1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sách: Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dienthai, 21/04/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Long [1] bày thành trận thế để chống giữ kinh thành. Quân của Trịnh Khải chia làm năm đạo: đạo Tả bộ giữ mặt Đông Long, đạo Hữu bộ giữ mặt Tây Hồ, đạo Tiền bộ giữ mặt cửa thành Tiền lâu, đạo Hậu bộ giữ mặt Hậu lâu cạnh bờ hồ Thủy quân [2], đạo trung quân gồm hai hiệu lính Nhưng, Kiệu [3] và đội tượng binh đóng ngay tại quảng trường sau Ngũ Long để bảo vệ Trịnh Khải.
    Kế hoạch bố trí có vẻ chu đáo như vậy, nhưng tinh thần chiến đấu của quân tướng nhà Trịnh rất uể oải, quân luật rất lỏng lẻo. Đạo quân tiền tiêu của nhà Trịnh là những đội thủy quân đóng ở bến Thuý Ái thì lại chủ quan cho rằng quân đội Tây Sơn còn lâu mới tiến tới nơi, nên thường cột thuyền vào bến, lên bờ đi chơi tản mát.
    Không ngờ rằng Nguyễn Huệ hạ xong phố Hiến, trấn thành Sơn Nam, liền tiến quân ngay. Đang mùa hè, gió đông nam thổi mạnh, đại đội thuyền chiến Tây Sơn giương buồm thẳng tiến như bay lên phía kinh thành Thăng Long. Sáng ngày 26 tháng Sáu âm lịch, tức ngày 21 tháng 7 năm
    =======================================
    1. Ngũ Long là một lầu cao chừng 300 thước cổ, xây dựng khoảng thế kỷ XVIII, bên cạnh hồ Hoàn Kiếm. Lầu mang hình năm con rồng, dát bằng mảnh sứ và đá cẩm thạch. Chung quanh lầu là một quảng trường rộng lớn và có nhiều dinh thự to. Chúa Trịnh đã từng lấy quảng trường ấy làm chỗ thi hương cho hàng ngàn cống sĩ. Quân Tây Sơn tiến ra Bắc lần này, sau khi vào Thăng Long, lật đổ nhà Trịnh thì Nguyễn Huệ đóng quân trong phủ chúa Trịnh. Vũ Văn Nhậm đóng quân phía trước lầu Ngũ Long và Nguyễn Hữu Chỉnh đóng quân phía sau lầu Ngũ Long (Hoàng Lê nhất thống chí). Nền cũ của lầu Ngũ Long là khoảng khu vực Sở bưu điện Hà Nội và vườn hoa Chí Linh ngày nay (Lịch sử thủ đô Hà Nội, Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1960, tr. 61, 77, 82).
    2. Hồ Thủy quân khi xưa ở phía dưới hồ Hoàn Kiếm.
    3. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 105.

    ==========================================
    1786, thủy quân Tây Sơn tới bến Nam Dư [1]. Nguyễn Huệ cho một cánh quân đổ bộ lên bến Nam Dư [2], vòng lên đánh úp thủy quân Trịnh ở bến Thuý Ái. Khi cánh quân Tây Sơn này tới nơi, quân Trịnh ở bến Thuý Ái vẫn còn đi chơi tản mát trên bờ. Quân Tây Sơn một mặt nhảy xuống chiếm giữ hết các thuyền chiến của quân Trịnh, một mặt đánh bắt thủy binh Trịnh ở trên bờ. Bên Trịnh chỉ có hai
    ====================================
    1. Bến Nam Dư ở xã Nam Dư, nay thuộc xã Trần Phú, huyện Thanh Trì. Bến Nam Dư ở phía dưới bến Thúy Ái.
    2. Chúng tôi trình bày thủy quân Tây Sơn đổ bộ lên bến Nam Dư là theo Hoàng Lê nhất thống chí vì trong các sách sử cũ thì Hoàng Lê nhất thống chí viết về các trận đánh từ bến Nam Dư lên Thăng Long là tương đối chi tiết hơn cả, tuy nhiên cũng không cụ thể rõ ràng lắm. Trong Hoàng Lê nhất thống chí chỉ nói thủy quân Tây Sơn tới bến Nam Dư thì bỏ thuyền lên bộ. ở đây chúng tôi trình bày một cánh quân đổ bộ lên bến Nam Dư, còn đại đội thủy quân Tây Sơn tiến thẳng lên bến Tây Long vì mấy lý do sau đây:
    1) Chỉ để đánh một "đám lính thuỷ ở cửa Thuý Ái" như Hoàng Lê nhất thống chí đã ghi, và đánh hơn một nghìn quân của Hoàng Phùng Cơ ở hồ Vạn Xuân, thì không thể cho hết thảy mấy vạn quân đổ bộ lên bờ để đánh vì không cần thiết.
