1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Reset old topic - to BD pupils

Chủ đề trong 'Bình Định' bởi tranhanam, 01/12/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Trước đây trên mạng này có những bài giảng văn của nhà giáo Đỗ Kim Hồi (Hà Nội), tôi đã tải về, nhưng hôm nay bị mất. Nên tải lại như một món quà dành cho hs Bình Định. Nếu có nhu cầu thì tải tiếp:
    Thu Vịnh
    Nguyễn Khuyến
    I. Hai câu đề
    Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
    Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
    Cái tên ?o Thu Vịnh? vốn mang ý nghĩa là mùa thu làm thơ, vì thế phải là sự khám phá ra chất thơ, vẻ nên thơ của mùa thu mới ?" mùa được coi là thơ mộng nhất trong bốn mùa. Chất thơ ấy, Nguyễn Khuyến đã nhìn thấy, trước tiên về phía của bầu trời. Vì thế hai câu thơ đầu là hình ảnh mùa thu được nhìn qua con mắt thi nhân đang ngước lên trên, về phía bầu trời.
    Không khác so với ?o Thu điếu?, ?oThu ẩm?, đây là bầu trời Nguyễn Khuyến thấy luôn luôn mang và chỉ mang một màu ?oxanh ngắt?. Cả trong hình ảnh và âm điệu đều gợi ra một cảm giác thăm thẳm, không thắm, không tươi như màu xanh thắm, xanh biếc. Nó thoáng một nét đượm buồn. Bầu trời thu trong ?o Thu vịnh?, nhà thơ còn làm cho nó chân thực vì sau chữ ?o xanh ngắt?, tác giả chồng lên chữ ?omấy từng?. Tận cuối câu thơ, chót vót đỉnh trời, ta mới bắt gặp chữ ?ocao? để tạo ra một khoảng không gian vô cùng vô tận. Trên không gian ấy, nhà thơ vẽ nét vẽ mảnh mai của một cần trúc nhỏ. Chính vì mục đích tạo ra sự mảnh mai, mềm mại, tác giả đã dùng ?ocần? mà không phải là ?ocành? , và chỉ muốn thưa thớt lá thôi để bầu trời thêm cao rộng. Trên bức tranh chỉ có bầu trời thì không thấy cao rộng nhưng điểm thêm ?o cần trúc? thì ta mới thấy nó cao, rộng biết bao nhiêu. ?o Cần trúc? là một nét không thể thiếu, một nét tài tình. Và để giúp người đọc hình dung sự thưa thớt của cành trúc, nhà thơ có thể dùng ?o lơ thơ ?o hoặc ?o lưa thưa ?o, nhưng Nguyễn Khuyến đã không viết thế, dù hai chữ giống nhau như một. Bởi từ ?olơ phơ? được ghép nên đã giúp thi sĩ cùng một lúc tạo ra hai ấn tượng : về một cần trúc nhỏ thưa thớt lá và về một sự khẽ lay động của cành lá trước làn gió thoảng nhẹ của mùa thu. Nhà thơ đã tạo ra cảm giác về gió thu mà từ trước khi ?o gió ?o xuất hiện ở dòng thơ trên câu chữ. Đây là một nét nghệ thuật đặc sắc,khiến cho người đọc cảm nhận được cần trúc nhẹ như một hơi thở, kịp đến khi chữ ?ogió? hiện ra trong câu thơ. Người đọc cảm nhận ngay đó là một làn gió thu hiu hắt, không chỉ nhẹ mà còn buồn. Cái buồn vốn được coi là đặc trưng , là sức gợi cảm riêng của mùa thu. Làn gió thu nhẹ nhàng, thoang thoảng gợi ra nỗi buồn của hồn thu.
    II. Hai câu thực:
    Nước biếc trông như từng khói phủ
    Song thưa để mặc bóng trăng vào

    Đến hai câu này, cặp mắt thi nhân đã hướng về mặt đất để rồi từ đó tâm hồn ấy sẽ nhận ra thêm vẻ đẹp của mùa thu ở làn nước, sương khói mùa thu, ở bóng trăng thu tự do tràn qua khoảng song thưa của ô cửa sổ. Nhà thơ không nói đến vầng trăng ở trên cao mà nói đến bóng trăng ở dưới mặt đất. Vẻ đẹp mùa thu còn hiển hiện lên mặt nước. Làn nước mùa thu ấy giống như trong ?o Thu điếu? và phải là làn nước mang sắc ?obiếc?. Hình như nước cần phải ?obiếc? để nhà thơ diễn đạt cho thật hết cái trong trẻo của mùa thu, của bầu không...Và chữ ?obiếc? ấy ngay lập tức được nhà thơ phủ lên vẻ mơ màng nhờ ?otừng khói phủ?, làn sương khói vốn là vẻ gợi cảm nhất và rất riêng của mùa thu. (Nói như vậy bởi lẽ không thể cho rằng làn sương ấy vào mùa hè hay một mùa nào khác ngoài mùa thu.)
    Ở câu thơ thứ tư hiện lên một căn nhà đơn sơ, giản dị qua hình ảnh ?o song thưa?. Chữ ?o song thưa? ấy không chỉ tạo ra vẻ nghèo nàn và chủ yếu không được viết ra chỉ để tạo vẻ nghèo nàn. Song có thưa, bóng trăng mới dễ tràn vào. Nhà thơ đã dùng ?obóng trăng? chứ không phải ?oánh trăng?, bởi chữ ?obóng? gợi lên cảm giác mơ mộng nhiều hơn. Làn ánh sáng mùa thu ây trở nên hư ảo, mơ hồ hơn. Theo một cách nào đó, nó mang vẻ mơ mộng, nên thơ nhiều hơn. Vì vậy hai câu thơ không chỉ là tả cảnh, vì nếu chỉ là tả cảnh, nhà thơ sẽ không dùng những chữ ? để mặc? hay ?otrông như? ở giữa các dòng thơ. Những chữ ấy gợi cho ta cảm giác về trạng thái tâm hồn hơn là tả cảnh. Trạng thái ấy là của một con người đang đắm chìm vào khung cảnh mùa thu, trạng thái mơ màng, muốn thả hồn vào cảnh vật thiên nhiên để vẻ đẹp tự nhiên mặc sức tự do xâm chiếm tâm hồn mình. Đây cũng là một trạng thái của con người đang hoà mình vào ngoại giới, đang sống trong những giây phút tận cùng của người nghệ sĩ.
