1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Ruồi trâu - Etelle Lilian Voynick

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi silver_light, 16/12/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. silver_light

    silver_light Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/11/2005
    Bài viết:
    203
    Đã được thích:
    0
    V
    Ruồi trâu quả là người sở trường về môn tự gây cho mình có nhiều kẻ địch. Tháng tám, anh ta mới đến Phơ-lô-răng-xơ mà cuối tháng mười đã có đến ba phần tư ủy viên trong ban chấp hành trước kia đã mời anh đến, thì nay tấn thành ý kiến Mac-ti-ni. Ngay cả những người khâm phục anh nhất cũng bất mãn về những sự công kích điên cuồng của anh đối với Mông-ta-ne-li. Và chính Ga-li lúc đầu là người bao giờ cũng sẵn sàng bênh vực mọi lời nói và việc làm của nhà châm biếm sắc sảo ấy thì nay cũng bắt đầu tỏ ra lo lắng băn khoăn rằng có lẽ không nên động đến Mông-ta-ne-li. " Những Hồng y giáo chủ có lương tâm rất hiếm, đối với họ ta nên tử tế một chút".
    Mông-ta-ne-li lại chính là người duy nhất rất thản nhiên trước hàng loạt bài châm biếm và bài báo bôi nhọ mình. Mac-ti-ni nhiều lần nói rằng không cần phải tấn công chế giễu mãi một người có thái độ tốt đối với những sự châm biếm. Người ta đồn rằng một hôm Mông-ta-ne-li đang ăn cơm với ************* Phơ-li-răng-xơ trong phòng mình bỗng thấy một trong bài bôi nhọ cay độc nhất của Ruồi trâu. Mông-ta-ne-li đọc hết từ đầu đến cuối rồi đưa cho ************* xem và nói rằng : " Viết cũng giỏi đấy nhỉ?"
    Có một hôm trong thành phố xuất hiện một tờ truyền đơn nhan đề là Sự bí mật của Lễ truyền tin ( Giáo hội Thiên chúa có ngày lễ kỷ niệm thiên thần truyền tin cho bà Maria mang thai chúa Giê-su ). Cho dù dưới bài văn đó không vẽ một con ruồi trâu đang giương cánh, "chữ ký" quen thuộc đối với bạn đọc thì số lớn những người đọc vẫn có thể căn cứ vào giọng văn cay độc và sắc bén mà đoán biết tác giả là ai. Bài văn viết theo thể đối thoại giữa Đức bà đồng trinh Maria tượng trưng cho công quốc Tô-scan và Mông-ta-ne-li tượng trưng cho vị thiên thần truyền tín phái Giê-duýt đã giáng lâm. Mông-ta-ne-li đầu quấn cành ô liu hòa bình, tay cầm cành huệ trắng muốt tượng trưng cho sự trong sạch. Trong bài văn chỗ nào cũng đầy rẫy những lời bóng gió chua cay và ám chỉ liều lĩnh. Toàn thành Phơ-lo-răng-xơ cảm thấy tính chất bất công và độc ác của tác phẩm châm biếm ấy. Tuy nhiên, mỗi khi đọc nó họ đã cười đến vỡ bụng. Những chuyện hoang đường đã được nói ra bằng một giọng rất khôi hài mà trang nghiêm đến nỗi những kẻ địch nhất cũng như những người hết sức khâm phục Ruồi trâu đều phải lăn ra cười. Và mặc dù giọng điệu của bài văn ấy rất khó chịu nhưng phần châm biếm của nó đã có ảnh hưởng nhất định tới tâm trạng nhân dân thành phố. Danh tiếng Mông-ta-ne-li quá cao, tưởng chừng bất cứ một tác phẩm bôi nhọ nào dù sắc sảo đến đâu cũng không lay chuyển nổi. Thế mà có lúc dư luận công chúng đã quay lại phản đối Mông-ta-ne-li. Ruồi trâu rất biết đánh vào chỗ yếu. Vì thế mặc dù quần chúng vẫn xúm xít đón chào và tiễn đưa cỗ xe ngựa của Hồng y giáo chủ như cũ, nhưng qua những tiếng hoan hô và câu chúc, thường thường vẫn vang lên những tiếng hô ác độc " Đồ Giê-duýt ! " " Đồ do thám Xan-phê-đích".
    Nhưng Mông-ta-ne-li không thiếu gì người ủng hộ, hai ngày sau khi bài văn ra đời, tờ Tín đồ, cơ quan ngôn luận có uy tín của giáo hội đã đăng một bài báo lời lẽ rất sắc sảo đầu đề là Trả lời bài " Sự bí mật của lễ truyền tin", dưới ký Một con chiên. Bài báo hết sức bênh vực Mông-ta-ne-li trước những lời công kích tố cáo của Ruồi trâu. Tác giả nặc danh đã say sưa trình bày một cách hùng biện thuyết "Hòa bình trên trái đất và thiện ý với con người " mà Giáo hoàng mới lên ngôi truyền bá. Tác giả thách Ruồi trâu dẫn chứng để xác minh bất cứ một điều gì buộc tội nào của chính mình và cuối cùng tác giả khuyên bạn đọc không nên tin kẻ vu khống đáng khinh ấy. Về phương diện lập luận đanh thép cũng như về giá trị văn học, bài báo này hơn hẳn mọi bài báo hàng ngày nên rất được toàn thành Phơ-lo-răng-xơ chú ý. Mặc dù ngay cả người chủ bút tờ báo Tín đồ cũng không biết một con chiên là ai. Sau đó bài báo được xuất bản thành sách nhỏ và từ đó trong các quán cà phê người ta luôn nhắc tới kẻ nặc danh bênh vực Mông-ta-ne-li
    Đến lượt Ruồi trâu thì anh lại kịch liệt công kích Giáo hoàng mới và những người ủng hộ giáo hoàng, nhất là đối với Mông-ta-ne-li thì anh lại ám chỉ một cách khéo léo rằng kẻ viết bài tán tụng Mông-ta-ne-li là do Mông-ta-ne-li sai khiến. Người viết báo nặc danh biện hộ cho Mông-ta-ne-li liền trả lời, phủ nhận một cách rất căm phẫn trên tờ báo Tín đồ. Trong suốt thời gian Mông-ta-ne-li còn lưu lại ở Phơ-lo-răng-xơ cuộc tranh luận kịch liệt giữa hai nhà văn đó được sự chú ý của công chúng nhiều hơn là bản thân nhà truyền đạo nổi danh đó.
    Một vài đảng viên đảng tự do tìm cách chứng minh cho Ruồi trâu thấy rằng dùng lời nói cay độc đối với Mông-ta-ne-li là không cần thiết. Nhưng họ chẳng đi đến kết quả gì. Nghe họ nói , Ruồi trâu chỉ nhã nhặn mỉm cười và ngượng nghịu lắp bắp trả lời :
    - Thưa các ngài, các ngài thật...thật là không công bằng chút nào. Khi tôi nhượng bộ bà Bô-la, tôi đã đặc biết đưa ra điều kiện là khi nào Mông-ta-ne-li tới thì tôi có quyền cười cho thỏa chí. Điều đó đã được ghi trong văn tự rồi cơ mà !
    Đến tháng mười, Mông-ta-ne-li trở về Rô-ma-nha, trong buổi giảng đạo từ biệt trước khi rời Phơ-lo-răng-xơ, Mông-ta-ne-li đã đề cập tới cuộc tranh luận ầm ĩ vừa qua. Mông-ta-ne-li tỏ ý tiếc rằng cả hai tác giả đã quá nóng nảy và yêu cầu kẻ nặc danh bênh vực mình nên làm gương độ lượng cho người khác noi theo, nghĩa là chủ động đình chỉ cuộc luận chiến vô bổ và vô lối ấy. Hôm sau, trên tờ tín đồ xuất hiện một mẩu cáo bạch nói rằng : thể theo ý muốn cua Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li đã được bày tỏ một cách công khai, từ nay Một con chiên sẽ thôi không tranh luận nữa.
    Ruồi trâu được nói tiếng cuối cùng. Trong tờ truyền đơn nhỏ tiếp theo anh tuyên bố rằng thái độ ôn hòa theo tinh thần Cơ đốc của Mông-ta-ne-li đã thuyết phục được anh. Anh sẵn sàng nhỏ nước mắt và bá cổ người Xan-phê-đích đầu tiên nào mà anh gặp. Cuối cùng, anh nói :" Tôi sẵn sàng ôm hôn cả đối thủ nặc danh của tôi ! Nếu bạn đọc của tôi hiểu tại sao tôi phải làm như thế và tại sao đối thủ của tôi phải giữ kín tên tuổi của mình như là tôi và Hồng y giáo chủ hiểu, thì chắc bạn đọc sẽ tin tưởng vào sự hối tiếc chân thành của tôi".
    Cuối tháng mười một, Ruồi trâu nói với ban chấp hành rằng anh muốn đi ra biển nghỉ chừng hai tuần lễ. Dư luận chung quanh bảo rằng có lẽ anh đi Li-voóc-nô. Nhưng sau đó ít lâu, bác sĩ Ri-cac-đô cũng tới Li-voóc-nô định tìm gặp ruồi trâu mà không sao tìm thấy. Đến mùng năm tháng chạp một cuộc biểu tình chính trị hết sức gay gắt nổ ra suốt dọc núi A-pa-nanh trong lãnh địa Giáo hoàng. Lúc ấy nhiều người mới đoán biết tại sao Ruồi trâu có ý định kỳ dị là đi nghỉ mát giữa mùa đông tháng giá như vậy. Khi cuộc bạo động đã tạm yên, Ruồi trâu trở về Phơ-lo-răng-xơ. Gặp Ri-cac-đô ngoài phố, anh nhã nhặn nói :
    - Tôi nghe nói ông có đến Li-voóc-nô tìm tôi nhưng lúc ấy tôi đang ở Pi-dơ. Thành phố thật sự cổ kính và đẹp tuyệt vời ! Ở đó có thể tưởng tượng đến Ác-ca-đi-a. ( Ác-ca-đi-a : một miền ở Hy lạp chung quanh có núi bao bọc, dân cư nơi đó chuyên chăn cừu và thích hát những bài dân ca trữ tình, được các nhà thơ ca ngợi là thiên đường ở trần gian )
    Một buổi chiều trong tuần lễ Nô-en, anh đến dự hội nghị của tiểu ban văn học họp ở nhà riêng bác sĩ Ri-cac-đô. Cuộc họp rất đông. Khi Ruồi trâu bước vào nghiêng mình mỉm cười xin lỗi vì đến muộn thì đã không còn một ghế nào trống. Ri-cac-đô định sang phòng bên lấy ghế thì Ruồi trâu ngăn lại :
    - Xin ông chớ phiền, tôi sẽ tìm được chỗ ngay.
    Anh bước qua phòng, tiến tới phía cửa sổ cạnh chỗ Giê-ma và ngồi lên thành cửa, lơ đãng ngả đầu vào cửa chớp.
    Giê-ma cảm thấy Ruồi trâu đang mỉm cười và lim dim đôi mắt nhìn mình với cái nhìn tế nhị của tượng Nhân sư. Cái nhìn ấy cũng giống như cái nhìn vẽ trong một bức họa của Lê-ô-na Đơ vanh xi. Sự nghi ngờ theo bản năng của chị đối với con người ấy mỗi lúc một tăng và biến thành một nỗi lo âu khó hiểu.
  2. silver_light

    silver_light Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/11/2005
    Bài viết:
    203
    Đã được thích:
    0
    Hội nghị bàn vấn đề ra một bản tuyên bố về nạn đói đang đe dọa Tô-scan. Ban chấp hành cần tỏ thái độ và vạch ra những biện pháp để ứng phó với tình hình đó. Đi tới một nghị quyết cụ thể thật là gay go vì ý kiến lại vẫn cứ khác nhau. Nhóm tiến bộ nhất trong ban chấp hành gồm có Giêma, Mac-ti-ni, Ri-cac-đô và những người khác tán thành kiên quyết kêu gọi chính phủ và công chúng lập tức cứu tế ngay cho nông dân. Những kẻ ôn hòa tất nhiên trong đó có Grat-xi-ni thì lại sợ rằng nếu lời kêu gọi mà gay gắt quá sẽ không có sức thuyết phục lại chỉ làm cho chính phủ nóng gáy.