    2) Trình bày như thế phù hợp với cách đánh của nghĩa quân Tây Sơn. Mỗi khi mở cuộc tiến công, đại quân Tây Sơn thường tiến thẳng nhằm mục tiêu chính mà đánh, chỉ cho những toán quân nhỏ, thường gọi là "du binh" làm nhiệm vụ đánh úp các vị trí nhỏ và căn cứ không quan trọng của địch ở dọc đường mà thôi. Cách đánh này rất thích hợp với chiến trường Thăng Long, từ Thuý Ái tới bến Tây Long. Một toán thủy quân đổ bộ lên đánh Thuý Ái và Vạn Xuân, còn đại bộ phận thủy quân vẫn tiếp tục đường sông tiến lên, nên Hoàng Lê nhát thống chí mới ghi là "Thuỷ quân tiến thẳng lên bến Tây Long". Theo cách ghi chép của Hoàng Lê nhất thống chí thì khi cánh quân đã đổ bộ lên bờ, đánh nhau ở trên bộ, tại Thúy Ái, Vạn Xuân, sách này chỉ ghi là quân Tây Sơn hay quân địch, không ghi là thủy quân. Còn quân Tây Sơn tiến lên Tây Long, thì sách này ghi cụ thể là thủy quân, có nghĩa là bộ phận quân này vẫn đi đường sông, vẫn ở trên thuyền chiến chứ không phải là đi trên bộ, đánh trên bộ.
    3) Nếu trình bày tất cả mấy vạn quân Tây Sơn đều đổ bộ lên bến Nam Dư, đề đánh Thúy Ái, đánh Vạn Xuân, rồi theo đường bộ tiến lên đánh bến Tây Long, thì việc đổ bộ mấy vạn quân để đánh mấy nghìn quân Trịnh ở Thuý ái, Vạn Xuân là không cần thiết. Mà bỏ lại nghìn rưởi thuyền chiến (đội quân chủ lực của Nguyễn Huệ gồm hơn 1.000 chiếc, đội tiên phong của Nguyên Hữu Chỉnh gồm trên 400 chiếc, chưa kể hàng trăm thuyền lương đem từ Vị Hoàng lên) từ bến Nam Dư trở xuống, không dùng đến, để đi bộ hàng chục ki-lô-mét lên đánh bến Tây Long lại cũng không hợp lý. Nếu để cho mấy vạn quân ấy đánh xong Thuý ái, Vạn Xuân rồi lại lục tục xuống thuyền để tiến lên bến Tây Long thì tốn công, tốn sức và mất nhiều thời gian quá. Cách tiến quân, điều quân để chiến đấu như thế, vừa không hợp lý, vừa trái với phép dùng binh sở trường và nổi tiếng của Nguyễn Huệ là đi nhanh, đánh nhanh, thắng nhanh.

    ================================
  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    viên tướng Ngô Cảnh Hoàn [1] và Nguyễn Trọng Yên là còn ở dưới thuyền. Khi thấy quân Tây Sơn áp tới. Ngô Cảnh Hoàn và Nguyên Trọng Yên vội cầm siêu đao ra đứng ở mũi thuyền để chống cự, nhưng đều bị quân Tây Sơn dung súng lớn bắn chết ngay.
    Tiêu diệt xong đạo thủy quân Trịnh ở bến Thuý ái, cánh quân Tây Sơn này tiến ngay lên phía hồ Vạn Xuân, tập kích quân Hoàng Phùng Cơ. Quân Hoàng Phùng Cơ đang ăn cơm bị đánh bất ngờ, bỏ cả khí giới mà chạy. Quân Tây Sơn chia làm hai toán từ hai phía đánh ép lại, quân Hoàng Phùng Cơ không sao trốn thoát, thây chết ngổn ngang khắp trận địa. Quân của Hoàng Phùng Cơ nhảy cả xuống hồ Vạn Xuân, chết đuối không biết bao nhiêu mà kể. Một thuộc tướng của Hoàng Phùng Cơ là Mai Thế Pháp cố sức chống cự bị quân Tây Sơn đánh dồn ra tới tận bờ sông Nhị. Thế cùng, Mai Thế Pháp phải nhảy xuống sông mà chết. Hơn một nghìn năm trăm quân [2] của Hoàng Phùng Cơ chỉ còn sóng sót vài chục tên, cùng
    =================================
    1. Ngô Cảnh Hoàn khi ấy đã ngoài 70 tuổi.
    2. 500 quân của Hoàng Phùng Cơ đem từ Sơn Tây về và quân mới mộ được hơn 1.000 người.

