1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quy ước đặt tên họ của hậu duệ nhà Mạc là gì?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thaoluan0, 25/06/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dahoang

    dahoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/08/2005
    Bài viết:
    37
    Đã được thích:
    0
    Cái vấn đề này rất hay. Tôi cũng đang tìm hiểu về nó. Vậy bạn nào có thông tin gì về họ Mạc thì post lên cho chúng tôi tham khảo. Bởi vì cho đến tận hôm nay chúng ta cũng không có nhiều tài liệu về thời nhà Mạc cũng như thời kỳ sau này dòng họ Mạc đã đổi thành tên gì và hiện nay ra sao.
    Tôi có nghe các bậc tiền bối nói rằng, sau khi bị truất ngôi, Nhà Mạc chạy tán loạn nhiều nơi nhất, nhưng chủ yếu là ở Cao bằng. Do lo sợ bị trả thù nên họ Mạc một số đã đổi thành rất nhiều họ. Trong đó có họ Phạm, họ Hoàng...
    Nhưng đến hôm nay tôi cũng không biết họ Hoàng và họ Phạm có gốc gác là học Mạc bây giờ hiện định cư ở đâu??????
  2. cupid_in_love

    cupid_in_love Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    243
    Đã được thích:
    0
    Không biết danh nhân Mạc đĩnh Chi có liên quan đến nhà Mạc ko nhỉ.. Mình cũng thấy ít tài liệu nói về nhà Mạc. Mình nghĩ thế này ko biết có đúng ko? sau khi nhà Mạc thất thủ, liền bị tiêu huỷ hết tất cả những văn thư, tài liệu,thư tịch .. nói chung những jì liên quan ícn nhà Mạc chắc đều bị huỷ hết, thậm chí cấm lưu truyền cho nên sau này thông tin về triều đại này cũng ko có mấy, còn giả thiết đôỉ qua họ này họ kia cũng ko thể biết đc, vì quá lâu rồi, tổ tiên nhà Mạc cũng phải dặn con chau ko đc tiết lộ họ thật sợ mang vạ, cho nên đến nay ko ai biết đc
  3. dahoang

    dahoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/08/2005
    Bài viết:
    37
    Đã được thích:
    0
    Theo ĐẠI VIỆT THÔNG SỬ của Lê Quí Đôn thì Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương. Cụ Tổ 7 đời tên là Đĩnh Chi, ở làng Đông Cao, huyện Bình Hà, tức làng Long Động, huyện Chí Linh bây giờ.
    Như vậy thì Mạc Đĩnh Chi chính là cụ tổ 7 đời của nhà Mạc
  4. 4PhuongTroi

    4PhuongTroi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/06/2008
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
    Tôi cũng có nhiều thắc mắc về giòng họ của mình, đây là một số tài liệu góp nhặt trên mạng, gởi cho bạn để cùng nhau tìm hiểu thêm:
    http://hobuivietnam.com/index.php?nv=News&at=article&sid=157
    http://www.slna-fc.com/Diendan/forum_posts.asp?TID=5991
    Hậu Duệ Nhà Mạc
    Biên soạn theo Hợp biên thế phả họ Mạc (NXB Văn hoá dân tộc - 2001) và Gương sáng dòng họ, 2 tập (NXB Lao Động - 2002, 2004)

    350 con cháu nhà Mạc bị nhà Thanh giao cho triều Lê về sau trở thành người dân tộc thiểu số, sống rải rác khắp các tỉnh vùng Việt Bắc, mang họ Mạc, Mai, Ma, Bế... Nhưng hậu duệ nhà Mạc ở những tỉnh đó không chỉ là con cháu 350 người này vì rất nhiều người đã không theo Mạc Kính Vũ chạy sang Trung Quốc. Họ ở lại và thay tên đổi họ nên hiện nay nhiều người Tày ở đây lại mang những họ của người Kinh như: Lê, Đàm, Nguyễn...
    ở trang Hùng Khê, nay là thôn Câu Tử, xã Hợp Thành, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng có một chi họ Mạc ngay khi họ Mạc bị săn lùng ráo riết vẫn được yên ổn và giữ nguyên họ Mạc từ đấy đến nay. Ninh vương Mạc Phúc Tư là thuỷ tổ của chi họ này. Nguyên là năm 1573, con Mạc Phúc Tư là Mạc Đạo Trai theo quân vào đánh Thanh Hoa chẳng may bị bắt. Trịnh Tùng muốn dùng ông để đánh đòn tâm lý vào nhà Mạc nên gả con gái là Trịnh Thị Nhân cho. Tuy nhiên Đạo Trai đã tự sát. Trịnh Thị Nhân giữ tiết không tái giá, vì không có con nên xin người cháu gọi chồng là chú làm con nuôi; người này về sau đưa mẹ về Hùng Khê phụng dưỡng, con cháu do vậy vẫn được giữ họ Mạc và hậu duệ còn đến ngày nay.
    Con cháu nhà Mạc quyết chiêu tuyết cho nỗi oan lịch sử của hàng triệu con người nên đã đề ra nguyên tắc ?obiến dị nhi đồng? và nghĩ ra những quy định để sau hàng trăm năm dù ở đâu và mang những họ khác nhau, vẫn nhận ra nhau cùng chung nguồn gốc:
    - Do chữ Mạc có bộ ?othảo đầu? nên họ quy định ?oKhử túc bất khử thủ? (bỏ chân không bỏ đầu), từ đó đổi sang những họ trong chữ Hán cũng có ?othảo đầu? như: Hoàng, Cát, Lê, Thái, Phạm, Lều...
    - Hoặc giữ lấy chữ ?oĐăng? làm tên lót, hình thành các họ Lê Đăng, Hoàng Đăng, Phạm Đăng, Phan Đăng, Bùi Đăng, Thạch Đăng...

