc lóc khổ sở. Trái lại trong tám người, có một người chết vì ung thư. Thế thì nếu phải lo lắng, ta lo bị ung thư còn có lý hơn là lo bị sét đánh hoặc chôn sống. Đã đành, trên kia tôi chỉ kể những ưu tư của tuổi thơ và tuổi xuân, nhưng biết bao lần nỗi lo của người đứng tuổi cũng gần vô lý như vậy. Bạn và tôi đều có thể giải được 9 phần 10 những âu sầu chúng ta ngay, bây giờ, nếu chúng ta chịu quên ưu tư trong một lúc, vừa đủ để suy nghĩ xem, theo luật trung bình, những lo lắng của ta có lý hay không.
    Hãng bảo hiểm nổi danh nhất thế giới, Lloyds of London - sở dĩ kiếm được không biết bao nhiêu triệu đồng là do cái thói hay lo của chúng ta về những sự ít khi xảy tới. Hãng đánh cá với thân chủ rằng những tai nạn mà mọi người hay lo đó không bao giờ có hết. Nhưng họ không chịu nhận như vậy là đánh cá. Họ gọi là bảo hiểm. Thật thì đó là đánh cá, một lối đánhh cá khoa học, lấy luật trung bình là nền tảng vậy. Cả 200 năm nay hãng này đã phát đạt vô cùng. Và bản tính của loài người chưa thay đổi thì hãng còn phát đạt cả ngàn năm nữa, nhờ sự bảo hiểm nhà cửa xe cộ, tàu bè, giầy dép... vì theo luật trung bình, ít khi xảy ra tai hoạ cho những món đó lắm. mà người đời nhất định không chịu hiểu như thế.
    Xét kỹ luật ấy, chung ta sẽ thấy nhiều sự phát giác bất ngờ. Chảng hạn nến tôi biết trước ràng khoảng 5 năm nữa, tôi phải chiến đấu trong một trận cũng đổ máu như trận Gettysburg (hồi Nam Bắc phân tranh) thì chắc là tôi hoảng sợ tới ngất xỉu. Tôi sẽ bảo hiểm nhân mạng tôi ngay và tôi sẽ nói: ?Không thể nào sống sót sau trận đó được đâu, còn được ngày nào thì tận hưởng ngày đó đi?o. Nhưng sự thật thì theo luật trung bình, phần rủi bị chết trong trận ấy cũng chỉ bằng phần rủi bị chết trong thời bình, vào khoảng 50 tới 55 tuổi thôi. Nghĩa là thời bình cứ 1.000 người có nhiều người chết từ 50 đến 55 tuổi thì trong số 163.000 lính ở trận Gettysburg cũng cứ 1.000 người chỉ có bấy nhiêu người bỏ mạng.

    Tôi viết nhiều chương trong cuốn này ở bên bờ "Hồ Bán Nguyệt" tại miền núi đá xứ Canada, nơi mà tôi làm quen với vợ chồng bà Herbert H. Salinger. Bà rất điềm đạm, bình tĩnh, nhưng không bao giờ lo lắng hết. Một buổi chiều, ngồi trước lò sưởi, củi nổ lách tách, tôi hỏi có bao giờ bà bị lo lắng quấy nhiễu không thì bà đáp: "Quấy nhiễu mà thôi ư? Nó đã gần làm hại đời tôi nữa kia. Trước khi tháng được nó, tôi sống 11 năm trong cảnh địa ngục mà tôi tự giam vào. Tôi nóng tính và hay oán. Lúc nào cũng lo sợ không yên. Thường thường mỗi tuần tôi đi xe ô tô buýt từ nhà đến San Francisco để mua bán lặt vặt. Nhưng trong khi mua bán, tôi lo lắng tới cái này cái nọ: Bàn ủi điện đã gỡ ra chưa? Có lẽ cháy nhà mất? Chị ở chắc bỏ đi rồi, ai coi sóc tụi nhỏ? hay là tụi nó đạp xe máy đi chơi, bị xe cán rồi cũng nên? Có khi tôi sợ toát mồ hôi, chạy vội về nhà coi có xảy ra chuyện gì không. Ông xem như thế thì vợ chồng tôi đã phải ly dị nhau, điều đó cũng không còn gì đáng lạ.
    "Người chồng sau của tôi là một luật sư bình tĩnh, có óc phân tích, không bao giờ lo lắng. Khi tôi ưu tư, dây thần kinh căng thẳng, nhà tôi bảo: "Cứ yên tâm. Thử suy xét việc đó xem nào. Mình lo về chuyện gì vậy? áp dụng luật trung bình xem việc đó có thể xảy ra được không đã!".
    Chẳng hạn, tôi nhớ lần chúng tôi lái xe từ Albuquerque ở New Mexico tới thạch động Carlsbad. Đường thì trơn trượt mà trời thì mưa bão, dông tố. Xe cứ trượt đi, khó kèm tay lái được. Tôi tin thế nào cũng lăn xuống hố bên đường, nhưng nhà tôi không ngớt lời nhắc: "Tôi lái rất chậm, sẽ không có chuyện gì đâu. Mà dù có đâm xuống hố nữa thì theo luật trung bình thì cũng chả sao đâu . Như lần chúng tôi đi cắm trại ở thung lũng Touquin tại chân dãy núi bên Canada. Một đêm, chúng tôi nghỉ trêm một nơi cao hơn bờ biển 2.300 thước. Bỗng có cơn dông nổi lên, muốn phá tan cái lều vải của chúng tôi. Lều dựng trên một sàn gỗ bằng dây thừng. Gió thổi đến vải căng phồng rung động, rít lên. Tôi lo nó bị lung tung lên trời quá. Tôi hoảng sợ. Nhưng nhà tôi bình tĩnh nói: "Này mình, chúng ta đi lần này có nhiều người dẫn đường. Họ biết rành công việc chuyên môn của họ chứ ! Họ cắm trại núi này 60 năm rồi. Mấy năm nay đã có nhiều trại cắm ở chỗ này. Chưa có trại nào bị gió tung lên trời, thì theo luật trung bình, đếm nay cũng không sao hết; mà nếu rủi trại mình có thổi tung đi nữa thì qua trại khác chứ có gì đâu... Thôi đừng lo nữa !". Tôi nghe lời và ngủ thẳng giấc suốt đêm.