    III. Hai câu luận :
    Mấy chùm trước giậu / hoa năm ngoái
    Một tiếng trên không / ngỗng nước nào
    Nhà thơ đã không để ý đến ?ohoa? ở đâu, hoa thế nào, hoa gì ( cái có thật đập vào mắt ) hay ?omột tiếng trên không? là ngỗng nước nào (âm thanh đập vào tai ). Một tiếng ngỗng xa lạ như phá vỡ bầu âm thanh mà nhà thơ chỉ viết ?ongỗng nước nào?, nghĩa là chỉ muốn phán đoán, nhận xét. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ , cũng như cách sắp đặt hai vế của câu thơ đó, như tách riêng ra : một bên là ngoại giới, một bên là nội tâm. Nguyễn Khuyến nói đến ?ohoa năm ngoái? làm chúng ta liên tưởng tới câu thơ :
    Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
    ( Truyện Kiều)
    một câu thơ trong đoạn trích ?o Kim Trọng trở lại vườn Thuý? lấy ý từ một điển tích Trung Quốc : bài thơ ?oĐề đô thành Nam Trang? của Thôi Hộ :
    Tích niên kim nhật thử môn trung
    Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
    Nhân diện bất tri hà xứ khứ
    Đào hoa y cựu tiếu đông phong
    Dịch nghĩa :
    Đề ở trại phía Nam đô thành
    Năm ngoái, hôm nay trong cổng này
    Mặt người và hoa đào, màu hồng ánh lẫn nhau.
    ( Giờ đây) mặt người không biết đã đi đâu
    (Chỉ còn) hoa đào vẫn cười trước gió đông như cũ.
    Nguyễn Du đã dịch rất sáng tạo câu thơ của Thôi Hộ, vì Thôi Hộ vẫn còn tỉnh táo, phân biệt được hoa của năm nay và năm xưa ?"?o y cự?. Tuy vậy, trong Truyện Kiều, Kim Trọng đang đắm sâu vào kỉ niệm, và ?onăm ngoái?, tức là cách đấy đúng một năm. Còn đối với Nguyễn Khuyến, nhà thơ đắm chìm vào trạng thái hoài niệm bâng khuâng : hoa không chỉ là của một năm trước đây mà đã là hoa của xưa cũ, của quá khứ. Có thể thấy đây là một con người hình như muốn sống trong kỉ niệm. Vì vậy câu thơ có cảnh nhưng xúc cảm chủ yếu làm nên từ tâm trạng con người.
    Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
    ?o Một tiếng? dội lên trong không trung rồi tan vào im lặng, mang vẻ lẻ loi, cô độc. Hình như âm thanh ấy không đủ sức làm kinh động tâm hồn một con người đang trầm tư. Con người ấy đang muốn đắm sâu vào cõi riêng của mình. Vì vậy, âm thanh cô độc ấy chỉ làm con người gợi lên một phán đoán mơ màng rồi lại đắm sâu vào nỗi hoài niệm xa xăm, xưa cũ. Nhà thơ như muốn bày tỏ sự từ chối thực tại, bởi thực tại đất nước đang rối ren, đen tối. Một quan văn như Nguyễn Khuyến thấy mình bất lực, không thể làm gì khác cho đất nước ngoài việc đắm chìm vào hoài niệm xưa cũ.
    Nhưng hai câu thơ ấy vẫn rất thu: những chùm hoa thu, thanh âm của mùa thu. Hai câu thơ man mác buồn, mang âm hưởng của những câu thơ Đào Tiềm, nhà thơ của mùa thu Trung Quốc :
    Thái cúc đông ly hạ
    ( hái đoá hoa cúc dưới giậu phía đông )
    hay : Hồng nhạn bi minh
    ( con chim hồng nhạn kêu buồn )
    Những câu thơ mang nặng chất thu làm hình ảnh tâm tư con người hiện lên rõ ràng hơn, mùa thu cũng làm con người muốn chìm đắm sâu hơn vào nỗi nhớ nhung về một thời xưa cũ, dù sau khi chỉ khẽ giật mình.
    IV. Hai câu kết :
    Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
    Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
    Phải đợi đến hai câu cuối, hình ảnh con người mới thực sự hiện lên trên bình diện của câu thơ.Cảnh thu nhường chỗ cho tình thu, niềm thi cảm có thể nói rằng được kết đọng trong hai chữ ?o hứng ?oở câu trên và ?othẹn? ở câu dưới, thể hiện sự trào dâng của niềm xúc cảm, giống như là những gì thừa tiếp của phần được nói đến ở trên. Cảnh thu đẹp thế làm cho niềm cảm xúc trong lòng nhà thơ trào dâng.
    Nhưng đến câu thơ cuối cùng, xúc cảm bỗng nhiên có một biến chuyển bất ngờ, thú vị, như muốn vượt ra ngoài phương hướng cảm xúc của người đọc thơ. Tưởng rằng cảm xúc cứ dâng lên mãi, đòi hỏi một hành động ?ocất bút?, nhưng đến câu dưới, cảm giác sực tỉnh để nhớ đến ông Đào, rồi lại thẹn thùng buông bút.
    Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào
    Hai cảm xúc tưởng như đối nghịch, nhưng thực chất lại bổ sung để tôn nhau lên. Có người cho rằng Nguyễn Khuyến thẹn vì tài năng, giống như Lý Bạch thẹn với Thôi Hiệu trước lầu Hoàng Hạc. Nhưng có người lại không đồng ý, bởi sở dĩ Nguyễn Khuyến thẹn vì cảm thấy nhân cách, khí tiết của mình chưa xứng đáng với Đào Tiềm. Tại sao cả hai lý do trên lại không cùng tồn tại trong suy nghĩ của nhà thơ ? Tuy nhiên, điều thú vị là ở chỗ nhà thơ nói rằng mình định cất bút rồi lại thôi. Và như thế, bài thơ không thể có, nhưng trên thực tế, bài thơ đã hoàn thành, trọn vẹn và đẹp đẽ. Việc toan cất bút rồi lại thôi cần được coi như một cách nói, mà chứa đựng hàm ý sâu xa. (ý tại ngôn ngoại ). Nhờ bài thơ mà Nguyễn Khuyến có thể nói được rất nhiều điều mà lời chữ đã không thể nào nói hết. Chúng ta có thể cảm nhận được tính khiêm nhường. Sự cảm nhận này cũng làm cho ý tình của câu thơ , vẻ đẹp của bài thơ mênh mang hơn trước vì đã gợi ra một lý tưởng tuyệt đích. Cách nói ấy đã bảo tồn được cái lặng lẽ của hồn người, cái tĩnh lặng của hồn thơ, cả sự mơ màng và trầm tư.