    - Hoặc lấy theo họ mẹ, như Bùi ( tổ là Mạc Phúc Đăng - con Mạc Phúc Hải và Quý phi Bùi Thị Ban), họ Đặng (tổ là Mạc Mậu Giang - con Mạc Mậu Hợp và Quý phi Đặng Thị Xuân) ...

    Họ Phạm ở phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định tổ là Mạc Đăng Thận, cháu 4 đời của Mạc Đăng Dung đổi thành Phạm Đình Trú, ra đi từ Cổ Trai đã mang theo thanh đao của Mạc Thái Tổ, hiện còn thờ ở từ đường họ. Mạc Bia, hậu duệ của Mạc Kính Điển hiện sống ở Mỹ còn giữ được quả ấn của nhà Mạc.

    Họ Vũ Tiến ở xã Đồng Xuân, huyện Đông Hưng, Thái Bình vào năm 1994 tu tạo từ đường, khi cạo lớp vôi tường đã vô tình làm lộ ra đôi câu đối chữ Hán, đại ý: ?oGia thế cho hay rằng là con cháu của Trạng nguyên họ Mạc đời Trần (Mạc Đĩnh Chi) / Tộc phả lưu truyền rằng vốn quê ở Đông Hải, quận Thanh Hà dời san?. Họ Nguyễn Phương ở Thanh Chương, tỉnh Nghệ An thờ tổ là Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Mậu Hợp có đôi câu đối truyền đời: ?oPhúc khánh Đại Đồng, thực lạc nhất thành Chân Cảm / Gia đình Yên Lạc, toàn bằng tiên tổ Chí Linh?, nội dung khá bí hiểm nhưng điều chính là ghi lại những nơi Mậu Gang đã đi qua trên đường lánh nạn, từ đó muốn con cháu lần về gốc: Đại Đồng, Chân Cảm, Yên Lạc và quê gốc là Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Dương Bá Cung, người đã viết thế phả họ Lều vào năm Tự Đức thứ 6 (1853) nói: ?oTổ tiên họ Mạc đến đầu thời Lê trung hưng đôỉ thành họ Lều, giữ lại bộ thảo đầu để khỏi lẫn với họ khác?. Gia phả họ Phạm ở Cao Sơn, xã Thái Hoà, huyện Thái Thuỵ, Thái Bình đã viết sự tích dòng họ mình thành thơ cho dễ nhớ: ?oTổ tiên ta xưa kia là họ Mạc/ ở huyện Hoành Bồ thuộc tỉnh Quảng Yên...Để giấu che tung tích tránh nguy cơ/ Bỏ họ Mạc đổi thành họ Phạm...?. Gia phả họ Trần ở xã Tạ Xá, tổng Cao Đôi, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương nay câu đầu có viết: ?oXưa họ Mạc đến Hiển tổ ta bắt đầu đổi sang họ Trần cho theo đó chưa đổ lại họ. Người có gốc như cây có gốc, nước có nguồn. Cái lý đó há nỡ lòng quên...?. Tộc phả Lê Đăng ở thôn Phương La Đông, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở đầu: ?oGốc họ Lê Đăng chính là Mạc Đăng?...

    Có những người để ra hàng chục năm trời đi khắp nơi để ?ovấn tổ tầm tông? vào những năm đường sá, xe cộ còn hết sức khó khăn; có những cụ già cuối đời dứt khoát tìm về Cổ Trai viếng thăm đất tổ rồi mới chịu nhắm mắt xuôi tay...

    Con cháu nhà Mạc nhờ vậy sau hàng trăm năm vẫn nhận ra nhau và hàng năm cứ đến ngày 22 tháng 8 âm lịch là ngày giỗ Mạc Thái Tổ, lại từ khắp nơi về thôn Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thuỵ, thành phố Hải Phòng lễ tổ và họp mặt và cứ 5 năm lại là đại giỗ. Bên cạnh đó, dịp kỷ niệm ngày mất của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, 28 tháng 11 âm lịch, cũng là dịp con cháu nhà Mạc trên Cao Bằng xuống xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng dâng hương tỏ lòng biết ơn Trạng đã giúp họ tồn tại đến ngày nay.

    Điều kỳ diệu nhất là đôi câu đối tương truyền là sấm Trạnh Trình:?oTứ bách niên tiền chung phục thuỷ/ Thập tam thế hậu dị nhi đồng? (Bốn trăm năm trước, cuối cùng trở lại như ban đầu/ Mười ba đời sau, khác biệt mà vẫn chung). Tính ra, từ năm 1592 khi Mạc Mậu Hợp bị bắt, đến năm 1992 là năm các nhà khoa học lịch sử bắt đầu có những ý kiến đánh giá lại nhà Mạc một cách công bằng hơn, thoát khỏi sự lệ thuộc vào quan điểm của sử thần nhà Lê và Trần Trọng Kim, đúng là tròn 400 năm. Đặc biệt, sau cuộc Hội thảo khoa học về Vương triều Mạc tổ chức tại huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng, ngày 18/7/1994, việc sưu tầm tài liệu về họ Mạc được các Ban liên lạc họ Mạc ở nhiều nơi quan tâm.