    Rồi lại mấy năm trước, miền California của chúng tôi phát sinh bệnh dịch Polio làm trẻ con tê liệt. Trước kia, hay tin đó tôi đã sợ và mà phát kinh hỏang. Nhưng nay dã có nhà tôi khuyên tôi bình tĩnh. Chúng tôi đề phòng rất cẩn thận không cho các con cháu lại chỗ đông người, không cho chúng đi học, đi coi ciné . Sau hỏi sở y tế thì hay rằng từ trước tới nay California, trong những khi bệnh đó phát, thấy một lần ghê gớm nhất có 1.835 đứa trẻ chết, còn những lần khác chỉ có 200 hoặc 300 đứa. Những con số ấy mặc dầu cũng đáng sợ, nhưng theo luật trung bình thì phải rủi có là bao? "Theo luật trung bình nỗi lo lắng đấy sẽ không xảy ra đâu". Câu ấy đã phá tan 90 phần trăm nỗi lo của tôi và làm cho đời tôi trong 20 năm nay bình tĩnh hòan tòan .
    Đại tá George Crook, người da đen cầm quân có lẽ giỏi nhất trong lịch sử Mỹ, ghi vào cuốn "Tự truyện" của ông rằng: "Hầu hết những nỗi lo lắng và khổ sở của người da đen đều do họ tưởng tượng ra, chứ không có thật". Mấy chục năm sau ngồi nghĩ lại, tôi thấy những ưu tư của tôi cũng do tưởng tượng mà ra. Ông Jim Grant nói với tôi ông cũng nhận thấy vậy. Ông có một tiệm bán trái cây ở New York, vẫn hay mua 10 đến 13 toa xe cam và bưởi . Ông thường bị những ý nghĩ này dày vò : Nếu có một chuyến xe lửa trật đường rầy thì sao? hay là nếu xe đang qua cầu mà sập thì sao? Đã đành, trái cây đã có bảo hiểm, nhưng ông sợ nếu đến kỳ hẹn, không có hoa quả để giao cho khách thì sẽ bị mất mối. Ông lo nghĩ quá đến nỗi ông tưởng bị ung thư trong bao tử, phải đi khám bác sĩ. Bác sĩ nói ông không đau gì hết, chỉ có thần kinh suy nhược. Ông nói: Nghe lời ấy tôi hiểu ra ngay nên tự hỏi rồi tự đáp những câu này:
    -Này Jim Grant, từ trước tới nay, anh đã mua bao nhiêu toa trái cây rồi?
    - Khoảng 25 nghìn toa.
    - Có bao nhiêu toa bị trật đường rầy?
    - Ồ ! chắc khỏang năm toa. 25.000 toa mà chỉ có năm toa bị tai nạn. Thấy nghĩa lý gì không? Tỷ lệ là 1/5000. Nói một cách khác, theo luật trung bình do kinh nghiệm mà biết thì phần rủi bị tai nạn chỉ là 1 / 5000. Vậy anh còn lo nỗi gì?
    OK, một chiếc cầu có thể sập được: nhưng từ trước tới nay mất mấy toa vì cầu sập rồi/
    - Cầu chưa bao giờ sập hết ! 5.000 toa mới có một toa trật đường rầy, vậy mà lo tới nỗi tưởng bị ung thư trong bao tử thì chẳng phải là điên ư?
    Khi tôi nghĩ vậy, tôi nhận thấy trước kia tôi thật là ngu quá. Tức thì tôi quyết định để luật trung bình lo giùm tôi và từ đó tới nay, tôi hết sợ bị ung thư trong bao tử nữa". Khi Al Smith làm Thống đốc New York, tôi thấy khi ông đứng trước sự công kích của đối phương trên trường chính trị đã đối phó bằng cách lập đi lập lại mỗi một câu này: "Chúng ta hãy coi những con số... hãy coi những con số". Rồi ông đưa những sự kiện ra . Lần sau bạn và tôi có lo lắng điều chi thì cũng nên theo phương pháp khôn khéo của ông già Al Smith: hãy coi con số và xem xét lý lẽ- nếu có- của những lo lắng có vững chãi không. Chính ông Frederick J. Mahlstedt nói vậy khi ông bị vùi xuống huyệt. Ông kể: "Đầu tháng sáu năm 1944, tôi nằm trong một lỗ hầm gần vịnh Omaha. Tôi nằm trong đội tình báo 999 và chúng tôi mới "vùi thân" ở miền Normadie. Tôi nhìn xung quanh, xem xét lại lỗ hầm chữ nhật của tôi và tự nhủ: " Sao giống lỗ huyệt quá". Khi nằm xuống và rán nghỉ thì tôi có cảm tưởng như nằm trong mồ. Tôi tự nghĩ: "Có lẽ đây chính là mồ của ta ".
    Mười một giờ sáng, khi phi cơ khu trục của Đức bay lượn trên đầu bom bắt đầu dội xuống, tôi sợ tới nỗi chết cứng. Hai ba đêm đầu tôi không hề chợp mắt được một chút. Đên thứ tư hay thứ năm tinh thần tôi rời rạc, hoang mang. Tôi biết nếu không làm gì thì sẽ điên mất. Tôi nhớ lại thì hóa ra đã năm đêm rồi mà tôi vẫn còn sống nhăn răng, cũng như những người bạn đồng đội chỉ có hai bạn bị thương, nhưng không phải vì bom địch, mà vì mảnh đạn súng cao xạ trong bộ đội. Thế là tôi quyết định làm một việc gì có ích cho hết lo, tôi bèn cất một mái gỗ dày che lỗ hầm để khỏi bị mảnh bom, đạn. Tôi tưởng tượng khu đất mênh mông trên đó bộ đội đóng rải rác, và tự nhủ khi nào bom rớt trúng lỗ hầm nhỏ, sâu đó tôi mới chết được. Mà cái rủi ấy chỉ là một phần mười ngàn. Sau hai đêm suy nghĩ như vậy, tôi bình tĩnh lại và ngủ được, cả trong lúc bom địch vẫn đang dội như mưa nữa !