    Đó không chỉ là phẩm chất của một tâm hồn thi nhân, cái lặng lẽ của một người già, mà còn mở ra một chân lý sống : lánh đục về trong, muốn xa rời sự nhốn nháo của cuộc đời lúc này, tìm về ẩn mình trong sự lặng lẽ, thanh khiết của làng quê để nhớ về những thứ xa xưa...
    Hôm sau sẽ tải THƠ DUYÊN
  2. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Thơ duyên
    Xuân Diệu
    Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
    Ngàn năm hồ dễ đã ai quên?
    ( Thế Lữ)
    Hai câu thơ của Thế Lữ đã từng làm ngẩn ngơ biết bao nhiêu tấm lòng. Song xúc cảm về mối tình lưu luyến của thủa ban đầu, Thế Lữ không phải là người duy nhất , và có lẽ cũng không phải là người duy nhất biết say, người làm rung động tâm hồn vạn người. Nhưng còn một nhà thơ khác cũng viết về những rung động rất nên thơ, không phải trong hai câu mà là cả một bài, cũng không chỉ thốt lên trực tiếp những rung động mà biến nó thành cả một nguồn thơ.Người đó chính là Xuân Diệu với ?oThơ duyên?, một nhà thơ đã làm nên bộ mặt của Thơ Mới với một thi phẩm tuyệt vời. Thơ Xuân Diệu có chất Xuân Diệu nhất là ở những vần thơ mang một vẻ ?o mơ hồ, tinh tế, không dễ gì nắm bắt ?o ( Hoài Thanh ). Ông đã lấy dẫn chứng cho ý kiến này bằng hai câu thơ :
    Mây biếc về đâu bay gấp gấp
    Con cò trên ruộng cánh phân vân
    Qua đó, có thể thấy ?oThơ duyên? được coi như thi phẩm tiêu biểu cho chất thơ Xuân Diệu.
    Chẳng phải tình cờ mà Xuân Diệu lại đặt tên cho bài thơ là ?o Thơ duyên?. Phải chăng nhà thơ muốn nói đến sự giao hoà, hoà hợp, giao cảm trong tạo hoa và lòng người. Xúc cảm về một mối duyên tơ đã được tác giả thể hiện ngay ở khổ thơ đầu:
    Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên
    Cây me ríu rít cặp chim chuyền
    Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
    Thu đến- nơi nơi động tiếng huyền.
    Nhà thơ không chỉ viết ?ochiều? mà là ?ochiều mộng?, không chỉ ?onhánh? mà thêm vào sau đó chữ ?oduyên?, làm nên sự giao hoà giữa nội tâm và ngoại giới.Bởi ?o chiều? là ngoại giới, nhưng khi nói ?o chiều mộng?, ta còn cảm nhận thấy sự hoà hợp giữa ngoại giới và nội tâm, xúc cảm của nhà thơ. Trong câu thơ, ?ochiều mộng? và ?onhánh duyên? hoà cảm cùng, giao kết cùng nhau. Đó cũng là lý do để hai chữ ấy được giao kết bằng hai chữ cũng rất duyên :?o hoà thơ?. Một mối tơ duyên kết buộc khăng khít cùng nhau ngay trong bảy chữ của câu thơ.
    Đến câu thơ thứ hai :
    Cây me ríu rít cặp chim chuyền
    Nhà thơ vẫn giữ một cái nhìn như thế về tạo vật, cảm thấy như luôn hướng tới sự kết đôi. Nhà thơ như vẽ ra trước mắt người đọc một cặp chim hạnh phúc. Chúng nhảy nhót, chuyền cành, ríu rít một cách rất trẻ trung. Hành động ấy lại diễn ra trên một loài cây dễ làm cho người ta nghĩ đến sự trẻ trung : cây me, loài cây xanh ngắt và có vị chua. Nhà thơ cũng không viết từ nào khác ngoài ?o cặp chim?, bởi nếu chỉ cần thay bằng ?ođôi? hay ?ohai? thì cũng chỉ là sự mô tả về số lượng. Còn ?ocặp chim? thì thể hiện sự gắn bó quấn quýt của hai cơ thể sống. Làm sao có thể tách rời ra nếu chúng đã là một cặp ? Hơn thế, ta còn cảm nhận được sự giao hoà nào đó giữa những con chim ấy với loài cây. Nhờ thế, sự cảm nhận về một vũ trụ đầy mối tơ duyên sẽ trở nên rộng mở hơn, đắm say hơn.
    Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
    Câu thơ thứ ba bắt đầu bằng một chữ rất ấn tượng, gợi ra cảm giác của sự nghiêng tràn và sự tràn trề ấy chính là sắc xanh ngọc, sắc xanh trong trẻo của bầu trời. Bầu trời ban phát màu xanh của mình cho muôn ngàn cây lá. Dường như có một mối tơ duyên được gắn giữa mặt đất với bầu trời. Chữ ?ođổ? ấy làm cho mối duyên ngày càng đắm say hơn, rộng mở hơn, lại được đặt ở đầu câu, làm cho bầu trời có vẻ như xanh hơn và cao hơn. Và sau tất cả những mối duyên kia, nhà thơ mới đưa ra một lý do rất đơn giản :? Thu đến?.
    Thu đến- nơi nơi động tiếng huyền
    Dường như tất cả đơn giản chỉ để nói lên : thế là mùa thu đã đến. Nếu như với các nhà khoa học, hẳn họ sẽ nói : mùa thu đến, rồi sau đó mới là những gì suy ra từ hình tượng.Còn riêng với những nhà thơ thì luôn bắt đầu bằng cảm xúc, bằng hình ảnh làm lay động tâm hồn, rồi mới là thông báo.Xuân Diệu cũng đã để nhịp thơ của mình dừng lại sau hai chữ có vẻ như thông báo ấy, và cẩn thận đặt xuống một dấu gạch ngang, rồi sau đó mới đến ?o nơi nơi động tiếng huyền?. Cách viết đó có thể khiến người ta cảm nhận được : khi nhận ra tín hiệu của mùa thu, tạo vật dường như đã lặng đi trong cảm xúc. Dấu gạch ngang ấy nhự một nốt lặng trong khuông nhạc. Một không gian mới như xao động lên, dần dần tấu lên những nốt nhạc đàn như để chào đón mùa thu. Nhưng cũng có thể hiểu rằng những bước chân mùa thu dường như đã chạm vào những sợi tơ đàn vô hình giăng mắc trong không gian, để làm động lên một tiếng nhạc. Trong một bài thơ khác của Xuân Diệu, ta cũng bắt gặp tứ thơ tương tự.