    Đến ngày 30/6/2000, Ban liên lạc họ Mạc ở Hà Nội đã lập được danh sách 369 chi họ Mạc và chi họ gốc Mạc ở 25 tỉnh, thành phố (xếp theo A,B,C):

    1. Bắc Giang 11 chi họ: Mạc, Hoàng, Nguyễn, Đào Đăng, Đặng, Phạm, Trần.
    2. Bắc Ninh 5 chi họ: Lê Đăng, Đoàn, Hán, Mậu, Lê Đăng.
    3. Bình Định 3 chi họ: Mạc.
    4. Bình Thuận 1 chi họ: Huỳnh Công Triều.
    5. Cao Bằng 15 chi họ: Mạc, Hoàng, Bế, Vương, Phạm Đăng, Mai, Đinh, Mạc Ngọc.
    6. Đồng Nai 1 chi họ: Bùi Thái.
    7. Hà Nam 3 chi họ: Hoàng, Mạc, Văn.
    8. Hà Nội 5 chi họ: Thạch, Phương Đình, Phương Văn.

    9. Hà Tây 13 chi họ: Bùi Trần, Lều, Cát, Mạc, Liêu, Hoàng, Phùng, Lê, Chu, Phương (gồm Phương Văn, Phương Đăng, Phương Đình, Phương Công), Nguyễn Đăng, Trần Đăng.

    10. Hà Tĩnh 28 chi họ: Phạm Công, Phạm, Phạm Bá, Thái Văn, Phạm Viết, Phạm Văn, Bùi, Hoàng Văn, Thái, Phan, Thái Xuân, Thái Khắc, Thái Văn, Phạm Quốc, Phạm Cao, Phan Đình, Hoàng, Hoàng Văn, Hoàng Xuân, Phan Đăng, Phan Văn, Phan Viết, Bùi Đình.

    11. Hải Dương 25 chi họ: Mạc (18 chi họ), Nguyễn, Trần, Đặng, Nguyễn Thế.

    12. Hải Phòng 4 chi họ: Mạc, Khoa (tức Hoa), Phạm, Hoàng.
    13. Hưng Yên 3 chi họ: Mạc, Phạm.
    14. Nam Định 11 chi họ: Hoàng, Bùi, Phạm.
    15. Ninh Bình 4 chi họ Phạm.
    16. Nghệ An 182 chi họ: Với 5 phái hệ chính:

    (1) Phái hệ Phó quốc vương Mạc Đăng Lượng 8 chi họ: Hoàng Trần, Hoàng Văn, Hoàng Bá, Hoàng Sĩ, Hoàng Văn, Lê Đăng.

    (2) Phái hệ Thế tử Mạc Mậu Giang 14 chi họ: Nguyễn Phương, Hoàng Văn,
    Nguyễn Trọng, Phạm Đình, Phan, Phan Văn, Phan Sĩ, Phan Văn, Phan Đăng.

    (3) Phái hệ Thế tử Mạc Đăng Bình 38 chi họ: Thái Doãn, Thái Khắc, Thái Hồng,
    Thái Văn, Thái Bá, Thái Đắc, Thái Đình, Thái Đạo, Thái Duy, Thái Bá, Thái Huy
    .
    (4) Phái hệ hậu duệ Mạc Kính Vũ 6 chi họ: Phạm Ngọc, Phạm Văn, Phạm Bá.
    (5) Các phái hệ khác 117 chi họ: Hoàng, Hoàng Văn, Hoàng Đăng,
    Hoàng Thế, Hoàng Đức, Hoàng Đình, Hoàng Khắc, Hoàng Ngọc, Hoàng Duy,
    Hoàng Như, Hoàng Kim, Thái, Thái Hữu, Thái Văn, Phạm, Phạm Hồng, Phạm
    Viết, Phạm Văn, Phạm Đình, Phạm Bá, Phạm Xuân, Phạm Hữu, Phạm Trọng,
    Phan, Phan Đình, Phan Hữu, Bùi Đình, Bùi Văn, Bùi, Bùi Gia, Bùi Thái, Bùi
    Công Trần, Lê, Lê Đức, Nguyễn Văn, Nguyễn Xuân, Nguyễn Quốc, Mạc, Cao
    Thái, Hồ Đăng.

    17.Quảng Bình 2 chi họ: Hoàng, Phạm Bá.

    18. Quảng Nam 5 chi họ: Hoàng, Huỳnh, Huỳnh Phương, Nguyễn Trường, Mạc Nguyễn Trường.

    19. Quảng Ngãi 4 chi họ: Huỳnh, Phạm, Bùi.

    20.Quảng Ninh: 3 chi họ Mạc.

    21. Thái Bình 22 chi họ: Hoàng, Phạm Văn, Phạm Ngọc, Phạm Đăng, Phạm, Phạm Đình, Phạm Ngụ, Phạm Xuân, Phạm Chi, Thái Văn, Bùi Đăng, Bùi Đình, Lều Văn, Khổng, Nguyễn Doãn, Nguyễn Công, Vũ Tiến, Vũ Như, Tô, Đỗ, Lê Đăng.