    Bộ Hải quân Mỹ dùng những bảng thống kê về luật quân bình để nâng cao tinh thần thủy thủ. Một cựu thương binh kể với tôi khi anh và bạn bè bị đưa xuống chiếc tàu chờ dầu xăng JP-4 High Octane (một thứ xăng rất dễ bén lửa) ai nấy đều kinh hoảng. Họ tin nếu tàu bị trúng thuỷ lôi sẽ nổ và tung họ lên tới mây xanh. Nhưng bộ Hải quân Mỹ biết rõ hơn họ, đưa ra những con số chắc chắn chứng minh rằng 100 tàu dầu bị thuỷ lôi chỉ có 40 chiếc chìm, và chỉ có năm chiếc chìm ngay trong mười phút. Như vậy nghĩa là lính thủy có thời gian nhảy kịp xuống biển và phần bị chết sẽ không lớn mấy. Tài liệu ấy có nâng cao tin thần họ không? Đây, anh lính thuỷ kể chuyện kết luận rằng : " Sau khi biết luật trung bình rồi, chúng tôi hết lo ngay. Tinh thần của thủy thủ đoàn được nâng cao hơn. Chúng tôi biết còn có nhiều phần may và theo luật trung bình chúng tôi có rất nhiều hy vọng được sống sót ".
    (còn tiếp)
    Được alleykat sửa chữa / chuyển vào 09:21 ngày 29/08/2003
  9. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Một định lệ diệt được nhiều nỗi lo lắng
    Hồi nhỏ tôi sống ở một nông trại tại Missouri, vào một hôm trong khi giúp má tôi lấy một quả đào, tự nhiên tôi oà lên khóc. Má tôi hỏi: ?Dale, tại sao con khóc vậy??o Tôi sụt sùi đáp: ?Con sợ sắp bị chôn sống?o. Thời ấy óc tôi ngập đầy những lo lắng. Trời sấm sét, tôi lo bị sét đánh. Thời tiết làm mất mùa, tôi lo đói. Tôi lo sợ sẽ phải xuống hỏa ngục. Tôi sợ hãi khi nghe một đứa bạn lớn, tên Sam White, doạ sẽ cắt tai tôi. Tôi sợ các cô gái cười chê tôi khi tôi dở nón chào các cô. Tôi lo sợ sau này sẽ không có cô nào thèm yêu tôi. Tôi lo lắng không biết khi mới đón dâu xong, sẽ nói với vợ tôi câu gì. Tôi tưởng tượng sẽ làm lễ cưới tại một nhà thờ thôn quê, rồi ngồi chiếc xe song mã có rèm rủ mà trở về nông trại... Nói chuyện gì với vợ tôi trên suốt quãng đường về trại đó? Làm sao được ? Tôi suy nghĩ hàng giờ tới vấn đề động trời đó trong khi cày ruộng. Và ngày tháng qua, tôi dần dần thấy rừng 99 phần trăm những nỗi lo lắng ấy không bao giờ xảy tới.
    Chẳng hạn như trên kia đã nói, tôi sợ bị sét đánh, thì bây giờ tôi biết rằng, theo bảng thống kê mỗi năm của quốc gia trong số 350.000 người chị có một người bị sét đánh ( nghĩa là phần rủi ro chỉ là 1/350.000). Còn sợ bị chôn sống mới càng vô lý nữa chứ, tôi không tin rằn trong 10 triệu người có tới một người bị chôn sống, vậy mà tôi đã lo sợ tới khóc lóc khổ sở. Trái lại trong tám người, có một người chết vì ung thư. Thế thì nếu phải lo lắng, ta lo bị ung thư còn có lý hơn là lo bị sét đánh hoặc chôn sống. Đã đành, trên kia tôi chỉ kể những ưu tư của tuổi thơ và tuổi xuân, nhưng biết bao lần nỗi lo của người đứng tuổi cũng gần vô lý như vậy. Bạn và tôi đều có thể giải được 9 phần 10 những âu sầu chúng ta ngay, bây giờ, nếu chúng ta chịu quên ưu tư trong một lúc, vừa đủ để suy nghĩ xem, theo luật trung bình, những lo lắng của ta có lý hay không.
    Hãng bảo hiểm nổi danh nhất thế giới, Lloyds of London - sở dĩ kiếm được không biết bao nhiêu triệu đồng là do cái thói hay lo của chúng ta về những sự ít khi xảy tới. Hãng đánh cá với thân chủ rằng những tai nạn mà mọi người hay lo đó không bao giờ có hết. Nhưng họ không chịu nhận như vậy là đánh cá. Họ gọi là bảo hiểm. Thật thì đó là đánh cá, một lối đánhh cá khoa học, lấy luật trung bình là nền tảng vậy. Cả 200 năm nay hãng này đã phát đạt vô cùng. Và bản tính của loài người chưa thay đổi thì hãng còn phát đạt cả ngàn năm nữa, nhờ sự bảo hiểm nhà cửa xe cộ, tàu bè, giầy dép... vì theo luật trung bình, ít khi xảy ra tai hoạ cho những món đó lắm. mà người đời nhất định không chịu hiểu như thế.
    Xét kỹ luật ấy, chung ta sẽ thấy nhiều sự phát giác bất ngờ. Chảng hạn nến tôi biết trước ràng khoảng 5 năm nữa, tôi phải chiến đấu trong một trận cũng đổ máu như trận Gettysburg (hồi Nam Bắc phân tranh) thì chắc là tôi hoảng sợ tới ngất xỉu. Tôi sẽ bảo hiểm nhân mạng tôi ngay và tôi sẽ nói: ?Không thể nào sống sót sau trận đó được đâu, còn được ngày nào thì tận hưởng ngày đó đi?o. Nhưng sự thật thì theo luật trung bình, phần rủi bị chết trong trận ấy cũng chỉ bằng phần rủi bị chết trong thời bình, vào khoảng 50 tới 55 tuổi thôi. Nghĩa là thời bình cứ 1.000 người có nhiều người chết từ 50 đến 55 tuổi thì trong số 163.000 lính ở trận Gettysburg cũng cứ 1.000 người chỉ có bấy nhiêu người bỏ mạng.

