1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quẳng gánh lo đi và vui sống , Dale Carnegie

Chủ đề trong 'Mỹ (United States)' bởi alleykat, 23/08/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Nếu định mạng chỉ cho ta một quả chanh
    Thì hãy pha thành một ly nước chanh ngon ngọt

    Cách đây ít lâu, tôi có dịp gặp ông Robert Mayard Hutchinson, Viện Trưởng Đại Học Chicago. Và trong lúc nói chuyện, tôi đã hỏi ông làm cách nào cho khỏi buồn bực. Ông nói bao giờ ông cũng theo lời khuyên bảo của ông bạn ****** Rosenwald, Giám đốc một xí nghiệp lớn: Định mệnh chỉ cho ta được một trái chanh thôi ? Được- Ta hãy pha một ly nước chanh. Phải là một người thông minh, một nhà mô phạm như ông mới có thể xử sự như vậy. Những kẻ dại dột tất phải làm khác hẳn, vì nếu không được định mệnh ban cho một thỏi vàng mà chỉ ban cho một trái chanh, họ sẽ ngồi phịch xuống mà ai óan. Nào là : "Còn mong gì nữa, còn trầy da tróc vẩy làm gì nữa " nào: " Thế là hết hy vọng". Rồi oán trời, trách bạn, vò tai kêu đời bất công, thương thân tủi phận. Trái lại, người khôn ngoan, khi thấy mình chỉ được vỏn vẹn một trái chanh nhỏ, sẽ tự nhủ: "Lần thất bại này dạy ta nhiều điều hay lắm đấy. Phải làm thế nào cho hòan cảnh khá hơn bây giờ? Làm cách nào để biến quả chanh này thành một ly nước chanh ngon ngọt chứ ?".

    Nhà triết lý học Alfred Adler, trọn đời chuyện chú vào công cuộc nghiên cứu những kho tiềm lực của lòai người đã phải nói rằng: "Một trong những đức tính kỳ diệu nhất của con người là ý chí chuyển bại thành thắng". Tôi xin kể chuyện một người đàn bà đã hiểu và áp dụng phương pháp lấy quả chanh của mình pha thành một ly nước chanh tuyệt ngọt. Đó là chuyện của bà Therasa Thompson ở New York. "Trong thời kỳ chiến tranh, chồng bà được bổ nhiệm đến một trại huấn luyện kế bãi sa mạc Mojave thuộc bang New Mexico. Bà theo săn sóc chồng. Thật là buồn nản. Ngay ngày đầu, bà đã chán ghét vùng này, vì chưa bao giờ bà phải ở một mảnh đất nào khốn khổ đến thế. Chồng bà suốt ngày lủi thủi trong căn nhà gỗ lụp xụp. Trời thì nóng gần 40 độ. Bà chẳng có ai ở gần để nói chuyện cho khuây khoả, ngoài mấy người Mễ Tây Cơ và người da đỏ không biết lấy một câu tiếng Anh. Gió nóng thổi suốt từ sáng đến chiều, khiến cho đồ ăn và cả đến không khí đầy vị cát. Bà chịu hết nổi nữa. Bà than số phận chẳng ra gì và viết thơ cho cha mẹ sẽ quay về New York, không thể ở lại cái địa ngục này nữa. Ông cụ thân sinh trả lời vỏn vẹn có hai câu, nhưng thấm thía đến nỗi bà không bao giờ quên được, và hai câu đó thay đổi hẳn đời sống của bà: "Trong một nhà tù, hai người cùng đứng vịn tay vào song sắt; một người chỉ trông thấy một bức tường trơ trụi, còn một người ngửa mặt lên trời, ngắm những vì sao. " Bà đọc những dòng này một lần, hai lần cho đến mười lần rồi tự nhiên thấy hổ thẹn. Bà quyết tâm sẽ đi tìm cái vui trong tình cảnh của bà: bà quyết định sẽ ngắm sao. Bà làm thân với thổ dân và đã ngạc nhiên trước cách họ đối xử lại. Khi bà tỏ ra thích cái gì, món ăn hay vải dệt, họ lập tức mang biếu bà những thứ tốt nhất mà chính họ đã từ chối không bán cho các du khách đã hỏi mua. Bà nghiên cứu những hình thức lạ lùng của cây xương rồng, cây ngọc giá hoa. Bà dò xét những hành động, những đặc tính của lũ chó hoang, bà đứng hàng giờ ngắm hoàng hôn khi mặt trời lặn, huy hoàng và rực rỡ ở bãi sa mạc, bà đi kiếm và tàng trữ những vỏ hến bị vùi sâu dưới cát hàng triệu năm trước, nhưng di tích cuối cùng của thời kỳ mà bãi sa mạc này còn là đáy biển.
    Bãi sa mạc không thay đổi, và những người da đỏ vẫn vậy. Chính bà đã thay đổi, hay nói đúng hơn, thái độ tinh thần của bà đã thay đổi, tạo cho bà một thời kỳ thú vị nhất trong cuộc đời bà. Cái thế giới bà khám phá ra đã tạo cho bà nguồn cảm hứng để viết một cuốn sách về thế hiới đặc biệt này. Bà đã biết nhìn qua chấn song nhà tù và bà đã biết ngắm các vì sao lóng lánh trên trời". Bà Theresa Thomas đã khám phá ra một sự thực nghìn xưa, đã được dân Hy Lạp đem ra dạy đời, 500 năm trước Thiên Chúa Giáo giáng sinh: "Những cái gì hoàn hảo nhất là những cái khó đạt được nhất".
    Cách đây vài năm, khi đến một vùng hẻo lánh miền Florida, tôi đã làm quen với một trại chủ. Ông ta cũng đã biết pha một ly nước chanh ngon bằng quả chanh đắng. Lúc đầu nhìn thấy khoảng đất mới mua được, ông đã hết sức thất vọng. Đất thì không màu mỡ , trồng cây không được mà nuôi lợn cũng chẳng xong. Chẳng có cây cối nào mọc được ở nơi đó, ngoài một cây sồi quắt queo và chẳng sinh vật nào sống ở đó được, trừ hàng đàn hàng lũ rắn độc. Sau ông chợt nghĩ ra một cách làm cho cái khu đất cằn cỗi, phản chủ ấy biến thành một xí nghiệp phồn thịnh; ông nuôi rắn làm thịt, đóng hộp bán. Lần sau tới thăm ông, tôi nhận thấy mỗi năm có đến hơn hai vạn du khách đến thăm quan trại rắn của ông. Việc buôn bán rắn thật là phát đạt. Mỗi tuần, hàng nghìn lọ nọc rắn được gởi đi đến những phòng thí nghiệm chuyên môn bào chế thuốc chống nọc độc; da rắn được mua với một giá cắt cổ để đóng giày bốt cao bồi, làm ví bán cho các bà sang trọng ở nơi tỉnh thành; còn thịt rắn đóng hộp thì được gởi từng toa xe lửa đến những thị trường ở khắp nơi. Tôi có mua được một tấm hình chụp các nhà trong trại, cái làng nhỏ mới mọc, hãng diện với cái tên "Serpent-ville, Florida" và gởi nó để biếu người đã biết cách pha một ly nước ngon bằng một trái chanh thật độc.
    Trong lúc khảo cứu tâm lý về những nhân vật hiện tại và quá khứ của Hoa Kỳ; tôi may mắn gặp được nhiều người đã biết cách "chuyển bại thành thắng". Ông William Bolitho, tác giả cuốn "Mười hai người thắng thần Chết " tóm tắt nguyên tắc trên này như sau: "Điều cần thiết ở đời là phải biết lợi dụng những sự thất thế. Muốn được vậy, phải thông minh và chính cái sáng suốt đó sẽ phân biệt người khôn ngoan với kẻ ngu dại. Ông Bolitho viết câu ấy sau khi bị cưa một chân vì ta nạn xe lửa. Nhưng tôi lại biết một người đã cụt cả hai chân mà vẫn thành công trong việc chuyển bất lợi thành thắng lợi : Ông Ben Fortson. Tôi quen ông tại Atlanta , Georgia nơi khách sạn tôi ở. Bước vào thang máy, tôi để ý ngay tới vẻ mãn nguyện và vui cười trên mặt ông. Ông cụt cả hai chân, ngồi trong góc thang máy trên cái xe lăn. Khi thang ngừng ở một tầng nọ, ông xin tôi tránh lối cho ông đẩy ghế ra: "Xin lỗi ông, tôi làm phiền ông quá". Ông nói thế, rồi cười rạng rỡ, một cái cười hớn hở, đầy nhân hậu. Suốt mấy giờ liền, tôi cứ nghĩ đến con người tàn tật mà vẻ tự mãn đã thể hiện ra mặt như vậy. Ông vui vẻ thuật lại không chút ngượng ngịu miệng thỉnh thoảng lại điểm một nụ cười. Ông gặp tai nạn vào năm 24 tuổi. Một hôm đi chặt những cây sào để về chống dàn đậu, khi chất những cây sào này trên chiếc xe pick up Ford cũ kỹ xong, ông mở máy quay về, thì bỗng một cây sào tuột xuống gầm xe, mắc kẹt vào trục bánh lái làm chết cứng tay bánh ngay lúc xe tới một chỗ quẹo khá hẹp. Chiếc xe cứ thế chạy thẳng lên lề cỏ và đâm vào một gốc cây. Bác sĩ khám nghiệm thấy ông bị thương nặng ở xương sống làm hai chân ông liệt hẳn. Từ đó ông bắt buộc phải ngồi và di chuyển trên chiếc xe lăn. Tôi hỏi ông làm sao mà chịu đựng tình thế một cách cam đảm như vậy, ông đáp: "Mới đầu tôi cũng buồn khổ lắm, tôi cũng kêu than, cũng thất vọng. Nhưng dần dà năm này qua năm khác, tôi nhận thấy rằng tức giận cũng chẳng ích lợi gì, chỉ tổ thêm chán nản. Những người chung quanh tôi tử tế với những người tàn tật như tôi, thì ít ra tôi cũng phải tử tế lại với họ chứ !". (còn tiếp)
    Được alleykat sửa chữa / chuyển vào 08:27 ngày 29/09/2003
  2. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Khi tôi hỏi ông còn coi tai nạn kia là một tai họa lớn nữa không ông trả lời ngay là không và còn cho đó là một diễm phúc nữa. Ông giải thích rằng qua thời kỳ đau khổ, ông đã trấn tĩnh tinh thần và bắt đầu sống trong một thế giới mới. Ông đọc sách và đam mê những tác phẩm hay. Mười bốn năm sau, hơn một nghìn quyển sách đã đem lại cho ông những chân trời mới và mang thi vị lại cho đời ông. Ngoài ra, ông còn bắt đầu thưởng thức âm nhạc cổ điển và ông cảm thấy rung động khi nghe những nhạc hoà tấu mà trước kia ông không ưa. Nhất là ông lại có thì giờ suy tưởng. Ông nói rằng: "Lần đầu tiên tôi biết nhìn thế giới bằng con mắt của người thông minh, hay hơn nữa, của một triết gia và cũng lần đầu tôi thấy chân giá trị của mọi sự vật. Tôi bắt đầu hiểu rằng nhiều mục đích tôi theo đuổi từ trước chẳng bõ công chút nào hết". Ông đọc sách và nhiễm được thú nghiên cứu những vấn đề chính trị kinh tế và xã hội. Ông khổ công tra cứu đến nỗi chẳng mấy lúc ông đã có thể diễn thuyết và thảo luận về những vấn đề đó, dù không lúc nào ông rời chiếc ghế xe lăn. Ông bắt đầu quen biết nhiều người, và nhiều người cũng bắt đầu biết ông. Và ông Ben Fortson, con người tàn tật ấy, đã là Thống đốc của bang Georgia!
    Ba mươi lăm năm làm nghề dạy người lớn ở New York, tôi nhận thấy một phần đông học viên của tôi tiếc đã không được học xong Đại học . Họ cho rằng không được mài đũng quần trên ghế Đại Học là một điều bất lợi. Điều đó chỉ đúng một phần thôi vì tôi biết nhiều người địa vị rất cao mà chưa hề tốt nghiệp Đại Học. Vì vậy, nhiều lần tôi kể cho họ nghe chuyện một ông không được học hết những lớp mẫu giáo trường làng mà cũng làm nên sự nghiệp. Ông xuất thân là con một nhà nghèo khốn vô cùng. Khi cha ông qua đời, các bạn bè phải góp tiền lại mua giúp cho cỗ quan tài. Còn mẹ ông phải đi làm mười giờ một ngày tại một xưởng máy chế dù. Không những vậy, bà lại còn đem việc về nhà làm thêm đến tận nửa đêm. Tuy sinh sống trong cảnh bần hàn, nhưng từ nhỏ, ông đã rất ham mê đóng kịch. Ông gia nhập một gánh hát tài tử do vị Linh mục làng ông điều khiển. Mặc dầu diễn trước một số khán giả ít ỏi, nhưng được trầm trồ khen ngợi, ông cũng cảm thấy khoái trá vô cùng, nên ông nhất định sẽ trở thành một diễn giả. Rồi từ một diễn giả về những vấn đề thuộc kịch trường, ông trở thành một diễn giả về những vấn đề chính trị. Năm ba mươi tuổi, ông được bầu vào Hội đồng lập pháp tiểu bang New York. Nhưng trình độ học vấn quá thô thiển của ông không xứng với một địa vị khó khăn như vậy. Ông phải nghiên cứu tỉ mỉ những bản tài liệu dài và phức tạp khả dĩ đủ hiểu để biết đường mà bỏ phiếu chống hay thuận. Khi người ta bầu ông vào Uỷ ban kiểm lâm, là một người chưa bao giờ thấy rừng tất sẽ lo sợ. Ông lại ngạc nhiên hơn nữa khi ông chẳng biết chút gì về ngành tài chánh. Ông thú thật với tôi hổi đó ông chán nản đến nỗi muốn xin từ chức ngay, nếu ông không làm vậy vì sợ xấu hổ với mẹ.