    =================================
    với chủ tướng Hoàng Phụng Cơ và tám người con của Hoàng Phùng Cơ cố sức chống đỡ. Nhưng 6 người con Hoàng Phùng Cơ và mấy chục tên lính đều chết trận ngay, Hoàng Phùng Cơ phải nhảy khỏi mình voi xuống đất, cùng hai người con sống sót, cố sức cướp lấy đường chạy thoát thân.
    Trong khi cánh quân Tây Sơn chiến đấu thắng lợi ở bến Thuý ái và hồ Vạn Xuân thì đại đội thuyền chiến Tây Sơn vẫn tiến lên phía trước kinh thành Thăng Long, đổ bộ lên bến Tây Long (hoặc Tây Luông) [l], đánh thẳng vào trận địa của quân Trịnh Khải ở chung quanh lầu Ngũ Long.
    ======================================
    1. Nhiều tài liệu gần đây viết về trận đánh Thăng Long của Nguyên Huệ thường chú thích bến Tây Long ở phía phố Nguyễn Trung Trực bây giờ, tức ở phía bắc Hà Nội. Chúng tôi thấy rằng phủ chúa Trịnh ở phía nam Hà Nội, sát hồ Hoàn Kiếm. Trịnh Khải bày trận ở lầu Ngũ Long, cạnh hồ Hoàn Kiếm, mà quân Tây Sơn lại tiến lên tận phía bắc, bên trên cầu Long Biên bây giờ rồi mới đánh xuống thì không hợp lý. Bến Tây Long phải là một bến ở gần lâu Ngũ Long nhất, thuận tiện cho việc đổ bộ đánh thẳng bản doanh của Trịnh Khải. ở thế kỷ XVIII, tại Thăng Long có cửa ô Tây Long và bến Tây Long. Cửa ô Tây Long ở gần bến sông, có thể là gần bến sông Tây Long, cho nên cả cửa ô và bến sông đều mang một tên Tây Long. Đêm 17 tháng Tám Bính Ngọ (1786), Nguyễn Nhạc và Ngyễn Huệ từ Thăng Long rút quân về Nam, sáng hôm sau, Nguyễn Hữu Chỉnh được tin ra cửa ô Tây Long xuống bến sông, xuôi thuyền chạy theo.
    Bản đồ Hà Nội vẽ năm 1831, tức 45 năm sau khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc còn ghi cửa ô Tây Long ở khoảng đầu phố Tràng Tiền ngày nay, phía quảng trường nhà hát thành phố Hà Nội. Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút ghi rằng: "... những phường Thái Cực, Đông Hà, Đông Các, nhà ở hai dãy phố xen liền mãi cho đến vạn Hàng Mắm, vạn Hàng Bè, bến Tây Long và đều thành ra phố phường đô hội cả". Theo cái trình tự đó thì bến Tây Long phải là ở phía đông nam thành Thăng Long, dưới Hàng Mắm, Hàng Bè, không thể ở phía bắc. Như vậy bến Tây Long có thể là ở cửa ô Tây Long đi ra, khoảng phía trước Bảo tàng lịch sử và bãi Phúc Tân bây giờ (xem thêm Vũ trung tùy bút, Bản dịch của nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội. 1960, tr. 20 và lịch sử thủ đô Hà Nội, tr. 64)

    ==================================
    Nghĩa quân Tây Sơn từ bến Tây Long ào ạt tiến vào. Quân tiền bộ của Trịnh nổ súng bắn ra. Quân Tây Sơn khom mình vừa tránh đạn vừa xung phong, tiến sát lầu Ngũ Long, bản doanh của Trịnh Khải [1]. Trịnh Khải phải thân tự lên mình voi trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Nhưng mặc dầu Trịnh Khải hạ lệnh phản kích, quân sĩ Trịnh chỉ "nhìn nhau không dám tiến" [2]. Trong khi ấy, quân Tây Sơn ào ạt tiến vào chém giết và dùng hỏa hổ tung lửa hừng hực vào hàng ngũ quân Trịnh. Quân Trịnh hoàn toàn tan vỡ, vứt cả khí giới mà chạy lấy thân. Một toán tiền quân Tây Sơn, chừng vài chục người tiến thẳng vào chiếm đóng phủ chúa Trịnh. Trịnh Khải thấy bên mình chỉ còn hơn 100 con voi chiến, đành phải trút bỏ nhung phục "tụt xuống ngồi núp trong ngăn hòm da ở mé sau bành voi" [3] rồi co đầu voi để chạy trốn về phủ, nhưng tới gần thì đã thấy cờ đỏ Tây Sơn phấp phới bay ngoài cửa phủ, Trịnh Khải vội chạy trốn theo đường đi Sơn Tây.