    Tôi viết nhiều chương trong cuốn này ở bên bờ "Hồ Bán Nguyệt" tại miền núi đá xứ Canada, nơi mà tôi làm quen với vợ chồng bà Herbert H. Salinger. Bà rất điềm đạm, bình tĩnh, nhưng không bao giờ lo lắng hết. Một buổi chiều, ngồi trước lò sưởi, củi nổ lách tách, tôi hỏi có bao giờ bà bị lo lắng quấy nhiễu không thì bà đáp: "Quấy nhiễu mà thôi ư? Nó đã gần làm hại đời tôi nữa kia. Trước khi tháng được nó, tôi sống 11 năm trong cảnh địa ngục mà tôi tự giam vào. Tôi nóng tính và hay oán. Lúc nào cũng lo sợ không yên. Thường thường mỗi tuần tôi đi xe ô tô buýt từ nhà đến San Francisco để mua bán lặt vặt. Nhưng trong khi mua bán, tôi lo lắng tới cái này cái nọ: Bàn ủi điện đã gỡ ra chưa? Có lẽ cháy nhà mất? Chị ở chắc bỏ đi rồi, ai coi sóc tụi nhỏ? hay là tụi nó đạp xe máy đi chơi, bị xe cán rồi cũng nên? Có khi tôi sợ toát mồ hôi, chạy vội về nhà coi có xảy ra chuyện gì không. Ông xem như thế thì vợ chồng tôi đã phải ly dị nhau, điều đó cũng không còn gì đáng lạ.
    "Người chồng sau của tôi là một luật sư bình tĩnh, có óc phân tích, không bao giờ lo lắng. Khi tôi ưu tư, dây thần kinh căng thẳng, nhà tôi bảo: "Cứ yên tâm. Thử suy xét việc đó xem nào. Mình lo về chuyện gì vậy? áp dụng luật trung bình xem việc đó có thể xảy ra được không đã!".
    Chẳng hạn, tôi nhớ lần chúng tôi lái xe từ Albuquerque ở New Mexico tới thạch động Carlsbad. Đường thì trơn trượt mà trời thì mưa bão, dông tố. Xe cứ trượt đi, khó kèm tay lái được. Tôi tin thế nào cũng lăn xuống hố bên đường, nhưng nhà tôi không ngớt lời nhắc: "Tôi lái rất chậm, sẽ không có chuyện gì đâu. Mà dù có đâm xuống hố nữa thì theo luật trung bình thì cũng chả sao đâu . Như lần chúng tôi đi cắm trại ở thung lũng Touquin tại chân dãy núi bên Canada. Một đêm, chúng tôi nghỉ trêm một nơi cao hơn bờ biển 2.300 thước. Bỗng có cơn dông nổi lên, muốn phá tan cái lều vải của chúng tôi. Lều dựng trên một sàn gỗ bằng dây thừng. Gió thổi đến vải căng phồng rung động, rít lên. Tôi lo nó bị lung tung lên trời quá. Tôi hoảng sợ. Nhưng nhà tôi bình tĩnh nói: "Này mình, chúng ta đi lần này có nhiều người dẫn đường. Họ biết rành công việc chuyên môn của họ chứ ! Họ cắm trại núi này 60 năm rồi. Mấy năm nay đã có nhiều trại cắm ở chỗ này. Chưa có trại nào bị gió tung lên trời, thì theo luật trung bình, đếm nay cũng không sao hết; mà nếu rủi trại mình có thổi tung đi nữa thì qua trại khác chứ có gì đâu... Thôi đừng lo nữa !". Tôi nghe lời và ngủ thẳng giấc suốt đêm.
    Rồi lại mấy năm trước, miền California của chúng tôi phát sinh bệnh dịch Polio làm trẻ con tê liệt. Trước kia, hay tin đó tôi đã sợ và mà phát kinh hỏang. Nhưng nay dã có nhà tôi khuyên tôi bình tĩnh. Chúng tôi đề phòng rất cẩn thận không cho các con cháu lại chỗ đông người, không cho chúng đi học, đi coi ciné . Sau hỏi sở y tế thì hay rằng từ trước tới nay California, trong những khi bệnh đó phát, thấy một lần ghê gớm nhất có 1.835 đứa trẻ chết, còn những lần khác chỉ có 200 hoặc 300 đứa. Những con số ấy mặc dầu cũng đáng sợ, nhưng theo luật trung bình thì phải rủi có là bao? "Theo luật trung bình nỗi lo lắng đấy sẽ không xảy ra đâu". Câu ấy đã phá tan 90 phần trăm nỗi lo của tôi và làm cho đời tôi trong 20 năm nay bình tĩnh hòan tòan .
    Đại tá George Crook, người da đen cầm quân có lẽ giỏi nhất trong lịch sử Mỹ, ghi vào cuốn "Tự truyện" của ông rằng: "Hầu hết những nỗi lo lắng và khổ sở của người da đen đều do họ tưởng tượng ra, chứ không có thật". Mấy chục năm sau ngồi nghĩ lại, tôi thấy những ưu tư của tôi cũng do tưởng tượng mà ra. Ông Jim Grant nói với tôi ông cũng nhận thấy vậy. Ông có một tiệm bán trái cây ở New York, vẫn hay mua 10 đến 13 toa xe cam và bưởi . Ông thường bị những ý nghĩ này dày vò : Nếu có một chuyến xe lửa trật đường rầy thì sao? hay là nếu xe đang qua cầu mà sập thì sao? Đã đành, trái cây đã có bảo hiểm, nhưng ông sợ nếu đến kỳ hẹn, không có hoa quả để giao cho khách thì sẽ bị mất mối. Ông lo nghĩ quá đến nỗi ông tưởng bị ung thư trong bao tử, phải đi khám bác sĩ. Bác sĩ nói ông không đau gì hết, chỉ có thần kinh suy nhược. Ông nói: Nghe lời ấy tôi hiểu ra ngay nên tự hỏi rồi tự đáp những câu này:
    -Này Jim Grant, từ trước tới nay, anh đã mua bao nhiêu toa trái cây rồi?
    - Khoảng 25 nghìn toa.
    - Có bao nhiêu toa bị trật đường rầy?
    - Ồ ! chắc khỏang năm toa. 25.000 toa mà chỉ có năm toa bị tai nạn. Thấy nghĩa lý gì không? Tỷ lệ là 1/5000. Nói một cách khác, theo luật trung bình do kinh nghiệm mà biết thì phần rủi bị tai nạn chỉ là 1 / 5000. Vậy anh còn lo nỗi gì?
    OK, một chiếc cầu có thể sập được: nhưng từ trước tới nay mất mấy toa vì cầu sập rồi/
    - Cầu chưa bao giờ sập hết ! 5.000 toa mới có một toa trật đường rầy, vậy mà lo tới nỗi tưởng bị ung thư trong bao tử thì chẳng phải là điên ư?