    Qua cơn thất vọng, ông quyết học 16 giờ một ngày và pha một ly nước ngon bằng quả chanh mà định mệnh đã đem lại. Thế rồi ông thành công, thành công quá tưởng tượng: từ một chính trị gia vô danh của thị xã nhỏ, ông đã trở thành một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ, một người mà tờ New York Times đã gọi là "Công dân thành phố New York được nhiều người ưa chuộng nhất". Người tôi muốn nói đó là ông Al Smith, đã giữ chức Thống đốc tiểu bang New York trong bốn nhiệm kỳ liền, một việc chưa từng có trong lịch sử xứ này. Năm 1928, khi ông đang làm ứng cử viên của đảng Dân chủ trong cuộc tuyển cử Tổng thống, sáu Đại học - trong số đó có Columbia và Harward - đã ban những bằng cấp danh dự cao quý nhất cho ông, một người chưa học hết cấp sơ đẳng ! Chính ông cũng đã phải công nhận rằng chẳng làm nên công chuyện gì nếu đã không học mười sáu giờ một ngày để bù lấp sự thấp kém của mình. Triết gia người Đức tên Nietzsche đã định nghĩa " người lý tưởng" là: "Người khi bị định mạng thử thách, không những đã tỏ ra xuất chúng, mà thường còn thích đi tìm khó khăn và những trở lực để đương đầu".
    Càng nghiên cứu về sự nghiệp những nhân vật tài ba, tôi càng tìm thấy những bằng chứng cho sự tin tưởng của tôi rằng phần đông những nhân vật này sở dĩ hơn người, là vì họ ra đời với một điểm bất lợi mà chính điểm bất lợi đó đã kích thích họ cố gắng một cách phi thuờng để đạt tới những mục đích cao cả. Ông William James đã nói: "Những nhược điểm của ta giúp ta một cách không ngờ ". Nếu không bị loà, rất có thể ông Milton chỉ thành một thi sĩ hạng xoàng, chớ không phải là thi sĩ đại tài như hôm nay, và cũng rất có thể Beethoven đã không đi tới chỗ tuyệt đối của âm nhạc, nếu ông không bị điếc.
    Sự nghiệp hiển vinh của bà Helen Keller khác hẳn nhờ vì bà vừa mùa vừa điếc. Nếu Tchaikovsky không bị định mạng cướp mất hạnh phúc, nếu ông không gặp phải người vợ đa nghi, hay cay đắng, rối loạn thần kinh có lẽ chẳng bao giờ ông sáng tác được bản nhạc "Symphonie pathétique", ngàn năm bất diệt. Dostoïevski và Tolstoï cũng vậy, nếu đời sống của hai ông không đầy rẫy những đau thương, chưa chắc những tác phẩm tuyệt diệu của hai ông đã ra đời. Charles Darwin, người có những lý thuyết mới lạ táo bạo đã đảo ngược cả quan niệm khoa học về đời sống ở thế gian này, đã tuyên bố rõ rệt rằng sự tàn tật của ông đã giúp ông một cách bất ngờ. Ông nói: "Nếu thân tôi không là cái xác vô dụng, chưa chắc tôi đã có sức mạnh tinh thần để biện minh cho những lý thuyết của tôi". Cùng một ngày Darwin sinh ra một túp lều không ai biết đến, ở khu rừng rậm thuộc tiểu bang Kentucky, một đưa nhỏ khác cũng cất tiếng khóc chào đời. Cha đứa nhỏ này là một tiều phu nghèo tên Lincoln, và đưa nhỏ được đặt tên là Abraham. Chính đứa nhỏ này cũng vì khổ cực mà đã sống gắng tự rèn luyện để trở nên người. Nếu Abraham Lincoln sinh vào một gia đình quý phái, được vào học tại Đại học Harvard, được hưởng một lạc thú gia đình hoàn toàn, có lẽ ông đã chẳng thốt ra những lợi nhiệt thành, tự đáy lòng, khi ông tái cử Tổng Thống Hoa Kỳ: "Tôi sẽ cố không xử ác với bất cứ ai và sẽ rộng lượng, bác ái với mọi người".
    Đến đây, ta hãy tạm ngưng lại và đúc kết phần luân lý thực hành của những trường hợp kể trên. Nếu chưa bao giờ bạn làm được ly nước ngon lành bằng trái chanh số phận đã mang lại, thì bạn cũng nên thử xem nào? Bạn hãy cố gắng, vì nếu không may bị thua, bạn cũng chẳng mất gì, nhưng nếu được thì bạn sẽ vô cùng hạnh phúc. Bạn phải cố gắng vì hai lẽ: một là ít ra bạn còn có cơ hội thành công, hai là dù thất bại đi chăng nữa, sự cố gắng của bạn để chuyển bại thành thắng đã bắt bạn nhìn thẳng vào tương lai mà quên đi dĩ vãng. Bạn sẽ có những lý tưởng thiết thực và nghị lực sáng tác sẽ nổi dậy kích thích bạn làm việc, đến nỗi bạn không còn thì giờ mà nghĩ vớ vẩn, đào bới đống tro tàn của quá khứ.
    All you need is Love . . .
  3. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Khi tôi hỏi ông còn coi tai nạn kia là một tai họa lớn nữa không ông trả lời ngay là không và còn cho đó là một diễm phúc nữa. Ông giải thích rằng qua thời kỳ đau khổ, ông đã trấn tĩnh tinh thần và bắt đầu sống trong một thế giới mới. Ông đọc sách và đam mê những tác phẩm hay. Mười bốn năm sau, hơn một nghìn quyển sách đã đem lại cho ông những chân trời mới và mang thi vị lại cho đời ông. Ngoài ra, ông còn bắt đầu thưởng thức âm nhạc cổ điển và ông cảm thấy rung động khi nghe những nhạc hoà tấu mà trước kia ông không ưa. Nhất là ông lại có thì giờ suy tưởng. Ông nói rằng: "Lần đầu tiên tôi biết nhìn thế giới bằng con mắt của người thông minh, hay hơn nữa, của một triết gia và cũng lần đầu tôi thấy chân giá trị của mọi sự vật. Tôi bắt đầu hiểu rằng nhiều mục đích tôi theo đuổi từ trước chẳng bõ công chút nào hết". Ông đọc sách và nhiễm được thú nghiên cứu những vấn đề chính trị kinh tế và xã hội. Ông khổ công tra cứu đến nỗi chẳng mấy lúc ông đã có thể diễn thuyết và thảo luận về những vấn đề đó, dù không lúc nào ông rời chiếc ghế xe lăn. Ông bắt đầu quen biết nhiều người, và nhiều người cũng bắt đầu biết ông. Và ông Ben Fortson, con người tàn tật ấy, đã là Thống đốc của bang Georgia!
    Ba mươi lăm năm làm nghề dạy người lớn ở New York, tôi nhận thấy một phần đông học viên của tôi tiếc đã không được học xong Đại học . Họ cho rằng không được mài đũng quần trên ghế Đại Học là một điều bất lợi. Điều đó chỉ đúng một phần thôi vì tôi biết nhiều người địa vị rất cao mà chưa hề tốt nghiệp Đại Học. Vì vậy, nhiều lần tôi kể cho họ nghe chuyện một ông không được học hết những lớp mẫu giáo trường làng mà cũng làm nên sự nghiệp. Ông xuất thân là con một nhà nghèo khốn vô cùng. Khi cha ông qua đời, các bạn bè phải góp tiền lại mua giúp cho cỗ quan tài. Còn mẹ ông phải đi làm mười giờ một ngày tại một xưởng máy chế dù. Không những vậy, bà lại còn đem việc về nhà làm thêm đến tận nửa đêm. Tuy sinh sống trong cảnh bần hàn, nhưng từ nhỏ, ông đã rất ham mê đóng kịch. Ông gia nhập một gánh hát tài tử do vị Linh mục làng ông điều khiển. Mặc dầu diễn trước một số khán giả ít ỏi, nhưng được trầm trồ khen ngợi, ông cũng cảm thấy khoái trá vô cùng, nên ông nhất định sẽ trở thành một diễn giả. Rồi từ một diễn giả về những vấn đề thuộc kịch trường, ông trở thành một diễn giả về những vấn đề chính trị. Năm ba mươi tuổi, ông được bầu vào Hội đồng lập pháp tiểu bang New York. Nhưng trình độ học vấn quá thô thiển của ông không xứng với một địa vị khó khăn như vậy. Ông phải nghiên cứu tỉ mỉ những bản tài liệu dài và phức tạp khả dĩ đủ hiểu để biết đường mà bỏ phiếu chống hay thuận. Khi người ta bầu ông vào Uỷ ban kiểm lâm, là một người chưa bao giờ thấy rừng tất sẽ lo sợ. Ông lại ngạc nhiên hơn nữa khi ông chẳng biết chút gì về ngành tài chánh. Ông thú thật với tôi hổi đó ông chán nản đến nỗi muốn xin từ chức ngay, nếu ông không làm vậy vì sợ xấu hổ với mẹ.
    Qua cơn thất vọng, ông quyết học 16 giờ một ngày và pha một ly nước ngon bằng quả chanh mà định mệnh đã đem lại. Thế rồi ông thành công, thành công quá tưởng tượng: từ một chính trị gia vô danh của thị xã nhỏ, ông đã trở thành một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ, một người mà tờ New York Times đã gọi là "Công dân thành phố New York được nhiều người ưa chuộng nhất". Người tôi muốn nói đó là ông Al Smith, đã giữ chức Thống đốc tiểu bang New York trong bốn nhiệm kỳ liền, một việc chưa từng có trong lịch sử xứ này. Năm 1928, khi ông đang làm ứng cử viên của đảng Dân chủ trong cuộc tuyển cử Tổng thống, sáu Đại học - trong số đó có Columbia và Harward - đã ban những bằng cấp danh dự cao quý nhất cho ông, một người chưa học hết cấp sơ đẳng ! Chính ông cũng đã phải công nhận rằng chẳng làm nên công chuyện gì nếu đã không học mười sáu giờ một ngày để bù lấp sự thấp kém của mình. Triết gia người Đức tên Nietzsche đã định nghĩa " người lý tưởng" là: "Người khi bị định mạng thử thách, không những đã tỏ ra xuất chúng, mà thường còn thích đi tìm khó khăn và những trở lực để đương đầu".
    Càng nghiên cứu về sự nghiệp những nhân vật tài ba, tôi càng tìm thấy những bằng chứng cho sự tin tưởng của tôi rằng phần đông những nhân vật này sở dĩ hơn người, là vì họ ra đời với một điểm bất lợi mà chính điểm bất lợi đó đã kích thích họ cố gắng một cách phi thuờng để đạt tới những mục đích cao cả. Ông William James đã nói: "Những nhược điểm của ta giúp ta một cách không ngờ ". Nếu không bị loà, rất có thể ông Milton chỉ thành một thi sĩ hạng xoàng, chớ không phải là thi sĩ đại tài như hôm nay, và cũng rất có thể Beethoven đã không đi tới chỗ tuyệt đối của âm nhạc, nếu ông không bị điếc.
    Sự nghiệp hiển vinh của bà Helen Keller khác hẳn nhờ vì bà vừa mùa vừa điếc. Nếu Tchaikovsky không bị định mạng cướp mất hạnh phúc, nếu ông không gặp phải người vợ đa nghi, hay cay đắng, rối loạn thần kinh có lẽ chẳng bao giờ ông sáng tác được bản nhạc "Symphonie pathétique", ngàn năm bất diệt. Dostoïevski và Tolstoï cũng vậy, nếu đời sống của hai ông không đầy rẫy những đau thương, chưa chắc những tác phẩm tuyệt diệu của hai ông đã ra đời. Charles Darwin, người có những lý thuyết mới lạ táo bạo đã đảo ngược cả quan niệm khoa học về đời sống ở thế gian này, đã tuyên bố rõ rệt rằng sự tàn tật của ông đã giúp ông một cách bất ngờ. Ông nói: "Nếu thân tôi không là cái xác vô dụng, chưa chắc tôi đã có sức mạnh tinh thần để biện minh cho những lý thuyết của tôi". Cùng một ngày Darwin sinh ra một túp lều không ai biết đến, ở khu rừng rậm thuộc tiểu bang Kentucky, một đưa nhỏ khác cũng cất tiếng khóc chào đời. Cha đứa nhỏ này là một tiều phu nghèo tên Lincoln, và đưa nhỏ được đặt tên là Abraham. Chính đứa nhỏ này cũng vì khổ cực mà đã sống gắng tự rèn luyện để trở nên người. Nếu Abraham Lincoln sinh vào một gia đình quý phái, được vào học tại Đại học Harvard, được hưởng một lạc thú gia đình hoàn toàn, có lẽ ông đã chẳng thốt ra những lợi nhiệt thành, tự đáy lòng, khi ông tái cử Tổng Thống Hoa Kỳ: "Tôi sẽ cố không xử ác với bất cứ ai và sẽ rộng lượng, bác ái với mọi người".