    Vẻ mặt bình tĩnh và thương hại, Grat-xi-ni nhìn về phía những phần tử cấp tiến đang phồng mang trợn mắt nói :
    - Thưa các vị, ai cũng hiểu rằng cứu tế càng sớm càng tốt. Phần lớn chúng ta đều muốn làm nhiều thứ mà chúng ta khó lòng đạt được. Nhưng nếu chúng ta kêu gọi theo giọng mà các vị đề nghị thì từ giờ cho tới khi nạn đói thực sự xảy ra rất có thể chính phủ sẽ không chịu làm gì cả. Bắt chính phủ điều tra mùa màng, tôi thiết tưởng đó là một bước tiến rồi.
    Ga-li ngồi trong góc cạnh lò sưởi lập tức nhảy xổ vào địch thủ của mình.
    - Một bước tiến ư ? Phải, thưa ngài tôn kính, nhưng khi nạn đói xảy tới thực sự, thử hỏi bước tiến ấy có hãm được nạn đói không ? Nếu chúng ta cứ tiến bước theo kiểu đó thì chưa kịp cứu tế nhân dân đã chết đói nhăn răng ra cả rồi.
    Sác-cô-ni lên tiếng :
    - Tôi muốn biết là...
    Nhưng nhiều tiếng nói đã cắt đứt lời anh :
    - Nói to lên, không nghe thấy gì hết !
    Ga-li cáu kỉnh :
    - Quái lạ, sao ngoài phố cũng ầm ĩ thế ?Cửa sổ đóng chưa Ri-cac-đô ? Tôi không nghe thấy cả tiếng tôi nói nữa !
    Giê-ma ngoái nhìn :
    - Phải, cửa đóng rồi. Ngoài ấy hình như có đám xiếc rong gì đó đang diễn qua.
    Ngoài phố vang lên tiếng hò hét, tiếng cười tiếng chuông rung, tiếng chân bước rậm rịch xen lẫn cả tiếng kèn đồng của một đội nhạc hạng bét và tiếng trống khua inh ỏi vô tội vạ.
    Ri-cac-đô lẩm bẩm :
    - Ngày lễ thì chịu vậy thôi chứ làm thế nào, Nô-en bao giờ chả ầm ĩ..Nào ông Sac-cô-ni, ông vừa định nói gì ?
    - Tôi nói : Tôi muốn biết dư luận Pi-dơ và Li-voóc-nô đối với cuộc chống đói này như thế nào. Có lẽ ông Ri-va-rét có thể cho chúng ta biết vì ông ta mới ở đó về.
    Ruồi trâu không đáp. Anh chăm chú nhìn ra cửa sổ, hình như không nghe thấy những lời bàn tán trong phòng.
    Giê-ma là người duy nhất ngồi gần đấy gọi :
    - Ông Ri-va-rét !
    Thấy Ruồi trâu vẫn không thưa, Giêma cúi mình hướng về phía trước sờ vào tay anh. Ruồi trâu từ từ quay lại nhìn Giêma và chị giật mình hoảng sợ thấy gương mặt anh đờ đẫn một cách lạ lùng. Trong giây lát, Giêma tưởng chừng đó là gương mặt của người đã chết. Rồi đôi môi anh mấp máy một cách kỳ dị không sức sống. Anh thầm nói :
    - Vâng, đó là một gánh xiếc rong...
    Chưa hiểu sao, nhưng Giêma đoán rằng cả tâm hồn và thể xác Ruồi trâu phút chốc bị một ảo ảnh ghê rợn nào chi phối. Bản năng đầu tiên của chị là che lấy Ruồi trâu để tránh những cặp mắt tò mò khỏi nhìn vào anh. Chị vội vàng đứng dậy đứng chắn lấy anh, rồi mở cửa sổ làm ra vẻ nhìn xuống đường phố. Ngoài chị ra, không ai trông thấy bộ mặt của Ruồi trâu lúc đó.
    Gánh xiếc rong đang riễu trên đường phố. Những vai hề cưỡi trên mình lừa, những vai Ac-lơ-canh mặc quần áo hoa hoét. Đám rước đeo mặt nạ, vừa cười vừa xô đẩy bông đùa ném những cuộn giấy nhỏ hình con rắn cho các vai hề và những túi kẹo cho vai Cô-lum-bi-a. Cô gái đóng vai này ngồi ngất ngưởng trên chiếc xe ngựa, mặc quần áo lóng lánh sặc sỡ dắt đầy lông chim, đầu đeo tóc giả nụ cười gượng gạo còn đọng lại trên đôi môi đỏ choét. Sau xe là một đoàn người : lưu manh, ăn xin, mấy vai hề vừa đi vừa nhào lộn và cả một đám hàng rong bán các đồ chơi lặt vặt và kẹo bánh. Cả bọn cùng chen vai thích cánh, thi nhau ném như mưa và vỗ tay hoan hô một người đứng giữa đám đông xô đẩy nhau lộn xộn, nhưng lúc đầu Giêma chẳng trông rõ người đó là ai. Lát sau chị mới nhận ra là họ ném và hoan hô một chú lùn xấu xí lưng gù mặc quần áo hề, đội mũ cao bằng giấy, đeo nhạc chung quanh mình. Chắc là chú ở gánh xiếc rong đó. Chú vừa đi vừa nhăn nhó, quằn quại một cách gớm ghiếc để làm vui cho đám đông.
    Ri-cac-đô tiến lại gần cửa sổ hỏi :
    - Cái gì thế ? Ông và bà xem cái gì hay thế ?
    Ông ta hơi lấy làm lạ rằng Ruồi trâu và Giêma mải xem hề để bắt cả ban chấp hành ngồi đợi.
    Giêma quay lại phía Ri-cac-đô nói :
    - Có gì hay đâu, gánh xiếc rong đấy mà. Nhưng họ làm huyên náo, tôi cứ tưởng có chuyện gì xảy ra.
    Chị còn đang đứng, một tay đặt trên bậc cửa sổ và thình lình chị cảm thấy những ngón tay lạnh lẽo của Ruồi trâu nhiệt tình xiết lấy tay chị.
    Ruồi trâu nói khẽ và dịu dàng :
    - Cám ơn bà !
    Anh đóng cửa rồi lại ngồi lên thành cửa. Vẫn với vẻ nhẹ nhàng thanh thoát, anh nói :
    - Xin lỗi đã làm trở ngại các vị. Tôi mải xem gánh xiếc. Thật...thật là vui mắt.
    Mac-ti-ni giật giọng nói :
    - Ông Sac-cô-ni đang hỏi ông đấy !
    Mac-ti-ni thấy thái độ của Ruồi trâu có vẻ như chống chế một cách hết sức vụng về. Anh lại cảm thấy bực bội vì Giêma đã hớ hênh bắt chước Ruồi trâu. Thật là một cử chỉ anh chưa hề thấy ở chị.
    Ruồi trâu tuyên bố rằng anh không biết gì về tâm trạng nhân dân thành phố Pi-dơ bởi vì anh " chỉ đến đó để nghỉ " thôi. Rồi anh quay lại phát biểu ý kiến một cách sôi nổi. Trước hết, anh nói về triển vọng của mùa màng, tiếp đó nói về bản tuyên bố, rồi cuối cùng anh làm cho mọi người khổ tại vì hàng tràng lý luận thao thao bất tuyệt và vì giọng nói lắp của anh. Họ có cảm tưởng rằng hình như anh đã tìm thấy một thú vui ốm yếu nào trong bản thân tiếng nói của chính mình.
    Khi buổi họp kết thúc, các ủy viên bắt đầu giải tán thì Ri-cac-đô tiến lại chỗ Mac-ti-ni :
    - Ông ở lại ăn cơm với tôi nhé. Pha-bơ-ri-xi và Sac-cô-ni cũng ở lại đấy.
    - Cảm ơn ông. Nhưng tôi phải tiễn chị Bô-la về nhà.
    Giêma đứng dậy, choàng khăn lên đầu nói :
    - Anh sợ tôi không về tới nhà được một mình hay sao ? Được rồi, anh Mac-ti-ni sẽ ở lại đấy, bác sĩ Ri-cac-đô ạ, anh ấy cần thay đổi không khí mới được, ngồi nhà nhiều quá rồi.
    Ruồi trâu xen lời :
    - Nếu bà cho phép, tôi xin được đưa bà về phía đó.
    - Nếu tiện đường thì...
  3. silver_light

    silver_light Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/11/2005
    Bài viết:
    203
    Đã được thích:
    0
    Ri-cac-đô vừa mở cửa vừa hỏi :
    - Còn ông Ri-va-ret, nếu ông có thì giờ thì mời ông chiều nay ở lại chơi ?
    Ruồi trâu cười, ngoái lại nói :
    - Tôi ấy ư, ông bạn ? Không, tôi đang muốn đi xem xiếc.
    Trở về phòng, Ri-cac-đô nói :
    - Anh chàng kỳ quặc thật ! Tại sao ông ta lại mê hề đến thế ?
    Mac-ti-ni nói :
    - Chắc là cùng tâm trạng với nhau chứ gì ! Chính hắn cũng hề đặc.
    Pha-bơ-ri-xi nghiêm trang nói :
    - Tôi mong rằng ông ta chỉ là hề thôi, không là cái gì khác. Nhưng ông ta dù là hề đi nữa thì cũng là một vai hề cực kỳ nguy hiểm.
    - Nguy hiểm ư ? Về phương diện nào ?
    - Tôi không ưa những chuyến đi nghỉ ngắn hạn đầy bí ẩn và liên tiếp của ông ta như vậy. Chuyến này là chuyến thứ ba rồi đấy, và tôi không tin là vừa qua ông ta đi Pi-dơ đâu.
    Sac-cô-ni nói :
    - Theo tôi thì rõ ràng là Ri-va-ret bí mật đi vào vùng núi. Ông ta cũng cố ý giấu là vẫn có quan hệ với bọn buôn lậu. Ông ta có quan hệ với chúng lâu rồi, từ hồi có vụ bạo động ở Xi-va-nhô kia. Và lẽ tự nhiên là Ri-va-ret nhờ tay bọn chúng để chuyển những truyền đơn qua biên giới lãnh địa giáo hoàng.
    Ri-cac-đô nói :
    - Chính đó là vấn đề tôi muốn bàn với các ông. Tôi nảy ra một ý kiến : tốt hơn là yêu cầu Ri-va-rét phụ trách quản lý việc chuyên trở bí mật cho chúng ta. Theo tôi thì nhà in ở Pi-stôi-a làm việc rất kém và cứ dũng mãi cách nhét truyền đơn vào xì gà mà chuyên chở thì thô sơ quá.
    Mac-ti-ni bướng bỉnh cãi :
    - Từ trước đến giờ xì gà vẫn làm được việc rất tốt.
    Ga-li và Ri-cac-đô lúc nào cũng đưa Ruồi trâu ra làm mẫu mực khiến cho Mac-ti-ni phát ngấy lên. Anh nghiêng về phía cho rằng nếu "ông tướng cướp" ấy không chui vào đây để lên mặt dạy đời thì công việc đã có thể tiến hành tốt biết bao nhiêu.
    Ri-cac-đô lại nói :
    - Phải, từ trước tới giờ phương pháp ấy vẫn làm cho chúng ta thỏa mãn vì chúng ta không có cách nào tốt hơn. Nhưng các anh cũng biết thời gian qua đã xảy ra quá nhiều vụ bắt bớ và tịch thu. Theo tôi nghĩ, nếu Ri-va-ret phụ trách việc đó thì những vụ như thế sẽ ít xảy ra hơn.
    - Tại sao ông nghĩ thế ?
    - Vì một là những kẻ buôn lậu coi chúng ta là người ngoài, hoặc có thể chỉ coi chúng ta như con bò để vắt sữa; còn Ri-va-ret thì ít nhất ông ta cũng là bạn của chúng, nếu không phải là lãnh tụ. Chúng nghe và tin ông ta. Một người đã từng tham gia khởi nghĩa tại Xi-va-nhô thì bọn buôn lậu ở A-pe-nanh vui lòng giúp nhiều hơn ai hết. Hai là, trong chúng ta chắc không thể tìm được người nào quen biết miền núi như Ri-va-ret được. Các anh cần nhớ rằng ông ta từng lẩn trốn ở đó, thuộc lòng từng đường hầm trên núi. Không một kẻ buôn lậu nào dám bịp Ri-va-ret nếu có thì cũng chỉ thất bại.
    Mac-ti-ni lại hỏi :
    - Vậy ông định đề nghị giao cho ông ấy toàn bộ đưa tài liệu của chúng ta vào lãnh địa của Giáo hoàng, phụ trách hết thảy từ việc phân phối cho tới địa điểm, kho tàng bí mật v.v... hay chỉ giao cho ông ta việc chuyển qua biên giới thôi ?