    Trong khi đại quân Tây Sơn tiến đánh lầu Ngũ Long thì toán quân của viên tỳ tướng Tây Sơn bí mật vào thành từ trước cũng chiếm giữ hoàng thành và trao mật tấu "tôn phù" của Nguyễn Huệ cho vua Lê.
    Như thế là quân Tây Sơn đã làm chủ kinh thành Thăng Long và ngay ngày hôm ấy, 26 tháng Sáu năm Bính Ngọ,
    ==================================
    1. Hoàng Lê nhất thống chí và Lê quí kỷ sự đều nói Trịnh Khải ngụ ở lầu Ngũ Long để bày trận. Duy sách Việt Sử thong giám cương mục không nói tới lầu Ngũ Long mà chỉ nói Trịnh Khải bày trận ở bến Tây Long. Những tài liệu này không mâu thuẫn nhau. Sự thật thì khu vực Ngũ Long lâu là ở gần sát bến Tây Long. Có thể là Trịnh Khải đã bày trận từ bên Tây Long vào tới lầu Ngũ Long và Trịnh Khải đóng bản doanh, tức chỉ huy sở, tại lầu Ngũ Long.
    2. Việt sử thông giám cương mục, bản dịch. t. XX. tr. 17.
    3. Ngô gia văn phái, Hoàn Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 106.

    ==================================
    tức ngày 21 tháng 7 năm 1786, Nguyễn Huệ và đại quân tiến vào Thăng Long, đóng tại phủ chúa Trịnh.
    Cuộc tiến công Bắc Hà tới đây đã kết thúc rất vẻ vang. Chỉ trong vòng 10 ngày, kể từ ngày 11 tháng 7 năm 1786, Nguyễn Hữu Chỉnh đánh Vị Hoàng đến ngày 21 tháng 7 năm 1786, Nguyễn Huệ tiến vào Thăng Long, nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy thiên tài của Nguyễn Huệ đã mau chóng lật đổ tập đoàn phong kiến họ Trịnh thống trị Bác Hà từ 300 năm và chính quyền Bắc Hà từ sông Gianh trở ra đã thuộc về nghĩa quân Tây Sơn.
    Sau khi vào thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lập tức cho thi hành những biện pháp an ninh, nghiêm cấm quân sĩ không được làm phiền nhiễu dân, không được mảy may xâm phạm đến tài sản của dân [1], đồng thời cho lấy vàng bạc châu báu trong kho chúa Trịnh đem phát thưởng cho hết thảy tướng lĩnh, binh lính [2] và cho phép toàn quân nghỉ ngơi lại sức.
    Đối với triều đình Bắc Hà, sáng sớm ngày hôm sau 22 tháng 7 năm 1786, Nguyễn Huệ vào triều yết kiến vua Lê và cho người đi mời các triều thần văn võ nhà Lê trở lại triều đình làm việc. Đối với nhân dân Bắc Hà, ngay từ lúc vào thành, Nguyễn Huệ đã hạ lệnh chiêu an [3]. Kinh thành Thăng Long trong những ngày cuối cùng của chế độ nhà Trịnh đã lâm vào tình trạng hỗn loạn trầm trọng, cho nên việc lập lại trật tự ở kinh thành cũng như ở các địa phương là vô cùng khẩn cấp. Trong công việc này, nghĩa quân Tây Sơn được nhân dân Bắc Hà hưởng ứng
    =====================
    1. Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 106.
    2, 3. Lê sử bổ, Sách chữ Hán, Bản viết tay của Viện Sử học, ký hiệu H.V. 41, tờ 221.

    =======================
    nhiệt liệt. Kỷ luật của quân dội Tây Sơn lại rất nghiêm minh, nhân dân càng tin tưởng và hết sức giúp đỡ quân đội. Nhân dân đã phối hợp chặt chẽ với quân đội chiến thắng để lùng bắt trộm cướp, côn đồ. Giáo sĩ Lơ Roa (Le Roy) giảng đạo ở Bắc Hà lúc ấy đã viết trong thư ngày 6 tháng 12 năm 1786 rằng: "Vì trong nước hỗn loạn, khắp nơi đều có giết người, đốt nhà, cướp của, nên giặc Quảng [1] sai quân lính đi chỗ này chỗ khác truy nã côn đồ. Những quân Đàng trong ấy thi hành công lý rất gắt gao. Chỉ báo với họ một lời là không cần thủ tục dài dòng họ chặt đầu ngay bọn trộm cướp hoặc những kẻ bị cáo những tội trạng tương tự. Đâu đâu người ta cũng hoan hô sự công bằng và vô tư của họ; vì họ không cướp của ai mà chỉ chặt đầu trộm cướp" [2].