    Đến đây, ta hãy tạm ngưng lại và đúc kết phần luân lý thực hành của những trường hợp kể trên. Nếu chưa bao giờ bạn làm được ly nước ngon lành bằng trái chanh số phận đã mang lại, thì bạn cũng nên thử xem nào? Bạn hãy cố gắng, vì nếu không may bị thua, bạn cũng chẳng mất gì, nhưng nếu được thì bạn sẽ vô cùng hạnh phúc. Bạn phải cố gắng vì hai lẽ: một là ít ra bạn còn có cơ hội thành công, hai là dù thất bại đi chăng nữa, sự cố gắng của bạn để chuyển bại thành thắng đã bắt bạn nhìn thẳng vào tương lai mà quên đi dĩ vãng. Bạn sẽ có những lý tưởng thiết thực và nghị lực sáng tác sẽ nổi dậy kích thích bạn làm việc, đến nỗi bạn không còn thì giờ mà nghĩ vớ vẩn, đào bới đống tro tàn của quá khứ.
    All you need is Love . . .
  4. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Làm sao trị được bệnh trầm cảm trong hai tuần
    Khi bắt đầu viết cuốn sách này, tôi treo một giải thưởng 200 dollars cho tác giả nào viết được một truyện ích lợi và hứng thú nhất với nhan đề: "Tôi đã thắng được ưu phiền bằng cách nào?". Ban giám khảo cuộc thi đó có: Eddie Rickenbacker, giám đốc hãng máy bay Eastern Air Lines, Bác sĩ Stewart, W. Mc. Clelland ở Đại học Lincoln Memorial, và H.V. Kaltonborn, Bình phẩm viên của Đài phát thanh New York. CHúng tôi nhận được hai truyện tuyệt hay, tới nỗi không sao phân biệt được hơn kém. Bởi vậy chúng tôi phải chia giải thưởng làm hai. Truyện dưới đây, của ông C.R. Burton, là một trong hai truyện ấy. "Mẹ tôi bỏ nhà ra đi hồi tôi lên chín và bố tôi mất hồi tôi có 12 tuổi. Ba tôi bị chết bất đắc kỳ tử, còn mẹ tôi thì bỏ nhà ra đi đã 19 năm, tôi không được gặp, cả hai đứa em gái nhỏ mẹ tôi dắt theo cũng biệt tăm. Trong bảy năm đầu, tôi không nhận được bức thư nào của mẹ hết. Trước khi ấy, mẹ tôi có sang chung với một tiệm cà phê trong một tỉnh nhỏ ở Missouri, và trong khi người bận đi buôn bán ở nơi khác, thì người bạn kia liền sang tiệm cà phê lại cho người khác rồi bỏ trốn mất. Một người bạn thân đánh điện tín gọi bố tôi về ngay; và trong khi vội vàng, bố tôi chẳng may bị tử nạn xe hơi ở Salines. Hai người cô tôi, vừa già, vừa nghèo, vừa hay đau, nhận nuôi ba đứa trong số năm anh em chúng tôi. Nhưng không ai chịu nuôi tôi và em tôi hết. Chúng tôi bơ vơ trong tỉnh. Chúng tôi rất lo bị người đời bạc đãi chúng tôi như thường hay đối xử với trẻ mồ côi. Nỗi lo đó đã hiện thực ngay. Trong một thời gian ngắn, tôi sống nhờ một gia đình nghèo trong tỉnh. Nhưng thời buổi khó khăn, vì ân nhân của tôi mất việc, không nuôi tôi tại nông trại , cách tỉnh độ 13 cây số. Ông Loftin dắt tôi về nuôi tại nông trại, cách tỉnh độ 13 cây. Ông Loftin 70 tuổi và đau, nằm liệt giường hoài. Ông bảo tôi: "Nếu con không nói dối, không ăn cắp và bảo gì làm nấy thì sẽ đựợc ở đây mãi". Tôi thuộc lời ấy như lời Thánh kinh và cứ theo đúng như vậy.
    Tôi được đi học, nhưng ngay tuần đầu, mỗi lần trở về nhà, la khóc khổ sở. Những học trò cùng lớp trêu ghẹo, chế giễu cái mũi quá to của tôi, bảo tôi là đồ ngu và gọi tôi là thằng "mồ côi thò lò mũi xanh". Tức giận quá tôi muốn đánh nhau với chúng nó, nhưng ông Loftin khuyên tôi "Biết nhịn và tránh cuộc xô xát, ẩu đả, là có một nghị lực tinh thần lớn lắm". Tôi nhịn cho tới bữa kia một đứa nhở hốt bãi phân gf trong sân trường và ném vào mặt tôi. Tôi liền xông vào đánh nó; và đứa khác cho như vậy là đáng kiếp cho thằng nọ và từ đó chúng tôi chơi với nhau. Tôi rất hãnh diện có được chiếc mũ mà ông Loftin đã mua tặng. Một hôm, một đứa con gái lớn giựt mũ tôi đang đội, đổ đầy nước vào làm hỏng chiếc mũ. Nó nói "đổ nước như vậy để cho rác rến trong đầu óc tôi khỏi khô". Ở trường tôi không bao giờ khóc hết, nhưng về nhà tôi thì sụt sùi kể lể. Rồi một hôm, bà Loftin khuyên tôi một lời mà tôi hết ưu uất, lo buồn và từ đó, kẻ thù của tôi thành bạn thân của tôi. Bà khuyên thế này: "Ralph ơi, bọn đó sẽ không hành hạ con, không gọi là "thằng mồ côi thò lò mũi xanh" nữa, nếu con nghĩ tới chúng và tìm cách giúp chúng". Tôi đã nghe theo lời khuyên ấy. Tôi ráng học, chẳng bao lâu đứng đầu lớp mà không bạn nào ganh tị hết, vì tôi đã tìm hết cách giúp họ rồi. "Tôi giúp nhiều bạn làm bài dịch và bài luận, có khi làm sẵn cả bài cho nữa. Một đứa xấu hổ không dám cho người nhà hay rằng tôi gà bài cho, nên xin phép má nó đi săn, nhưng lại nhà tôi, buộc chó vào bếp rồi nhờ tôi giảng giùm bài học. Tôi chép tập cho một đứa khác và bỏ nhiều buổi tối chỉ toán cho một bạn gái. Cảnh đau lòng tang tóc xẩy ra cho hàng xóm. Hai người chủ trại chết, rồi một người bỏ vợ. Trong bốn gia đình, chỉ có tôi là thanh niên. Tôi đã giúp những người goá phụ đó trong hai năm. Khi đi học và lúc ở trường về, tôi ghé vào trại họ, giúp họ bửa củi, vắt sữa bò, cho súc vật ăn uống. Thành thử không ai còn chế nhạo tôi nữa mà họ còn cảm ơn tôi. Khi giải ngũ, ở Hải Quân về, tôi được rõ cảm tình của họ. Ngày đầu tiên tới nhà, hơn 200 người lại thăm tôi, có người đi hơn 120 cây số, và lòng họ đối với tôi thật chân thành. Vì tôi chịu khó và vui vẻ giúp đỡ người khác cho nên đã quên mất lo lắng và ưu phiền. Đã 13 năm rồi, không còn ai gọi tôi là "thằng mồ côi thò lò mũi xanh nữa". Đáng khen thay cho C.R. Burton! Anh đã biết bí quyết đắc nhân tâm và diệt lo, để vui sống.

    Bác sĩ Frank Loope cũng vậy. ông bị liệt giường suốt 23 năm vì chứng đau khớp xương. Vậy mà ông Withouse ở toà Seattle Star đã viết cho tôi: "Tôi phỏng vấn bác sĩ Loope đã nhiều lần. Chưa bao giờ tôi thấy một người vị tha hoặc sung sướng hơn ông ta". Ông già nằm liệt giường ấy làm cách nào mà sung sướng mãi như vậy? Bạn thử đoán xem. Có phải bằng cách phàn nàn và chỉ trích kẻ khác không? Không... Có phải bằng cách than thân trách phận và muốn được mọi người chú ý tới, săn sóc cho không? Không... Ông sung sướng như vậy chỉ nhờ biết theo đúng châm ngôn của Hoàng xứ Galles: "Tôi giúp đỡ người khác". Ông tìm tên và địa chỉ của những người tàn tật khác và viết những bức thư vui vẻ an ủi họ để họ và ông cùng được vui lòng. Sau cùng, ông lập một hội ở khắp nước gọi là "Hội những người bị giam tại nhà". Nằm trên giường, ông viết trung bình mỗi năm 1.400 bức thư và tìm kiếm sách và máy thâu thanh tặng cho hàng ngàn người tàn tật để họ được vui vẻ. Bác sĩ Loope khác người ở chỗ nào vậy? Chính ở chỗ ông có lòng nhiệt thành của một người có mục đích, có sứ mạng. Ông được biết hoan lạc chính bởi ông phụng sự một lý tưởng cao cả và có ý nghĩa hơn cái đời sống đáng lẽ rất tầm thường của ông. Ông thật không giống ông Show, tự cho mình là cái rốn của vũ trụ và phàn nàn tại sao cả thế giới không ai chịu lo cho hạnh phúc của ông, để cho thân ông phải thành "một cái túi chất chứa bệnh tật và âu sầu".
    (còn tiếp)
    All you need is Love . . .
  5. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Làm sao trị được bệnh trầm cảm trong hai tuần
    Khi bắt đầu viết cuốn sách này, tôi treo một giải thưởng 200 dollars cho tác giả nào viết được một truyện ích lợi và hứng thú nhất với nhan đề: "Tôi đã thắng được ưu phiền bằng cách nào?". Ban giám khảo cuộc thi đó có: Eddie Rickenbacker, giám đốc hãng máy bay Eastern Air Lines, Bác sĩ Stewart, W. Mc. Clelland ở Đại học Lincoln Memorial, và H.V. Kaltonborn, Bình phẩm viên của Đài phát thanh New York. CHúng tôi nhận được hai truyện tuyệt hay, tới nỗi không sao phân biệt được hơn kém. Bởi vậy chúng tôi phải chia giải thưởng làm hai. Truyện dưới đây, của ông C.R. Burton, là một trong hai truyện ấy. "Mẹ tôi bỏ nhà ra đi hồi tôi lên chín và bố tôi mất hồi tôi có 12 tuổi. Ba tôi bị chết bất đắc kỳ tử, còn mẹ tôi thì bỏ nhà ra đi đã 19 năm, tôi không được gặp, cả hai đứa em gái nhỏ mẹ tôi dắt theo cũng biệt tăm. Trong bảy năm đầu, tôi không nhận được bức thư nào của mẹ hết. Trước khi ấy, mẹ tôi có sang chung với một tiệm cà phê trong một tỉnh nhỏ ở Missouri, và trong khi người bận đi buôn bán ở nơi khác, thì người bạn kia liền sang tiệm cà phê lại cho người khác rồi bỏ trốn mất. Một người bạn thân đánh điện tín gọi bố tôi về ngay; và trong khi vội vàng, bố tôi chẳng may bị tử nạn xe hơi ở Salines. Hai người cô tôi, vừa già, vừa nghèo, vừa hay đau, nhận nuôi ba đứa trong số năm anh em chúng tôi. Nhưng không ai chịu nuôi tôi và em tôi hết. Chúng tôi bơ vơ trong tỉnh. Chúng tôi rất lo bị người đời bạc đãi chúng tôi như thường hay đối xử với trẻ mồ côi. Nỗi lo đó đã hiện thực ngay. Trong một thời gian ngắn, tôi sống nhờ một gia đình nghèo trong tỉnh. Nhưng thời buổi khó khăn, vì ân nhân của tôi mất việc, không nuôi tôi tại nông trại , cách tỉnh độ 13 cây số. Ông Loftin dắt tôi về nuôi tại nông trại, cách tỉnh độ 13 cây. Ông Loftin 70 tuổi và đau, nằm liệt giường hoài. Ông bảo tôi: "Nếu con không nói dối, không ăn cắp và bảo gì làm nấy thì sẽ đựợc ở đây mãi". Tôi thuộc lời ấy như lời Thánh kinh và cứ theo đúng như vậy.
    Tôi được đi học, nhưng ngay tuần đầu, mỗi lần trở về nhà, la khóc khổ sở. Những học trò cùng lớp trêu ghẹo, chế giễu cái mũi quá to của tôi, bảo tôi là đồ ngu và gọi tôi là thằng "mồ côi thò lò mũi xanh". Tức giận quá tôi muốn đánh nhau với chúng nó, nhưng ông Loftin khuyên tôi "Biết nhịn và tránh cuộc xô xát, ẩu đả, là có một nghị lực tinh thần lớn lắm". Tôi nhịn cho tới bữa kia một đứa nhở hốt bãi phân gf trong sân trường và ném vào mặt tôi. Tôi liền xông vào đánh nó; và đứa khác cho như vậy là đáng kiếp cho thằng nọ và từ đó chúng tôi chơi với nhau. Tôi rất hãnh diện có được chiếc mũ mà ông Loftin đã mua tặng. Một hôm, một đứa con gái lớn giựt mũ tôi đang đội, đổ đầy nước vào làm hỏng chiếc mũ. Nó nói "đổ nước như vậy để cho rác rến trong đầu óc tôi khỏi khô". Ở trường tôi không bao giờ khóc hết, nhưng về nhà tôi thì sụt sùi kể lể. Rồi một hôm, bà Loftin khuyên tôi một lời mà tôi hết ưu uất, lo buồn và từ đó, kẻ thù của tôi thành bạn thân của tôi. Bà khuyên thế này: "Ralph ơi, bọn đó sẽ không hành hạ con, không gọi là "thằng mồ côi thò lò mũi xanh" nữa, nếu con nghĩ tới chúng và tìm cách giúp chúng". Tôi đã nghe theo lời khuyên ấy. Tôi ráng học, chẳng bao lâu đứng đầu lớp mà không bạn nào ganh tị hết, vì tôi đã tìm hết cách giúp họ rồi. "Tôi giúp nhiều bạn làm bài dịch và bài luận, có khi làm sẵn cả bài cho nữa. Một đứa xấu hổ không dám cho người nhà hay rằng tôi gà bài cho, nên xin phép má nó đi săn, nhưng lại nhà tôi, buộc chó vào bếp rồi nhờ tôi giảng giùm bài học. Tôi chép tập cho một đứa khác và bỏ nhiều buổi tối chỉ toán cho một bạn gái. Cảnh đau lòng tang tóc xẩy ra cho hàng xóm. Hai người chủ trại chết, rồi một người bỏ vợ. Trong bốn gia đình, chỉ có tôi là thanh niên. Tôi đã giúp những người goá phụ đó trong hai năm. Khi đi học và lúc ở trường về, tôi ghé vào trại họ, giúp họ bửa củi, vắt sữa bò, cho súc vật ăn uống. Thành thử không ai còn chế nhạo tôi nữa mà họ còn cảm ơn tôi. Khi giải ngũ, ở Hải Quân về, tôi được rõ cảm tình của họ. Ngày đầu tiên tới nhà, hơn 200 người lại thăm tôi, có người đi hơn 120 cây số, và lòng họ đối với tôi thật chân thành. Vì tôi chịu khó và vui vẻ giúp đỡ người khác cho nên đã quên mất lo lắng và ưu phiền. Đã 13 năm rồi, không còn ai gọi tôi là "thằng mồ côi thò lò mũi xanh nữa". Đáng khen thay cho C.R. Burton! Anh đã biết bí quyết đắc nhân tâm và diệt lo, để vui sống.