    Khi tôi nghĩ vậy, tôi nhận thấy trước kia tôi thật là ngu quá. Tức thì tôi quyết định để luật trung bình lo giùm tôi và từ đó tới nay, tôi hết sợ bị ung thư trong bao tử nữa". Khi Al Smith làm Thống đốc New York, tôi thấy khi ông đứng trước sự công kích của đối phương trên trường chính trị đã đối phó bằng cách lập đi lập lại mỗi một câu này: "Chúng ta hãy coi những con số... hãy coi những con số". Rồi ông đưa những sự kiện ra . Lần sau bạn và tôi có lo lắng điều chi thì cũng nên theo phương pháp khôn khéo của ông già Al Smith: hãy coi con số và xem xét lý lẽ- nếu có- của những lo lắng có vững chãi không. Chính ông Frederick J. Mahlstedt nói vậy khi ông bị vùi xuống huyệt. Ông kể: "Đầu tháng sáu năm 1944, tôi nằm trong một lỗ hầm gần vịnh Omaha. Tôi nằm trong đội tình báo 999 và chúng tôi mới "vùi thân" ở miền Normadie. Tôi nhìn xung quanh, xem xét lại lỗ hầm chữ nhật của tôi và tự nhủ: " Sao giống lỗ huyệt quá". Khi nằm xuống và rán nghỉ thì tôi có cảm tưởng như nằm trong mồ. Tôi tự nghĩ: "Có lẽ đây chính là mồ của ta ".
    Mười một giờ sáng, khi phi cơ khu trục của Đức bay lượn trên đầu bom bắt đầu dội xuống, tôi sợ tới nỗi chết cứng. Hai ba đêm đầu tôi không hề chợp mắt được một chút. Đên thứ tư hay thứ năm tinh thần tôi rời rạc, hoang mang. Tôi biết nếu không làm gì thì sẽ điên mất. Tôi nhớ lại thì hóa ra đã năm đêm rồi mà tôi vẫn còn sống nhăn răng, cũng như những người bạn đồng đội chỉ có hai bạn bị thương, nhưng không phải vì bom địch, mà vì mảnh đạn súng cao xạ trong bộ đội. Thế là tôi quyết định làm một việc gì có ích cho hết lo, tôi bèn cất một mái gỗ dày che lỗ hầm để khỏi bị mảnh bom, đạn. Tôi tưởng tượng khu đất mênh mông trên đó bộ đội đóng rải rác, và tự nhủ khi nào bom rớt trúng lỗ hầm nhỏ, sâu đó tôi mới chết được. Mà cái rủi ấy chỉ là một phần mười ngàn. Sau hai đêm suy nghĩ như vậy, tôi bình tĩnh lại và ngủ được, cả trong lúc bom địch vẫn đang dội như mưa nữa !
    Bộ Hải quân Mỹ dùng những bảng thống kê về luật quân bình để nâng cao tinh thần thủy thủ. Một cựu thương binh kể với tôi khi anh và bạn bè bị đưa xuống chiếc tàu chờ dầu xăng JP-4 High Octane (một thứ xăng rất dễ bén lửa) ai nấy đều kinh hoảng. Họ tin nếu tàu bị trúng thuỷ lôi sẽ nổ và tung họ lên tới mây xanh. Nhưng bộ Hải quân Mỹ biết rõ hơn họ, đưa ra những con số chắc chắn chứng minh rằng 100 tàu dầu bị thuỷ lôi chỉ có 40 chiếc chìm, và chỉ có năm chiếc chìm ngay trong mười phút. Như vậy nghĩa là lính thủy có thời gian nhảy kịp xuống biển và phần bị chết sẽ không lớn mấy. Tài liệu ấy có nâng cao tin thần họ không? Đây, anh lính thuỷ kể chuyện kết luận rằng : " Sau khi biết luật trung bình rồi, chúng tôi hết lo ngay. Tinh thần của thủy thủ đoàn được nâng cao hơn. Chúng tôi biết còn có nhiều phần may và theo luật trung bình chúng tôi có rất nhiều hy vọng được sống sót ".
    (còn tiếp)
    Được alleykat sửa chữa / chuyển vào 09:21 ngày 29/08/2003
  10. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Đã không tránh được thì nhận đi
    Hồi nhỏ tôi toàn chơi với vài đưa bạn trên sân thượng một ngôi nhà bỏ hoang ở Missouri. Tôi leo từ trên sàn gác xuống, đặt chân lên thành một cửa sổ rồi nhảy xuống đất. Ngón tay trỏ bên trái của tôi đeo một chiếc nhẫn, và khi nhảy, chiếc nhẫn móc vào đầu một cây đinh, ngón tay tôi đứt văng ra. Tôi hét ầm lên vì hốt hoảng, nghĩ rằng chắc chắn tôi sẽ chết. Nhưng khi vết thương đã lành tôi không còn nghĩ chút xíu gì tới bàn tay cụt một ngón của tôi hết. Co?T ích lợi gì đâu?... Điều gì đã không tránh được thì lo buồn làm gì? Bây giờ có khi cả mấy tháng tôi không nhớ rằng bàn tay trái của tôi chỉ còn bốn ngón.
    Mấy năm trước, có lần lên thang máy trong một ngôi nhà chọc trời ở New York, tôi nhận thấy người coi thang máy cụt mất bàn tay trái. Tôi hỏi có buồn vì cụt tay không, người đó đáp: "Không, ít khi tôi nghĩ đến điều ấy lắm. Tôi sống độc thân và chỉ khi nào xỏ kim tôi mới nhớ tới !". Thật lạ lùng! Gặp một hoàn cảnh nào, nếu đã phải nhận nó, thì ta nhận một cách dễ dàng, mau mắn; chúng ta tự thay đổi thái độ để thích hợp với hoàn cảnh ấy rồi quên hẳn nó đi. Tôi nhớ câu này khắc trên cửa một ngôi nhà hoang tàn cất từ thế kỷ 15 ở Amsterdam (Hà Lan): "Như vậy đó, mà không thể khác vậy được !". Bạn và tôi, đi trên đường đời, sẽ gặp nhiều tình thế bất mãn, không thể thay đổi được. Những lúc ấy ta phải chọn lấy một trong hai đường sau này: hoặc nhận tình thế đó mà tự thay đổi cách sống cho thích hợp hoặc chống cự lại để rồi hại sức khoẻ và sau cùng mang lấy bịnh thần kinh.