    - Không những ông ta chỉ biết các địa điểm và kho tàng bí mật của chúng ta mà còn biết nhiều địa điểm và kho tàng khác nữa mà chúng ta không có. Vậy không cần lên lớp gì cho ông ấy. Thế còn vấn đề phân phối thì tùy các anh định. Theo tôi, điều quan trọng nhất là chuyển qua biên giới; một khi tài liệu đã vào tới Bô-lô-nha ròi thì phân phối không khó nữa.
    Mac-ti-ni nói :
    - Về phần tôi thì...tôi phản đối kế hoạch đó. Vì, trước hết nếu bảo rằng ông ta khéo léo như thế nhưng nào đã ai thấy đâu mà chỉ là phỏng đoán thôi. Chúng ta chưa thật mắt trông thấy ông ta làm công tác biên giới, nên chưa thể tin rằng đến giờ phút nghiêm trọng ấy ông ta có thể giữ được bình tĩnh.
    Ri-cac-đô ngắt lời :
    - Ồ, điều đó ông không cần nghi ngờ gì nữa. Ông ta có thể giữ nổi bình tĩnh. Cuộc bạo động ở Xi-va-nhô là một chứng minh cụ thể nhất.
    Mac-ti-ni tiếp tục :
    - Hơn nữa, do còn ít hiểu Ri-va-ret nên tôi hoàn toàn không tán thành đem mọi bí mật của đảng giao phó cho ông ta. Theo tôi, Ri-ve-ret là một kẻ nhẹ dạ và hay đóng kịch lắm. Phó thác việc chuyển tài liệu bí mật vào tay một người không phải là chuyện chơi. Ông Pha-bơ-ri-xi, ông nghĩ thế nào ?
    - Mac-ti-ni, nếu chỉ có những ý kiến phản đối như ông nói thì tôi có thể gạt phắt ngay là vì Ruồi trâu thực sự và rõ ràng có đủ mọi đức tính mà Ri-cac-đô nói. Tôi tin chắc Ri-va-ret rất dũng cảm, thành thực và bình tĩnh. Ông ta rất hiểu địa hình và dân cư miền núi. Chúng ta có rất nhiều chứng cứ về tất cả những cái đó. Nhưng tôi có một lý do phản đối khác. Tôi không tin Ri-va-ret đi về rừng núi chỉ để bí mật chuyển các bài văn châm biếm của ông ta, mà còn có thể có mục đích khác. Tất nhiên, điều này chỉ nên nói riêng giữa chúng ta vì chỉ mới là nghi ngờ thôi. Tôi có cảm tưởng ông ta liên lạc chặt chẽ với một nhóm bí mật nào ở vùng núi và có lẽ là nhóm nguy hiểm nhất.
    - Nhóm nào ? Nhóm " Thắt lưng đỏ" có phải không ?
    - Không, nhóm " Dao găm"
    - Nhóm " Dao găm" ?Nhưng nhóm ấy chỉ là một nhúm người đứng ngoài vòng pháp luật phần lớn là nông dân dốt nát và không có kinh nghiệm chính trị gì.
    Pha-bơ-ri-xi nói :
    - Những kẻ bạo động ở Xi-va-nhô thì cũng thế.Nhưng trong bọn họ có cả những người trí thức và họ được những người đó lãnh đạo. Có lẽ nhóm " Dao găm" này cũng vậy. Ngoài ra ai cũng biết rằng số lớn thành viêm những nhóm quá khích nhất ở Rô-ma-nha hiện nay chính là những kẻ đã từng sống sót trong cuộc bạo động tại Xa-vi-nhô. Họ hiểu rằng nếu khởi nghĩa côngkhai thì không thể đè bẹp được Giáo hội nên họ đã bước vào con đường khủng bố. Chưa đủ sức dùng súng họ đành phải dùng dao găm vậy.
    - Tại sao ông lại cho rằng Ri-va-ret liên lạc với nhóm này ?
    - Đây là tôi mới chỉ nghi ngờ thôi. Vì dù sao trước khi giao cho ông ta vận chuyển tài liệu thì cũng cần phải điều tra cho rõ đầu đuôi. Nếu Ri-va-ret định nhất cử lưỡng tiện thì ông ta sẽ làm hại đảng ta nhiều. Ông ta sẽ chỉ làm tan rã thanh danh của Đảng chứ không giúp ích được gì. Nhưng chuyện đó sau ta sẽ bàn. Bây giờ tôi báo để các anh biết mấy tin tức La mã. Có tìn đồn rằng La mã định cử ra một tiểu ban dự thảo đề án thành phố tự trị...

  4. silver_light

    silver_light Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/11/2005
    Bài viết:
    203
    Đã được thích:
    0
    VII​
    Giêma cùng Ruồi trâu lặng lẽ đi theo bờ sông Lâng Ac-nô. Hứng thú nói thao thao bất tuyệt của Ruồi trâu dường như đã cạn rồi. Từ lúc bước ra khỏi nhà Ri-cac-đô đến giờ , Ruồi trâu hầu như không nói một lời. Sự im lặng của anh làm cho Giêma thực sự vui sướng. Bao giờ gặp Ruồi trâu là Giêma cũng cảm thấy lúng túng. Nhất là trong ngày hôm nay chị lại cảm thấy lúng túng bởi vì thái độ kỳ dị của Ruồi trâu ở nhà Ri-cac-đô làm cho chị hết sức bối rối.
    Đến cạnh cung điện Up-phi-tsi, Ruồi trâu thình lình dừng lại, quay sang hỏi chị :
    - Bà có mệt không ?
    - Không. Sao ?
    - Và chiều nay bà không bận lắm phải không ?
    - Không.
    - Vậy xin bà một vinh dự đặc biết mời bà cùng dạo chơi với tôi.
    - Ta đi đâu ?
    - Đi đâu cũng được. Xin tùy bà.
    - Nhưng để làm gì ?
    Ruồi trâu do dự, không trả lời ngày.
    - Tôi không thể nói được, ít nhất đó là điều rất khó nói...nhưng tôi rất mong bà đồng ý nếu có thể. Ruồi trâu bỗng ngước mắt nhìn chị. Ý tứ của đôi mắt làm Giêma rất ngạc nhiên.
    Chị dịu dang nói :
    - Hình như ông có một tâm sự gì.
    Ruồi trâu bứt một chiếc lá khỏi cành hoa trên ve áo rồi xé nhỏ nó ra thành từng mảnh. Cử chỉ này gợi cho chị chạnh nhớ tới ai ? Cũng những ngón tay run run cử động một cách hấp tấp đó..
    Mắt không rời tay. Ruồi trâu nói như bằng một hơi thở :
    - Tôi thấy trong lòng phiền muộn lắm. Chiều nay tôi không muốn cô đơn. Bà đi chơi với tôi nhé ?
    - Vâng, ta đi. Nhưng tốt nhất là mời ông về nhà tôi.
    - Không, mời bà đi ăn cơm với tôi ở hiệu ăn, hiệu ăn cách đây không xa, ở quảng trường Xi-nhô-ri-a. Bà đã hứa thì xin chớ từ chối.
    Họ đi vào hiệu ăn. Ruồi trâu gọi thức ăn nhưng anh không đụng tới một tí gì. Anh cứ đăm chiêu, lặng lẽ nghiền nát một mẩu bánh mỳ trên mặt bàn và vân vê mép khăn bàn.
    Giêma cảm thấy rất khó xử và bắt đầu hối hận là đã trót nhận lời đi với Ruồi trâu. Sự im lặng mỗi lúc một trở nên nặng nề nhưng chị vẫn không muốn mở đầu câu chuyện với người mà chị vảm thấy người đó hầu như đã quên bẵng rằng có mình đang ngồi trước mặt. Cuối cùng Ruồi trâu ngước mắt nhìn chị và đột nhiên nói :
    - Bà có muốn đi xem xiếc không ?
    Giêma kinh ngạc nhìn anh. Sao lại nghĩ tới chuyện xem xiếc ?
    Chị chưa kịp trả lời thì Ri-va-ret lại hỏi :
    - Có bao giờ bà đi xem xiếc không ?
    - Chưa, tôi chưa xem bao giờ. Tôi không thấy xiếc có gì là hay lắm.
    - Xiếc rất hay. Tôi nghĩ nếu không xem xiếc thì không thể nào nghiên cứu được sinh hoạt của nhân dân. Ta quay lại cửa Cơ-rô-trê đi.
    Đám xiếc rong đã cắm xong lều ở cạnh cổng thành . Khi Ruồi trâu và Giêma tới nơi thì tiếng vĩ cầm đã rít lên lanh lảnh , tiếng trống rộn ràng, báo hiệu buổi biểu diễn đã bắt đầu.
    Buổi biểu diễn hôm ấy hết sức đơn sơ. Cả gánh xiếc chỉ có mấy vai hề mấy vai Ac-lơ-canh và mấy tài tử nhào lộn một người đi ngựa nhảy qua vòng, một vai Cô-lôm-bi-na đỏm dáng và một vai gù múa may một cách nhạt nhẽo và ngớ ngẩn để làm vui cho công chúng. Nói chung, những câu pha trò không đến nỗi quá chướng tai thô bỉ, nhưng đều rất tầm thường và hủ lậu. Mọi cái đều đầy một vẻ dung tục. Công chúng cười và vỗ tay với vẻ nhã đặc biệt của dân Tô-scan. Tiết mục duy nhất làm cho khán giả thực sự vui cười có lẽ là tiết mục của vai gù. Nhưng Giêma thấy ở vai gù này cũng chẳng có gì là láu lỉnh và khéo léo cả, mà chỉ toàn là múa may quay cuồng một cách vụng về, gớm ghiếc. Người xem thì luôn luôn nhại vai gù, cho trẻ con ngồi trên vai để cho chúng thấy " thằng gù"
    Ruồi trâu đứng cạnh Giêma, một tay vịn vào cột lều. Giêma quay lại phía anh hỏi :
    - Ông Ri-va-ret, chả lẽ ông lại thực sự cho những trò này là hay, hay sao ? Theo rôi thì...
    Giêma không nói hết và lặng lẽ nhìn anh . Suốt đời có lẽ chỉ có lần đứng với Mông-ta-ne-li cạnh cổng vườn ở Li-voóc-nô là chị mới nhìn thấy nỗi đau khổ không bờ bến và tuyệt vọng như thế này trên khuôn mặt con người. Nhìn Ruồi trâu Giêma sực nghĩ tới cảnh " Địa ngục" của Đăng-tê.
    Ở sân khấu người gù đang bị một vai hề đá. Anh ta lộn nhào và gieo mình ra ngoài vòng sân với một tư thế hết sức kỳ cục. Khi hai vai hề bắt đầu đối đáp thì Ruồi trâu bỗng dường như bình tỉnh khỏi một giấc mơ. Anh hỏi :
    - Ta đi chứ ? Hay bà muốn ở lại xem nữa ?
    - Không, đi đi thôi.
    Họ bước ra khỏi lều, vượt qua dặm cỏ đen tối mà tiến về phía bờ sông. Cả hai đều im lặng trong mấy phút.
    Ruồi trâu cất tiếng hỏi :
    - Sao, bà thấy xiếc thế nào ?
    - Tôi thấy khiếp quá, và có tiết mục thấy hết sức khó chịu
    - Tiết mục nào khó chịu ?
    - Những cái trò nhăn nhó, quằn quại ấy là hết sức khó chịu. Thật là lố bich, không có gì là khôn khéo cả.
    - Bà nói tiết mục của người gù có phải không ?
    Nhớ rằng Ruồi trâu đặc biệt nhạy cảm về sự tàn tật của mình, Giêma hết sức tránh không nói tới tiết mục ấy. Nhưng chính Ruồi trâu lại nhắc đến vai gù nên chị đành phải trả lời :
    - Vâng, tôi không thích tiết mục ấy một chút nào.
    - Nhưng đó lại là tiết mục mua vui cho công chúng nhiều nhất.
    - Tôi dám cả quyết rằng cái tệ là ở đó.
    - Tại sao cơ ? Có phải tại tiết mục của anh ta không có chút nghệ thuật nào chăng ?
    - Tiết mục nào cũng phi nghệ thuật cả. Nhưng tôi muốn nói rằng : tại vì nó tàn nhẫn...
    Ruồi trâu mỉm cười.
    - Tàn nhẫn ? Đối với người gù có phải không ?