    Bác sĩ Frank Loope cũng vậy. ông bị liệt giường suốt 23 năm vì chứng đau khớp xương. Vậy mà ông Withouse ở toà Seattle Star đã viết cho tôi: "Tôi phỏng vấn bác sĩ Loope đã nhiều lần. Chưa bao giờ tôi thấy một người vị tha hoặc sung sướng hơn ông ta". Ông già nằm liệt giường ấy làm cách nào mà sung sướng mãi như vậy? Bạn thử đoán xem. Có phải bằng cách phàn nàn và chỉ trích kẻ khác không? Không... Có phải bằng cách than thân trách phận và muốn được mọi người chú ý tới, săn sóc cho không? Không... Ông sung sướng như vậy chỉ nhờ biết theo đúng châm ngôn của Hoàng xứ Galles: "Tôi giúp đỡ người khác". Ông tìm tên và địa chỉ của những người tàn tật khác và viết những bức thư vui vẻ an ủi họ để họ và ông cùng được vui lòng. Sau cùng, ông lập một hội ở khắp nước gọi là "Hội những người bị giam tại nhà". Nằm trên giường, ông viết trung bình mỗi năm 1.400 bức thư và tìm kiếm sách và máy thâu thanh tặng cho hàng ngàn người tàn tật để họ được vui vẻ. Bác sĩ Loope khác người ở chỗ nào vậy? Chính ở chỗ ông có lòng nhiệt thành của một người có mục đích, có sứ mạng. Ông được biết hoan lạc chính bởi ông phụng sự một lý tưởng cao cả và có ý nghĩa hơn cái đời sống đáng lẽ rất tầm thường của ông. Ông thật không giống ông Show, tự cho mình là cái rốn của vũ trụ và phàn nàn tại sao cả thế giới không ai chịu lo cho hạnh phúc của ông, để cho thân ông phải thành "một cái túi chất chứa bệnh tật và âu sầu".
    (còn tiếp)
    All you need is Love . . .
  6. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Làm sao trị bệnh trầm cảm trong hai tuần
    Alfred Adler, một nhà trị bệnh thần kinh trứ danh, có nói một câu lạ lùng nhất từ trước tới giờ. Ông bảo những người mang bệnh trầm cảm là: "Chỉ cần hai tuần là ông sẽ hết bệnh, nếu ông theo đúng phương pháp này: Hãy cố gắng mỗi ngày kiếm cách đem niềm vui đến cho một người nào đó ". Lời ấy nghe có vẻ khó tin quá, cho nên muốn giảng thêm, tôi phải trích hai trang trong cuốn sách rất hay: "Ý nghĩa của đời sống là gì ? "của bác sĩ Adler. Đây là hai trang đó. "Bệnh trầm cảm tựa như một nỗi oán hờn dai dẳng, chủ ý để được người xung quanh luôn luôn thương hại săn sóc tới mình. Những ký ức hồi nhỏ của một người có bệnh đó đại loại thường có những cử chỉ ích kỷ như sau: "Tôi nhớ có lần tôi muốn nằm trên giường, nhưng anh tôi đã nằm ỳ trên đó rồi. Tôi la khóc cho đến khi anh tôi phải nhường lại giường cho tôi".
    "Những người bị trầm cảm thường muốn tự tử và việc cần nhất của bác sĩ là chỉ cho họ phương thuốc đầu tiên này: "Nếu ông không muốn làm việc gì , thì đừng tự bắt mình phải làm nó". Cốt ý để làm nhẹ bớt tình cảm khẩn trương của họ đi. Phương thuốc ấy dường như giản dị quá, nhưng nó trị được tận gốc chứng bệnh. Khi một người mắc chứng bệnh trầm cảm, muốn gì đều được như ý, thì họ còn trách móc gì ai được nữa ? Còn thù oán gì nữa mà mong tự tử để tự trả thù? Tôi nói với họ: "Nếu ông muốn đi coi ciné hay muốn đirong chơi, cứ việc đi. Giữa đường ông không muốn đi nữa thì thôi, ngừng lại. Như vậy, họ được thoả lòng hiếu thắng. Họ thấy họ to lớn hơn ông Trời, vì muốn làm gì thì cứ làm mà! Một mặt khác, họ thường muốn áp chế và trách móc mọi người nhưng nếu ai cũng đồng ý với họ luôn luôn, thì họ còn đàn áp ai được nữa? Phương pháp đó có kết quả tốt và chưa bao giờ một con bệnh của tôi tự tử hết", cho nên tôi sẵn sàng câu trả lời: "Ông đã không muốn làm gì thì cứ việc nghỉ". Có một đôi khi họ đáp: "Tôi chỉ muốn nằm trên giường suốt ngày". Tôi biết nếu để họ nằm ở giường suốt ngày thì chẳng bao lâu họ sẽ khó chịu, không muốn nằm nữa. Bởi vậy tôi cũng không thèm cản. Vì nếu ngăn cản thì họ gây sự liền. Tôi luôn luôn để họ tự nhiên. Đó là quy tắc thứ nhất.
    "Quy tắc thứ nhì là tấn công trực tiếp lối sống của họ. Tôi bảo họ: "Bệnh ông có thể hết được nếu ông theo đúng phương cách trong hai tuần: ông ráng mỗi ngày nghĩ cách làm vui lòng một người khác". Tôi khuyên vậy là vì họ thường chỉ bận óc với ý nghĩ: ''Làm sao cho người khác bực mình được ?" Nghe tôi khuyên, họ trả lời những câu rất lý thú. Có người nói: "Điều đó dễ lắm. Suốt đời tôi chỉ tìm cách làm vui lòng mọi người". Thực ra, họ không bao giờ như vậy cả. Tôi chắc họ cũng chẳng bao giờ nghĩ tới sự ấy. Tôi lại khuyên: "Khi nào không ngủ được, thì ông nghĩ cách làm vui lòng một người khác, ông sẽ mau hết bệnh ngay?. Tất nhiên tôi dặn họ phải làm vui lòng ngừơi một cách nhũn nhặn, thân ái. Hôm sau gặp họ, tôi hỏi: "Hồi hôm, ông có nghĩ tới lời tôi khuyên nhủ không?" Họ đáp: "Vừa đặt mình tôi đã ngủ rồi, thành thử không nghĩ tới được". Ngủ được còn gì hơn nữa? Có người trả lời: "Tôi không sao theo lời ông được, vì tôi nhiều nỗi lo quá rồi". Tôi bảo họ: "Thì ông cứ lo việc ông đi; nhưng đồng thời, ông có thể thỉnh thoảng lo cho người khác được. Như vậy tôi dần dần tập cho họ chú ý tới người khác . Lại có nhiều người nói: "Tôi làm vui lòng họ làm gì nhỉ ? Họ có bao giờ nghĩ cách làm vui lòng tôi đâu?" Tôi đáp: "Vì như vậy có lợi cho sức khỏe của ông. Còn họ thì mặc kệ, rồi họ sẽ chú ý tới người khác. Rất ít khi tôi gặp được một bệnh nhân chịu nói : "Tôi đã nghĩ tới lời ông khuyên".
    Tôi biết rằng bệnh của họ chỉ do không chịu hợp tác với đời, nên tôi muốn họ nhận thấy điều ấy là cần thiết. Khi nào họ bằng lòng hợp tác với người một cách bình đẳng thì họ sẽ hết bệnh... Bổn phận quan trọng nhất của những tín đồ bất cứ đạo nào vẫn là: "Thương người như thể thương thân"... Người nào ích kỷ không nghĩ tới bạn bè, sẽ gặp những nỗi khó khăn nhất... Chúng ta chỉ cầu sao cho mỗi người thành một bạn tốt, yêu và trong hôn nhân. Được như vậy, không còn gì hơn nữa". Vậy bác sĩ Adler khuyên ta mỗi ngày làm một việc thiện. Mà thế nào là một việc thiện? Mohamed nói: "Một việc thiện là một việc làm nở một nụ cười trên môi người khác". Tại sao làm việc thiện mỗi ngày lại có ảnh hưởng tốt tới tâm hồn ta? Vì khi nghĩ cách làm vui người khác, ta không nghĩ tới ta nữa; mà chính cái tật chỉ nghĩ tới mình đã làm cho ta ưu tư, sợ sệt và lo lắng. Bà William T. Moon, giám đốc một trường trung học ở New York không cần phải mất tới hai tuần mới diệt nỗi ưu tư của bà. Bà thắng bác sĩ Adler, vì đạt được kết quả nhanh gấp 14 lần. Nói thế nghĩa là bà diệt ưu tư của bà chỉ trong một ngày, chứ không cần tới 14 ngày, nhờ bà nghĩ cách làm cho hai đứa trẻ mồ côi được vui sướng. Bà kể: "Năm năm trước, một hôm vào tháng chạp, tôi thấy tâm hồn chìm đắm trong biển ưu tư. Tôi than thân trách phận của vì tôi đã sống nhiều năm đầy hạnh phúc với nhà tôi, rồi bất thình lình nhà tôi mất.
    Lễ Giáng sinh càng tới gần, tôi càng thấy buồn thảm. Chưa bao giờ tôi phải ăn lễ Noel trong cảnh cô độc, cho nên năm ấy tôi thấy nó đến mà vô cùng khổ sở. Càng cận ngày, tôi càng đau xót cho thân phận. Thật ra đời tôi cũng như đời hết thảy chúng ta còn được nhiều nỗi đáng vui. Ngày giáp lễ Noel, tôi ở sở ra hồi ba giờ chiều và thơ thẩn trên Đại lộ 5 để tìm sự khuây khoả. Bấy giờ trên đường chật ních những người qua lại, vẻ mặt rất hân hoan. Càng trông họ, tôi càng nhớ lại những năm hạnh phúc đã qua mau. Nghĩ tới sự phải về giam mình trong một căn phòng lạnh lẽo và trống trải, tôi không chịu nổi. Tôi sợ hãi không biết nên làm gì nước mắt chảy ròng ròng. Sau khi đi lang thang khoảng một giờ như vậy, tôi tới cuối một con đường ô tô buýt, Nhớ lại hồi trước hai vợ chồng thường leo lên một chiếc xe thứ nhất ở bến. Xe chạy qua sông Hudson được một lát, tôi nghe người bán vé nói: " Thưa bà xe đến trạm cuối rồi, ". Tôi xuống xe.
    Tôi cũng không biết tên nơi đó nữa, nhưng thấy cảnh tĩnh mịch yên ổn. Trong khi đợi chuyến xe về, tôi đi ngược một con đường có nhiều nhà cửa sang trọng. Đi ngang một nhà thờ, nghe tiếng đàn du dương đánh bản: "Đêm Thánh Vô Cùng", tôi lững thững bước vào. Trong nhà thờ không có ai hết, trừ người đánh đàn organ. Tôi lẳng lặng ngồi xuống ghế mà không ai hay. Cây Noel trang hoàng đẹp đẽ, chiếu sáng ra làm cho những đồ cần thiết chói lọi như những ngôi sao lấp lánh dưới ánh trăng. Nghe âm thanh dịu dàng của bản đờn và bụng lại đói- vì từ sáng chưa ăn gì - tôi thiu thiu ngủ, giữa lúc tinh thần và thể xác đã kiệt quệ.
    (còn tiếp)
    All you need is Love . . .
  7. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Làm sao trị bệnh trầm cảm trong hai tuần
    Alfred Adler, một nhà trị bệnh thần kinh trứ danh, có nói một câu lạ lùng nhất từ trước tới giờ. Ông bảo những người mang bệnh trầm cảm là: "Chỉ cần hai tuần là ông sẽ hết bệnh, nếu ông theo đúng phương pháp này: Hãy cố gắng mỗi ngày kiếm cách đem niềm vui đến cho một người nào đó ". Lời ấy nghe có vẻ khó tin quá, cho nên muốn giảng thêm, tôi phải trích hai trang trong cuốn sách rất hay: "Ý nghĩa của đời sống là gì ? "của bác sĩ Adler. Đây là hai trang đó. "Bệnh trầm cảm tựa như một nỗi oán hờn dai dẳng, chủ ý để được người xung quanh luôn luôn thương hại săn sóc tới mình. Những ký ức hồi nhỏ của một người có bệnh đó đại loại thường có những cử chỉ ích kỷ như sau: "Tôi nhớ có lần tôi muốn nằm trên giường, nhưng anh tôi đã nằm ỳ trên đó rồi. Tôi la khóc cho đến khi anh tôi phải nhường lại giường cho tôi".