    Giáo sĩ Xê-ra (Sérard) trong thư ngày 4 tháng 7 năm 1789, ở đoạn tái bút, cũng viết: "Tái bút. Ngày 7 tháng 8. Thời thế đổi thay. Bọn trộm cướp có thời của chúng thì nhân dân cũng có thời của họ. Người ta săn bắt trộm cướp rất hăng hái. Hôm qua người ta đã chặt đầu mười một tên cướp tại đây; bốn hôm trước, người ta cũng đã đánh chết hoặc cắt đầu một tên khác. Những ông quan mới của chúng tôi [3] hành động rất nhanh gọn, không cần xét hỏi lôi thôi gì; khi có một số chứng tá cáo giác một người nào thì dù bạc, tiền, cầu khẩn, cũng không thể cản được bàn tay của họ ...? [4].
    ============================
    1. Chỉ quân đội Tây Sơn.
    2. Cadière, Documents relatifs à Pépoque de Gia Long, B.E.F.E.O., n0 7, 1912, p. 8.
    3. Chỉ các tướng sĩ Tây Sơn.
    4. Cadière, Tài 1iệu đã dẫn, tr. 11.

    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 18:47 ngày 25/05/2008
  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Chính nhờ những hành động tích cực và vô tư ấy của quân dội Tây Sơn, trật tự an ninh ở Bắc Hà đã được lập lại lất nhanh chóng.
    Mấy ngày sau khi nghĩa quân Tây Sơn hạ thành Thăng Long, Trịnh Khải cũng bị nhân dân bắt giải đưa về nộp quân Tây Sơn. Dọc đường, Trịnh Khải tự tử chết. Nguyễn Huệ cho làm lễ an táng rất trọng thể theo như nghi thức các vua chúa mất.
    Chỉ trong vòng mươi ngày sau khi nghĩa quân cầm quyền thay họ Trịnh, tình hình Bắc Hà, từ trong triều đến ngoài trấn đều ổn định. Một đời sống vui vẻ, phấn khởi tràn đầy miền Bắc. Trong không khí tưng bừng ấy, ngày 7 tháng Bảy năm Bính Ngọ tức ngày 31 tháng 7 năm 1786, Nguyễn Huệ cùng các tướng sĩ Tây Sơn và các quan văn võ Bắc Hà vào triều chúc mừng vua Lê Hiển Tôn.
    Ngày 1 tháng 8 năm 1786, vua Lê Hiển Tôn sắc phong Nguyễn Huệ làm "Nguyên soái phù chính dực vũ, Uy quốc công". Như thế là binh quyền và chính quyền Bắc Hà hoàn toàn trong tay Nguyễn Huệ, người lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông dân Tây Sơn.
    Ngày 11 tháng Bảy âm lịch tức ngày 4 tháng 8 năm 1786, Nguyễn Huệ làm lễ cưới công chúa Ngọc Hân, con gái yêu của vua Lê Hiển Tôn.
    Vua Lê Hiển Tôn đã già và bị bệnh lâu ngày nên đến 17 tháng Bảy năm Bính Ngọ tức ngày 10 tháng 8 năm 1786, thì mất. Quyền bính Bắc Hà vẫn trong tay Nguyễn Huệ, người lãnh tụ nông dân Tây Sơn, nhưng giữ đúng chủ trương "tôn phù nhà Lê" Nguyễn Huệ lập cháu Lê Hiển Tôn là Lê Duy Kỳ lên làm vua, tức là Lê Chiêu Thống.
    Tình hình Bắc Hà tới đây là hoàn toàn ổn định. Từ ngày Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long cho đến khi Lê Chiêu Thống lên ngôi, mọi việc lập lại trật tự an ninh trong dân chúng và sắp xếp lại việc triều chính đều do Nguyễn Huệ quyết định. Quyền chính ở Bắc Hà thật sự ở trong tay Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn.
    Kể từ ngày đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đánh tan liên quân Xiêm - Nguyễn, buộc bọn Nguyễn ánh phải chạy sang Xiêm ẩn náu một cách tuyệt vọng, cho đến ngày Nguyễn Huệ hạ thành Thăng Long giữa năm 1786, toàn lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên, Rạch Giá ở phía cực nam đến miền biên giới Việt - Trung ở phía cực bắc đã hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn. Với những chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, chiến thắng Phú Xuân, chiến thắng Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lật đổ mọi tập đoàn phong kiến thống trị đương thời. Nguyễn Huệ đã vĩnh viễn xóa bỏ ranh giới phân chia Nam Bắc mà các tập đoàn phong kiến Mạc, Lê, Trịnh, Nguyễn dựng nên từ 300 năm trước đó. Với những chiến thắng oanh liệt ấy, Nguyễn Huệ đã thật sự lập lại nền thống nhất cho nước nhà ở cuối thế kỷ XVIII. Một trong những công lao vĩ đại của Nguyễn Huệ đối với dân tộc, với Tổ quốc, chính là sự nghiệp thống nhất đất nước. Một điều đáng chú ý nữa là sự thống nhất nước nhà ở cuối thế kỷ XVIII có một tầm quan trọng hơn hẳn sự thống nhất nước nhà ở thời Lê Thánh Tôn, Lê Lợi và các thời trước.