    - Tôi muốn nói là... Dĩ nhiên, chính anh ta thì rất bình thản trước sự tàn nhẫn đó. Đối với anh ta , đó chính là một cách kiếm ăn, không khác gì người đi ngựa phải nhảy và cô gái phải đóng vai Cô-lôm-bi-na. Nhưng nó làm cho tâm hồn người ta thấy nặng nề. Đó thật là nhục nhã. Đó là một sự sa sút của con người.
    - Trước khi bắt đầu đi làm trò, chưa chắc anh ta đã sa sút đếnt hế. Số đông chúng ta đều có sa sút cách này hay cách khác.
    - Phải, nhưng ở đây... Có lẽ ông thì ông cho đó là một thành kiến vô lý nhưng tôi thì tôi cả quyết rằng thể xác con người là rất thiêng liêng. Khi thấy người ta giày xéo và bôi nhọ thể xác con người tôi không sao chịu nổi.
    - Thế còn linh hồn con người ?
    Ruồi trâu đứng sững lại, một tay tựa vào lan can bên bờ sông, nhìn thẳng vào mặt Giêma.
    - Linh hồn ư ?
    Chị nhắc lại và cũng dừng bước, ngạc nhiên quay lại nhìn anh. Ruồi trâu vung hai tay, đột nhiên trở nên sôi nổi :
    - Vậy bà chưa hề nghĩ rằng vai hề khốn khổ ấy có thể có một linh hồn, một linh hồn sống, một linh hồn chiến đấu của con người , một linh hồn bị trói chặt vào một thể xác méo mó và bị buộc phải phục vụ cho vai hề ấy như một kẻ nô lệ hay sao ? Bà là một người đa cảm biết xót thương thể xác trong tấm áo lố lăng treo đầy nhạc ngựa của vai hề ấy. Vậy có bao giờ bà nghĩ tới một linh hồn bất hạnh không có lấy một manh áo sặc sỡ ấy để che lấp cái trần trụi ghê gớm của nó không ? Bà thử nghĩ xem, khi linh hồn đó run rảy vì rét mướt khi linh hồn đó đau khổ vì nghèo hèn và hổ thẹn trước mặt mọi người, khi những lời nhạo báng quất vào linh hồn đó như một ngọn roi da, khi tiếng cười đốt cháy linh hồn đó như một mũi dùi nung đỏ xiên vào da thịt ? Bà thử nghĩ xem lúc ấy linh hồn đó tuyệt vọng nhìn bốn xung quanh , nhìn lên núi cao nhưng núi cao không muốn sụp xuống, nhìn vào vách đá nhưng đá không lăn lại để che chở cho mình; linh hồn đó ước ao cả kiếp làm chuột nhắt vì chuột nhắt còn có thể chui vào tổ mà lẩn tránh. Và bà nên nhớ rằng linh hồn vốn câm lặng không biết nói, nó không kêu la được. Linh hồn phải chịu đựng và chịu đựng mãi...Ồ! Có lẽ tôi lại nói nhảm rồi... Tại sao bà lại không cười nhỉ ? Bà thật thiếu tính cười đùa.
    Giêma chậm rãi quay đi và lặng lẽ bước. Suốt buổi chiều nay, chị không hề nghĩ rằng nỗi lòng phiền muộn của Ruồi trâu lại có liên quan tới gánh xiếc rong. Và giờ đây, khi chị đã thấy được một cảnh tượng mờ mờ trong nội tâm của Ruồi trâu lộ ra qua thái độ sôi nổi bất ngờ ấy, thì chị không biết lấy gì mà an ủi anh, mặc dù lòng chị dạt dào xót thương. Ruồi trâu bước bên cạnh chị, mặt quay đi, nhìn xuống nước.
    Bỗng nhiên, anh quay lại nhìn Giêma đầy vẻ thách thức :
    - Mong bà hiểu cho những điều tôi vừa nói chỉ thuần túy là tưởng tượng. Tôi rất ưa tưởng tượng nhưng lại không thích người ta cho những điều tưởng tượng của tôi là thật.
    Giêma không đáp. Hai người cứ lặng lẽ cất bước. Khi đi qua cổng lớn cạnh cung điện Up-phi-tsi bỗng Ruồi trâu rảo bước qua đường. Anh cúi nhìn một vật gì đen đen nằm bên cạnh hàng rào sắt.
  5. silver_light

    silver_light Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/11/2005
    Bài viết:
    203
    Đã được thích:
    0
    - Làm sao thế hở cháu ?
    Ruồi trâu hỏi bằng một giọng rất dịu dàng mà Giêma chưa nghe thấy bao giờ.
    - Tại sao cháu không về nhà.
    Vật đen ấy động đậy.Một tiếng rên khe khẽ. Giêma lại gần và thấy một em bé chừng sáu tuổi, rách rưới, bẩn thỉu nằm nép vào hàng rào như một con thú nhỏ đang khiếp sợ. Ruồi trâu đứng bên cúi xuống vuốt mái tóc rối tung của nó.
    - Sao thế hở cháu ?
    Ruồi trâu nhắc lại và cúi thấp hơn để nghe rõ tiếng trả lời yếu ớt.
    - Cháu phải về đi ngủ thôi. Đêm, trẻ con không nên ra đường. Ở đây thì chết rét mất. Đưa tay đây cho chú, đứng dậy như người lớn ấy nào ! Nhà cháu ở đâu ?
    Ruồi trâu nắm lấy tay em bé để nâng nó dậy, nhưng nó hét lên rồi lại nằm phục xuống đất.
    - Sao, cháu làm sao thế ?
    Ruồi trâu quỳ xuống sát cạnh đứa bé.
    - Trời, bà nhìn xem !
    Vai em bé và chiếc áo ngắn của nó đầy máu.
    Ruồi trâu lại âu yếm hỏi :
    - Cháu làm sao thế, nói đi ! Cháu ngã có phải không ?...Không phải à ?...Ai đánh cháu chứ gì ?...Chắc là thế. Ai đánh cháu thế ?
    - Bác cháu đánh.
    - À ra thế ! Đánh bao giờ ?
    - Ban sáng. Bác ấy say rượu, cháu, cháu...
    - Cháu lại đứng gần bác ấy phải không ? Chớ đứng gần người say rượu cháu ạ ! Người say họ không thích thế đâu...Bà xem làm thế nào bây giờ nhỉ ? Nào cháu đi ra chỗ sáng cho chú xem vai cháu nào. Ôm lấy cổ chú, đừng sợ... Thế, được rồi.
    Ruồi trâu ẵm em bé qua phố, đặt nó ngồi lên một lan can bằng đá rộng. Anh rút dao díp khỏi túi, lanh lẹ cắt ống tay áo rách, ghì đầu em bé vào ngực mình; Giêma nâng cánh tay bị thương của em. Vai em bị đánh thâm tím, sưng vù. Trên cánh tay còn có một vết thương khá sâu.
    - Nhóc con thế này mà bị đánh tệ thế !
    Ruồi trâu vừa nói vừa lấy khăn của mình quấn cho áo khỏi chà sát vào vết thương.
    - Bác ấy đánh cháu bằng gì ?
    - Bằng xẻng. Cháu hỏi xin bác ấy một xu để mua quà thế mà bác ấy lấy xẻng đánh cháu.
    Ruồi trâu rùng mình. Anh êm ái nói :
    - Ừ, cháu bị đánh đau quá đấy, cháu nhỉ ?
    - Bác ấy lấy xẻng đánh cháu, cháu...cháu chạy mất vì bác ấy đánh cháu.
    - Suốt ngày cháu phải nhịn đói lang thang khắp phố à ?
    Em nhỉ chỉ khóc nức nở, không trả lời. Ruồi trâu ẵm nó khỏi lan can bằng đá :
    - Thôi, cháu đừng khóc, đừng khóc nữa ! Không sao đâu. Làm thế nào gọi được xe bây giờ ? Rạp hát hôm nay có biểu diễn lớn chắc đông người xem, xe ở đó cả. Xin lỗi bà, tôi đã lôi bà đi hết chỗ nọ đến chỗ kia, nhưng...
    - Tôi sẵn lòng đi với ông. Chắc ông cũng cần tôi giúp. Ông có bế được nó đến nơi không ? Có nặng không ?
    - Không sao, tôi bế được, bà cứ yên tâm.
    Trước cửa rạp hát chỉ còn mấy chiếc xe nhưng người ta thuê cả rồi.
    Buổi hát đã tan, phần lớn người xem đã ra về. Tên của Di-ta được in bằng chữ lớn trên các tời quảng cáo cạnh lối ra vào. Di-ta biểu diễn vở ba lê tối nay. Ruồi trâu bảo Giêma chờ một chút rồi tiến tới lối ra vào của nghệ sĩ và hỏi người phục vụ :
    - Bà Rê-ni về chưa ?
    Người đó giương mắt nhìn cảnh tượng một vị ăn mặc sang trọng tay ẵm một đứa trẻ lang thang rách rưới, trả lời :
    - Thưa ông, chưa ạ ! Bà ấy sắp ra. Xe còn đang đợi...Kìa bà ấy đã ra kia rồi.
    Di-ta khoác tay một vị sĩ quan kị binh trẻ tuổi, bước xuống bậc thang. Trông nàng thật lộng lẫy trong chiếc măngtô nhung đỏ khóac trên bộ y phục dạ hội với một chiếc quạt lông đà điểu to giắt bên mình.
    Cô gái tsi-gan dừng bước ở cửa. Nàng rút tay ra khỏi cánh tay viên sĩ quan rất ngạc nhiên rảo bước tới chỗ ruồi trâu.
    Nàng khẽ mói :
    - Phi-lê-trê ! Ông ôm cái gì thế ?
    - Tôi bắt gặp em bé này ngoài phố. Nó bị đánh đau lắm và đói nữa. Tôi phải đưa nó ngay về nhà càng sớm càng hay. Không còn chiếc xe nào cả. Chị nhường xe cho tôi nhé !
    - Phi-lê-trê ! Ông định mang thằng bé ăn mày kinh tởm này về nhà đấy à ? Nên gọi cảnh sát tới cho họ mang nó vào nhà tế bần hoặc mang đi đau thì mang. Người ăn xin đầy thành phố thì làm sao rước về nhà cho hết được...
    - Em bé bị thương đau lắm. Nếu cần thì sáng mai đưa nó vào nhà tế bần cũng được. Nhưng bây giờ phải băng bó và cho nó ăn đã.
    Di-ta nhăn mặt với một vẻ khinh ghét :
    - Ông trông kìa ! Nó gục đầu vào người ông mà sao ông chịu để yên ? Bẩn thế kia kìa !
    Ruồi trâu ngẩng đầu nhìn Ri-ta đôi mắt tóe một tia lửa giận dữ. Anh giật giọng :
    - Thằng bé đang đói ! Chị không hiểu đói là gì hay sao ?
    Giêma tiến lại xen lời :
    - Ông Ri-va-ret ! Nhà tôi rất gần đây. Đưa em bé về nhà tôi. Nếu chưa kiếm được xe thì để nó ngủ ở nhà tôi một đêm...
    Ruồi trâu quay ngoắt lại phía chị :
    - Bà không khinh nó ư ?
    - Tất nhiên là không... Xin chào bà Rê-ni !
    Vũ nữ tsi-gan lạnh lùng gật đầu nhún vai. Nàng lại khoác tay viên sĩ quan, cuốn tà váy, lòa xòa tiến lại cỗ xe ngựa mà người ta định cuỗm mất.
    Nàng ngoái cổ lại ở bậc xe :
    - Ông Ri-va-rét nếu ông cần thì tôi sẽ cho xe lại đón ông và đứa bé.
    - Được. Tôi sẽ bảo chỗ cho xe đến.
    Anh ra bờ đường bào cho người xà ích biết địa chỉ rồi trở lại với Giêma, tay vẫn ôm đứa bé.
    Kê-ti đợi chủ ở nhà. Nghe rõ đầu đuôi câu chuyên, cô liền chạy đi lấy nước nóng và lấy các đồ băng bó.
    Ruồi trâu đặt em bé ngồi lên ghế, quỳ xuống bên cạnh và lẹ làng cởi bỏ bộ quần áo rách của em ra. Anh nhẹ nhàng khéo léo rửa và băng vết thương. Khi Giêma mang khay thức ăn vào phòng thì anh vừa tắm rửa xong cho em bé và lấy chăn ấm bọc cho nó.
    - Sao ? Có thể cho bệnh nhân của ông ăn được rồi chứ ? - Chị cất tiếng hỏi rồi mỉm cười với chú bé - Tôi đã làm cơm cho em bé rồi đây.
    Ruồi trâu đứng dậy, thu nhặt các mảnh giẻ rách trên sàn.