    "Những người bị trầm cảm thường muốn tự tử và việc cần nhất của bác sĩ là chỉ cho họ phương thuốc đầu tiên này: "Nếu ông không muốn làm việc gì , thì đừng tự bắt mình phải làm nó". Cốt ý để làm nhẹ bớt tình cảm khẩn trương của họ đi. Phương thuốc ấy dường như giản dị quá, nhưng nó trị được tận gốc chứng bệnh. Khi một người mắc chứng bệnh trầm cảm, muốn gì đều được như ý, thì họ còn trách móc gì ai được nữa ? Còn thù oán gì nữa mà mong tự tử để tự trả thù? Tôi nói với họ: "Nếu ông muốn đi coi ciné hay muốn đirong chơi, cứ việc đi. Giữa đường ông không muốn đi nữa thì thôi, ngừng lại. Như vậy, họ được thoả lòng hiếu thắng. Họ thấy họ to lớn hơn ông Trời, vì muốn làm gì thì cứ làm mà! Một mặt khác, họ thường muốn áp chế và trách móc mọi người nhưng nếu ai cũng đồng ý với họ luôn luôn, thì họ còn đàn áp ai được nữa? Phương pháp đó có kết quả tốt và chưa bao giờ một con bệnh của tôi tự tử hết", cho nên tôi sẵn sàng câu trả lời: "Ông đã không muốn làm gì thì cứ việc nghỉ". Có một đôi khi họ đáp: "Tôi chỉ muốn nằm trên giường suốt ngày". Tôi biết nếu để họ nằm ở giường suốt ngày thì chẳng bao lâu họ sẽ khó chịu, không muốn nằm nữa. Bởi vậy tôi cũng không thèm cản. Vì nếu ngăn cản thì họ gây sự liền. Tôi luôn luôn để họ tự nhiên. Đó là quy tắc thứ nhất.
    "Quy tắc thứ nhì là tấn công trực tiếp lối sống của họ. Tôi bảo họ: "Bệnh ông có thể hết được nếu ông theo đúng phương cách trong hai tuần: ông ráng mỗi ngày nghĩ cách làm vui lòng một người khác". Tôi khuyên vậy là vì họ thường chỉ bận óc với ý nghĩ: ''Làm sao cho người khác bực mình được ?" Nghe tôi khuyên, họ trả lời những câu rất lý thú. Có người nói: "Điều đó dễ lắm. Suốt đời tôi chỉ tìm cách làm vui lòng mọi người". Thực ra, họ không bao giờ như vậy cả. Tôi chắc họ cũng chẳng bao giờ nghĩ tới sự ấy. Tôi lại khuyên: "Khi nào không ngủ được, thì ông nghĩ cách làm vui lòng một người khác, ông sẽ mau hết bệnh ngay?. Tất nhiên tôi dặn họ phải làm vui lòng ngừơi một cách nhũn nhặn, thân ái. Hôm sau gặp họ, tôi hỏi: "Hồi hôm, ông có nghĩ tới lời tôi khuyên nhủ không?" Họ đáp: "Vừa đặt mình tôi đã ngủ rồi, thành thử không nghĩ tới được". Ngủ được còn gì hơn nữa? Có người trả lời: "Tôi không sao theo lời ông được, vì tôi nhiều nỗi lo quá rồi". Tôi bảo họ: "Thì ông cứ lo việc ông đi; nhưng đồng thời, ông có thể thỉnh thoảng lo cho người khác được. Như vậy tôi dần dần tập cho họ chú ý tới người khác . Lại có nhiều người nói: "Tôi làm vui lòng họ làm gì nhỉ ? Họ có bao giờ nghĩ cách làm vui lòng tôi đâu?" Tôi đáp: "Vì như vậy có lợi cho sức khỏe của ông. Còn họ thì mặc kệ, rồi họ sẽ chú ý tới người khác. Rất ít khi tôi gặp được một bệnh nhân chịu nói : "Tôi đã nghĩ tới lời ông khuyên".
    Tôi biết rằng bệnh của họ chỉ do không chịu hợp tác với đời, nên tôi muốn họ nhận thấy điều ấy là cần thiết. Khi nào họ bằng lòng hợp tác với người một cách bình đẳng thì họ sẽ hết bệnh... Bổn phận quan trọng nhất của những tín đồ bất cứ đạo nào vẫn là: "Thương người như thể thương thân"... Người nào ích kỷ không nghĩ tới bạn bè, sẽ gặp những nỗi khó khăn nhất... Chúng ta chỉ cầu sao cho mỗi người thành một bạn tốt, yêu và trong hôn nhân. Được như vậy, không còn gì hơn nữa". Vậy bác sĩ Adler khuyên ta mỗi ngày làm một việc thiện. Mà thế nào là một việc thiện? Mohamed nói: "Một việc thiện là một việc làm nở một nụ cười trên môi người khác". Tại sao làm việc thiện mỗi ngày lại có ảnh hưởng tốt tới tâm hồn ta? Vì khi nghĩ cách làm vui người khác, ta không nghĩ tới ta nữa; mà chính cái tật chỉ nghĩ tới mình đã làm cho ta ưu tư, sợ sệt và lo lắng. Bà William T. Moon, giám đốc một trường trung học ở New York không cần phải mất tới hai tuần mới diệt nỗi ưu tư của bà. Bà thắng bác sĩ Adler, vì đạt được kết quả nhanh gấp 14 lần. Nói thế nghĩa là bà diệt ưu tư của bà chỉ trong một ngày, chứ không cần tới 14 ngày, nhờ bà nghĩ cách làm cho hai đứa trẻ mồ côi được vui sướng. Bà kể: "Năm năm trước, một hôm vào tháng chạp, tôi thấy tâm hồn chìm đắm trong biển ưu tư. Tôi than thân trách phận của vì tôi đã sống nhiều năm đầy hạnh phúc với nhà tôi, rồi bất thình lình nhà tôi mất.
    Lễ Giáng sinh càng tới gần, tôi càng thấy buồn thảm. Chưa bao giờ tôi phải ăn lễ Noel trong cảnh cô độc, cho nên năm ấy tôi thấy nó đến mà vô cùng khổ sở. Càng cận ngày, tôi càng đau xót cho thân phận. Thật ra đời tôi cũng như đời hết thảy chúng ta còn được nhiều nỗi đáng vui. Ngày giáp lễ Noel, tôi ở sở ra hồi ba giờ chiều và thơ thẩn trên Đại lộ 5 để tìm sự khuây khoả. Bấy giờ trên đường chật ních những người qua lại, vẻ mặt rất hân hoan. Càng trông họ, tôi càng nhớ lại những năm hạnh phúc đã qua mau. Nghĩ tới sự phải về giam mình trong một căn phòng lạnh lẽo và trống trải, tôi không chịu nổi. Tôi sợ hãi không biết nên làm gì nước mắt chảy ròng ròng. Sau khi đi lang thang khoảng một giờ như vậy, tôi tới cuối một con đường ô tô buýt, Nhớ lại hồi trước hai vợ chồng thường leo lên một chiếc xe thứ nhất ở bến. Xe chạy qua sông Hudson được một lát, tôi nghe người bán vé nói: " Thưa bà xe đến trạm cuối rồi, ". Tôi xuống xe.
    Tôi cũng không biết tên nơi đó nữa, nhưng thấy cảnh tĩnh mịch yên ổn. Trong khi đợi chuyến xe về, tôi đi ngược một con đường có nhiều nhà cửa sang trọng. Đi ngang một nhà thờ, nghe tiếng đàn du dương đánh bản: "Đêm Thánh Vô Cùng", tôi lững thững bước vào. Trong nhà thờ không có ai hết, trừ người đánh đàn organ. Tôi lẳng lặng ngồi xuống ghế mà không ai hay. Cây Noel trang hoàng đẹp đẽ, chiếu sáng ra làm cho những đồ cần thiết chói lọi như những ngôi sao lấp lánh dưới ánh trăng. Nghe âm thanh dịu dàng của bản đờn và bụng lại đói- vì từ sáng chưa ăn gì - tôi thiu thiu ngủ, giữa lúc tinh thần và thể xác đã kiệt quệ.
    (còn tiếp)
    All you need is Love . . .
  8. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Làm sao trị bệnh trầm cảm trong hai tuần
    "Tỉnh dậy, tôi không còn nhớ tôi đang ở đâu nữa. Tôi thấy trước mặt có hai đứa bé quần áo rách rưới nghèo nàn, chắc lại để ngắm cây Noel. Đứa bé gái chỉ tôi nói: "Không biết có phải ông già Noel mang cô này lại đây không?" Thấy tôi ngửng đầu mở mắt, cả hai đứa đều hoảng sợ. Tôi vội bảo chúng cứ yên tâm. Đoạn hỏi đến cha mẹ. Chúng đáp: " Thưa Cô , chúng em không có ba má ". Vậy ư? Vậy thì, Trời ơi! hai đứa bé này còn khốn khổ hơn tôi nhiều. Thấy chúng như thế rồi nghĩ đến tôi nghĩ đến tôi thế này mà còn than thân trách phận, tôi thấy thua chúng xa. Tôi để chúng coi cây Noel xong, dắt chúng lại một tiệm nước để giải khát, và mua cho chúng ít kẹo, đồ chơi. Nỗi cô đơn trong lòng tôi tự nhiên biến mất. Đã mấy tháng nay, nhờ hai đứa bé mồ côi ấy, tôi quên hẳn cảnh ngộ tôi đi và được vui vẻ quá. Trong khi hỏi chuyện hai đứa bé, tôi nhận thấy rằng muốn được hạnh phúc, ta phải gây hạnh phúc chung quanh ta. Ta phân phát hạnh phúc tức là nhận được hạnh phúc vậy. Do sự giúp đỡ người và do tình thương, tôi đã thắng ưu tư và tật than thân trách phận. Tôi thấy đời tôi thay đổi hẳn chẳng những lúc ấy mà cho đến bao nhiều năm sau nữa".
    Tôi biết nhiều người nhờ quên mình mà tìm thấy sức khoẻ và hạnh phúc. Nếu kể chuyện họ, ta có thể viết thành một cuốn sách được. Như trường hợp của bà Margaret Taylor Yates chẳng hạn,một người đàn bà nổi danh nhất trong giới Hải Quân Hoa Kỳ. Bà là một tiểu thuyết gia, nhưng không có truyện trinh thám nào bà viết hay bằng nửa câu chuyện thật đã xảy ra, ngày quân đội Nhật tấn công hạm đội Mỹ ở Trân Châu Cảng. Lúc ấy bà đã bị bệnh đau tim hơn một năm rồi. Mỗi ngày bà phải nằm liệt giường đến 22 giờ, kỳ dư chỉ được nhiều lắm là từ phòng ra vườn, để tắm nắng. mà đi như vậy phải vịn tay người ở gái. Hồi đó bà tưởng sẽ tàn tật đến mãn đời. "Mà thật ra - bà nói- quân Nhật không tấn công Trân Châu Cảng và làm cho tôi xúc động mạnh đến nỗi khỏi bệnh, thì có lẽ đời tôi tuy sống cũng như chết. Khi quân Nhật tấn công, cả châu thành hỗn loạn. Một trái bom rớt gần nhà tôi làm tôi bắn ra khỏi giường. Xe cam nhông nhà binh chạy lại các trại lính ở Hickam Field, Scottfield và phi trường Kaneohe Bay, để chở vợ con của bộ binh và hải quân vào ở tạm trong các trường học. Đồng thời, hội chữ Thập Đỏ gọi điện thoại hỏi từng nhà xem có phòng dư và thuận cho những người gia cư bị tàn phá đó đến ở tạm. Hội biết tôi có máy điện thoại ở đầu giường, nhờ tôi thông tin giúp hội. Tôi ghi chép nơi mà vợ con binh lính có thể lại ở tạm và đáp những câu hỏi về gia quyến của họ. Lúc bấy giờ tôi đã biết chồng tôi là Hải Quân trung tá Robert Raleigh Yates bình an vô sự. Tôi ráng làm cho những người vợ chưa có tin tức về chồng họ được vững dạ và tôi an ủi một số đông đàn bà goá - chao ôi, có đến hai ngàn một trăm mười bảy sĩ quan, hạ sĩ quan và quân lính trong Lục quân, Hải quân tử trận và 960 người mất tích.
    "Mới đầu, tôi phải nẳm để trả lời điện thoại. Rồi tôi ngồi dậy lúc nào không hay. Sau cùng bận việc và hăng hái quá, tôi quên hết cả bệnh tật, ra khỏi giường đến ngồi ở bàn. Vì mải giúp những người khác khổ sở hơn mình nhiều, nên tôi đã quên hẳn tôi đi. Thế rồi từ tám giờ ngủ ra, ngày cũng như đêm, không bao giờ tôi nằm ở giường nữa. Bây giờ tôi nhận thấy rằng nếu quân Nhật không tấn công Trân Châu Cảng thì tôi đã thành một người bán tàn tật suốt đời. Nằm ở giường dễ chịu quá, luôn luôn có người hầu hạ, nên bấy lây tôi đã tự làm cho tiêu tan cái ý muốn khỏi đau mà không hay.