    22. Thái Nguyên 4 chi họ: Mạc, Nông, Đoàn.

    23. Thanh Hoá 10 chi họ: Hoàng, Hoàng Viết, Hoàng Trịnh, Lê Đăng, Đỗ, Tô, Phạm.

    24. Vĩnh Phúc 4 chi họ: Chữ, Hoàng, Nguyễn, Nguyễn Đăng.

    25. Yên Bái 1 chi họ Mạc.

    *

    Rất nhiều người họ Mạc và gốc Mạc là những nhân vật nổi tiếng, như:

    - Hoàng Diệu (1829 ?" 1288), Tổng đốc Hà Nội 1880 - 1882, hy sinh tuẫn tiết khi Pháp đánh thành Hà Nội năm 1882.

    - Đốc Tít (1855 ?" 1912), còn gọi là Đốc Tích, Đốc Tiết, tên thật là Mạc Đăng Tiết, một trong những thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật. Năm 1889 bị Pháp bắt đưa đi đày ở Angiêri.

    - Mạc Đĩnh Phúc (? ?" 1897), còn gọi là Nguyễn Khắc Tỉnh, cùng Kỳ Đồng chống Pháp, bị giặc bắt và tử hình năm 1896.

    - Phạm Hồng Thái (1895 ?" 1924), mưu giết toàn quyền Meclanh tại khách sạn Victoria, Quảng Châu, ngày 19/6/1924 không thành, nhảy xuống sông tự vẫn, mộ đặt ở nghĩa trang Hoàng Hoa Sơn cùng 72 liệt sĩ Cách mạnh Tân Hợi. Thuộc phái hệ Mạc Mậu Giang (con thứ 17 của Mạc Phúc Nguyên), đổi sang họ Phạm từ thời Mạc Mậu Linh.

    - Lê Hồng Sơn (1899 ?" 1933), người được giao nhiệm vụ bảo vệ cho Phạm Hồng Thái. Sau là đảng viên **********************, bị Tưởng Giới Thạch bắt giao cho Pháp và bị kết án tử hình năm 1933. Cháu 11 đời của Mạc Đăng Lượng.

    - Phan Đăng Lưu (1902 ?" 1941), một trong những lãnh tụ của **********************, bị bắt cùng Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập... trong khởi nghĩa Nam Kỳ và hy sinh năm 1941. Cháu 14 đời của Mạc Huyền Nhai.

    - Lều Thọ Nam (1909 ?" 1934), cùng Trường Chinh tham gia Thành uỷ lâm thời Hà Nội trước năm 1930, phụ trách giới học sinh. Bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo, vượt ngục và hy sinh năm 1934. Thuộc phái hệ Mạc Phúc Trì (cháu Mạc Mậu Hợp). Nhà Mạc thất thế, Phúc Trì chạy về phủ Thường Tín, trấn Sơn Tây và đổi thành họ Lều.

    - Phạm Kiệt (1910 ?" 1975), chỉ huy đội du kích Ba Tơ, sau là trung tướng CAND Việt Nam. Thuộc phái hệ Mạc Đăng Dinh.

    - Chu Thiên (1913 ?" 1992), nhà sử học, nhà văn, tác giả tiểu thuyết Bóng nước hồ Gươm.

    - Mai Trung Lâm (1914 ?" 2000), dân tộc Tày, vào Đảng từ 1932, tiểu đội trưởng trong Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, sau là thiếu tướng QĐND Việt Nam.

    - Hoàng Kiện (1915 ?" 2001), tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Huế, sau là Trung tướng QĐND Việt Nam.

    - Dương Mạc Thạch (1915 ?" 1979), dân tộc Tày, vốn họ Mạc (cha là Mạc Văn Tân), vì ở rể nên theo họ Dương, giữ chữ Mạc làm tên đệm. Chính trị viên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, bí danh Xích Thắng; Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang (1951- 1971). Con là Dương Mạc Thăng, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ Cao Bằng, Đại biểu Quốc hội khoá 10.

    - Mạc Thị Bưởi (1927 ?" 1951), Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Pháp.

    - Hoàng Hanh (1893 ?" 1963), Anh hùng Lao động trong kháng chiến chống Pháp. Thuộc phái hệ Mạc Đăng Lượng.

    - Phạm Thiều (1904 ?" 1986), cùng với Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy là những người đầu tiên được Nhà nước phong học hàm Giáo sư, từ năm 1946.

    - Hoàng Tụy (sinh 1927), giáo sư toán học, Viện trưởng Viện toán học Việt Nam.

    - Hoàng Phê (sinh1932), giáo sư ngôn ngữ học, Viện trưởng Viện ngôn ngữ; em ruột Hoàng Tuỵ.

    - Hoàng Lê (sinh 1932), giáo sư, tiến sĩ. Trưởng ban liên lạc họ Mạc tại Hà Nội, chủ biên bộ sách ?oGương sáng dòng họ?. Thuộc phái hệ Mạc Đăng Khuê.

    - Vũ Đình Cự, giáo sư, tiến sĩ vật lý, nguyên Phó chủ tịch quốc hội.

    - Mạc Đường, giáo sư.

    - Hồng Đăng (sinh 1936), nhạc sĩ. Tên thật là Phan Đăng Hồng, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam, cháu ruột Phan Đăng Lưu.

    - Phan Đăng Nhật, giáo sư, tiến sĩ.