    - Bà trông chúng tôi bày bừa hết ra đây rôi ! Phải đem đốt sạch nhưng giẻ rách này rồi mai mua cho nó một bộ đồ mới. Bà có rượu mạnh không ? Cho chú bé tội nghiệp này một ngụm thì tốt quá. Còn tôi thì xin phép bà đi rửa tay.
    Ăn xong, đứa bé ngủ thiếp ngay trên lòng Ruồi trâu , gục đầu mái tóc rối bù vào chiếc áo sơ mi trắng muốt của anh. Giêma giúp Kê-ti dọn dẹp sạch sẽ trong phòng rồi lại ngồi vào bàn.
    - Ông Ri-va-ret, ông phải ăn chút gì rồi hãy về. Lúc nãy ông chưa ăn được gì mà bây giờ thì khuya lắm rồi.
    - Tôi sẵn lòng xin uống một chén trà. Đã khuya mà còn phiền bà quá !
    - Không hề gì ! Ông đặt em bé xuống đi văng một tí, bế mãi nặng. Nhưng ông chờ cho một lát tôi lấy tấm chăn phủ đệm đã...Ông định ngày mai sẽ thế nào ?
    - Mai à ? Mai tôi xem ngoài con ma men ấy em còn người thân thích nào không, nếu không thì có lẽ phải theo lời khuyên của bà Rê-ni đưa nó vào nhà tế bần. Kể ra, đúng hơn cả là buộc cho nó một hòn đá vào cổ rồi quẳng xuống sông. Nhưng làm thế thì tôi sẽ phải chịu những hậu quả không hay...Ngủ say chưa này ! Thật khổ thân cho thằng bé xấu số ! Mày yếu lom nhom như một chú mèo con thì chống cự sao nổi !
    Khi Kê-ti bưng trà lên thì chú bé vừa mở mắt, ngồi nhỏm dậy, ngơ ngác nhìn bốn phía. Trông thấy Ruồi trâu nay đã trở thành người che chở tự nhiên đối với nó, nó bò khỏi đi văng lúng túng trong tấm chăn, đến nép chặt vào Ruồi trâu. Chú bé đã tươi tỉnh và đủ sức hỏi những câu tò mò. Em chỉ vào bàn tay trái méo mó đang cầm chiếc bánh ngọt của Ruồi trâu mà hỏi :
    - Cái gì đây hả chú ?
    - Cái này ư ? Bánh ngọt đây. Cháu có muốn ăn không ? Thôi, hôm nay ăn thế là đủ rồi. Mai hãy ăn, cháu ạ !
    - Không, cái này cơ !
    Chú đưa tay sờ vào mấy ngón tay cụt và vết sẹo lớn ở cổ tay Ruồi trâu .
    Ruồi trâu bèn đặt miếng bánh lên bàn.
    - À cái này ấy à ! Nó cũng giống như cái ở vai cháu ấy mà. Một người khỏe hơn chú đã đánh chú thành sẹo như thế đấy.
    - Thế chú có đau lắm không ?
    - Chú không nhớ. Nhưng có nhiều cái còn đau hơn, cháu ạ. Thôi bây giờ đi ngủ đi không hỏi lôi thôi nữa, khuya rồi.
    Khi xe tới, em bé đã ngủ say. Ruồi trâu cố tránh cho em khỏi thức giấc, nhẹ nhàng bế em xuống dưới nhà.
    Dừng bước ở cửa, anh nói với Giêma :
    - Hôm nay bà là thiên thần phù hộ cho tôi. Nhưng tất nhiên điều đó chưa làm cho bà và tôi sau này hết tha hồ cãi nhau đâu.
    - Tôi chẳng muốn cãi cọ với ai cả.
    - Nhưng tôi lại cứ muốn cãi nhau cơ. Đời mà không có chuyện cãi cọ với nhau thì không sao chịu nổi. Cãi nhau một cách lành mạnh là điều không thể thiếu trên đời này. Nó còn hay hơn cả xiếc nữa kia !
    Ruồi trâu khẽ cười một mình rồi đi xuống thang gác. Chú bé vẫn ngủ say trong tay anh.
  6. htre

    htre Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2006
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
    Silver_light cố lên, Sleeping_sun cố lên, có thêm tớ nữa đợi truyện 2 bạn post.
    Được htre sửa chữa / chuyển vào 13:15 ngày 30/03/2006
  7. silver_light

    silver_light Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/11/2005
    Bài viết:
    203
    Đã được thích:
    0
    VII​
    Một ngày vào thượng tuần tháng giêng, Mac-ti-ni gửi giấy mời mọi người tới họp phiên thường kỳ hàng tháng của tiểu ban văn học. Thư trả lời của Ruồi trâu là một mẩu giấy có mấy chữ vắn tắt bằng bút chì : " Rất lấy làm tiếc. Tôi không đến được". Thái độ khinh mạn đó của Ruồi trâu làm cho Mac-ti-ni phát cáu, vì trong giấy mời ghi rõ là "rất quan trọng". Hơn nữa, trong ngày hôm ấy Mac-ti-ni còn nhận được ba bức thư khác toàn báo những tin không hay. Lại thêm trời nổi gió đông. (Ở Ý nổi gió đông thì rất khó chịu, khô và nhiều cát bụi). Tất cả những cái đó làm cho Mac-ti-ni cảm thấy trong người vừa khó chịu vừa không vui. Vì vậy khi bác sĩ Ri-cac-đô hỏi Ri-va-ret có đến hay không thì Mac-ti-ni bực tức trả lời :
    - Không. Chắc ông ta đã tìm được một trò thú vị hơn rồi. Ông ta không đến được hoặc nói đúng hơn là không muốn đến.
    Ga-li gắt :
    - Mac-ti-ni, cả Phơ-lô-răng-xơ này có lẽ chẳng ai thành kiến như anh. Anh không ưa ai là y như người ấy làm gì cũng xấu cả. Ri-va-ret ốm thì đến làm sao được ?
    - Ai bảo anh thế ?
    - Anh không biết à ? Ông ta nằm liệt giường bốn ngày hôm nay rồi.
    - Ông ta làm sao ?
    - Không rõ. Đáng lẽ thứ năm ông ta gặp tôi nhưng vì ốm nên phải hoãn. Tối hôm qua tôi đến thăm, người nhà nói rằng ông ta rất mệt không thể tiếp ai được. Tôi tưởng là Ri-cac-đô có đến thăm bệnh cho ông ta.
    - Tôi chẳng biết gì sất cả. Tối nay tôi đến xem ông ta có cần gì không.
    Sáng hôm sau Ri-cac-đô có vẻ bơ phờ, mệt mỏi bước vào căn phòng nhỏ của Giêma. Chị đang ngồi cạnh bàn, đều giọng đọc những con số cho Mac-ti-ni, còn Mac-ti-ni thì một tay cầm kính lúp, một tay cầm bút chì nhọn viết các con số ấy thành chữ nhỏ li ti lên một trang sách. Giêma giơ tay ra hiệu. Ri-cac-đô hiểu rằng không nên quấy rầy người viết mật mã bèn ngồi xuống đi văng đằng sau Giêma. Ri-cac-đô ngáp dài, cố giữ cho khỏi ngủ gật.
    - 2,4; 3,7; 6,1;3,5; 4,1; - Giêma tiếp tục đọc đều đặn như máy - 8,4; 7,2; 5,1. Thôi Xê-da đến đây là hết câu đấy.
    Chị lấy kim găm đánh dấu đoạn đã đọc xong và quay lại phía Ri-cac-đô.
    - Chào bác sĩ. Sao trông anh phờ phạc thế ? Anh có được khỏe không ?
    - Không, tôi vẫn khỏe nhưng mệt lắm. Tôi vừa qua một đêm khủng khiếp với Ri-va-ret
    - Với Ri-va-ret ?
    - Phải. Tôi ngồi bên ông ta thâu đêm suốt sáng, bây giờ lại phải vào bệnh viện làm việc. Tôi rẽ qua chị để hỏi xem có ai trông nom được ông ta trong vài ngày không, bệnh ông ta nặng lắm. Tất nhiên tôi hết sức chữa chạy nhưng không đủ thời giờ, mà ông ta thì cứ khăng khăng không chịu cho các chị hộ lý đến trông nom.
    - Ông ta làm sao thế ?
    - Chứng bệnh của ông ta rất phức tạp. Trước hết là...
    - Trước hết là anh đã ăn sáng chưa ?
    - Rồi, cảm ơn chị. Để tôi nói nốt về Ri-va-ret...Chứng bệnh của ông ta phức tạp chắc chắn là do thần kinh bị rối loạn. Nhưng nguyên nhân chính là vết thương cũ không băng bó kỹ lúc đầu, nay tấy lên. Tóm lại sức khỏe của ông ta rất đáng ngại. Chắc ông ta bị thương từ hồi chiến tranh ở Nam Mỹ. Bấy giờ không chữa cẩn thận, chỉ băng bó qua loa nên mới đến nỗi như thế. Còn sống sót được như thế thì kể cũng thật may mắn. Vết thương biến thành viêm kinh niên và thỉnh thoảng lại tấy lên nên hơi bị kích thích một tý là lại tái phát.
    - Có nguy hiểm không ?
    - Không...không...Trong những trường hợp như vậy chỉ nguy hiểm ở chỗ con bệnh đau quá không chịu nổi và có thể uống thuốc độc tự tử.
    - Nghĩa là ông ta đau lắm có phải không ?
    - Đau dữ dội ! Tôi lấy làm lạ tại sao ông ta chịu đựng nổi. Tối qua, tôi đã phải cho uống thuốc phiện. Tôi thường rất không muốn cho con bệnh thần kinh dùng thuốc phiện nhưng cũng đành phải cho uống để bớt đau.
    - Chắc ông ta còn bị rối loạn thần kinh nữa ?
    - Tất nhiên. Nhưng con người ấy quả có một nghị lực phi thường. Chừng nào ông ta chưa bị ngất lịm đi thì ai cũng phải kinh ngạc về sức chịu đựng của ông ta. Nhưng chính vì thế mà tôi phải ở liền suốt đêm với ông ta ! Các anh các chị có biết ông ta ốm từ bao giờ không ? Năm hôm rồi. Mà nhà ông ta chẳng có ai trừ một mụ chủ nhà ngu ngốc, ngủ say đến đổ nhà cũng chẳng biết. Ngữ ấy có tỉnh thì cũng chẳng giúp được việc gì.
    - Thế còn cô vũ nữ đâu ?
    - Ấy thế mới là kỳ quặc ! Ông ta không để cho cô ta đến. Hình như đối với cô ấy, Ri-va-ret có điều gì như ghê sợ thì phải. Ông ta quả là một trong những người khó hiểu nhất mà tôi từng thấy, thật là một đống mâu thuẫn !
    Ri-cac-đô rút đồng hồ chăm chú nhìn với vẻ lo âu, rồi tiếp :
    - Thế này thì tôi đến bệnh viện chắc sẽ bị chậm, nhưng đành vậy chứ biết làm sao. Chắc bác sĩ giúp việc sẽ phải bắt đầu khám bệnh một mình. Tiếc rằng tôi không được biết sớm. Bệnh này lẽ ra không nên để kéo dài đêm này qua đêm khác.
    Mac-ti-ni xen lời :
    - Nhưng tại sao ông ấy không cho người đến báo tin ốm ? Chính Ri-va-ret cũng phải hiểu rằng không ai lại vứt bỏ ông ta một mình như thế chứ ?
    Giêma nói :
    - Mà cả bác sĩ nữa, tại sao đêm qua không cho người đến gọi chúng tôi mà cứ ngồi trông nom một mình như thế cho mệt.
    - Thưa bà chị, tôi đã định cho người đi tìm Ga-li nhưng vừa ướm lời thì Ri-va-ret đã làm ầm lên nên tôi phải thôi ngay. Khi tôi hỏi ông ta muốn cho ai đến thì ông ta sợ hãi nhìn tôi, tay che mặt nói :" Ông đừng nói cho họ biết, họ sẽ cười tôi". Hình như ông ta luôn luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ cho rằng người ta cười mình chuyện gì. Tôi cũng chẳng hiểu ai cười ông ta cái gì được. Lúc nào Ri-va-ret cũng nói tiếng Tây ban nha. Người bệnh thì bao giờ chẳng nói lăng nhăng đủ thứ.
    - Bây giờ có ai với ông ta không ?
    - Chỉ có mụ chủ nhà với đứa ở gái của mụ ấy.
    Mac-ti-ni nói :
    - Để tôi đi cho.