    "Trận Trân Châu Cảng là một bi kịch thảm thương nhất trong lịch sử Mỹ, nhưng riêng đối với tôi, nó là một điều may mắn. Cuộc khủng hoảng ấy đã cho tôi một sức mạnh mà không bao giờ tôi ngờ có được. Tôi không nghĩ đến tôi nữa mà chuyên chú vào người khác. Tôi có một mục đích lớn lao, quan trọng, cốt yếu. Tôi không có thì giờ nghĩ đến tôi, lo lắng cho tôi nữa".
    Một phần ba những người bệnh thần kinh có thể tự trị được nếu họ làm theo bà Margaret, nghĩa là nghĩ đến sự giúp đỡ khác. Đó không phải là ý của tôi mà là của nhà tâm lý học Thụy Sĩ Carl Jung. Mà Carl Jung biết rõ điều ấy hơn ai hết. Ông nói: "Một phần ba con bệnh của tôi đau không phải vì bệnh, mà vì đời sống của họ vô nghĩa và trống rỗng. Nói một cách khác, họ muốn đi du lịch trên đường đời, nhưng bị trễ tàu, nên đời họ hoá ra nhỏ mọn, vô ích, khiến họ chay đi kiếm một nhà chuyên trị bệnh thần kinh. Vì lỡ tàu họ đứng trên bến mà trách hết thảy mọi người - trừ họ ra- và muốn cho cả thế giới săn sóc họ, làm thoả mãn những ý muốn ích kỷ của họ".
    Chắc bạn tự nhủ: Nhưng chuyện đó có gì lạ đâu? Nếu gặp hai đứa trẻ mồ côi đêm Noel, thì ta cũng thương chúng được; nếu ở Trân Châu Cảng, ta cũng vui vẻ làm như Margaret Taylor Yates rồi. Nhưng cảnh ngộ của ta khác: ta có một đời sống tầm thường quá. Ta không gặp hòan cảnh gì bi đát cả. Vậy thì làm sao giúp ta người khác được? Và tại sao lại phải giúp họ chứ? Có ích lợi gì cho ta đâu?".
    Câu hỏi đó cũng có lý, và tôi xin đáp : Đời bạn cũng gặp một vài người lạ. Bạn đối với họ ra sao? Bạn lãnh đạm nhìn họ, hay cảm thương tự hỏi họ có uẩn khúc cho mà chán chường đến vậy? Như người phát thơ chẳng hạn, mỗi năm đi hàng trăm cây số, mang thơ giao lại tận nhà bạn, có bao giờ bạn thấy thương người đó hoặc tha thiết muốn biết tình cảm họ ra sao không? Có bao giờ hỏi họ "đi nhiều như vậy có mệt, có chán không?" Còn người bán hàng ở tiệm tạp hoá, người bán báo, người đánh giầy cho bạn ở góc đường nữa? Họ đều là người như ta, trong đầu cũng đầy nhưng lo lắng, mơ mộng và hoài bão riêng. Họ cũng mong gặp được người tri kỷ để kể lể tâm sự, nhưng có bao giờ bạn để họ kể lể tâm sự họ không? Tôi muốn bạn giúp đỡ người theo cách ấy. Bạn không cần phài là một danh ca hoặc một nhà cải cách xã hội mà cũng có thể giúp đời trong khu vực riêng của bạn được. Ngay sáng mai, bạn hãy giúp những người mà bạn gặp đi. Giúp như vậy bạn được lợi gì? Bạn sẽ vui vẻ hơn, sẽ được mãn nguyện và hài lòng về bạn rất nhiều ! Aristote gọi thái độ ấy là một "thứ ích kỷ sáng suốt". Zoroastre nói "Làn việc thiện không phải là một bổn phận mà là một nguồn vui, vì nó tăng sức khỏe và hạnh phúc của ta". Và Benjamin Franklin tóm tắt tất cả trong câu nói giản dị này: "Anh thương người tức là anh đã rất thương anh vậy".
    Ông Henry C. Link, giám đốc Sở Tâm Lý ở New York đã viết:"Theo tôi, trong thời đại, không có phát minh về tâm lý nào quan trọng bằng sự chứng minh khoa học rằng biết hy sinh và có kỷ luật là hai đức tính cần thiết cho sự thành công và hạnh phúc của chúng ta". Khi chăm chú đến ước vọng của người, không những ta quên lo lắng, ưu tư của ta, mà nhờ đó, ta còn có rất nhiều bạn và rất vui vẻ nữa. Tại sao vậy? Thì đây: Một lần tôi hỏi giáo sư William Lyon Phelps ở Đại Học Yale về điều ấy. Ông đáp: "Không bao giờ tôi vào một tiệm ăn, một tiệm hớt tóc hoặc một gian hàng mà không nói một câu làm vui những người tôi gặp. Tôi ráng tỏ rằng tôi coi họ là người chứ không phải chỉ là chiếc bánh xe nhỏ trong một guồng máy. Tôi thường khen cô bán hàng có cặp mắt xinh hoặc mớ tóc đẹp. Hoặc tôi hỏi người thợ hớt tóc đứng suốt ngày có thấy mệt mỏi không. Có khi tôi hỏi tại sao họ lại chọn nghề đó, học nghề từ hồi nào và đã hớt được bao lâu cái đầu rồi. Tôi chỉ cho họ cái tính tôi thấy rằng hỏi thăm họ vậy thì họ tươi cười vui vẻ. Tôi thường bắt tay bác phu xách hành lý cho tôi dể anh hăng hái và tươi cười suốt ngày. Có một buổi hè nóng nực vô cùng, tôi ăn trưa trong một toa xe lửa của Công ty New Haven Railways, toa chật cứng khách và nóng như lò, mà người hầu bàn lại chậm chạp. Đến lúc người này mang thực đơn lại tôi nói: "Trời như hôm nay mà phải nấu ăn trong bếp nóng, chắc khổ lắm nhỉ?" Anh ta liền chua chát chửi thề. Mới đầu tôi cứ tưởng anh đã đổ quạu. Nhưng anh ta nói: "Trời cao đất dầy hỡi !! Tất cả các khách ăn đều phàn nàn về món ăn dở, sự hầu bàn chậm chạp, trời nóng, giá cao. Tôi đã nghe họ chỉ trích cả 19 năm nay. Ông là người đầu tiên và độc nhất tỏ lòng thương hại cái kẻ ở trong bếp nóng như thiêu. Cầu trời cho tôi có được thêm nhiều khách ăn như ông". Người hầu bàn ngạc nhiên thấy người da đen như anh cũng được coi như người chứ không như những bánh xe của công ty xe lửa. Giáo sư Phelps nói tiếp: "Ai cũng cần được người khác chú ý đến mình một chút và tỏ tình đồng loại với mình. Nếu gặp một người dắt một con chó đẹp ở ngoài đường, luôn luôn khen con chó đẹp. Và khi tôi quay lại thì thường thấy ngừơi kia vuốt ve, ngắm nghía nó. Nghe lời tôi khen, người ấy nhớ lại vẻ đẹp của con vật.
    "Một lần ở nước Anh, nhân gặp một người chăn cừu, tôi thành thật khen con chó của anh to lớn và thông minh. Rồi hỏi thăm anh ta dạy dỗ nó ra sao. Sau lúc từ biẹt, tôi nhìn lại thì thấy con chó đứng thẳng, hai chân trước vịn lên vai chủ, để chủ vuốt ve. Tôi chú ý đến anh ta và con chó được nâng niu mà tôi cũng được vui lòng nữa.

    Bạn có thể tưởng tượng một người đi bắt tay những anh phu vác, tỏ lòng thông cảm với những người làm trong bếp nóng như thiêu và khen chó của người lạ, bạn có thể tưởng tượng được ngừơi như vậy mà chán chường hoặc ưu tư và bị bệnh thần kinh được không? Tất nhiên là không. Một tục ngữ Tầu nói: "Bạn cầm bông hồng mà biếu người khác, luôn luôn tay bạn sẽ còn phảng phất hương thơm...". Điều ấy, Billy Phelps ở Yale đã biết rõ và ông đã sống đúng theo đó. Ta khỏi phải nhắc cho ông nữa.
    Nếu bạn là đàn ông, bạn không cần phải đọc đoạn dưới này; chả có lợi gì cho bạn lắm, vì đó là chuyện một cô con gái khổ sở mà được nhiều người hỏi làm vợ. Cô ấy bây giờ là một bà già đã có cháu nội rồi. Mấy năm trước có lần tôi lại nghĩ một đêm tại nhà hai vợ chồng bà. Tôi diễn thuyết ở tỉnh bà và sáng hôm say, bà đánh xe đưa tiễn tôi đến mọt ga xe lửa cách đó 80 cây số, để về New York. Chúng tôi bàn về cách đắc nhân tâm. Bà nói: "Ông Carnegie, tôi kể cho ông nghe một chuyện mà từ trước đến nay tôi chưa kể cho ai, cả với nhà tôi nữa. gia đình tôi là một dòng quý tộc ở Philadelphia. Bi kịch hồi tuổi thơ ấu của tôi là cảnh nghèo. Tôi không được sang trọng như chị em cùng dòng thế phiệt như tôi,. Quần áo tôi thì bằng vải thô, vừa chật, vừa không hợp với hình hài, cố nhiên lại không đúng thời trang nữa. Tôi lấy làm nhục nhã , xấu hổ đến nỗi nhiều đêm nằm khóc thầm. Về sau thất vọng quá, nên trong những bữa tiệc, tôi luôn luôn cố tình xin người bên kể cho nghe những kinh nghiệm, lý tưởng và dự định về tương lai của họ. Không phải tôi thích nghe họ đâu. Tôi cốt hỏi như vậy để họ đừng để ý đến trang phục tồi tàn của tôi mà. Nhưng một điều lạ lùng xảy ra: nghe lời đáp của những chàng trai trẻ, tôi hiểu nhiều và vì chú ý đến câu chuyện, có khi tôi quên hẳn bộ áo đầm của tôi đi. Nhưng điều đó chưa bằng điều này: vì chăm chú nghe và khuyến khích họ nói về họ, nên đã vô tình làm cho họ vui lòng. Thế rồi dần dần tôi được người ta để ý đến tôi nhất trong bọn chị em cùng giới. Sau đó, có ba chàng trong bọn hỏi cưới tôi". Vài bạn đọc chương này chắc bĩu môi nói: "Không có gì vô lý bằng cả đoạn khuyên nên chú ý đến người khác ấy, hoàn toàn là thuyết pháp. Ta chẳng dại gì mà nghe. ta chỉ muốn thu cho đầy túi, vơ được cái gì thì vơ, vớt ngay bây giờ ! Còn những kẻ khác? mặc kệ họ !". Nếu đó là ý kiến của bạn thì bạn có quyền giữ nó. Nhưng nếu bạn có lý thì tất cả những triết gia và nhà giáo từ hồi nhân loại viết sử đến giờ hẳn lầm lần cả rồi. Tuy nhiên, bạn có thể khinh lời giáo huấn của các bậc giáo chủ. Vậy để tôi xin kể lời khuyên của hai người theo thuyết Thần giáo. Người thứ nhất là ông A.E Housman, giáo sư ở Đại học Cambridge, một trong những nhà sư phạm nổi danh nhất thời ông. Cnính giáo sư Housman là một người theo thuyết vô thần, là một người chán đời đã có lần muốn tự tử mà cũng phải nhận rằng kẻ nào chỉ nghĩ đến mình thôi thì đời chẳng những không sung sướng, không thành công được mà kẻ đó sẽ khổ sở. còn kẻ nào quên mình để giúp đỡ người khác sẽ tìm thấy hạnh phúc.
    Nếu lời ông Housman không làm cho bạn lay chuyển thì tôi xin kể lời của một người Mỹ nổi danh nhất ở thế kỷ này, trong số những người theo thuyết vô thần: Theodore Dreiser. Ông chế nhạo tất cả các tôn giáo, cho rằng Thánh kinh chứa toàn những chuyện hoang đường và đời người là một "chuyện do một thằng khùng kể, đầy những lời lẽ rỗng tuếch, vô nghĩa và những hành động bạo tàn của những kẻ hoá dại". Vậy mà Dreiser bênh vực một nguyên tắc căn bản là giúp đỡ kẻ khác. Ông nói: "Nếu ta muốn kiếm một chút vui trên cõi trần, ta phải thực hành những nghĩa cử tốt đẹp, không những để có ích lợi cho mình mà cần nhất lợi cho kẻ khác nữa, vì cái vui của mình tuỳ thuộc cái vui của kẻ khác, cũng như vui của kẻ khác tuỳ thuộc vui của mình".
    Nếu chúng ta muốn "làm những nghĩa cử tốt đẹp cho kẻ khác"- như Dreiser đã khuyên - thì chúng ta hãy làm mau đi. Không còn thì giờ để phung phí. Cho nên nếu có thể làm được việc thiện nào, có dịp tỏ được lòng vị tha thì phải làm ngay. Đừng trì hoãn, đừng xao lãng, vì chúng ta sẽ không bao giờ có dịp trở lại con đường chúng ta đã trải qua".
    (còn tiếp)
    All you need is Love . . .