    Không gian như có dây tơ
    Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu.
    ( Chiều )
    Có thể thấy trong ?o Thơ duyên? một tứ thơ rất tinh tế, một mối duyên khó nhìn thấy, khó nhận ra, khó gọi tên nhưng tràn ngập trong trời đất. Và như thế nhà thơ đã tạo ra ở khổ một này cả vũ trụ đầy xúc cảm của sự hoà hợp những mối duyên tình.
    Cảm giác về một sự có đôi được Xuân Diệu tiếp tục diễn tả trong khổ thơ tiếp đó.
    Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
    Lả lả cành hoang nắng trở chiều
    Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
    Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
    Nhà thơ đã diễn tả ở câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ hai này không chỉ là dáng gió mà dường như còn muốn gợi đến dáng người ?" ?o xiêu xiêu?. Câu thơ trở nên trữ tình hơn. Cảm giác về sự có đôi chính là lý do khiến trong hai câu thơ đầu dùng đến ba cặp từ láy đôi :? nhỏ nhỏ?, ?olả lả? và ?oxiêu xiêu?. Không chỉ thế, Hoài Thanh đã từng viết: ?o cảnh vật đã bị làm cho mất đi một ít rõ ràng, nhưng chính thế lại được thêm rất nhiều thơ mộng?. Thực vậy, những từ láy đôi làm cho cảnh vật được diễn tả ít xác định hơn, lung linh hơn, chập chờn giữa đôi bờ hư và thực. Và trong cảnh vật kia vẫn thấp thoáng bóng dáng con người, cảm giác tựa nương, âu yếm của con người, nhất là trong những từ ?oxiêu xiêu, lả lả?. Nhà thơ cũng không viết chiều đã tàn, cùng không viết ?ochiều rồi? như trong thơ Huy Cận mà phải là ?onắng trở chiều? để câu thơ trở nên mơ hồ, thơ mộng và cảnh vật như mất đi một ít rõ ràng. Hương vị của tự nhiên cứ phảng phất như nhu cầu cần diễn đạt tình cảm của lứa đôi ?othuở ban đầu?.( Thế Lữ ) .Chính vì vậy mà hai câu thơ sau dường như được sinh ra một cách tất yếu từ hai câu thơ trước. Nhà thơ nói đến mối thương yêu, và mối thương yêu ấy đang trải ra trong cảnh. Nhưng bài thơ chưa phải là thơ tình mà vãn có một nét mơ mộng, khó nói nên lời của ?othuở ban đầu?.Chính thế, sự tươi non, mới mẻ được làm nên bởi chữ ?o lần đầu rung động?. Sự dịu dàng, e ấp cũng ở trong cách nói, cách xưng hô ?o lòng ta nghe ý bạn?. Đó là thứ tình cảm không lời, mới mơ hồ nhen lên ở bên trong mà chưa hiện ra thành lời lẽ, bởi thế cũng không rõ ràng mà mơ mộng y như cảnh vật ở bên trên.
    Khổ thơ thứ ba có thể coi như một bước phát triển bất ngờ độc đáo của ?o Thơ duyên?.
    Em bước điềm nhiên không vướng chân
    Anh đi lững đững chẳng theo gần
    Vô tâm- nhưng giữa bài thơ dịu
    Anh với em như một cặp vần
    Hẳn người đọc rất dễ thắc mắc, băn khoăn, bởi hiện lên trên khổ thơ là hai con người tưởng chừng như không có một sự gắn bó nào, một sự hoà hợp, giao cảm nào giống như ở những khổ thơ trước. Người con gái trong khổ thơ bước đi trong dáng vẻ như thanh thản, không quan tâm đến gì khác, bước chân như không hề vướng bận:
    Em bước điềm nhiên không vướng chân
    Và người con trai cũng tương tự thế. Bước chân ấy không gấp gáp, không vội vàng, mà như của một người hình như trong lòng cũng không có vẻ gì là xao xuyến. Điều ấy đã được Xuân Diệu nhắc lại một lần nữa ở nhịp thơ mà tác giả đã vắt qua câu thơ thứ ba ?oVô tâm - ?o. Song điều bất ngờ lý thú là ở chỗ : sau một khoảng lặng, giây phút lắng sâu ( thể hiện qua dấu ?o-?o ) nhà thơ và nhân vật trữ tình của mình đều có thể nhận ra : hoá ra vẫn còn có một mối tơ duyên. Nó giăng mắc, làm vướng víu hai con người mà tưởng như không có mối tơ duyên nào hết cả. Đọc kĩ khổ thơ ta mới nhận ra rằng cái nhìn của nhà thơ là hoàn toàn có cơ sở, là thực tế và kì thú bởi vì giữa hai con người ấy đâu chỉ có ?ođiềm nhiên? không vướng bận hay cảm giác muốn theo gần. Trong trường hợp phức tạp và tinh tế của tình cảm thì cái người ta có ở trong lòng và cái biểu hiện ra trái ngược nhau. Thái độ ?ođiềm nhiên? kia, bước chân ?ochẳng theo gần? kia là một cách con người bộc lộ ra để che giấu một tình cảm hoàn toàn trái ngược trong lòng. Điều đó hoàn toàn không phải là suy đoán, bởi lẽ chỉ cần để ý chút thôi cũng có thể thấy đôi trai gái kia đã lặng lẽ chuyển từ quan hệ ?ota-bạn?, ?otôi-bạn? sang quan hệ ?oanh-em?. Một dấu hiệu đáng chú ý nữa nằm trong cách sáng tạo từ ?olững đững? mà có lẽ còn gợi nhớ đến một trạng thái ?olãng đãng?, cảm giác lãng đãng mà chúng ta đã từng thấy trong một câu Kiều quen thuộc:
    Sen vàng lãng đãng như gần như xa
    Hiểu như thế thì chàng trai ấy không theo gần nhưng cũng chẳng rời xa. Quả là giữa hai người có một mối tơ duyên dù cho họ không muốn để ai nhận ra, không cho ai dễ dàng nhìn thấy. Chính vì thế nhà thơ mói nói rằng họ là một cặp vần chung, một cặp vần trong một ?obài thơ dịu?. Tình cảm ấy ở họ chưa chín hẳn, chưa nồng nàn hẳn như trong giai điệu của thơ tình mà vẫn còn đang non tơ, hàm chứa nhiều thẹn thùng e ấp của thuở ban đầu lưu luyến, của rung động chập chờn giữa tình yêu và tình bạn còn mang vẻ thơ mộng rất riêng của thơ duyên. Cái tài, cái thú của khổ thơ này là ở đó. Xuân Diệu nhận ra sự giao duyên, hoà quyện ngay trong trạng thái thoạt nhìn tưởng như chẳng có gì nên duyên.