    - Cám ơn anh. Chiều nay tôi sẽ tới thăm lại. Anh tìm đơn thuốc của tôi ở ngăn kéo bàn cạnh cửa sổ và thuốc phiện để trên giá phòng bên. Nếu lại đau thì cho ông ta uống một liều và chỉ một liều thôi. Nhưng nhất thiết đừng để Ri-va-ret trông thấy lọ thuốc kẻo ông ta lại đòi uống nhiều hơn...
    Khi Mac-ti-ni bước vào căn phòng tranh tối tranh sáng. Ruồi trâu quay ngoắt đầu đi. Anh chìa bàn tay nóng bỏng và cố giữ vẻ ngạo mạn thường ngày mà không sao giữ nổi.
    - À, Mac-ti-ni ! Chắc ông đến để giục tôi về chuyện sửa bài chứ gì ? Ông đừng trách tôi đã bỏ phiên họp của tiểu ban hôm qua nhé ! Tôi không khỏe lắm và...
    - Thôi, nói tới chuyện tiểu ban làm gì ! Tôi vừa gặp Ri-cac-đô nên đến xem có giúp được ông gì không.
    Mặt Ruồi trâu sắt lại như một viên đá lửa.
    - Ồ, vậy à ? Ông thật có nhã ý. Nhưng xin ông đừng lo. Tôi chỉ hơi khó chịu thôi.
    - Ri-cac-đô cũng bảo tôi thế. Có phải ông ấy đã ở đây với ông suốt đêm không ?
    Ruồi trâu cắn chặt lấy môi :
    - Cám ơn ông. Bây giờ tôi dễ chịu nhiều rồi, không cần gì cả.
    - Tốt lắm ! Vậy tôi sang ngồi tạm ở phòng bên. Có lẽ để ông nằm một mình thì tốt hơn. Tôi để hé cửa để ông có thể gọi tôi.
    - Xin ông chớ phiền. Thật tôi không cần chút gì cả. Tôi không dám làm ông phí thời giờ vô ích.
    Mac-ti-ni liền xẵng giọng ngắt lời :
    - Ông đừng nói nhảm nữa ! Che mắt tôi mà làm gì ? Ông tưởng tôi mù hay sao ? Thôi, ông nằm im mà cố ngủ đi.
    Mac-ti-ni sang phòng bên, bỏ ngỏ cửa ngồi xuống ghế với một cuốn sách. Chẳng bao lâu anh đã tháy Ruồi trâu lăn lộn trên giường hai ba lần liền. Anh bỏ sách, lắng nghe. Trong phòng im lặng một lát nhưng rồi lại có tiếng lăn lộn, tiếng thở hổn hển, gấp gáp nặng nhọc dường như Ri-va-ret nghiến chặt răng để nén những tiếng rên. Mac-ti-ni trở vào phòng.
    - Ri-va-ret, ông có cần tôi giúp gì không ?
    Không thấy tiến trả lời, Mac-ti-ni bèn tiến đến bên giường. Mặt tái nhợt như con ma, Ruồi trâu nhìn anh một lát rồi lặng lẽ lắc đầu.
    - Lấy thuốc phiện cho ông uống nữa nhé ? Ri-cac-đô bào nếu đau quá thì có thể uống.
    - Không, cám ơn ông. Tôi còn chịu được. Chốc nữa có thể còn đau hơn....
    Mac-ti-ni nhún vai ngồi xuống cạnh giường. Một tiếng đồn hồ trôi qua đối với anh dường như dài vô tận. Anh lẳng lặng xem xét người bệnh rồi đứng dậy mang thuốc phiện đến :
    - Ri-va-ret ! Tôi không thể để ông cứ như thế được nữa. Dù ông có chịu nổi đi nữa, nhưng tôi không chịu được. Ông uống đi thôi.
    Không nói một lời, Ruồi trâu uống thuốc. Rồi anh quay đi, nhắm mắt lại. Mac-ti-ni lại ngồi. Hơi thở của người bệnh dần dần trở nên dài và đều hơn. Ruồi trâu mệt quá thiếp đi, ngủ li bì. Hết giờ nọ qua giờ kia anh vẫn không hề nhúc nhích. Trưa rồi lại chiều, Mac-ti-ni nhiều lần lại bên giường nhìn vào thân hình không động đậy đó. Ngoài hơi thở anh nhận thấy cơ thể ấy không có một dấu hiệu gì của sự sống cả. Gương mặt của Ruồi trâu làm cho Mac-ti-ni bỗng dưng hoảng sợ. Hay là mình cho ông ta uống thuốc phiện quá liều rồi chăng ? Cánh tay trái tàn tật của Ruồi trâu đặt trên chăn, Mac-ti-ni nhẹ nhàng lắc cánh tay ấy, định đánh thức Ruồi trâu. Ống tay áo tụt xuống để lộ rõ những vết sẹo sâu hoắm khủng khiếp, chằng chịt suốt từ cổ tay tới tận bả vai.
    Bỗng đằng sau tiếng Ri-cac-đô vang lên :
    - Khi những vết thương này còn mới thì chắc cánh tay này trông hay đáo để đấy.
    - À, anh đã đến đấy à ? Ri-cac-đô, anh xem, ông ta cứ ngủ mãi thế này à ? Cách đây chừng mười tiếng tôi cho ông ấy uống thuốc phiện. Và từ đó ông ấy chẳng nhúc nhích tí nào.
    Ri-cac-đô cúi xuống lắng nghe trong giây lát :
    - Không sao, thở đều lắm, chỉ vì tối qua bị kiệt sức đó thôi, sau một đêm như thế còn gì nữa. Đến gần sáng có thể còn lên cơn nữa. Chắc sẽ có người lại ngồi trông ông ấy nữa chứ ?
    - Ga-li sẽ đến túc trực. Anh ấy cho người đến báo khoảng mười giờ sẽ tới.
    - Bây giờ gần mười giờ rồi...À, ông ấy tỉnh rồi ! Anh bảo nhà bếp có đưa xúp lên thì phải cho thật nóng nhé...Bình tĩnh, bình tĩnh, Ri-va-ret ! Chớ, chớ ! Ông chớ có đập phá, tôi không phải là một vị giám mục đâu.
    Ruồi trâu bỗng nhiên nhỏm dậy, đôi mắt kinh hoàng nhìn thằng phía trước.
    Anh gấp gáp nói bằng tiến Tây Ban Nha :
    - Đến lượt tôi ra có phải không ? Cứ để công chúng vui chơi một chút đã. Tôi...À ! Tôi không nhận ra ông nữa, Ri-cac-đô.
    Anh ngó quanh phòng rồi lấy tay sờ trán, dường như không hiểu có chuyện gì xảy ra.
    - Mac-ti-ni ! Tôi tưởng ông đi từ lâu rồi ! Chắc là tôi ngủ say quá...
    - Chứ còn gì nữa ! Như Hằng Nga ngủ trong rừng vậy ! Mười tiếng đồng hồ liền ! Bây giờ ông ăn xúp rồi lại ngủ nữa đi.
    - Mười tiếng à ? Mac-ti-ni, ông vẫn ở đây suốt mười tiếng đấy à ?
    - Phải, tôi đã sợ rằng cho ông uống thuốc phiện quá liều.
    Ruồi trâu hóm hỉnh nhìn Mac-ti-ni :
    - Tôi chưa được cái may mắn đó ! Dù có như vậy chăng nữa thì không có tôi, các buổi họp tiểu ban của các ông sẽ bình an vô sự biết bao nhiêu !...Ri-cac-đô, ông cứ bám lấy tôi làm quái gì mãi thế ? Thôi làm phúc để cho tôi yên thân đi ! Tôi rất ghét để cho các thầy thuốc giày vò.
    - Được, uống cái này đi rồi tôi để cho ông yên thân. Nhưng một hai ngày nữa tôi lại đến kiểm tra ông cẩn thận đấy. Chắc phút nguy kịch nhất đã qua rồi. : Bây giờ trông ông không giống thần chết nữa rồi.
    - Tôi khỏe ngay bây giờ đây mà, cảm ơn ông...Ai đây ? Ga-li hả ?Trời, hôm nay thật là gặp hội mưa rào, khách quý đến tới tấp.
    - Tôi ở lại trông nom ông đêm nay.
    - Bậy nào ! Tôi chẳng cần ai trông. Cả lũ các ông về đi. Nếu còn lên cơn nữa thì các ông cũng chẳng làm gì được. Tôi chẳng uống thuốc phiện nữa đâu. Thuốc phiện chỉ uống một lần là tốt thôi.
    Ri-cac-đô nói :
    - Phải, ông nói đúng. Nhưng kiên quyết như thế không phải là dễ.
    Ruồi trâu nhìn lên, mỉm cười :
    - Ông đừng sợ. Nếu tôit thích thuốc phiện thì tôi nghiện từ lâu rồi.
    Ri-cac-đô trả lời khô khan :
    - Nhưng dù sao chúng tôi cũng chẳng để ông một mình đâu. Ga-li sang phòng bên cạnh một phút, tôi muốn nói chuyện với anh. Ri-va-ret, chúc ông ngủ ngon nhé ! Mai tôi lại đến thăm.
    Mac-ti-ni đã định bước theo Ri-cac-đô nhưng Ruồi trâu khẽ gọi anh lại, chìa tay nói :
    - Cám ơn ông.
    - Thôi, nói nhảm mãi ! Ngủ đi.
    Ri-cac-đô ra về còn Mac-ti-ni nán lại nói chuyện với Ga-li ở phòng ngoài. Mấy phút sau, Mac-ti-ni ra mở cửa thì một cỗ xe ngựa tiến đến cổng vườn rồi bóng một thiếu phụ bước ra, đi vào nhà. Té ra là Di-ta. Hẳn là nàng vừa dự một buổi dạ hội nào về. Mac-ti-ni nâng mũ, đứng sang một bên nhường lối. Rồi anh qua vườn rẽ vào một ngõ tối, đảo về phía núi Đế quốc. Vừa đi được mấy bước thì bỗng nghe thấy đằng sau có tiếng cánh cổng lạch cạch và tiếng bước vội vàng trong ngõ hẻm..
    Di-ta gọi :
    - Ông chừ tôi một phút.
    Mac-ti-ni vừa quay lại thì nàng cũng dừng bước rồi từ từ tiến đến, một tay để sau lưng, men theo hàng rào. Ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn độc nhất ở góc phố vẫn đủ để Mac-ti-ni thấy người vũ nữ cúi đầu bước tới như lúng túng hoặc ngượng ngiụ điều gì.
    Mặt cúi gằm, nàng hỏi :
    - Ông ấy thế nào ?
    - Khá hơn buổi sáng nhiều. Ông ấy ngủ được suốt ngày hôm nay nên trông đã tươi tỉnh hơn trước. Chắc cơn đau đã qua đi rồi.
    Nàng vẫn nhìn xuống đất.
    - Ông ấy có đau lắm không ?
    - Đau lắm. Theo tôi thì không có gì đâu hơn thế nữa.
    - Tôi cũng nghĩ thế. Nếu ông ấy không để tôi vào thì nghĩa là ông ấy đau lắm.
    - Bệnh ông ấy có thường hay phát ra như thế không ?
    - Mỗi lúc một khác...Hè năm ngoái ở Thụy sĩ, ông ấy chẳng ốm chút nào, nhưng mùa đông trước, khi chúng tôi ở Viên thì thật kinh khủng. Mấy ngày liền ông ấy không cho tôi lại gần. Khi ông ấy ốm, có mặt tôi thì ông ấy không chịu được.
    Di-ta ngước nhìn Mac-ti-ni rồi lại cúi xuống ngay.
    - Khi ông ấy thấy mệt thì ông ấy tìm đủ cớ để bảo tôi đi nhảy, đi nghe hòa nhạc, hoặc đi đâu đó còn ông ta thì đóng cửa nằm khoèo. Nhưng rồi tôi lần về, ngồi ở trước cửa phòng và cứ ngồi như thế mãi. Ông ấy mà biết được thì nguy to. Con chó rền rĩ ngoài cửa ông ấy còn cho vào chứ tôi thì không được vào. Chắc ông ấy quý chó hơn...
    Tất cả những chuyện đó nàng kể với một giọng lạ lùng giận dỗi mà khinh bạc.
    Mac-ti-ni dịu dàng nói :
    - Tôi tin là ông ấy không đau nữa đâu. Bác sĩ Ri-cac-đô chăm sóc rất cẩn thận. Có lẽ chẳng bao lâu nữa thì ông ấy sẽ khỏe hẳn thôi.