    - Hoàng Trần Cương (sinh 1948), nhà văn.
    Hải Phòng, tháng 8 - 2006
    tháng 4 - 2007
    Bùi Mạnh Quỳnh (Theo Tiểu thuyết lịch sử của Lưu Văn Khuê)
  5. KEXUCTHANRUATOI

    KEXUCTHANRUATOI Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/07/2007
    Bài viết:
    317
    Đã được thích:
    0
    Họ Mạc đổi họ, giữ tên đệm của cụ tổ chi họ: Đăng, Kính...
  6. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Con cháu nhà Mạc đây, mời các bác vào nhận họ
    Hậu Duệ Nhà Mạc
    Nguồn: Tác giả Lưu Văn Khuê (phongdiep.net) Biên soạn theo Hợp biên thế phả họ Mạc (NXB Văn hoá dân tộc - 2001) và Gương sáng dòng họ, 2 tập (NXB Lao Động - 2002, 2004)
    Năm Đinh mùi (1667) Trịnh Tạc đem đại quân lên đánh Cao Bằng, Mạc Kính Vũ chạy sang Trung Quốc, sau đó quay về chiếm lại đất. 10 năm sau, năm Đinh tị (1677) quân Trịnh phải lên đánh Cao Bằng lần nữa, Kính Vũ lại chạy sang Trung Quốc. Cuộc kháng cự của Kính Vũ đến đây là chấm dứt sau 39 năm dai dẳng. Lúc này nhà Thanh đã thay thế nhà Minh, do Kính Vũ theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh nên Kính Vũ bị nhà Thanh bắt cùng với 350 con cháu nhà Mạc, giao cho chúa Trịnh với giá tiền để đánh đổi là 5.500 lạng bạc. Đó là năm Quý hợi (1683). Để con cháu nhà Mạc không còn nghĩ đến chuyện chống đối nữa, những người này đều được tha tội, đưa về Lạng Sơn cho yên ổn làm ăn, một số thì đưa về kinh đô và cũng tha cho cả.
    Như vậy, sau khi bị lật đổ, nhà Mạc còn kháng cự được hơn 85 năm nữa (từ 1592 đến 1677), mà Cao Bằng chính là kinh đô của cuộc kháng chiến, đúng như ngày trước Trạng Trình có nói: ?oCao Bằng tuy tiểu khả dung sổ thế?. Nhưng trên thực tế, mãi đến năm Mậu thân (1688) những dư đảng cuối cùng của nhà Mạc mới chịu khuất phục hoàn toàn. Một cuộc kháng cự bền bỉ chưa từng thấy trong lịch sử Đại Việt.
    350 con cháu nhà Mạc bị nhà Thanh giao cho triều Lê về sau trở thành người dân tộc thiểu số, sống rải rác khắp các tỉnh vùng Việt Bắc, mang họ Mạc, Mai, Ma, Bế... Nhưng hậu duệ nhà Mạc ở những tỉnh đó không chỉ là con cháu 350 người này vì rất nhiều người đã không theo Mạc Kính Vũ chạy sang Trung Quốc. Họ ở lại và thay tên đổi họ nên hiện nay nhiều người Tày ở đây lại mang những họ của người Kinh như: Lê, Đàm, Nguyễn...
    Ở trang Hùng Khê, nay là thôn Câu Tử, xã Hợp Thành, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng có một chi họ Mạc ngay khi họ Mạc bị săn lùng ráo riết vẫn được yên ổn và giữ nguyên họ Mạc từ đấy đến nay. Ninh vương Mạc Phúc Tư là thuỷ tổ của chi họ này. Nguyên là năm 1573, con Mạc Phúc Tư là Mạc Đạo Trai theo quân vào đánh Thanh Hoa chẳng may bị bắt. Trịnh Tùng muốn dùng ông để đánh đòn tâm lý vào nhà Mạc nên gả con gái là Trịnh Thị Nhân cho. Tuy nhiên Đạo Trai đã tự sát. Trịnh Thị Nhân giữ tiết không tái giá, vì không có con nên xin người cháu gọi chồng là chú làm con nuôi; người này về sau đưa mẹ về Hùng Khê phụng dưỡng, con cháu do vậy vẫn được giữ họ Mạc và hậu duệ còn đến ngày nay.