    Dưới đây là lời khuyên rất thiết thực của một trong những tâm lý gia tôi khâm phục nhất, ông William James: "Chấp nhận hoàn cảnh đi. Biết nhận một tình thế đã xảy ra là bước được bước đầu để thắng nổi những kết quả của bất kỳ tai hoạ nào ". Bà Elizabeth Connley đã khổ sở mới tìm được chân lý ấy. "Chính ngày mà nước Mỹ cử hành lễ đại thắng quân địch ở Bắc Phi, tôi nhận được một điện tín của bộ chiến tranh báo tin đứa cháu tôi - mà tôi yêu thương nhất - đã bị báo cáo là mất tích. Sau đó, một điện tín khác báo tin cháu đã tử trận ". Tôi đau buồn vô cùng. Từ trước, tôi cho đời là rất đẹp. Tôi có một công việc làm mà tôi ưa thích: chu cấp cho đứa cháu ấy để nó nên người. Tôi thấy nó thật là một thanh niên dễ thương, đáng làm kiểu mẫu. Trời đã thưởng công tôi! ... Rồi thì bức điện tín gửi đến. Đất như sụp đổ dưới chân tôi. Tôi thấy không còn lý do gì sống nữa. Tôi bỏ bê công việc, lạt lẽo với bạn bè, phó hết thảy cho giòng đời chảy xuôi. Tôi uất ức và trở nên chua chát. Tại sao Thượng Đế lại độc địa bắt đứa cháu của tôi đi như vậy? Tại sao một thanh niên dễ thương như vậy - có cả một tương lai huy hòang trước mắt - mà lại chết sớm như vậy ? Tôi không thể tin có như thế được. Tôi tuyệt vọng quá đến nỗi muốn bỏ việc, bỏ cả xứ sở, tự giam mình trong một nơi để than thở và khóc lóc .
    Tôi xếp dọn giấy tờ trên bàn, sửa soạn đi xa, thì bỗng thấy một bức thư cũ, của cháu viết cho tôi khi Mẹ tôi mất vài năm trước. Trong thư cháu viết : " Bà mất, cô và cháu thấy nhà vắng hẳn đi, nhất là cô. Nhưng cháu chắc chắn là cố sẽ nén buồn được, nhờ chân lý cô đã tự tìm thấy. Chúa không bao giờ quên được cái chân lý đẹp đẽ ấy mà cô đã dạy cháu. Dù ở chân trời góc bể, ngăn sông cách núi, cháu cũng ghi tâm tạc dạ rằng cô đã khuyên cháu gặp bất kỳ nghịch cảnh nào cũng luôn luôm mỉm cười, vui vẻ nhận nó như một kẻ trượng phu vậy".
    Tôi đọc đi đọc lại bức thư ấy, thấy như có cháu đang đứng bên cạnh, mỉm cười và nói với tôi: "Tại sao bây giờ cô không thử làm như cô đã khuyên cháu? Cứ vui sống đi, mặc kệ tình thế ra sao thì ra, giấu nỗi buồn trong một nụ cười rồi cứ vui vẻ mà sống". Từ đó, tôi dùng hết cả tâm lực trong công việc của tôi. Tôi bắt đầu viết thư cho những người lính khác để an ủi họ và thân nhân của họ. Tôi nhận dạy thêm giúp buổi tối trong một lớp thanh niên, tìm ra được những nguồn vui mới, làm quen được với được với nhiều người bạn mới. Bây giờ ngồi nhớ lại, tôi cũng ngạc nhiên về sự thay đổi gần như khó tin đó. Tôi không còn than thở về cái dĩ vãng đã qua hẳn rồi nữa. Tôi vui vẻ sống mỗi ngày, y như lời cháu khuyên và tôi đã chấp nhận lấy số phận, không chống lại đời tôi. Đời sống của tôi bây giờ đầy đủ hơn lúc nào hết".
    Bà Elizabeth Counley ở Portland đã học được một điều mà chúng ta trước sau gì cũng phải học là: số phận đã không tránh được thì hãy nhận và hợp tác với nó đi: "Chuyện xảy ra như thế và không thể nào khác được". Bài học ấy khó thật. Cả những vua chúa trên ngai vàng cũng cần phải biết tự chủ mới theo đúng được . Anh hoàng George V cho đóng khung câu này rồi treo trên tường trong thư viện của ngài trong điện Buckingham: " Xin ai hãy khuyên tôi đừng đòi ông trăng trên trời hoặc bất bình về một tình thế không sao cứu vãn được nữa". Schopenhauer cũng đồng ý như vậy trong câu này: "Trên đường đời, hành lý quan trọng nhất phải mang theo là lòng nhẫn nhục".
    Chắc là hoàn cảnh tự nó không thể làm cho ta sung sướng hay đau khổ. Chính cái cách ta đáp ứng lại với nó làm cho ta khổ hay vui. Chúa Jesus đã nói: ?oThiên đường ở ngay trong lòng ta". Trong lòng ta có Thiên đường mà cũng có Địa Ngục là thế đó. Nếu cần, chúng ta có thể chịu nổi và thắng được tất cả nhưng tai họa và thảm kịch vì chúng ta có những năng lực tiềm tàng phi thường mà nếu biết dùng tới, ta sẽ vượt qua được tất cả mọi nghịch cảnh. Chúng ta mạnh hơn chúng ta tưởng. Ông Booth Tarkington luôn luôn nói: Tai hoạ gì trời đất bắt tôi chịu, tôi cũng chịu được hết, chỉ trừ một tật đui mù thôi. Không bao giờ tôi chịu được cảnh ấy". Nhưng một ngày kia, khi tới lục tuần, ông ngó xuống tấm thảm ở trên sàn nhà thì... sao mà màu mờ nhạt thế này? Ông không còn trông rõ hình thêu trên thảm nữa. Lại hỏi một bác sĩ nhãn khoa, ông mới hay cái sự thật đau đớn này: ông sắp bị mù. Một con mắt đã gần mù hẳn rồi, con mắt kia cũng sẽ mù luôn. Điều mà tôi sợ nhất đã xảy ra!