  9. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Làm sao trị bệnh trầm cảm trong hai tuần
    "Tỉnh dậy, tôi không còn nhớ tôi đang ở đâu nữa. Tôi thấy trước mặt có hai đứa bé quần áo rách rưới nghèo nàn, chắc lại để ngắm cây Noel. Đứa bé gái chỉ tôi nói: "Không biết có phải ông già Noel mang cô này lại đây không?" Thấy tôi ngửng đầu mở mắt, cả hai đứa đều hoảng sợ. Tôi vội bảo chúng cứ yên tâm. Đoạn hỏi đến cha mẹ. Chúng đáp: " Thưa Cô , chúng em không có ba má ". Vậy ư? Vậy thì, Trời ơi! hai đứa bé này còn khốn khổ hơn tôi nhiều. Thấy chúng như thế rồi nghĩ đến tôi nghĩ đến tôi thế này mà còn than thân trách phận, tôi thấy thua chúng xa. Tôi để chúng coi cây Noel xong, dắt chúng lại một tiệm nước để giải khát, và mua cho chúng ít kẹo, đồ chơi. Nỗi cô đơn trong lòng tôi tự nhiên biến mất. Đã mấy tháng nay, nhờ hai đứa bé mồ côi ấy, tôi quên hẳn cảnh ngộ tôi đi và được vui vẻ quá. Trong khi hỏi chuyện hai đứa bé, tôi nhận thấy rằng muốn được hạnh phúc, ta phải gây hạnh phúc chung quanh ta. Ta phân phát hạnh phúc tức là nhận được hạnh phúc vậy. Do sự giúp đỡ người và do tình thương, tôi đã thắng ưu tư và tật than thân trách phận. Tôi thấy đời tôi thay đổi hẳn chẳng những lúc ấy mà cho đến bao nhiều năm sau nữa".
    Tôi biết nhiều người nhờ quên mình mà tìm thấy sức khoẻ và hạnh phúc. Nếu kể chuyện họ, ta có thể viết thành một cuốn sách được. Như trường hợp của bà Margaret Taylor Yates chẳng hạn,một người đàn bà nổi danh nhất trong giới Hải Quân Hoa Kỳ. Bà là một tiểu thuyết gia, nhưng không có truyện trinh thám nào bà viết hay bằng nửa câu chuyện thật đã xảy ra, ngày quân đội Nhật tấn công hạm đội Mỹ ở Trân Châu Cảng. Lúc ấy bà đã bị bệnh đau tim hơn một năm rồi. Mỗi ngày bà phải nằm liệt giường đến 22 giờ, kỳ dư chỉ được nhiều lắm là từ phòng ra vườn, để tắm nắng. mà đi như vậy phải vịn tay người ở gái. Hồi đó bà tưởng sẽ tàn tật đến mãn đời. "Mà thật ra - bà nói- quân Nhật không tấn công Trân Châu Cảng và làm cho tôi xúc động mạnh đến nỗi khỏi bệnh, thì có lẽ đời tôi tuy sống cũng như chết. Khi quân Nhật tấn công, cả châu thành hỗn loạn. Một trái bom rớt gần nhà tôi làm tôi bắn ra khỏi giường. Xe cam nhông nhà binh chạy lại các trại lính ở Hickam Field, Scottfield và phi trường Kaneohe Bay, để chở vợ con của bộ binh và hải quân vào ở tạm trong các trường học. Đồng thời, hội chữ Thập Đỏ gọi điện thoại hỏi từng nhà xem có phòng dư và thuận cho những người gia cư bị tàn phá đó đến ở tạm. Hội biết tôi có máy điện thoại ở đầu giường, nhờ tôi thông tin giúp hội. Tôi ghi chép nơi mà vợ con binh lính có thể lại ở tạm và đáp những câu hỏi về gia quyến của họ. Lúc bấy giờ tôi đã biết chồng tôi là Hải Quân trung tá Robert Raleigh Yates bình an vô sự. Tôi ráng làm cho những người vợ chưa có tin tức về chồng họ được vững dạ và tôi an ủi một số đông đàn bà goá - chao ôi, có đến hai ngàn một trăm mười bảy sĩ quan, hạ sĩ quan và quân lính trong Lục quân, Hải quân tử trận và 960 người mất tích.
    "Mới đầu, tôi phải nẳm để trả lời điện thoại. Rồi tôi ngồi dậy lúc nào không hay. Sau cùng bận việc và hăng hái quá, tôi quên hết cả bệnh tật, ra khỏi giường đến ngồi ở bàn. Vì mải giúp những người khác khổ sở hơn mình nhiều, nên tôi đã quên hẳn tôi đi. Thế rồi từ tám giờ ngủ ra, ngày cũng như đêm, không bao giờ tôi nằm ở giường nữa. Bây giờ tôi nhận thấy rằng nếu quân Nhật không tấn công Trân Châu Cảng thì tôi đã thành một người bán tàn tật suốt đời. Nằm ở giường dễ chịu quá, luôn luôn có người hầu hạ, nên bấy lây tôi đã tự làm cho tiêu tan cái ý muốn khỏi đau mà không hay.
    "Trận Trân Châu Cảng là một bi kịch thảm thương nhất trong lịch sử Mỹ, nhưng riêng đối với tôi, nó là một điều may mắn. Cuộc khủng hoảng ấy đã cho tôi một sức mạnh mà không bao giờ tôi ngờ có được. Tôi không nghĩ đến tôi nữa mà chuyên chú vào người khác. Tôi có một mục đích lớn lao, quan trọng, cốt yếu. Tôi không có thì giờ nghĩ đến tôi, lo lắng cho tôi nữa".
    Một phần ba những người bệnh thần kinh có thể tự trị được nếu họ làm theo bà Margaret, nghĩa là nghĩ đến sự giúp đỡ khác. Đó không phải là ý của tôi mà là của nhà tâm lý học Thụy Sĩ Carl Jung. Mà Carl Jung biết rõ điều ấy hơn ai hết. Ông nói: "Một phần ba con bệnh của tôi đau không phải vì bệnh, mà vì đời sống của họ vô nghĩa và trống rỗng. Nói một cách khác, họ muốn đi du lịch trên đường đời, nhưng bị trễ tàu, nên đời họ hoá ra nhỏ mọn, vô ích, khiến họ chay đi kiếm một nhà chuyên trị bệnh thần kinh. Vì lỡ tàu họ đứng trên bến mà trách hết thảy mọi người - trừ họ ra- và muốn cho cả thế giới săn sóc họ, làm thoả mãn những ý muốn ích kỷ của họ".
    Chắc bạn tự nhủ: Nhưng chuyện đó có gì lạ đâu? Nếu gặp hai đứa trẻ mồ côi đêm Noel, thì ta cũng thương chúng được; nếu ở Trân Châu Cảng, ta cũng vui vẻ làm như Margaret Taylor Yates rồi. Nhưng cảnh ngộ của ta khác: ta có một đời sống tầm thường quá. Ta không gặp hòan cảnh gì bi đát cả. Vậy thì làm sao giúp ta người khác được? Và tại sao lại phải giúp họ chứ? Có ích lợi gì cho ta đâu?".
    Câu hỏi đó cũng có lý, và tôi xin đáp : Đời bạn cũng gặp một vài người lạ. Bạn đối với họ ra sao? Bạn lãnh đạm nhìn họ, hay cảm thương tự hỏi họ có uẩn khúc cho mà chán chường đến vậy? Như người phát thơ chẳng hạn, mỗi năm đi hàng trăm cây số, mang thơ giao lại tận nhà bạn, có bao giờ bạn thấy thương người đó hoặc tha thiết muốn biết tình cảm họ ra sao không? Có bao giờ hỏi họ "đi nhiều như vậy có mệt, có chán không?" Còn người bán hàng ở tiệm tạp hoá, người bán báo, người đánh giầy cho bạn ở góc đường nữa? Họ đều là người như ta, trong đầu cũng đầy nhưng lo lắng, mơ mộng và hoài bão riêng. Họ cũng mong gặp được người tri kỷ để kể lể tâm sự, nhưng có bao giờ bạn để họ kể lể tâm sự họ không? Tôi muốn bạn giúp đỡ người theo cách ấy. Bạn không cần phài là một danh ca hoặc một nhà cải cách xã hội mà cũng có thể giúp đời trong khu vực riêng của bạn được. Ngay sáng mai, bạn hãy giúp những người mà bạn gặp đi. Giúp như vậy bạn được lợi gì? Bạn sẽ vui vẻ hơn, sẽ được mãn nguyện và hài lòng về bạn rất nhiều ! Aristote gọi thái độ ấy là một "thứ ích kỷ sáng suốt". Zoroastre nói "Làn việc thiện không phải là một bổn phận mà là một nguồn vui, vì nó tăng sức khỏe và hạnh phúc của ta". Và Benjamin Franklin tóm tắt tất cả trong câu nói giản dị này: "Anh thương người tức là anh đã rất thương anh vậy".
    Ông Henry C. Link, giám đốc Sở Tâm Lý ở New York đã viết:"Theo tôi, trong thời đại, không có phát minh về tâm lý nào quan trọng bằng sự chứng minh khoa học rằng biết hy sinh và có kỷ luật là hai đức tính cần thiết cho sự thành công và hạnh phúc của chúng ta". Khi chăm chú đến ước vọng của người, không những ta quên lo lắng, ưu tư của ta, mà nhờ đó, ta còn có rất nhiều bạn và rất vui vẻ nữa. Tại sao vậy? Thì đây: Một lần tôi hỏi giáo sư William Lyon Phelps ở Đại Học Yale về điều ấy. Ông đáp: "Không bao giờ tôi vào một tiệm ăn, một tiệm hớt tóc hoặc một gian hàng mà không nói một câu làm vui những người tôi gặp. Tôi ráng tỏ rằng tôi coi họ là người chứ không phải chỉ là chiếc bánh xe nhỏ trong một guồng máy. Tôi thường khen cô bán hàng có cặp mắt xinh hoặc mớ tóc đẹp. Hoặc tôi hỏi người thợ hớt tóc đứng suốt ngày có thấy mệt mỏi không. Có khi tôi hỏi tại sao họ lại chọn nghề đó, học nghề từ hồi nào và đã hớt được bao lâu cái đầu rồi. Tôi chỉ cho họ cái tính tôi thấy rằng hỏi thăm họ vậy thì họ tươi cười vui vẻ. Tôi thường bắt tay bác phu xách hành lý cho tôi dể anh hăng hái và tươi cười suốt ngày. Có một buổi hè nóng nực vô cùng, tôi ăn trưa trong một toa xe lửa của Công ty New Haven Railways, toa chật cứng khách và nóng như lò, mà người hầu bàn lại chậm chạp. Đến lúc người này mang thực đơn lại tôi nói: "Trời như hôm nay mà phải nấu ăn trong bếp nóng, chắc khổ lắm nhỉ?" Anh ta liền chua chát chửi thề. Mới đầu tôi cứ tưởng anh đã đổ quạu. Nhưng anh ta nói: "Trời cao đất dầy hỡi !! Tất cả các khách ăn đều phàn nàn về món ăn dở, sự hầu bàn chậm chạp, trời nóng, giá cao. Tôi đã nghe họ chỉ trích cả 19 năm nay. Ông là người đầu tiên và độc nhất tỏ lòng thương hại cái kẻ ở trong bếp nóng như thiêu. Cầu trời cho tôi có được thêm nhiều khách ăn như ông". Người hầu bàn ngạc nhiên thấy người da đen như anh cũng được coi như người chứ không như những bánh xe của công ty xe lửa. Giáo sư Phelps nói tiếp: "Ai cũng cần được người khác chú ý đến mình một chút và tỏ tình đồng loại với mình. Nếu gặp một người dắt một con chó đẹp ở ngoài đường, luôn luôn khen con chó đẹp. Và khi tôi quay lại thì thường thấy ngừơi kia vuốt ve, ngắm nghía nó. Nghe lời tôi khen, người ấy nhớ lại vẻ đẹp của con vật.
    "Một lần ở nước Anh, nhân gặp một người chăn cừu, tôi thành thật khen con chó của anh to lớn và thông minh. Rồi hỏi thăm anh ta dạy dỗ nó ra sao. Sau lúc từ biẹt, tôi nhìn lại thì thấy con chó đứng thẳng, hai chân trước vịn lên vai chủ, để chủ vuốt ve. Tôi chú ý đến anh ta và con chó được nâng niu mà tôi cũng được vui lòng nữa.

    Bạn có thể tưởng tượng một người đi bắt tay những anh phu vác, tỏ lòng thông cảm với những người làm trong bếp nóng như thiêu và khen chó của người lạ, bạn có thể tưởng tượng được ngừơi như vậy mà chán chường hoặc ưu tư và bị bệnh thần kinh được không? Tất nhiên là không. Một tục ngữ Tầu nói: "Bạn cầm bông hồng mà biếu người khác, luôn luôn tay bạn sẽ còn phảng phất hương thơm...". Điều ấy, Billy Phelps ở Yale đã biết rõ và ông đã sống đúng theo đó. Ta khỏi phải nhắc cho ông nữa.