    Từ thời Lê Thánh Tôn trở về trước, sự thống nhất đất nước thể hiện trên một phạm vi lãnh thổ từ Thuận Hóa trở ra Bắc. Nhưng ở thời Nguyễn Huệ, sự thống nhất ấy thể hiện trên một phạm vi rộng rãi hơn nhiều, suốt từ Hà Tiên, Rạch Giá trở ra Bắc. Chính vì thế mà sự nghiệp thống nhất nước nhà của Nguyễn Huệ ở thời kỳ này càng thêm huy hoàng, vĩ đại.
    Kể từ trận đánh Vị Hoàng đến trận đánh Thăng Long, cuộc tiến quân giải phóng Bắc Hà đã diễn ra trong 10 ngày trên một chiều sâu chừng 90 ki-lô-met. Bằng bốn trận chiến đấu, bắt đầu là trận đánh chiếm căn cứ chiến lược Vị Hoàng, và kết thúc bằng sự tiêu diệt các đạo quân chủ lực quân đội Trịnh và giải phóng Thăng Long, quân đội Tây Sơn do Nguyên Huệ chỉ huy đã thể hiện tài tổ chức và thực hiện chiến đấu với những yếu tố của một chiến dịch ngày càng rõ rệt và giành thắng lợi hết sức to lớn.
    Thắng lợi huy hoàng đó chứng minh Nguyễn Huệ là một nhà chiến lược vĩ đại, một vị chỉ huy kiệt xuất trong việc tổ chức và thực hành các chiến dịch tiến công.
    Đặc điểm của chiến dịch lần này là:
    - Quy mô rộng lớn: lực lượng tham chiến đều là các lực lượng chủ lực, tinh nhuệ nhất của cả hai trên, tác chiến xảy ra trong một khoảng không gian rộng lớn, trên đồng bằng Bắc Hà. Quân đội Tây Sơn bắt đầu tiến công trong điều kiện chiến đường xa hậu phương. Trái lại, quân đội Trịnh chiến dấu ngay trên "đất nhà" gần các căn cứ chiến lược quan trọng nhất của họ. Căn cứ vào tình hình chung lúc đó, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng thực hành một cuộc quyết chiến chiến lược, để hoàn toàn tiêu diệt quân đội Trịnh, không cần trải qua một số chiến dịch trung gian khác. Sự cần thiết phải đánh nhanh, và khả năng thực tế để giải quyết nhanh là cơ sở cho quyết lâm lớn lao đó của Nguyễn Huệ.
    Song, căn cứ vào đặc điểm của chiến dịch sắp tiến hành, muốn biến khả năng đó thành hiện thực, Nguyễn Huệ phải giải quyết nhiều khó khăn lớn, đề ra nhiều biện pháp quan trọng thì mới có thể thực hiện được quyết tâm chiến lược đó.
    Đi vào cụ thể, có những vấn đề lớn như sau:
    - Trước hết là vấn đề hành quân đến chiến trường. Từ sông Gianh đến đồng bằng Bắc Hà chỉ có thể hành quân bằng hai con đường: đường bộ qua các trấn Nghệ An, Thanh Hóa, và đường biển. Nếu tiến quân theo đường bộ, thì rõ ràng không thể thực hiện được phương châm đánh nhanh giải quyết nhanh. Quân đội hành quân trên một con đường dài như vậy, trước khi đến khu vực tác chiến, khiến cho quân đội Trịnh có thể kịp thời thay đổi thế trận, có thì giờ động viên lực lượng, tập trung các đội quân địa phương, kéo dài chiến tranh. Trong trường hợp đó, khó khăn cho quân đội Tây Sơn sẽ tăng lên rất nhiều. Đi đường biển thì tránh được những khó khăn nói trên, tranh thủ rút ngắn thời gian hành quân, giành được bất ngờ chiến dịch, và ngay khi bắt đầu thực hành chiến dịch, đã có thể đưa chiến trường đến trung tâm của giang sơn chúa Trịnh.
    Trong trường hợp này, vấn đề lớn duy nhất phải giải quyết là chuyên chở quân đội. Thủy quân Tây Sơn có đủ sức để làm việc đó. Kinh nghiệm của một số trận tiến công quân Nguyễn ở Gia Định đã hoàn toàn chứng minh quân đội Tây Sơn có đủ khả năng đánh địch từ rất xa căn cứ của mình với phương tiện chuyên chở của thủy quân. Nguyễn Huệ đã chọn con đường tiến quân trên đường biển.