    Nói chung là bây giờ đỡ nhiều rồi. Nhưng lần sau thì chị phải lập tức cho người đi gọi chúng tôi ngay. Nếu chúng tôi được biết sớm thì đâu đến nỗi đau lòng như thế. Thôi, xin chào chị.
    Mac-ti-ni chìa tay cho Di-ta nhưng nàng lùi lại, lắc đầu :
    - Tôi không hiểu tại sao ông lại muốn bắt tay tình nhân của Ri-va-ret !
    Mac-ti-ni luống cuống nói :
    - Cái đó thì tất nhiên là tùy chị.
    Di-ta dậm chân :
    - Tôi ghét các ông lắm !
    Nàng thét lên, mắt sáng quắc như hai hòn than rực đỏ :
    - Tôi ghét cả lũ các ông ! Các ông cứ đến nói chuyện chính trị với ông ấy mãi ! Ông ấy để các ông ngồi bên giường suốt đêm, để các ông đổ thuốc cho còn tôi thì chỉ đến nhìn ông ấy qua khe cửa cũng không dám ! Ông ấy là gì đối với các ông ? Ai cho các ông có quyền cướp Ri-va-ret của tôi đi ? Tôi căm ghét các ông ! ...Ghét ! Ghét lắm !
    Di-ta òa lên khóc nức nở, quay mình chạy vào trong vườn đóng sầm cửa lại trước mặt Mac-ti-ni.
    " Trời ! Ả này thật sự yêu ông ta rồi ! Thật là những câu chuyện hết sức lạ lùng..."
    Mac-ti-ni vừa nghĩ thầm như thế vừa bước vào ngõ tối.
  8. silver_light

    silver_light Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/11/2005
    Bài viết:
    203
    Đã được thích:
    0
    VIII​
    Ruồi trâu khỏi bệnh rất chóng. Một hôm đến thăm Ruồi trâu vào tuần tiếp theo Ri-cac-đô đã gặp anh mặc bộ quần áo ngủ kiểu Thổ nhĩ kỳ nằm ở đi văng nói chuyện với Mac-ti-ni và Ga-li, Ruồi trâu lại còn đòi ra ngoài trời nhưng Ri-cac-đô chỉ cười và hỏi đùa rằng Ruồi trâu có thích vượt qua đồi núi mà đi chơi Phê-dô-lê ngay lúc ấy không ?
    Ri-cac-đô tai quái nói thêm :
    - Ông còn có thể đến thăm ông bà Grat-xi-ni nữa ấy chứ. Tôi chắc bà ta sẽ rất mừng nhất là lúc này, mặt ông tái nhợt, trông thú vị lắm.
    Ruồi trâu chắp hai tay lại như đóng một bi kịch :
    - Trời ! Thế mà tôi không nghĩ tới ! Chắc bà ta sẽ cho tôi là một kẻ tử vì đạo người Ý và sẽ thuyết tôi hàng tràng về lòng yêu nước đấy. Tôi sẽ phải đóng vai kịch ấy và sẽ kể cho bà ta nghe rằng tôi sẽ bị xé ra từng mảnh ở một ngục tối dưới đất và chỉ mới được ghép lại qua loa thôi. Chắc bà ta cũng sẽ hỏi rõ cảm giác thật của tôi lúc đó ra sao. Ri-cac-đô, ông cho là bà ta sẽ không tin à ? Tôi đánh cuộc là bà ta tin được cả những sự dối trá thô sơ nhất mà tôi có thể bịa đặt ra. Tôi đặt cược con dao găm Ấn độ của tôi lấy con sán ngâm rượu trong phòng ông này. Lợi đấy, ông cược đi.
    - Cảm ơn ông, tôi không ham thích vũ khí giết người như ông.
    - Ồ, một ngày nào đó con sán cũng giết nguwoif như con dao găm vậy, chỉ tội nó không đẹp thôi.
    - Nhưng, ông bạn thân mến tôi không cần dao găm mà tôi cần con sán kia ! Mac-ti-ni, tôi phải đi đây. Anh đủ sức trông nom con bệnh ngổ ngáo này chứ ?
    - Được, nhưng chỉ đến ba giờ thôi. Từ ba giờ trở đi bà Bô-la sẽ đến thay vì tôi phải đi Xan Mi-ni-a-tô với Ga-li.
    - Bà Bô-la à ? - Ruồi trâu hoảng hốt nhắc lại - Không, Mac-ti-ni, không thể được ! Tôi không thể để cho phụ nữ săn sóc tôi và bệnh tật của tôi. Mà đến đây bà ấy ngồi vào đâu được ? Nhất định bà ấy không chịu vào đây đâu !
    Ri-cac-đô cười hỏi :
    - Ông khư khư giữ thói lịch sự ấy từ bao giờ ? Bà Bô-la là người hộ lý cốt cán của chúng tôi đấy. Bà ấy săn sóc người ốm từ thủa còn mặc váy ngắn. Tôi chưa thấy người hộ lý nào tốt hơn như thế. Nhất định không chịu vào buồng của ông à ? Ông định nói với bà Grat-xi-ni hay nói với ai thế ? Mac-ti-ni, nếu bà Bô-la tới thì không phải dặn gì bà ấy nhé...Chết chửa, hai giờ rưỡi rồi. Tôi phải đi đây.
    Ga-li lại gần đi văng với một chén thuốc trong tay :
    - Nào, Ri-va-ret, trước khi bà ấy đến ông phải uống thuốc đã.
    - Cứ thuốc với men mãi !
    Như tất cả những người bệnh đang bình phục khác, Ruồi trâu hay cáu gắt,làm cho những người hộ lý tận tình của ông phải bận tâm.
    - Không đau nữa rồi mà sao...sao các ông cứ bắt tôi...tôi nuốt những của gớm ghiếc này ?
    - Chính là để khỏi đau trở lại. Hay là ông lại muốn đau để bà Bô-la phải cho ông uống thuốc phiện ?
    - Thưa...thưa ông ! Nếu cơn đau trở lại thì có làm gì đi nữa nó cũng cứ trở lại như thường. Có phải như đau răng đâu mà có...có thể dùng những thứ thuốc...thuốc cao đan hoàn tán của các ông thì bớt đau được. Như thế không khác gì đem cái bơm nước của trẻ con mà chữa cháy. Nhưng thôi, việc của các ông là bắt tôi không uông không đươc thì tôi đành phải uống.
    Anh đưa tay trái lấy cốc. Những vết sẹo ghê gớm trên cánh tay làm Ga-li sực nhớ đến câu chuyện vừa rồi.
    Ga-li hỏi :
    - À, này, ông bị những vết thương này ở đâu đấy nhỉ ?
    Chắc là trong chiến tranh ?
    - Thì tôi vừa mới bảo rằng tôi bị ném xuống ngục tối dưới đất và...
    - Tôi biết. Nhưng đấy chỉ là cách ông nói với bà Grat-xi-ni thôi...Không, chắc là ông bị thương trong cuộc chiến tranh ở Bơ-rê-din chứ gì ?
    - Phải, phần vì chiến tranh ở Bơ-rê-din phần thì vì trong khi đi săn ở những nơi man rợ. Lý do nào cũng có cả.
    - À ! Trong khi đi thám hiểm phải không ?...Ông có thể gài cúc áo lại được. Xong rồi... Chắc lúc ấy cuộc đời ông sóng gió lắm nhỉ ?
    Ruồi trâu nhẹ nhàng nói :
    - Tất nhiên, sống ở những nơi man rợ thì không thể không mạo hiểm ít nhiều. Vả lại cũng phải nói rằng không phải cuộc mạo hiểm nào cũng đều vui thú cả.
    - Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao ông lại bị thương nhiều đến thế...trừ khi gặp nguy hiểm với bày thú dữ. Ví dụ như những sẹo ở tay trái chẳng hạn.
    - À, sẹo này tôi bị lúc đi săn bắn ở Châu Mỹ. Ông biết không lúc ấy tôi mới bắn một phát...
    Có tiếng gõ cửa.
    - Mac-ti-ni, ông trông trong phòng ngăn nắp cả rồi chứ ? Được rồi à ? Thế ông ra mở cửa hộ - Nói rồi, Ruồi trâu ngoảnh ra phía cửa - Thưa bà, bà thật có lòng tốt. Xin lỗi bà tôi không đứng dậy được.
    - Tất nhiên là ông không nên đứng dậy làm gì. Tôi có phải là khách đâu. - Rồi Giêma nhìn Mac-ti-ni - Xê-da, tôi đến sớm một chút, chắc là anh vội về ?
    - Không, còn mười lăm phút nữa. Chị để tôi cất hộ áo choàng sang phòng bên. Cả cái làn cũng đưa sang bên ấy nhé ?
    - Nhẹ tay chứ, trứng đấy. Trứng tươi lắm, Kê-ti mới mua ở núi O-li-vec-tô sáng nay đấy...Còn đây là những đóa hồng Nô-en. Ông Ri-va-ret ạ, tôi biết ông yêu hoa.
    Chị ngồi xuống cạnh bàn, cắt cuống hoa rồi cắm vào lọ. Ga-li lại nói :
    - Ri-va-ret, ông đang kể dở chuyện săn báo bên Mỹ. Chuyện ấy sau thế nào nữa ?
    - À, phải ! Thưa bà, ông Ga-li vừa hỏi tôi về quãng đời cũ của tôi ở Nam Mỹ. Tôi vừa bắt đầu kể tại sao tay trái tôi bị tật thế này. Hồi đó tôi ở Pê-ru. Muốn săn báo chúng tôi phải lội qua sông. Khi tôi bắn phát đầu tiên thì súng không nổ. Té ra thuốc súng bị ướt. Tất nhiên báo không đợi cho tôi kịp trở tay và kết quả là thế này đây.
    - Thật là một phen mạo hiểm thú vị.
    - Không, không đến nỗi ghê gớm như mọi người tưởng đâu. Tất nhiên là ngọt bùi cay đắng đủ mùi, nhưng nói chung cuộc sống rất hùng tráng. Ví dụ như đi săn rắn chẳng hạn...
    Ruồi trâu kể hết chuyện nọ đến chuyện kia, nào là chuyện chiến tranh Ác-giăng-tin, chuyện thám hiểm ở Bơ-rê-din, nào là chuyện tiếp xúc với giống người man rợ, chuyện săn thú dữ. Ga-li say mê như một đứa trẻ con nghe theo chuyện thần thoại, chốc chốc lại điểm một vài câu hỏi. Vốn giàu cảm xúc như mọi người dân Nê-a-pôn khác, Gali ưa thích tất cả những gì khác thường, nổi bật. Giêma lấy đồ đan trong làn ra đan và cũng im lặng nghe. Chị thoăn thoắt đưa những mũi kim, mắt không rời chiếc áo đang đan dở. Mac-ti-ni thì cau mày lại và trở mình không yên trên chiếc ghế. Anh cảm thấy có cái gì khoe khoang tự mãn trong những câu chuyện ấy. Mặc dù vậy, bất giác anh cũng khâm phục con người ấy, thấy con người ấy chịu được những sự đau đớn kinh khủng về thể xác với một nghị lực phi thường như chính mắt anh đã được thấy một tuần nay. Nhưng anh vẫn một mực không ưa Ruồi trâu, không ưa những việc làm và thái độ của Ruồi trâu.
    Ga-li thở dài tỏ vẻ thèm muốn một cách ngây thơ :
    - Thật là một cuộc sống huy hoàng ! Tôi lấy làm lạ tại sao sau đó ông lại rời Bơ-rê-din. Sau khi sống ở Bơ-rê-din thì sống ở các nước khác chăc sẽ buồn tẻ vô cùng !
    Ruồi trâu tiếp :
    - Có lẽ thú nhất là quãng đời ở Pê-ru và ở Ê-qua-tơ. Đấy mới thật là những nơi đẹp tuyệt trần ! Kể ra thì ở đó rất nóng như vùng biển ở Ê-qua-tơ chẳng hạn và điều kiện sống ở đó rất gay go. Nhưng cảnh thiên nhiên thì đẹp không thể tưởng tượng được.
    Ga-li nói :
    - Có lẽ tôi thích cuộc đời hoàn toàn phóng khoáng ở những nơi hoang vu ấy hơn là thích cảnh đẹp. Ở đó con người có thể giữ gìn được nhân cách và cá tính của mình chứ không như ở chốn phồn hoa đô hội.
    Ruồi trâu gật đầu :
    - Phải, đó là ...
    Giêma ngẩng đầu nhìn anh. Anh bỗng đỏ bừng mặt thôi không nói nữa. Một lát im lặng trôi qua.
    Ga-li lo lắng hỏi :
    - Ông lại lên cơn đấy à ?