    Con cháu nhà Mạc quyết chiêu tuyết cho nỗi oan lịch sử của hàng triệu con người nên đã đề ra nguyên tắc ?obiến dị nhi đồng? và nghĩ ra những quy định để sau hàng trăm năm dù ở đâu và mang những họ khác nhau, vẫn nhận ra nhau cùng chung nguồn gốc:
    - Do chữ Mạc có bộ ?othảo đầu? nên họ quy định ?oKhử túc bất khử thủ? (bỏ chân không bỏ đầu), từ đó đổi sang những họ trong chữ Hán cũng có ?othảo đầu? như: Hoàng, Cát, Lê, Thái, Phạm, Lều...
    - Hoặc giữ lấy chữ ?oĐăng? làm tên lót, hình thành các họ Lê Đăng, Hoàng Đăng, Phạm Đăng, Phan Đăng, Bùi Đăng, Thạch Đăng...
    - Hoặc lấy theo họ mẹ, như Bùi ( tổ là Mạc Phúc Đăng - con Mạc Phúc Hải và Quý phi Bùi Thị Ban), họ Đặng (tổ là Mạc Mậu Giang - con Mạc Mậu Hợp và Quý phi Đặng Thị Xuân) ...
    Họ Phạm ở phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định tổ là Mạc Đăng Thận, cháu 4 đời của Mạc Đăng Dung đổi thành Phạm Đình Trú, ra đi từ Cổ Trai đã mang theo thanh đao của Mạc Thái Tổ, hiện còn thờ ở từ đường họ. Mạc Bia, hậu duệ của Mạc Kính Điển hiện sống ở Mỹ còn giữ được quả ấn của nhà Mạc.
    Họ Vũ Tiến ở xã Đồng Xuân, huyện Đông Hưng, Thái Bình vào năm 1994 tu tạo từ đường, khi cạo lớp vôi tường đã vô tình làm lộ ra đôi câu đối chữ Hán, đại ý: ?oGia thế cho hay rằng là con cháu của Trạng nguyên họ Mạc đời Trần (Mạc Đĩnh Chi) / Tộc phả lưu truyền rằng vốn quê ở Đông Hải, quận Thanh Hà dời san?. Họ Nguyễn Phương ở Thanh Chương, tỉnh Nghệ An thờ tổ là Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Mậu Hợp có đôi câu đối truyền đời: ?oPhúc khánh Đại Đồng, thực lạc nhất thành Chân Cảm / Gia đình Yên Lạc, toàn bằng tiên tổ Chí Linh?, nội dung khá bí hiểm nhưng điều chính là ghi lại những nơi Mậu Gang đã đi qua trên đường lánh nạn, từ đó muốn con cháu lần về gốc: Đại Đồng, Chân Cảm, Yên Lạc và quê gốc là Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Dương Bá Cung, người đã viết thế phả họ Lều vào năm Tự Đức thứ 6 (1853) nói: ?oTổ tiên họ Mạc đến đầu thời Lê trung hưng đôỉ thành họ Lều, giữ lại bộ thảo đầu để khỏi lẫn với họ khác?. Gia phả họ Phạm ở Cao Sơn, xã Thái Hoà, huyện Thái Thuỵ, Thái Bình đã viết sự tích dòng họ mình thành thơ cho dễ nhớ: ?oTổ tiên ta xưa kia là họ Mạc/ ở huyện Hoành Bồ thuộc tỉnh Quảng Yên...Để giấu che tung tích tránh nguy cơ/ Bỏ họ Mạc đổi thành họ Phạm...?. Gia phả họ Trần ở xã Tạ Xá, tổng Cao Đôi, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương nay câu đầu có viết: ?oXưa họ Mạc đến Hiển tổ ta bắt đầu đổi sang họ Trần cho theo đó chưa đổ lại họ. Người có gốc như cây có gốc, nước có nguồn. Cái lý đó há nỡ lòng quên...?. Tộc phả Lê Đăng ở thôn Phương La Đông, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở đầu: ?oGốc họ Lê Đăng chính là Mạc Đăng?...
    Có những người để ra hàng chục năm trời đi khắp nơi để ?ovấn tổ tầm tông? vào những năm đường sá, xe cộ còn hết sức khó khăn; có những cụ già cuối đời dứt khoát tìm về Cổ Trai viếng thăm đất tổ rồi mới chịu nhắm mắt xuôi tay...