    Nhưng, một khi tập trung toàn bộ lực lượng, sử dụng toàn bộ thuyền chiến để chuyên chở và tác chiến, mà khu vực tác chiến lại bị ngăn cách với căn cứ hậu phương bằng một miền đất đai rộng lớn do quân Trịnh kiểm soát, thì hai vấn đề rất lớn đặt ra: Làm sao loại trừ được mối uy hiếp của quân Trịnh đối với hậu phương trực tiếp của quân đội tác chiến, và làm sao bảo đảm cung cấp tiếp tế cho đại quân? Nguyễn Huệ quyết định dùng những toán du binh của đạo quân tiền phong để bất ngờ đánh chiếm các thành Nghệ An, Thanh Hóa. Làm như vậy Nguyễn Huệ sẽ đạt được ba mục đích lớn: loại trừ mối uy hiếp đối với hậu phương, bảo đảm cho chủ lực tiến quân thuận lợi, và tránh những hành động quân sự quy mô lớn để đánh chiếm các trấn này. Đối với nhiệm vụ nặng nề là nhiệm vụ cung cấp cho quân đội tác chiến trên đồng bằng Bắc Hà, Nguyễn Huệ không thể trông mong ở hậu phương xa xôi. Vì muốn bảo đảm cung cấp cho một đạo quân lớn, trên một tuyến vận chuyển dài, phải có một đoàn thuyền chiến vận tải lớn chuyên môn chở lương thực, binh khí, đạn dược. Trong điều kiện lúc ấy Nguyễn Huệ không thể xây dựng ngay được một đoàn thuyền chiến vận tải như vậy. Phương pháp duy nhất là quân đội Tây Sơn phải đánh chiếm các kho lương thực, vũ khí của địch, thực hiện cung cấp, tiếp tế tại chỗ. Nguyễn Huệ đã chọn phương pháp này.
    Những vấn đề trên liên quan rất mật thiết đến việc chọn hướng tiến công chủ yếu. Trên đồng bằng Bắc Hà, có nhiều cửa sông lớn mà thủy quân Tây Sơn có thể tiến vào, đưa quân đội tiến sát Thăng Long. Nhưng xét kỹ thì sông Nam Định, ngoài cái lợi là con đường ngắn nhất để quân đội Tây Sơn có thể nhanh chóng vào tác chiến, nhanh chóng tiến đến Thăng Long, còn có một cái lợi lớn nữa: các kho lương thực, vũ khí, đạn dược quan trọng nhất của quân đội Trịnh đều tập trung ở đây. Đánh chiếm được Vị Hoàng, sẽ giải quyết về căn bản vấn đề khó khăn nhất cho quân đội Tây Sơn lúc đó.
    Song, giá trị chiến lược của Vị Hoàng không phải chỉ thu gọn vào địa vị căn cứ cung cấp của nó. Vị Hoàng còn là một vị trí ngăn chặn đường tiến quân từ phía nam lên Thăng Long, một vị trí chiến lược cơ động cho thủy quân và lục quân Trịnh. Có thể nói rằng ai chiếm được Vị Hoàng, sẽ khống chế cả một vùng rộng lớn phía đông nam đồng bằng Bắc Hà. Do đó, không kể xét về một mặt nào, chính trị, quân sự hay kinh tế, Vị Hoàng ở một vị trí chiến lược trọng yếu đối với cả hai bên.
    Nguyễn Huệ đã chọn hướng tiến công chủ yếu trên con sông Nam Định mà mục tiêu đầu tiên phải đánh chiếm là Vị Hoàng.

    Đến đây, các vấn đề khó khăn lớn đã được Nguyễn Huệ giải quyết. Sau khi hạ quyết tâm và định hướng tiến công chủ yếu trên con sông Nam Định, nhằm thẳng vào Thăng Long mà đột kích địch, Nguyễn Huệ xác định kế hoạch hành quân và kế hoạch tiến công.
    Đưa quân từ rất xa đến chiến đấu ngay trên đất địch, thì trong kế hoạch tiến công, việc quan trọng đầu tiên là đánh chiếm một đầu cầu chiến lược bám chắc vào đầu cầu đó làm bàn đạp phát triển rộng ra và sâu hơn. Chỉ khi đầu cầu đó đã được củng cố và mở rộng, thì chủ lực từ phía sau mới có thể tiến vào chiến đấu được. Nhìn lại những chiến dịch trước, từ Gia Định đến Phú Xuân, đây là lần đầu tiên, căn cứ vào đặc điểm của chiến dịch này, Nguyễn Huệ đề ra nhiệm vụ đánh chiếm một đầu cầu chiến lược. Đó là bước phát triển mới trong nghệ thuật tổ chức và thực hành một chiến dịch quy mô lớn của Nguyễn Huệ. Ông đã tổ chức một đội thủy quân tiền phong, mạnh đến 400 thuyền chiến, có đầy đủ hỏa lực và bộ binh, để làm nhiệm vụ đánh chiếm đầu cầu chiến lược Vị Hoàng.