    Ông Tarkington phản ứng lại cách nào khi ông bị "tai nạn ghê gớm nhất ấy?" Ông ta có nghĩ như vầy không? "Thế là hết. Mình đã đến lúc tận số rồi đây". Không ! Ông ngạc nhiên thấy mình rất vui vẻ, còn có óc trào phúng nữa là khác. Ông bực bội vì những đốm mờ mờ nó đi qua con người ông, làm ông hết còn trông rõ, nhưng khi cái đốm lớn nhất vừa qua khỏi, ông nói: "Ái chà! ông nội lại tới. Sáng nay đẹp trời, ông nội đi lang thang đâu vậy ?".
    Vận mạng làm sao mà thắng nổi một tâm hồn như thế ? Khi đã hoàn toàn đui mù, ông nói: "Tôi thấy rằng tôi chịu được cảnh đui như những người khác chịu được những tai nạn của họ. Tôi tin chắc nếu cả ngũ quan của tôi mang tật, hoá ra vô dụng nữa thì tôi vẫn có thể sống với tinh thần, vì chúng ta trông bằng tinh thần, sống bằng tinh thần ". Trong một năm, ông dể cho y sĩ mổ mắt 12 lần, hy vọng sẽ khỏi bệnh. Các y sĩ đều dùng thuốc tê mà không lần nào ông phản kháng rên la. Ông biết không sao tránh được cho nên chỉ có cách để tránh bớt đau khổ là vui lòng nhận lấy hết. Tại nhà thương, ông không chịu nằm trong phòng riêng mà xin nằm trong một phòng chung để được gần những người đau khổ khác. Ông cố gắng nâng cao tinh thần họ, và sắp bị mổ mắt, ông biết trước sẽ đau đớn lắm, nhưng ông ráng nhớ rằng ông hãy còn sung sướng nhiều. Ông nói: ?oThật kỳ diệu! Khoa học ngày nay tiến bộ đến nỗi mổ được bộ phận tế nhị là con mắt! Thật kỳ diệu!".
    Người thường, nếu bị mù và bị mổ mắt 12 lần thì chắc là sợ mà gầy ốm như ma dại, còn ông Tarkington thì nói "Bây giờ có đổi nỗi đau đớn ấy để được nỗi vui hơn tôi cũng không đổi". Tại sao ? Vì nó đã dạy cho ông biết cách an phận, cho biết rằng sức ông chịu được những cảnh đau đớn nhất đời, nó đã cho ông thấy lời này của thi sĩ John Milton là chí lý: "Mù không phải là khổ, không chịu được cảnh đui mù mới là khổ".

    Bà Margaret Faller, người bênh vực nữ quyền nổi tiếng nhất ở Anh, một lần đã dùng câu này làm châm ngôn: "Cõi đời ra sao, tôi nhận như vậy!". Ông già quạ quọ Thomas Carlyle nghe câu đó, liền nói mỉa: "Thì dĩ nhiên bà ấy phải đành chịu vậy"! Phải, bạn và tôi, chúng ta cũng phải nhận số phận của ta vậy chứ sao ! Nếu chúng ta, rên rỉ giẫy giụa, sinh ra chua chát, thì cũng không thay đổi được tình cảm mà chỉ làm thay đổi được tính tình, cơ thể ta thôi. Tôi nói vậy qua kinh nghiệm của chính bản thân . Có lần tôi không chịu nhận một tình thế mà tôi không sao tránh được. Tôi nổi điên, chống cự lại, sinh ra mất ngủ, khiến đời tôi biến thành cảnh hỏa ngục. Hóa ra tôi tự chuốc lấy thêm nhiều nỗi bất mãn. Rút cục, sau một năm tự dày vò bản thân, tôi phải chấp nhận cái tình thế mà ngay từ lúc đầu tôi đã không có cách nào cải thiện cả. Sao tôi không noi gương ông già Walt Whitman mà thản nhiên như loài sâu, loài thú trước những cảnh tối tăm, đói lạnh, dông tố ? Có một thời tôi nuôi bò trong 12 năm trời. Không khi nào tôi thấy con bò cái nổi nóng lên vì nắng đã làm cháy cỏ hoặc vì trời lạnh quá và mưa đá, hoặc vì con bò đực bạn trăm năm của nó o bế một con bò cái khác. Loài vật thản nhiên trước cảnh tối tăm, dông tố và thất tình ; vì vậy chúng không bao giờ đau thần kinh hoặc bị ung thư, cũng chả bao giờ hoá điên hết.
    Như thế có phải là tôi khuyên bạn nên cúi đầu chịu hết những nghịch cảnh trên đường đời không ? Không bao giờ tôi có ý đó ! Vì như vậy là theo thuyết định mạng rồi. Nếu còn hy vọng cứu vãn được tình thế thì còn phải tranh đấu đến cùng ! Nhưng khi đã biết rõ rằng chống lại cũng vô ích, sự đã rồi, không thể thay đổi được thì xin bạn hãy thương bộ thần kinh của bạn mà đừng quay cuồng, ngó trước ngó sau, than tiếc những tình thế đẹp tốt hơn nữa. Ông khoa trưởng Hawkers ở Đại học Columbia nói với tôi ông lấy bài ca "Ngỗng mẹ" sau này làm châm ngôn.
    Trời sinh mỗi bệnh ở đời
    Có phương chữa được, không thời vô phương
    Có phương hãy ráng tìm phương
    Vô phương thì chịu, lo lương làm gì.

    Để tìm tài liệu cuốn này, tôi đã phỏng vấn nhiều thương gia giỏi nhất ở Mỹ. Tôi ngạc nhiên thấy họ hợp tác với những tình thế không thể tránh được và đời họ tuyệt nhiên không có ưu tư gì hết. Nếu không sống như vậy thì mệt óc quá, họ chịu sao nổi. Tôi kể ra đây vài thí dụ: ông J.C.Penney, người sáng lập ra tiệm tạp hóa JC. Penney có chi nhánh trong khắp nước Mỹ nói: "Dù có bị phá sản cho đến không còn một xu nữa, tôi cũng chả thèm lo âu, vì tôi đã biết rằng lo buồn không ích lợi gì cả. Gắng sức làm được tới đâu thì làm, còn kết quả, hãy phó cho vận mạng".