    Con cháu nhà Mạc nhờ vậy sau hàng trăm năm vẫn nhận ra nhau và hàng năm cứ đến ngày 22 tháng 8 âm lịch là ngày giỗ Mạc Thái Tổ, lại từ khắp nơi về thôn Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thuỵ, thành phố Hải Phòng lễ tổ và họp mặt và cứ 5 năm lại là đại giỗ. Bên cạnh đó, dịp kỷ niệm ngày mất của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, 28 tháng 11 âm lịch, cũng là dịp con cháu nhà Mạc trên Cao Bằng xuống xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng dâng hương tỏ lòng biết ơn Trạng đã giúp họ tồn tại đến ngày nay.
  7. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Điều kỳ diệu nhất là đôi câu đối tương truyền là sấm Trạng Trình:?oTứ bách niên tiền chung phục thuỷ/ Thập tam thế hậu dị nhi đồng? (Bốn trăm năm trước, cuối cùng trở lại như ban đầu/ Mười ba đời sau, khác biệt mà vẫn chung). Tính ra, từ năm 1592 khi Mạc Mậu Hợp bị bắt, đến năm 1992 là năm các nhà khoa học lịch sử bắt đầu có những ý kiến đánh giá lại nhà Mạc một cách công bằng hơn, thoát khỏi sự lệ thuộc vào quan điểm của sử thần nhà Lê và Trần Trọng Kim, đúng là tròn 400 năm. Đặc biệt, sau cuộc Hội thảo khoa học về Vương triều Mạc tổ chức tại huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng, ngày 18/7/1994, việc sưu tầm tài liệu về họ Mạc được các Ban liên lạc họ Mạc ở nhiều nơi quan tâm.
    Đến ngày 30/6/2000, Ban liên lạc họ Mạc ở Hà Nội đã lập được danh sách 369 chi họ Mạc và chi họ gốc Mạc ở 25 tỉnh, thành phố (xếp theo A,B,C):
    1. Bắc Giang 11 chi họ: Mạc, Hoàng, Nguyễn, Đào Đăng, Đặng, Phạm, Trần.
    2. Bắc Ninh 5 chi họ: Lê Đăng, Đoàn, Hán, Mậu, Lê Đăng.
    3. Bình Định 3 chi họ: Mạc.
    4. Bình Thuận 1 chi họ: Huỳnh Công Triều.
    5. Cao Bằng 15 chi họ: Mạc, Hoàng, Bế, Vương, Phạm Đăng, Mai, Đinh, Mạc Ngọc.
    6. Đồng Nai 1 chi họ: Bùi Thái.
    7. Hà Nam 3 chi họ: Hoàng, Mạc, Văn.
    8. Hà Nội 5 chi họ: Thạch, Phương Đình, Phương Văn.
    9. Hà Tây 13 chi họ: Bùi Trần, Lều, Cát, Mạc, Liêu, Hoàng, Phùng, Lê, Chu, Phương (gồm Phương Văn, Phương Đăng, Phương Đình, Phương Công), Nguyễn Đăng, Trần Đăng.
    10. Hà Tĩnh 28 chi họ: Phạm Công, Phạm, Phạm Bá, Thái Văn, Phạm Viết, Phạm Văn, Bùi, Hoàng Văn, Thái, Phan, Thái Xuân, Thái Khắc, Thái Văn, Phạm Quốc, Phạm Cao, Phan Đình, Hoàng, Hoàng Văn, Hoàng Xuân, Phan Đăng, Phan Văn, Phan Viết, Bùi Đình.
    11. Hải Dương 25 chi họ: Mạc (18 chi họ), Nguyễn, Trần, Đặng, Nguyễn Thế.
    12. Hải Phòng 4 chi họ: Mạc, Khoa (tức Hoa), Phạm, Hoàng.
    13. Hưng Yên 3 chi họ: Mạc, Phạm.
    14. Nam Định 11 chi họ: Hoàng, Bùi, Phạm.
    15. Ninh Bình 4 chi họ Phạm.
    16. Nghệ An 182 chi họ: Với 5 phái hệ chính:
    (1) Phái hệ Phó quốc vương Mạc Đăng Lượng 8 chi họ: Hoàng Trần, Hoàng Văn, Hoàng Bá, Hoàng Sĩ, Hoàng Văn, Lê Đăng.
    2) Phái hệ Thế tử Mạc Mậu Giang 14 chi họ: Nguyễn Phương, Hoàng Văn, Nguyễn Trọng, Phạm Đình, Phan, Phan Văn, Phan Sĩ, Phan Văn, Phan Đăng.
    (3) Phái hệ Thế tử Mạc Đăng Bình 38 chi họ: Thái Doãn, Thái Khắc, Thái Hồng, Thái Văn, Thái Bá, Thái Đắc, Thái Đình, Thái Đạo, Thái Duy, Thái Bá, Thái Huy
    (4) Phái hệ hậu duệ Mạc Kính Vũ 6 chi họ: Phạm Ngọc, Phạm Văn, Phạm Bá.
    (5) Các phái hệ khác 117 chi họ: Hoàng, Hoàng Văn, Hoàng Đăng, Hoàng Thế, Hoàng Đức, Hoàng Đình, Hoàng Khắc, Hoàng Ngọc, Hoàng Duy, Hoàng Như, Hoàng Kim, Thái, Thái Hữu, Thái Văn, Phạm, Phạm Hồng, Phạm Viết, Phạm Văn, Phạm Đình, Phạm Bá, Phạm Xuân, Phạm Hữu, Phạm Trọng, Phan, Phan Đình, Phan Hữu, Bùi Đình, Bùi Văn, Bùi, Bùi Gia, Bùi Thái, Bùi Công Trần, Lê, Lê Đức, Nguyễn Văn, Nguyễn Xuân, Nguyễn Quốc, Mạc, Cao Thái, Hồ Đăng.
    17.Quảng Bình 2 chi họ: Hoàng, Phạm Bá.
    18. Quảng Nam 5 chi họ: Hoàng, Huỳnh, Huỳnh Phương, Nguyễn Trường, Mạc Nguyễn Trường.
    19. Quảng Ngãi 4 chi họ: Huỳnh, Phạm, Bùi.
    20.Quảng Ninh: 3 chi họ Mạc.
    21. Thái Bình 22 chi họ: Hoàng, Phạm Văn, Phạm Ngọc, Phạm Đăng, Phạm, Phạm Đình, Phạm Ngụ, Phạm Xuân, Phạm Chi, Thái Văn, Bùi Đăng, Bùi Đình, Lều Văn, Khổng, Nguyễn Doãn, Nguyễn Công, Vũ Tiến, Vũ Như, Tô, Đỗ, Lê Đăng.
    22. Thái Nguyên 4 chi họ: Mạc, Nông, Đoàn.
    23. Thanh Hoá 10 chi họ: Hoàng, Hoàng Viết, Hoàng Trịnh, Lê Đăng, Đỗ, Tô, Phạm.
    24. Vĩnh Phúc 4 chi họ: Chữ, Hoàng, Nguyễn, Nguyễn Đăng.
    25. Yên Bái 1 chi họ Mạc.
    Rất nhiều người họ Mạc và gốc Mạc là những nhân vật nổi tiếng, như:
    - Hoàng Diệu (1829 ?" 1288), Tổng đốc Hà Nội 1880 - 1882, hy sinh tuẫn tiết khi Pháp đánh thành Hà Nội năm 1882.