    Đến khổ thơ cuối cùng thì con mắt thi nhân đã hướng về phía bầu trời cao rộng :
    Mây biếc về đâu bay gấp gấp
    Con cò trên ruộng cánh phân vân
    Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
    Hoa lạnh, chiều thưa, sương xuống dần.
    Phải có tình yêu cuộc sống, nhạy cảm với sự giao duyên, nhà thơ mới có thể diễn đạt một tình cảm đang còn mong manh, tinh tế đến vậy. Nếu như khổ thơ thứ ba dành cho con người thì khổ thơ thứ tư lại viết về tạo vật. Cách nhìn của nhà thơ được biểu hiện ở khổ ba dường như được tiếp nối trong khổ bốn, bắt đầu từ những cảnh vật. Không gian mở ra cả chiều cao và chiều rộng, khi mà ở câu thơ trên viết về mây ?o bay gấp gấp? trên bầu trời thì câu thơ thứ hai nói về một cánh cò,nhưng là con cò dưới ruộng trong trạng thái chưa bay. Mây trên trời cao, cò ở dưới ruộng, một cái cao - một cái thấp, một cái động- một cái bất động. Tưởng như không có sự hoà hợp, giao cảm giữa hai sự vật khác nhau đến thế. Đám mây, cánh cò dường như phảng phất hình ảnh người con trai và người con gái ở trên.
    Hai câu thơ tiếp theo dự báo một chuyển động theo hướng đi lên. Trong câu thơ thứ tư, màn sương đang buông xuống, chuyển động ấy hướng về mặt đất. Không có con mắt của Xuân Diệu, hẳn người ta khó có thể thấy giữa những sự vật như thế còn có sự kết duyên , giao duyên. Nhưng tác giả của bài thơ này là Xuân Diệu, vì thế nên qua cách diễn đạt rất riêng của nhà thơ, chúng ta nhận ra cái vũ trụ ấy tưởng như vô tình, sự vật trong trời đất ấy hoá ra lại hữu duyên. Trong khổ thơ, Xuân Diệu một lần nữa khám phá ra cái duyên giữa những sự vật tưởng như không có sự liên lạc nào với nhau, một mối duyên mà người đọc bình thường khó nhận thấy, khó cảm được. Phải là Xuân Diệu, hồn thơ Xuân Diệu mới tinh tế nhận ra. Nhà thơ giúp cho người đọc cùng nhận thấy mối tương giao kì lạ giữa đám mây biếc trên trời và con cò. Dường như đám mây bay gấp gấp cũng làm cho cánh cò phân vân, chưa quyết định nên bay hay bên đậu, mà cứ tiếp tục đứng yên. Cả hai đều trong trạng thái vô định. Đám mây cũng có phần giống con cò, chưa biết ?ovề đâu?, vì thế Xuân Diệu hạ chữ ?o về đâu? trước chữ ?obay gấp gấp?. Còn trong câu thơ thứ ba, con chim muôn dang rộng thêm cánh để làm gì nếu không phải đã cảm nhận được cái rộng rãi của bầu trời. Có một cảm xúc vô hình truyền từ bầu trời rộng qua sự lằng nghe của cánh chim, rồi từ đó chim dang thêm đôi cánh. Đó là mối liên hệ vô hìnhm một sự truyền cảm vô hình nhưng đầy xúc động.
  3. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Ở câu thơ thứ tư :
    Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần
    Nhà thơ đặt chữ ?olạnh? từ trước khi có chữ ?osương? đầy ngụ ý. Dường như bông hoa ấy bắt duyên với màn sương ngay từ khi màn sương còn chưa buông xuống. ?oSương? dường như không chỉ có duyên với ?ohoa? mà còn duyên cả với ?obóng chiều?. Nó gợi ra cảm giác như bóng chiều cũng muốn tự thưa đi để đón nhận màn sương buông xuống. Cái duyên đã được nhà thơ khám phá ra trong phạm vi rộng khắp của đất trời, vẫn cứ tồn tại ngay cả khi những người bình thường còn chưa kịp nhận ra.
    Cái kết thúc tuyệt vời nằm ở khổ cuối của bài thơ.
    Ai hay tuy lặng bước thu êm
    Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
    Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
    Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
    Dường như ở khổ thơ cuối cùng này, không một câu nào giống với những gì mà nhà thơ đã viết trong khổ thơ trước đó. Thế nhưng tinh thần và hồn phách của những khổ thơ trước cứ phảng phất hiện ra trong khổ thơ cuối cùng. Ở bốn khổ thơ trên, nhà thơ nói đến mối duyên thể hiện trong cái ?ocó? và những cái tưởng như không thấy. Nhưng đến khổ thứ năm, ?ocái có? và cái tưởng như không thấy đều được tái hiện lại nhưng không rời rạc mà được gắn bó chặt chẽ, thống nhất với nhau trong một hơi thở thi ca duy nhất, bắt đầu bằng hai chữ ?oai hay?. Đại từ phiếm chỉ ?oai? gợi cảm giác lửng lơ man mác, vừa như hứa hẹn một điều gì bất ngờ. Bên cạnh đó, hai chữ ?otuy? chia đều cho hai dòng thơ, đi liền với cảm giác dường như không có.Nếu như ở câu trên diễn tả bước chân mùa thu im lặng, mùa thu nào có nói gì đâu, thì ở câu thơ dưới, nhân vật trữ tình lại không có ai giãi bày nỗi lòng, bởi có người mai mối nào đâu. Cái sự ?odường như không? ấy được diễn tả một cách cực kì tinh tế, đúng như Hoài Thanh đã từng nhận xét về nét đặc trưng trong thơ Xuân Diệu.
    Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu đặt chữ ?olặng? và chữ ?oêm? ở sau và trước chữ ?obước thu?, bởi làm như thế sẽ giảm nhẹ âm lượng của bước thu đến tột cùng. Nhà thơ cũng sẽ không chỉ dùng hai chữ ?otỏ niềm? mà còn thêm vào phía trước đó chữ ?ogạ?, để người đọc có thể nhận ra một sự bày tỏ bóng gió, hơi hé lộ thôi đã không có rồi. Cái lạ ở đây là sự hiện diện của một buổi chiều hôm ?ongơ ngẩn?, gợi ra cảm giác về một chút gì thiếu vắng, cảm giác nhớ tiếc , đợi chờ. Chính điều ấy gợi lên mong muốn, ước ao được đền bù, trả lấp. Và chính tại vì có cái ngơ ngẩn của buổi chiều hôm ấy mà có một sự đột phát trong lòng.
    Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
    Có lẽ trong cả câu thơ không có chữ nào được dùng táo bạo như chữ ?ocưới?: từ ?ogặp?, đến rung động, ?ongơ ngẩn?, rồi đến ?ocưới?. Chữ ?ocưới? ấy có lẽ sẽ không xuất hiện trong câu thơ nếu Xuân Diệu chỉ là một thi nhân như rất nhiều thi nhân khác. Phải có một cảm hứng nghệ thuật, một linh cảm của tài năng mới có thể bằng một chữ ?ocưới? mà đặt câu thơ vào vẻ đẹp của sự chênh vênh, một vẻ đẹp chỉ có ở đỉnh cao nghệ thuật. Xuân Diệu đã đủ tinh tế để giữ tứ thơ giữa ranh giới chon von, để chữ ?ocưới? ở giữa hai chữ ?olòng?, gợi nên cảm giác về sự tuyệt đỉnh chỉ có ở bên trong, và lời nói không bộc lộ ra bên ngoài. Cái cảm giác ấy bất ngờ ngay với chính người trong cuộc, cũng không tự biết và khi xảy ra rồi thì cũng không thể nào cưỡng được. Vì vậy chữ ?ocưới? được ghìm lại một cách rất tài tình bằng chữ ?othôi?.
    Tất cả xảy ra có lẽ chỉ tại buổi ?ochiều hôm ngơ ngẩn?. Tác giả đưa ta đi qua rất nhiều cung bậc khác nhau của một khúc thơ duyên, để hiểu tại sao phút ban đầu lại có thể có sức gợi cảm phong phú thế.
    Đây mùa thu tới
    Xuân Diệu

    sẽ là bài tiếp
  4. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Đây mùa thu tới
    Xuân Diệu
    Mùa thu xưa nay vẫn là một nguồn cảm hứng vô tận đối với nghệ sĩ, thi nhân. Không đợi đến Xuân Diệu, những vần thơ tuyệt vời về cái khoảng thời gian thơ mộng ấy mới nảy sinh trong nền văn học Việt Nam. Nhưng Xuân Diệu, theo nhận xét của Hoài Thanh, lại là ?onhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới?. Vậy chúng ta hãy xét qua một bài thơ thu cụ thể của nhà thơ ?oĐây mùa thu tới? để kiểm nghiệm xem nhà thơ mới nhất ấy đã thể hiện như thế nào trong đề tài từ lâu đã trở thành quen thuộc.
    Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
    Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng,
    Đây mùa thu tới, mùa thu tới
    Với áo mơ phai dệt lá vàng.
    Ngay ở hai câu thơ đầu, ta bắt gặp rất nhiều số chữ cùng một khuôn vần, đọc lên chợt có cảm giác tất cả những tiếng của hai câu thơ đều bắt vần với nhau. Hơn thế, Xuân Diệu là người miền Trung, vì thế những tiếng bắt vần trong câu gần như là tuyệt đối. Cách phối thanh ấy gợi nên xúc cảm buồn, đìu hiu, tang tóc, nổi hẳn lên không chỉ nhờ ý nghĩa là còn nhờ âm điệu. Nếu như nhà thơ tạo cảm giác nặng trĩu ở giữa câu thơ đầu tiên thì ba thanh bằng tập trung ở cuối câu thứ hai lại làm câu thơ như chùng hẳn xuống. Kĩ thuật phối thanh mới mẻ thể hiện ở hai câu thơ đầu khiến cho nỗi buồn mới mẻ được diễn tả bằng những cách thức không hề cũ. Và như thế mùa thu không chỉ đến bằng ý nghĩa, bằng hình ảnh mà còn qua sự hoà phối âm thanh. Cảm giác trĩu xuống còn được nghe thấy qua cả thanh điệu của câu thơ.
    Mặt khác, chữ cuối cùng của câu thứ nhất - ?otới? bắt vần với tiếng đầu tiên của câu thứ hai - ?ovới?, khiến câu thơ buộc phải đọc dàn trải, vì vậy không thể coi đó là một tiếng reo. Xuân Diệu đã sáng tạo ra một kĩ thuật đặt câu mới mẻ mà hầu như chưa hề có trong thơ ca trước đây.
    Nét mới thứ ba chính là ở hình ảnh rặng liễu. Những tín hiệu đầu tiên, thông điệp của mùa thu, không phải từ hoa cúc, ngô đồng hay sen tàn,.. mà là ?orặng liễu?. Nó mới mẻ vì trong thơ cổ tràn ngập hình ảnh của liễu, song đó là liễu của mùa xuân. Còn liễu của mùa thu chỉ bắt gặp trong văn học phương Tây mà xa lạ với văn học phương Đông. Xuân Diệu đã làm giàu cho hình ảnh thơ thu Việt Nam bằng một nền văn hoá khác.
    Người phương Đông vẫn cho rằng mùa thu là mùa của nỗi buồn man mác, nhẹ nhàng bâng khuâng, nhưng với Xuân Diệu lại là cảm giác nặng nề u uất, tóc tang. Rặng liễu như là hình ảnh một con người đứng chịu tang, chịu tang cái sự sống đã trôi qua trong mùa xuân và mùa hè. Hình ảnh ?oliễu? gợi lên ?omái tóc rủ buồn? (đầu câu) và ?ocả ngàn hàng nước mắt? ( cuối câu ). Ta bắt gặp một hình ảnh của liễu khóc, cũng như Lamactin, một thi sĩ Pháp, người gây ảnh hưởng nhiều đến các thế hệ thi sĩ Việt Nam đã viết trong bài ?oLiễu khóc?. Chính vì thế, nỗi buồn của mùa thu cũng được phô diễn bằng những kĩ thuật mới mẻ.
    Nếu như hai câu thơ trên nói đến dáng thu qua hình ảnh mùa thu của dáng liễu thì hai câu thơ dưới lại nói về sắc thu, gợi ra qua sắc liễu. Nhưng trong con mắt của nhà thơ, thu không còn là ?omùa của những điệu xanh? như trong chùm thơ thu Nguyễn Khuyến.
    Đây mùa thu tới, mùa thu tới
    Với áo mơ phai dệt lá vàng.