    Ông Henry Ford cũng nghĩ như vậy: "Khi tôi không điều khiển được thì biến cố nó tự điều khiển lấy". Khi tôi hỏi ông K.T.Keller, hội trưởng nghiệp đoàn "Chrysler rằng làm cách nào mà khỏi ưu tư, ông đáp: "Gặp một tình thế khó khăn, nếu có cách cải thiện được thì tôi cải thiện. Nếu không có cách nào thì tôi không thèm nghĩ đến nó nữa, quên hẳn nó đi. Không bao giờ tôi lo lắng về tương lai vì tôi hiểu không một ai có thể biết tương lai sẽ ra sao mà ta không hiểu được động lực đó ra sao và sức gì đưa đẩy nó. Vậy thì lo lắng về tương lai làm gì?". Nếu bạn khen ông K.T.Keller là một nhà hiền triết thì ông ta sẽ ngượng lắm. Ông chỉ là một nhà doanh nghiệp khôn khéo đã tự kiếm ra được triết lý của Epictetus đã dạy cho dân La Mã 19 thế kỷ trước: "Chỉ có một cách tìm được hạnh phúc là đừng lo nghĩ về những điều vượt ngoài khả năng của ta".
    Bà Sarah Bernard cho ta một bằng cớ có giá trị rằng đàn bà cũng biết hợp tác với những tình thế không thể tránh được. Suốt 50 năm, bà như một nữ hoàng trên kịch trường khắp năm Châu, chưa có tài tử nào được người ta mến như bà. Nhưng đến năm 71 tuổi thì bà nghèo khổ - không còn đồng xu nào hết. Thế rồi giữa khi thất thế đó, khi vượt đại dương, bà đã bị ngã trên boong tàu và bị thương nặng ở chân. Chứng viêm tĩnh mạch bạo phát, chân bà tóp lại, đau đớn vô cùng, đến nỗi bác sĩ phải quyết định cưa bỏ. Biết tính bà nóng như lửa, bác sĩ ngần ngại không cho bà hay quyết định ấy, sợ sẽ làm bà phát chứng động kinh. Nhưng ông ta đã lầm. Khi hay quyết định ấy, bà Sarah nhìn người bác sĩ một hồi rồi điềm đạm nói: "Nếu phải cưa thì ông cứ cưa. Số mạng đã bắt vậy. Trong khi bà nằm trên xe để người ta đẩy lại phòng mổ, người con trai của bà đứng bên khóc lóc. Bà vui vẻ vẫy lại và bảo: "Con đợi đó nhé. Mẹ sẽ trở lại". Trên đường tới phòng mổ, bà đọc lại một màn kịch bà đã diễn. Có kẻ hỏi có phải bà làm như vậy để hăng hái lên không thì bà đáp: "Không, tôi cốt ý cho các bác sĩ và các cô đều vững lòng tin vì thần kinh họ đang bị căng thẳng". Chân lành rồi, bà đi vòng khắp thế giới, làm cho công chúng say mê thêm bảy năm nữa. L.C MacCormick trong bài đăng ở báo Reader''''s Digest viết: "Nếu ta chấp nhận một tình thế không thể tránh được thì năng lực của ta được thong thả và giúp ta tạo được một đời sống phong phú hơn".
    Không ai có đủ sức khỏe và nghị lực để vừa chống cự với một tình thế không tránh được, vừa tạo một đời sống mới đâu. Chúng ta phải chọn một trong hai điều ấy, hoặc là cúi đầu chịu những cơn bão táp tất có trong đời, hoặc chống lại với nó để rồi chết thảm". Chính tôi đã được mục đích cảnh chết ấy trong nông trại của tôi ở Missouri. Tại đó tôi trồng vài chục gốc cây. Mới đầu chúng mọc rất mau. Rồi một trận bão tuyết ào tới, tuyết đóng nặng trên mỗi cảnh, mỗi nhánh. Đáng lẽ uyển chuyển trĩu xuống dưới sức nặng thì những cây ấy lại hiên ngang đứng thẳng chống cự lại, tới nỗi tuyết nặng quá, cành phải gãy, thân phải nứt - cuối cùng tôi phải chặt bỏ hết đi. Những cây tại rừng miền Bắc khôn ngoan hơn. Tôi đã đi qua hàng mấy trăm cây số rừng bốn mùa xanh tốt ở Canada mà tôi chưa thấy một cây nào bị tuyết đè nặng làm gãy cả. Những cây quanh năm xanh tươi ấy biết uốn thân, cành dưới sức nặng, biết cái đạo hợp tác với những tình thế không tránh được.''''
    Các ông thầy võ Nhật dạy các môn đệ phải luôn luôn nhớ " mềm mại như cây Liễu, đừng cứng rắn như cây Tùng". Bạn có biết tại sao những vỏ xe hơi lăn trên đường mà chịu được đủ cái tội tình: nào cọ vào đường, nào cán lên đá nhọn không? Mới đầu các nhà chế tạo những vỏ xe cứng rắn. Nhưng chẳng bao lâu vỏ xe tan tành ra từng mảnh. Rồi họ mới chế ra những vỏ xe mềm hơn để làm cho sự đụng chạm trên đường dịu nhẹ đi và những vỏ này "chịu đựng" được lâu bền hơn. Trên đọan đường đời khấp khểnh, bạn và tôi nếu chúng ta học được cách làm cho những sự đụng chạm dịu bớt đi, thì cuộc hành trình của ta cũng dài hơn , êm đềm và sung sướng hơn.
    Nếu không theo cách ấy mà cứ chống lại với những sự khó khăn trong đời, chúng ta sẽ ra sao? Nếu không chịu "mềm mại như cây Liễu" mà cứ nhất định "cứng cỏi như cây Tùng" chúng ta sẽ ra sao? Dễ hiểu lắm. Chúng ta sẽ gây ra những xung đột bất tận trong thâm tâm ta, chúng ta sẽ lo lắng, khổ sở, cáu kỉnh và sẽ bị bệnh thần kinh. Và hơn nữa, nếu chúng ta đi đến mức phủ nhận sự thật đau đớn và lùi về một thế giới ảo mộng do ta tưởng tượng ra, thì ta đã hóa điên mất rồi.
    Được alleykat sửa chữa / chuyển vào 21:07 ngày 30/08/2003

Chia sẻ trang này