    - Đốc Tít (1855 ?" 1912), còn gọi là Đốc Tích, Đốc Tiết, tên thật là Mạc Đăng Tiết, một trong những thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật. Năm 1889 bị Pháp bắt đưa đi đày ở Angiêri.
    - Mạc Đĩnh Phúc (? ?" 1897), còn gọi là Nguyễn Khắc Tỉnh, cùng Kỳ Đồng chống Pháp, bị giặc bắt và tử hình năm 1896.
    - Phạm Hồng Thái (1895 ?" 1924), mưu giết toàn quyền Meclanh tại khách sạn Victoria, Quảng Châu, ngày 19/6/1924 không thành, nhảy xuống sông tự vẫn, mộ đặt ở nghĩa trang Hoàng Hoa Sơn cùng 72 liệt sĩ Cách mạnh Tân Hợi. Thuộc phái hệ Mạc Mậu Giang (con thứ 17 của Mạc Phúc Nguyên), đổi sang họ Phạm từ thời Mạc Mậu Linh.
    - Lê Hồng Sơn (1899 ?" 1933), người được giao nhiệm vụ bảo vệ cho Phạm Hồng Thái. Sau là đảng viên **********************, bị Tưởng Giới Thạch bắt giao cho Pháp và bị kết án tử hình năm 1933. Cháu 11 đời của Mạc Đăng Lượng.
    - Phan Đăng Lưu (1902 ?" 1941), một trong những lãnh tụ của **********************, bị bắt cùng Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập... trong khởi nghĩa Nam Kỳ và hy sinh năm 1941. Cháu 14 đời của Mạc Huyền Nhai.
    - Lều Thọ Nam (1909 ?" 1934), cùng Trường Chinh tham gia Thành uỷ lâm thời Hà Nội trước năm 1930, phụ trách giới học sinh. Bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo, vượt ngục và hy sinh năm 1934. Thuộc phái hệ Mạc Phúc Trì (cháu Mạc Mậu Hợp). Nhà Mạc thất thế, Phúc Trì chạy về phủ Thường Tín, trấn Sơn Tây và đổi thành họ Lều.
    - Phạm Kiệt (1910 ?" 1975), chỉ huy đội du kích Ba Tơ, sau là trung tướng CAND Việt Nam. Thuộc phái hệ Mạc Đăng Dinh.
    - Chu Thiên (1913 ?" 1992), nhà sử học, nhà văn, tác giả tiểu thuyết Bóng nước hồ Gươm.
    - Mai Trung Lâm (1914 ?" 2000), dân tộc Tày, vào Đảng từ 1932, tiểu đội trưởng trong Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, sau là thiếu tướng QĐND Việt Nam.
    - Hoàng Kiện (1915 ?" 2001), tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Huế, sau là Trung tướng QĐND Việt Nam.
    - Dương Mạc Thạch (1915 ?" 1979), dân tộc Tày, vốn họ Mạc (cha là Mạc Văn Tân), vì ở rể nên theo họ Dương, giữ chữ Mạc làm tên đệm. Chính trị viên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, bí danh Xích Thắng; Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang (1951- 1971). Con là Dương Mạc Thăng, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ Cao Bằng, Đại biểu Quốc hội khoá 10.
    - Mạc Thị Bưởi (1927 ?" 1951), Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Pháp.
    - Hoàng Hanh (1893 ?" 1963), Anh hùng Lao động trong kháng chiến chống Pháp. Thuộc phái hệ Mạc Đăng Lượng.
    - Phạm Thiều (1904 ?" 1986), cùng với Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy là những người đầu tiên được Nhà nước phong học hàm Giáo sư, từ năm 1946.
    - Hoàng Tụy (sinh 1927), giáo sư toán học, Viện trưởng Viện toán học Việt Nam.
    - Hoàng Phê (sinh1932), giáo sư ngôn ngữ học, Viện trưởng Viện ngôn ngữ; em ruột Hoàng Tuỵ.
    - Hoàng Lê (sinh 1932), giáo sư, tiến sĩ. Trưởng ban liên lạc họ Mạc tại Hà Nội, chủ biên bộ sách ?oGương sáng dòng họ?. Thuộc phái hệ Mạc Đăng Khuê.
    - Vũ Đình Cự, giáo sư, tiến sĩ vật lý, nguyên Phó chủ tịch quốc hội.
    - Mạc Đường, giáo sư.
    - Hồng Đăng (sinh 1936), nhạc sĩ. Tên thật là Phan Đăng Hồng, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam, cháu ruột Phan Đăng Lưu.
    - Phan Đăng Nhật, giáo sư, tiến sĩ.
    - Hoàng Trần Cương (sinh 1948), nhà văn.

  8. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Hừm, mình họ Phạm- Nam Định, ở đó cũng rất lâu rồi, không biết có dích chút gì của nhà họ Mạc không nhỉ (thấy sang bắt quàng làm họ tý)? Một anh bạn dưới Vũng Tàu có mẹ họ Lều- Hưng Yên, chắc chắn là dòng dõi nhà Mạc rồi.
  9. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    Nếu đã nhận được cội nguồn thì nên dứt khoát trở về họ cũ để làm mát lòng tổ tông chứ vài ba cuộc gặp hàng năm thì làm gì. Trải qua vài đời nữa thì mất gốc hoàn toàn. Cái này chẳng chỉ riêng gì họ Mạc mà các họ khác cũng nên thế. Họ Lý chẳng hạn.
    Bài học về họ Tư mã lừng lẫy một thời bây giờ tuyệt dòng vẫn còn đó.
  10. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    cái bài của bác Cây tre thiếu đoạn giải thích tại sao họ Mạc giữ được Cao Bằng lâu thế, cái này là do nhà Minh muốn chia rẽ nước ta nên yêu cầu họ Trịnh phải để cho nhà Mạc giữ Cao Bằng, thế thôi. Chứ sấm Trạng Trình không giúp được!!

Chia sẻ trang này