    Nếu bạn là đàn ông, bạn không cần phải đọc đoạn dưới này; chả có lợi gì cho bạn lắm, vì đó là chuyện một cô con gái khổ sở mà được nhiều người hỏi làm vợ. Cô ấy bây giờ là một bà già đã có cháu nội rồi. Mấy năm trước có lần tôi lại nghĩ một đêm tại nhà hai vợ chồng bà. Tôi diễn thuyết ở tỉnh bà và sáng hôm say, bà đánh xe đưa tiễn tôi đến mọt ga xe lửa cách đó 80 cây số, để về New York. Chúng tôi bàn về cách đắc nhân tâm. Bà nói: "Ông Carnegie, tôi kể cho ông nghe một chuyện mà từ trước đến nay tôi chưa kể cho ai, cả với nhà tôi nữa. gia đình tôi là một dòng quý tộc ở Philadelphia. Bi kịch hồi tuổi thơ ấu của tôi là cảnh nghèo. Tôi không được sang trọng như chị em cùng dòng thế phiệt như tôi,. Quần áo tôi thì bằng vải thô, vừa chật, vừa không hợp với hình hài, cố nhiên lại không đúng thời trang nữa. Tôi lấy làm nhục nhã , xấu hổ đến nỗi nhiều đêm nằm khóc thầm. Về sau thất vọng quá, nên trong những bữa tiệc, tôi luôn luôn cố tình xin người bên kể cho nghe những kinh nghiệm, lý tưởng và dự định về tương lai của họ. Không phải tôi thích nghe họ đâu. Tôi cốt hỏi như vậy để họ đừng để ý đến trang phục tồi tàn của tôi mà. Nhưng một điều lạ lùng xảy ra: nghe lời đáp của những chàng trai trẻ, tôi hiểu nhiều và vì chú ý đến câu chuyện, có khi tôi quên hẳn bộ áo đầm của tôi đi. Nhưng điều đó chưa bằng điều này: vì chăm chú nghe và khuyến khích họ nói về họ, nên đã vô tình làm cho họ vui lòng. Thế rồi dần dần tôi được người ta để ý đến tôi nhất trong bọn chị em cùng giới. Sau đó, có ba chàng trong bọn hỏi cưới tôi". Vài bạn đọc chương này chắc bĩu môi nói: "Không có gì vô lý bằng cả đoạn khuyên nên chú ý đến người khác ấy, hoàn toàn là thuyết pháp. Ta chẳng dại gì mà nghe. ta chỉ muốn thu cho đầy túi, vơ được cái gì thì vơ, vớt ngay bây giờ ! Còn những kẻ khác? mặc kệ họ !". Nếu đó là ý kiến của bạn thì bạn có quyền giữ nó. Nhưng nếu bạn có lý thì tất cả những triết gia và nhà giáo từ hồi nhân loại viết sử đến giờ hẳn lầm lần cả rồi. Tuy nhiên, bạn có thể khinh lời giáo huấn của các bậc giáo chủ. Vậy để tôi xin kể lời khuyên của hai người theo thuyết Thần giáo. Người thứ nhất là ông A.E Housman, giáo sư ở Đại học Cambridge, một trong những nhà sư phạm nổi danh nhất thời ông. Cnính giáo sư Housman là một người theo thuyết vô thần, là một người chán đời đã có lần muốn tự tử mà cũng phải nhận rằng kẻ nào chỉ nghĩ đến mình thôi thì đời chẳng những không sung sướng, không thành công được mà kẻ đó sẽ khổ sở. còn kẻ nào quên mình để giúp đỡ người khác sẽ tìm thấy hạnh phúc.
    Nếu lời ông Housman không làm cho bạn lay chuyển thì tôi xin kể lời của một người Mỹ nổi danh nhất ở thế kỷ này, trong số những người theo thuyết vô thần: Theodore Dreiser. Ông chế nhạo tất cả các tôn giáo, cho rằng Thánh kinh chứa toàn những chuyện hoang đường và đời người là một "chuyện do một thằng khùng kể, đầy những lời lẽ rỗng tuếch, vô nghĩa và những hành động bạo tàn của những kẻ hoá dại". Vậy mà Dreiser bênh vực một nguyên tắc căn bản là giúp đỡ kẻ khác. Ông nói: "Nếu ta muốn kiếm một chút vui trên cõi trần, ta phải thực hành những nghĩa cử tốt đẹp, không những để có ích lợi cho mình mà cần nhất lợi cho kẻ khác nữa, vì cái vui của mình tuỳ thuộc cái vui của kẻ khác, cũng như vui của kẻ khác tuỳ thuộc vui của mình".
    Nếu chúng ta muốn "làm những nghĩa cử tốt đẹp cho kẻ khác"- như Dreiser đã khuyên - thì chúng ta hãy làm mau đi. Không còn thì giờ để phung phí. Cho nên nếu có thể làm được việc thiện nào, có dịp tỏ được lòng vị tha thì phải làm ngay. Đừng trì hoãn, đừng xao lãng, vì chúng ta sẽ không bao giờ có dịp trở lại con đường chúng ta đã trải qua".
    (còn tiếp)
    All you need is Love . . .
  10. alleykat

    alleykat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2003
    Bài viết:
    2.831
    Đã được thích:
    0
    Quẳng gánh lo đi và vui sống (tiếp theo)
    Hãy gác những lời chỉ trích ra ngoài tai
    Một hôm tôi có dịp phỏng vấn tướng Smealay Butler, "ông già khó chịu", một nhân vật huênh hoang nhưng thiện chiến nhất của thuỷ quân lục chiến Mỹ. Ông kể lại với tôi rằng hồi còn trẻ, ông hết sức ao ước được yêu chuộng và trở thành nổi tiếng. Hồi đó, ai hơi chỉ trích ông là ông phật ý, nổi nóng ngay. Nhưng ông thêm rằng: "Ba mươi năm sống trong Hải Quân đã làm cho tôi thành mặt chai mày dạn". Người ta nói xấu, lăng mạ tôi đủ cách; người ta gọi tôi là chó dại, là rắn hổ, là đồ khốn nạn. Những nhà chuyên môn châm biếm, đưa tôi ra bêu xấu trước công chúng. Người ta dùng những lời thô bỉ nhất trong tiếng Anh để bôi nhọ tôi. Vậy mà tôi chẳng hề nổi nóng. Đến nay có đứng ngay sau lưng mà nói mỉa nói mai, tôi cũng không thèm quay lại để xem là ai nói".
    Có lẽ ông già đó chẳng coi những điều sỉ nhục ông vào đâu. Nhưng điều chắc chắn là đa số trong chúng ta không chịu để ai động đến lỗ lông chân của mình, Tôi còn nhớ cách đây khá lâu, một lần tôi đã nổi nóng vì một ký giả tờ New York Times đã châm biếm tôi sau khi đến nghe tôi giảng bài trong một lớp học trò lớn tuổi. Tôi cho những lời ký giả đó là phỉ báng cá nhân tôi. Tôi gọi điện thoại ngay cho viên chủ bút tớ báo này, bắt phải đăng một bài cải chính, trong đó phải ghi những kết quả tôi đã thâu hoạch được do phương pháp giáo huấn của tôi - và lẽ cố nhiên, tôi cho việc nhạo báng này là một trọng tội. Bây giờ, nghĩ lại, tôi không biết có nên hãnh diện về xử sự này không, 50% số độc giả tờ báo này, chắc cũng chẳng ai thèm để ý đọc bài đó. Còn những người đọc đến thì phần đông cũng coi là câu chuyện phiếm hay khôi hài, chẳng có gì là thâm độc. Mà những người đã đọc qua bài đó, một tuần sau chắc chẳng ai còn nhớ đến nữa.
    Bây giờ tôi biết rằng ở đời chẳng ai để ý đến mình cả và có nghe nói gì về mình, họ cũng mặc kệ. Họ tối ngày chỉ lo nghĩ đến họ. Nói chẳng riêng ai, một người nhức đầu trong năm phút thấy mình đau đớn gấp trăm ngàn lần khi được tin bạn hay là tôi đã chết. Cho rằng có vu oan, nhạo báng, lừa dối hay chơi đểu bạn, và cho rằng người đó là bạn thân đi nữa, bạn cũng đừng nên than thân trách phận.
    Gần đây tôi đã khám phá ra một điều quan trọng: "Khi đã không thể ngăn cấm người chỉ trích tôi một cách sai lầm, bất công, thì tôi có thể làm một việc ích lợi hơn, là chẳng nên để những lời chỉ trích vô lý đó làm mình bực dọc". Để tránh mọi sự hiểu lầm, tôi xin giải thích: Tôi không khuyên bạn hoàn toàn bỏ ngoài tai mọi lời chỉ trích. Tôi chỉ khuyên bạn khinh thường những lời chỉ trích vô căn cứ. Tôi có lần hỏi bà Roosevelt về thái độ của bà khi bị chỉ trích một cách vô lý, vì biết đâu bà chẳng có lần bị như vậy. Ai cũng biết bà có nhiều bạn thành thật, nhưng cũng có nhiều kẻ thù hơn bất cứ người đàn bà nào đã ở toà Bạch ốc. Bà thuật lại rằng thời niên thiếu, bà hết sức nhút nhát, luôn luôn lo lắng, sợ những lời ra tiếng vào. Đến nỗi một ngày kia, bà đánh liều hỏi một bà cô, là chị ông Théodore Roosevelt rằng: "Cô ơi! Tôi muốn làm việc này quá nhưng chỉ sợ bị người ta chỉ trích thôi". Bà cô nhìn thẳng vào cô con gái bẽn lẽn một lúc khá lâu, rồi trả lời: "Khi con đã biết rõ việc con làm là hợp lý, thì con đừng để ý đến lời bàn tán của thiên hạ".
    "Lời khuyên này, - lời bà Eleanor Roosevelt- đã trở thành căn bản cho mọi hành vi của tôi khi tôi đến ở Toà Bạch ốc và trở nên Đệ nhất Phu nhân nước Mỹ. Theo ý tôi, không một ai giữ quyền cao chức trọng mà không bị thiên hạ chỉ trích, trừ khi người đó ngồi im như phỗng đá. Nhận xét của tôi thật chí lý, vì làm thế nào đi nữa rồi cũng bị chỉ trích. Người thì sẽ chỉ trích tôi vì đã làm việc này việc nọ, người khác sẽ xâu xé tôi, vì tôi không làm việc đó".
    Một hôm, trong một cuộc đàm luận, tôi hỏi ông Mathieu Brush, Giám đốc Công ty Quốc tế tại Wall Street rằng ông có dễ bị ảnh hưởng bởi những lời chỉ trích mà một người ở một địa vị như ông nhất định sẽ phải chịu không. Ông trả lời, lúc đầu, ai hơi chỉ trích là ông phải nghĩ ngợi ngay. Hồi đó, ông cố làm sao để tỏ ra hoàn toàn đối với mỗi nhân viên làm việc dưới quyền ông. Hễ ai lên tiếng phản đối một việc gì là ông liền lo làm cho người đó vừa lòng. Nhưng khi ông cố gắng làm cho người này vừa lòng thì lại làm người khác mất lòng, sau ông mới khám phá ra rằng: "Càng tìm cách tránh chỉ trích, lại càng làm cho nhiều người ghét". Một ngày kia ông tự nhủ: "Anh già khù khờ kia ơi, khi anh đã bước lên một địa vị hơn người, anh phải chịu những lời chỉ trích, không thể nào tránh được. Tốt hơn hết là anh nên tập vờ đi". Từ đó ông tự vẽ ra một con đường và nhất định theo đúng nó. Ông nỗ lực làm việc, làm những việc gì mà ông cho là đáng làm, sau đó, mũ ni che tai, ông thản nhiên đi theo con đường đã vẽ, ai trách móc mặc kệ !".
    Tôi biết một ông, còn giỏi hơn ông Brush nữa: ông này không cần phải dùng mũ ni để che tai. Người ta càng chỉ trích, ông lại càng công nhiên tỏ ra bất cần. Ông là Deems Taylor, nhà bình luận chính trị hằng tuần tại đài phát thanh. Một ngày kia, một thiếu phụ gởi ông bức thư trong đó tặng ông những danh từ ?odối trá, phản bội, khốn nạn". Tuần sau, ông Taylor mang đọc bức thư đó trước máy truyền thanh và nói thêm rằng: "Tôi có cảm tưởng thiếu phụ này hình như không ưa chương trình phát thanh của tôi thì phải". Hai ba ngày sau, ông lại nhận được bức thư nữa của thiếu phụ và bà ta quả quyết rằng, mặc dầu khéo che đậy thế nào đi nữa, ông cũng vẫn là một kẻ "dối trá, phản bội và khốn nạn". Ta khó mà không thán phục một người đã "chịu đựng" được những lời chỉ trích ấy một cách bình thản, đầy tin tưởng ở mình, với một ý vị khôi hài như vậy.
    Ông Charles Schwab có tuyên bố trong một buổi diễn thuyết trước các sinh viên Đại học Princeton rằng người đã dạy ông một bài học hữu ích nhất là một ông thợ già người Đức, làm trong nhà máy Thed Schwab. "Câu chuyện xảy ra trong đại chiến thứ nhất. ông lão người Đức đã dại mà tranh luận với các bạn về chính trị. Tiếng qua tiếng lại rồi sinh ra cãi nhau và sau cùng những người thợ Mỹ khiêng ông vất xuống biển cho bơi vào bờ và khi vào bàn giấy tôi, ông ta còn ướt như chuột lột, lem luốc những bùn. Tôi hỏi ông đã nói gì khi bị xử tệ như vậy, ông đáp: "Tôi chỉ cười thôi".
    Ông Schwab từ đó lấy câu ấy làm châm ngôn hành động. Ai nói gì ông cũng theo gương ông lão người Đức kia mà "chỉ cười thôi". Đó quả là một châm ngôn quý báu khi ta cần phải đương đầu với những lời chỉ trích vô căn cứ. Lẽ cố nhiên, bạn có thể đối đáp lại, nếu bạn chỉ yên lặng và tỏ vẻ khinh bỉ, kẻ đả kích còn biết nói gì nữa? Tổng thống Lincoln chắc không thể đảm nhận nổi những trách nhiệm trọng đại nữa. Tôi làm những việc mà tôi có thể làm được, không tiếc công sức và tôi sẽ làm cho bằng được. Nếu kết quả chứng tỏ việc tôi làm phải thì mọi lời chỉ trích đối với tôi sẽ trở thành lố bịch. Còn nếu tôi đã sai lầm, thì Trời sẽ chứng giám cho thiện chí của tôi và lịch sử cứ việc lên án tôi".
    (còn tiếp)
    All you need is Love . . .

Chia sẻ trang này