    Trong thơ Xuân Diệu giờ đây tấm áo thu đã mang một sắc vàng mơ mộng, nhạt nhoà. Một mùa thu vàng như ta vẫn thường thấy trong nghệ thuật phương Tây. Xuân Diệu đã phả một sắc mới hoàn toàn khác với thơ mùa thu từ trước đến nay trong văn học Việt Nam. Màu thu ấy bắt đầu từ Xuân Diệu và nối tiếp ở các nhà thơ sau này :
    Ô hay buồn vương cây ngô đồng
    Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông.
    ( Tỳ bà- Bích Khê )
    Màu vàng trong sự xao xuyến của thi nhân đã được dệt nên từ những sợi vàng của hàng tơ liễu rủ. Đã không ít người cho rằng : nhà thơ cất lên một tiếng reo vui và những câu thơ ánh lên màu sắc tươi tắn hơn so với những câu thơ trước đó. Nhưng một sắc màu ?ophai ?o nhạt lẽ nào lại có thể làm tươi lên một bức hoạ buồn ? Và tương tự thế, tiếng reo vui dù chỉ là thầm reo thì cũng có cơ trở nên lạc lõng giữa những câu thơ rất buồn ở phía trên và dưới nó. Không nên quên rằng đây là hai câu thơ nối dòng, tương ứng với chỉ một câu. Chữ cuối cùng của dòng trước bắt vần với chữ đầu tiên của dòng sau. Tất cả những điều ấy như buộc chúng ta phải đọc dòng thơ với một âm điệu dàn trải, mênh mang mà không phải một dấu chấm than cũng có thể đặt ở bất kì dòng nào để nghe được tiếng reo vui. Có lẽ ta nên cảm nhận dòng thơ này như một tiếng nói trầm ngâm của một tâm hồn rất mơ màng, đang tự thấy bước chân của mùa thu khẽ khàng xâm chiếm tâm hồn mình. Một cảm giác thu nhẹ nhàng lan toả trong tấm lòng trầm tư và say đắm trước vẻ đẹp nên thơ của cảnh vật, tạo hoá. Và như thế, bốn câu thơ đầu tiên hoà trong một xúc cảm chung về những tín hiệu đầu tiên của mùa thu.
    Đến khổ thơ thứ hai, mùa thu trong xúc cảm của nhà thơ đã được nói tới như mùa của héo tàn, rơi rụng.
    Hơn một loài hoa đã rụng cành
    Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
    Những luồng run rẩy rung rinh lá
    Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
    Để diễn tả một tình cảm như thế, không gì thích hợp hơn là tìm đến hình ảnh của một vườn cây lá. Và trong khổ thơ ấy, sự tàn úa, sự phai nhạt, sự rơi rụng của mùa thu đã được nhà thơ miêu tả như một quá trình. Nếu như ở câu thơ thứ nhất, đầu tiên mới là hình ảnh hoa rụng, thứ dễ rơi rụng đầu tiên. Đến câu thơ thứ hai, lá đã úa đi, nhưng dẫu sao cũng đủ để gây ra ấn tượng về một sắc đỏ của tàn phai đang lấn át sắc xanh. Và để nhận thấy ?onhững luồng run rẩy? như ở câu thơ thứ ba thì lá cũng chỉ còn thưa thớt lắm ở trên cành. Và cuối cùng, lá đã rụng hết, chỉ còn trơ lại ?ođôi nhánh khô gầy?. Trong một câu thơ mà sự ít ỏi, tàn lụi dường như thấm vào từng chữ, bởi ?ođôi? là hai, ?onhánh? gợi lên sự mỏng manh, bé nhỏ và ?okhô? nghĩa là không còn bao nhiêu sự sống. Vậy mà sự gầy guộc của cành lá còn được nhân lên bởi chữ ?oxương?. Sự tàn lụi ẩn chứa trong cả hai từ ?omỏng manh?.
    Nhưng xuyên suốt dọc khổ thơ có lẽ vẫn là cảm giác về ngọn gió thu, cho dù nhà thơ không hề dùng chữ ?ogió?. Câu thơ thể hiện một tấm lòng đang lạnh lẽo trước sự phai nhạt, héo rụng của mùa thu. Sự lạnh lẽo như thấm vào lòng người, vậy mà nhà thơ không dùng đến một chữ ?olạnh? nào. Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nói :?chính vì cảm thấy cái lạnh lẽo ấy rung động trong tâm can mà vội đưa ra nhận xét : bài thơ này đáng lẽ phải gọi là ?ođây mùa đông tới?. Có lẽ Xuân Diệu đã đưa một chút thanh sắc của phong cảnh phương Tây vào thơ. Song điều đó không quan trọng, vì đây là thơ lãng mạn và các nhà thơ lãng mạn thường để cho nội tâm có quyền lực rất cao chi phối xúc cảm. Vì vậy ý kiến của Vũ Quần Phương là khó có thể tán thành. Không nên quên rằng đây là mùa thu trong một tác phẩm thơ trong một trào lưu thơ cho phép nội tâm can thiệp vào ngoại giới. Cảnh vật, xét về một phương diện nào đó, cũng chỉ được coi như hình ảnh của nội tâm đang rung động. Vì thế, sự ?orun rẩy? dường như là của một cõi lòng , lại được diễn tả bằng một kĩ thuật thơ mới lạ mà trước đó ta chưa từng thấy. Cái mới lạ không chỉ ở cách nói gần gũi với kiểu diễn đạt phương Tây : ?o hơn một ?, ?orủa? mang sắc màu ngôn ngữ Tây Phương. Những câu thơ còn khiến ta chú ý ở một sự điệp âm với bốn âm ?or? liên tiếp. Nhà thơ như bắt sự ?orun rẩy rung rinh? ấy phải hiện lên thành âm điệu, một cách thức bắt gặp thường xuyên trong thơ Pháp.
    Song đến khổ thơ thứ ba, không gian thơ không còn giới hạn trong phạm vi một vườn cây mà trở nên mênh mang hơn nhiều. Vì thế, vẻ đẹp nên thơ của mùa thu không chỉ tìm thấy ở trăng thu, ở màn sương thu mà còn ngọn gió thu, ở bến đò đã trở nên vắng lặng, quạnh quẽ.
    Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
    Non xa khởi sự nhạt sương mờ ...
    Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
    Đã vắng người sang những chuyến đò...