    - Không, không sao. Tuy tôi nguyền rủa những liều thuốc của ông, nhưng nó lại rất công hiệu...Ông đi đấy à,ông Mac-ti-ni ?
    - Phải... Ga-li, đi đi thôi kẻo muộn mất.
    Giêma tiễn hai người ra cửa : Một lát sau chị trở vào với một cốc sữa trứng trong tay.
    - Mời ông uống đi.
    Chị nói với giọng ra lệnh nhưng hết sức dịu dàng rồi lại tiếp tục ngồi đan.
    Ruồi trâu ngoan ngoãn nghe theo.
  9. silver_light

    silver_light Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/11/2005
    Bài viết:
    203
    Đã được thích:
    0
    Hai người im lặng tới nửa giờ. Bỗng Ruồi trâu cất tiếng nói rất khẽ :
    - Bà Bô-la.
    Giêma nhìn anh. Ruồi trâu mân mê những tua khăn trải đi văng mắt không nhìn lên.
    - Chắc bà không tin những chuyện tôi vừa kể, phải không nhỉ ?
    Giêma bình tĩnh trả lời :
    - Những chuyện ông kể tôi không tin một chút nào cả.
    - Bà nói đúng lắm. Tôi toàn nói dối.
    - Cả chuyện chiến tranh cũng thế có phải không ?
    - Nói chung là dối cả. Tôi không hề tham gia một cuộc chiến tranh nào. Còn như chuyện đi thám hiểm thì tôi cũng có trải qua những phen mạo hiểm thật đấy và phần lớn những chuyện tôi kể đều là sự thật cả. Nhưng những vết thương của tôi thì hoàn toàn do nguyên nhân khác. Bà đã bắt được một điều nói dối của tôi rồi thì nay tôi xin thú nhận mọi điều khác.
    Giêma hỏi :
    - Tại sao lại phải mất công bịa chuyện như thế làm gì ? Theo tôi thì không cần thiết.
    - Làm thế nào được ? Chắc bà nhớ câu phương ngôn nước Anh của bà " Đừng hòi thì khỏi nghe lời nói dối". Xỏ xiên người khác tôi chẳng thích thú gì. Nhưng khi người ta hỏi tại sao tôi bị tàn tật thì tôi phải kiếm cách trả lời. Mà nếu đã kiếm cách trả lời thì lại phải bịa ra cái gì cho hay một chút. Ga-li vui lòng lắm, chắc bà đã thấy.
    - Vậy ông thích nói đùa cho Ga-li vui hơn là nói thật ư ?
    - Vâng !
    Ruồi trâu chăm chú nhìn chị, tay nắm chặt tua khăn đã rứt đứt.
    - Bà muốn tôi nói sự thật với những người ấy hay sao ? Thà tôi tự cắt lưỡi đi trước còn hơn !
    Rồi bằng một giọng đột ngột và hơi bẽn lẽn, ngượng ngùng anh nói thêm :
    - Tôi chưa bao giờ kể chuyện thật với ai cả nhưng đối với bà nếu bà muốn thì tôi xin nói .
    Giêma lặng lẽ đặt đồ đan vào lòng. Có một cái gì cảm động thống thiết. Cảm động thống thiết ở chỗ người đàn ông cứng rắn bí ẩn và không đáng yêu này bỗng nhiên lại phải cúi mình thổ lộ tâm sự với một người đàn bà không quen biết và lại là người mà có lẽ anh ta không hề ưa thích.
    Sau một hồi im lặng, Giêma nhìn anh. Ruồi trâu ngả người trên đi văng tựa khuỷa tay vào chiếc bàn con bên cạnh. Bàn tay tàn tật che lấy mắt. Những ngón tay ấy run run, mạch máu đập mạnh ở vết sẹo trên cổ tay. Giêma nhích lại gần đi văng khẽ gọi tên anh. Ruồi trâu giật mình nhỏm dậy.
    Anh nói bằng một giọng xin lỗi :
    - Tôi quên...quên khuấy đi mất. Tôi định ...định kể cho bà nghe về...
    - Về tai nạn hoặc một cái gì đó làm cho chân ông bị khập khiễng chứ gì. Nhưng nếu ông cảm thấy khổ tâm khi hồi tưởng lại chuyện cũ thì...
    - Tai nạn à ? Không phải đâu ! Tôi chỉ bị người ta cầm thanh sắt đốt lò đánh đấy thôi.
    Giêma ngơ ngác nhìn anh. Tay anh run run, Ruồi trâu vuốt mớ tóc lòa xòa trên trán và mỉm cười :
    - Bà ngồi xuống nhé ? Mời bà kéo ghế lại gần đây. Rất tiếc tôi không tự tay kéo ghế lại được.Giá tôi được ông Ri-cac-đô chạy chữa ngay lúc bấy giờ thì có lẽ trường hợp gãy xương của tôi sẽ là một ca rất quý báu cho ông ta. Ông ấy là một nhà mổ xẻ yêu nghề thì chắc là thích xương gãy lắm. Mà lúc đó chỗ nào xương thì đã gãy tất cả, trừ cái cổ.
    Giêma êm ái xen lời :
    - Và trừ lòng dũng cảm của ông nữa. Nhưng có lẽ lòng dũng cảm ấy thì không có gì bẻ gãy nổi nhỉ ?
    Ruồi trâu lắc đầu :
    - Không. Mãi sau này tôi mới lấy lại được ít nhiều dũng cảm cùng với những cái gì còn sót lại. Chứ lúc đó thì nó cũng bị tan vỡ như một chén trà. Cái thảm hại nhát chính là ở đấy. Vâng, tôi xin bắt đầu kể chuyện thanh sắt đốt lò trước. Bà để tôi nhớ lại xem...Đó là vào khoảng...mười ba năm trước, ở Li-ma (thủ đô của Pê-ru). Lúc nãy tôi nói Pê-ru là một nước đẹp tuyệt trần nhưng thực ra nó chẳng đẹp gì cho lắm đối với những người không có một đồng xu dính túi như tôi lúc ấy chẳng hạn. Tôi đến Ac-giăng-tin rồi sang Si-li. Tôi lang thang khắp Si-li suýt chết đói. Sau tôi làm lao công trên một chiếc tàu chở súc vật. Tôi đi từ Van-pa-rai-đô (hải cảng ở Si-li) tới Li-ma. Ngay trong thành phố tôi cũng không tìm được việc làm. Tôi lần đến Ca-lao (hải cảng của thủ đô Li-ma) , ra bến tàu với hy vọng may ra tìm được một công việc nào chăng.Phải, như bà đã biết, ở các hải cảng thường có những túp nhà tồi tàn. Những người làm nghề biển thường sống ở đó. Sau một thời gian tôi kiếm được việc làm trong một sòng bạc. Tôi làm nghề đầu bếp, hầu bàn bi-a, bưng rượu cho khách và nhiều việc đại loại như thế. Công việc không có gì dễ chịu nhưng tôi cũng lấy làm mừng vì ở đó ít nhất là tôi có ăn, được tiếp xúc với bộ mặt và tiếng nói của con người. Chắc bà có thể bảo rằng cái đó có gì đáng mừng đâu, nhưng trước đó không lâu tôi bị bệnh sốt rét vàng một thân một mình nằm liệt trong một chiếc quán xiêu vẹo và cảm thấy rất sầu thảm. Rồi một đêm người ta bắt tôi phải đi đuổi một gã Lasca ( thủy thù ở miền quần đảo Đông Ấn) say rượu ra khỏi quán để y khỏi làm huyên náo.Hôm ấy gã thủy thủ này lên bờ đánh bạc thua nhẵn túi nên rất cay cú. Tôi phải nghe lời, vì nếu không thì sẽ mất việc và chết đói; nhưng gã thủy thủ đó khỏe gấp đôi tôi : lúc ấy tôi chỉ mới chưa đầy hai mươi mốt tuổi, sau cơn sốt rét tôi lại yếu như một con mèo com. Hơn nữa trong tay gã còn có một thanh sắt đốt lò...
    Ruồi trâu ngừng lời, liếc nhìn Giêma. Rồi anh nói tiếp :
    - Chắc gã định đánh cho tôi chết hẳn. Nhưng gã đánh không thẳng tay lắm nên sau đó mặc dù thân thể bị nát nhừ tôi vẫn có thể sống lại được.
    - Thế những người khác họ làm gì ? Tất cả mọi người đều sợ một gã thủy thủ say rượu hay sao ?
    Ruồi trâu nhìn chị và cười phá lên :
    - Những người khác à ? Bọn con bạc và bọn chủ sòng ấy à ? Bà không biết hay sao ! Tôi là đầy tớ, là của riêng của họ.
    Họ xúm xít lại và tất nhiên là họ khoái trá nhìn cảnh đánh nhau đó. Những chuyện như vậy ở đấy họ coi như là trò đùa. Dĩ nhiên trò đùa trong trường hợp mà người biểu diễn không phải là họ.
    Giêma rùng mình :
    - Sau rồi sao nữa hả ông ?
    - Điều đó tôi không thể nói được. Sau những cảnh ấy thường chẳng ai nhớ được những ngày đầu ra sao. Gần đấy có một người thầy thuốc ngành hàng hải. Khi nhữngngười xem thấy tôi chưa chết thì cho đi gọi ông ta đến. Ông ta chạy chữa cho qua loa cho tôi. Ri-cac-đô thì cho lối chữa như thế là có hại, nhưng có lẽ đó chỉ là sự ganh tị nghề nghiệp của ông ta thôi. Sau rồi tôi cũng tỉnh dậy. Một bà cụ người địa phương theo Đạo thiên chúa vốn giàu lòng nhân từ, thương tình đem tôi về nuôi. Chuyện ấy nghe cũng thật lạ tai phải không bà ? Tôi còn nhớ bà cụ ngồi thu mình trong góc nhà tranh, hút thuốc, khạc nhổ xuống đất, ngâm nga một điệu hát gì không rõ. Bà cụ rất tốt, cứ luôn bảo tôi rằng ở đây tôi có thể yên trí mà chết, không bị ai ngăn cản gì đâu. Nhưng ý chí phản kháng vẫn vùng lên trong người tôi và tôi quyết tâm sống. Trở lại cuộc sống - đấy mới thật là khó; và ngày nay có lúc tôi nghĩ rằng cố mà sống như thế thật không bõ công. Bà cụ kiên nhẫn lạ lùng. Tôi ở nhà bà cụ... Để tôi nhớ lại xem...chừng bốn tháng, suốt bốn tháng lúc thì tôi nói mê, lúc thì làm ầm ĩ chẳng khác nào một con trâu điên. Thú thật là đâu điếng người, mà tôi vốn lại được nuông chiều từ thủa nhỏ.
    - Sau đó rồi thế nào ?
    - Sau đó...tôi có phần đỡ và bò đi nơi khác. Bà đừng tưởng tôi đi là vì trong lòng áy náy sợ phiền lòng tốt của bà cụ đáng thương ấy đâu. Không, tôi không nghĩ thế. Tôi đi chỉ là vì ở nhà bà cụ tôi không sao chịu nổi...Bà vừa nói tới sự dũng cảm của tôi ư ? Lúc ấy giá mà bà nhìn thấy tình cảnh của tôi. Chiều chiều mỗi khi hoàng hôn buông xuống là cơn đau lại nổi lên. Cứ mỗi buổi chiều tôi thường nằm một mình dõi nhìn ánh mặt trời dần tắt...Ồ bà không thể hiểu được đâu ! Ngay cả bây giờ tôi vẫn thấy khó chịu mỗi khi nhìn cảnh mặt trời lặn....
    Một hồi lâu im lặng.
    - Rồi tôi lại tiếp tục đi lang thang khắp nước, hy vọng kiếm được việc làm. Không thể sống ở Li-ma được nữa. Tôi tưởng chừng phát điên mất...Tôi lặn lội ở Cút-scô (một thành phố cổ ở Pê-ru và là thủ đô cũ của người Inca trước khi người châu Âu đến chiếm châu Mỹ la tinh).. Nhưng chuyện cổ xưa ấy chẳng có ý gì lý thú nói ra chỉ làm khổ tai bà.
    Giêma ngẩng đầu nghiêm nghị nhìn anh với đôi mắt sâu thẳm :
    - Xin ông đừng nói thế.
  10. moilentinh

    moilentinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/11/2005
    Bài viết:
    183
    Đã được thích:
    0
    Các bạn có thích đọc nguyên bản tiếng Anh không để mình post vì mình có trong tay bản gốc mà.
    Thấy có nhiều người thích RT cũng thấy vui.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này