    Nhưng không chỉ thế, bởi khi nói đến vầng trăng thu, nhà thơ đã gắn vẻ đẹp tự nhiên ấy với vẻ đẹp trữ tình của người con gái, và ?otrăng? được thi sĩ đặt cạnh chữ ?onàng?. Song trong con mắt của Xuân Diệu, đây là một nàng trăng đang ?ongẩn ngơ?, đang cảm thấy trống trải, thiếu vắng. Chất Xuân Diệu trong những câu thơ này lại được thể hiện nhiều nhất trong những chữ ?otự?, ?othỉnh thoảng?, gợi ra những nỗi buồn vẩn vơ, không duyên cớ, nỗi buồn như là cái hồn của chính mùa thu. Vì vậy, có thể nhận ra từ ngay câu thơ đầu tiên : xúc cảm về mùa thu như là mùa của bâng khuâng, trống vắng, lẻ loi và cảm giác lẻ loi ấy lại tiếp tục được nói đến ở những dòng sau.
    Nhà thơ nói đến một rặng núi mùa thu qua hai chữ ?onon xa?, đẩy hình ảnh đó đến tận giới hạn cuối cùng của một chốn xa mờ. Và không gian càng trở nên bàng bạc, mờ ảo khi nhà thơ vội giăng ra trước hình ảnh xa xăm của một rặng núi một ?omàn sương? và cẩn thận vây quanh chữ ?osương? một chữ ?onhạt? ở trước và ?omờ? ở sau, cũng với hai tiếng ?okhởi sự? rất mơ hồ, đã làm cho câu thơ trở nên lung linh, nhoà nhạt, gợi lên cảm giác bâng khuâng. Cảm giác ấy được nhân lên bởi dấu ?o...?ở cuối câu, như nói về một khoảng ngân dài trong thời gian và về một cái gì chưa nói hết. Nhưng chất Xuân Diệu có lẽ kết đọng nhiều nhất ở câu thơ thứ ba.
    Đã nghe rét mướt luồn trong gió.
    Câu thơ mở đầu bằng một sự chuyển đổi cảm giác. Cái lạnh lẽo trên da thịt dường như lại có thể đến với con người qua một chữ ?onghe?, và biến thành cái lạnh lẽo của tâm hồn. Chữ ?oluồn? thể hiện sự tinh tế của nhà thơ khi có thể phân biệt được ?ogió? và ?orét? . Như thế, cái rét mướt không tĩnh lặng vì có thể ?o luồn vào trong gió ?. Cái lạnh lại một lần nữa lại thấm vào trong lòng tạo vật và lòng người. Để rét mướt có thể luồn vào thì gió phải trở nên trống trải. Câu thơ càng tô đậm cảm giác về sự trống vắng trong lòng mùa thu và những con người bằng một bến thu.
    Đã vắng người sang những chuyến đò...
    Câu thơ thứ tư sử dụng phép đảo ngữ, làm nên cảm giác vắng vẻ và càng có sức ám ảnh. Âm điệu câu thơ dường như xa vắng dần, khẽ khàng dần. Và cảm giác ?ovắng? cứ trải dài ra mãi. Những tiếng cuối cùng nghe như một hơi thở của mùa thu cứ vẳng mãi vào giữa lòng người, làm nên nét gợi cảm khác nữa của mùa thu.
    Ở khổ cuối, con mắt thi nhân một lần nữa lại ngước nhìn về bầu trời để nhận ra thêm những dấu hiệu của mùa thu trong làn mây thu như nhẹ vương và những cánh chim thu đang bay đi tránh rét. Đó là một hình ảnh rất thu, hình ảnh rất riêng cho mùa thu thơ mộng. Nhưng đáng chú ý hơn là đàn chim bay đi và những áng mây còn ở lại. Vì thế, ngay từ đầu khổ thơ, thu đã được cảm nhận như là mùa của những xa cách, chia lìa.
    Mây vẩn từng không chim bay đi
    Khí trời u uất hận chia ly
    Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
    Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
    Cảm nhận đó đã có từ trước khi tác giả hạ hai chữ ?ochia li? xuống dòng thơ thứ hai. Nỗi buồn thu bỗng trở nên nặng nề, nghẹn uất vì trước đó nhà thơ viết hai chữ ?ou uất? rồi lại thêm một chữ ?ohận?, để nỗi u uất bao trùm cả không trung, hiển hiện ở khí trời. Cảm giác như thế chỉ có thể sinh ra từ một tâm hồn không chịu đựng
  5. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    ... đựng nổi sự lẻ loi, chia cách, khao khát sự giao cảm, sự có đôi, thèm muốn, ham muốn sống. Vì vậy, sự chia li còn gợi niềm mong nhớ.
    Đến hai câu thơ cuối cùng, con người lần đầu tiên xuất hiện trực tiếp trên dòng thơ qua hình ảnh những người thiếu nữ trong dáng điệu ?otựa cửa nhìn xa?, dáng điệu của mong ngóng, đợi chờ. Vì thế, mùa thu hiện lên như mùa của chia ly, nhung nhớ. Vẫn không thể quên rằng trong những câu thơ cuối cùng này, Xuân Diệu để cho người thiếu nữ nhớ mong trong một trạng thái ?obuồn không nói? và không ai biết các cô đang ?onghĩ ngợi gì?. ?oĐây mùa thu tới? đã khép lại trong cảm giác về cái ?okhông?, gợi một tình cảm mênh mang khôn tả. Như vậy, nhà thơ rất mới là Xuân Diệu vẫn không thể xa lìa cội nguồn của người Việt, của phương Đông truyền thống : cái ?ocó? khi lên đến mức độ tuyệt vời sẽ thể hiện bằng cái ?okhông?. Có một sự gặp gỡ lạ kì với những câu thơ cổ được viết từ mấy trăm năm trước trong bài ?oGiai nhân tức sự? của Huyền Quang thiền sư. Sự không nói của những cô gái cũng chính là sự biểu hiện tuyệt vời của một nỗi thương thu. Đó là tiếng của những linh hồn muốn tìm nhau, gọi nhau qua một tiếng thở dài.
    * Trời mới lạnh nên người ta cần nhau hơn. Người nào chỉ có một thì cần một người khác nữa. Thu, người ta vì cái lạnh sắp đến mà rất cần đôi, vì thế không gian đầy những lời nhớ nhung, những hồn cô đơn thả ra, những tiếng thở dài gọi nhau.
    (Xuân Diệu)

    Vội vàng
    Xuân Diệu
    ssẽ là bài tiếp
  6. sea_star

    sea_star Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/01/2004
    Bài viết:
    311
    Đã được thích:
    0
    ........nói thật đừng buồn , dài quá tớ chẵng hiểu nổi .......

Chia sẻ trang này