    Trong kế hoạch tiến công, chúng ta còn thấy Nguyễn Huệ tính toán rất kỹ lưỡng thời gian hành quân của các đạo quân, và thời gian tác chiến của chủ lực. Sự hiệp đồng giữa các đạo quân rất chặt chẽ: các đội du binh chiếm xong các thành Nghệ An, Thanh Hóa thì chủ lực cũng vừa tới nơi, trong khi đội quân tiền phong đánh chiếm Vị Hoàng và củng cố đầu câu chiến lược, thực hiện những nhiệm vụ đã đề ra, thì chủ lực chuẩn bị sẵn sàng đề tiến vào chiến đấu. Và chỉ sau khi đội thủy quân tiền phong đã hoàn thành mọi nhiệm vụ, tạo nên mọi điều kiện thuận lợi, thì chủ lực mới vượt biển tiến vào khu vực quyết chiến. Trong điều kiện phương tiện giao thông, phương tiện thông tin liên lạc của thời đại đó, trong điều kiện hành quân đường biển phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, gió mùa ... mà các đạo quân của Nguyễn Huệ hành động nhất trí như một bộ máy chính
    xác, thật đáng khâm phục và làm cho quân địch phải khiếp sợ, bó tay.
    Trên đây là một số vấn đề lớn trong việc tổ chức chiến dịch mà Nguyễn Huệ đã giải quyết thành công. Về nghệ thuật chỉ huy của Nguyễn Huệ trong khi thực hành chiến dịch và chiến đấu cũng có nhiều điểm đặc sắc.
    Nét nổi bật đầu tiên là việc phát hiện, nắm vững và lợi dụng thời cơ chiến đấu.
    Từ khi quân tiền phong chiếm Vị Hoàng tới lúc chủ lực của Nguyễn Huệ đến đầu cầu chiến lược này, thời gian là sáu ngày. Thời gian đó đủ để chúa Trịnh tổ chức một trận phản công, đánh bật đội thủy quân tiền phong của Tây Sơn. Chúa Trịnh lúc đó nắm trong tay hai đạo quân lớn là đạo quân Trịnh Tự Quyền và thủy quân Đinh Tích Nhưỡng, so với quân Tây Sơn, hai dạo quân này có ưu thế tuyệt đối về số lượng. Quân Trịnh gần căn cứ xuất phát của mình, họ có đủ lực lượng, thời gian, để tổ chức và thực hành phản công.
    Nhưng bị đánh bất ngờ ở Vị Hoàng, quân Trịnh ở khắp nơi đều hoang mang túng túng, không kịp điều động lực lượng để phản công, trước khi Nguyễn Huệ đem đại quân tới Vị Hoàng. Hoảng sợ, do dự trước sức mạnh vũ bão của quân đội Tây Sơn, các tướng Trịnh không dám tiến công, đành đưa quân ra phòng ngự chặn đường tiến lên Thăng Long của nghĩa quân Tây Sơn.

    Trái lại, vừa đến Vị Hoàng, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng nắm vững tình hình địch, thấy rõ tư tưởng phòng ngự đơn thuần của các tướng Trịnh, phát hiện chỗ yếu trong hệ thống phòng ngự địch, ông nắm ngay thời cơ có lợi, lập tức hạ lệnh tiến quân, chọn thủy quân Đính Tích Nhưỡng làm mục tiêu giáng đòn đầu tiên, tập trung lực lượng để tiêu diệt đạo quân này, mở dường cho thủy quân tiến vào Thăng Long.
  4. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Nguyễn Huệ không để cho các tình huống phụ lôi kéo. Ông nắm rất vững chỗ yếu nhất của quân Trịnh là tinh thần chiến đấu cực kỳ bạc nhược, nên sau trận quyết định đầu tiên ở sông cửa Luộc, Nguyễn Huệ không đuổi theo đạo quân lớn Trịnh Tự Quyền đang tan rã, mà lập tức tập trung chủ lực, như một mũi dao cực mạnh chọc thẳng vào trái tim của nhà Trịnh là Thăng Long. Những hành động mãnh liệt đó liên tục diễn ra, gây từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, khiến quân Trịnh bị đánh không kịp trở tay.
    Điều đáng chú ý là, trong chiến dịch này, trừ trận cửa Luộc được tiến hành trong điều kiện có chuẩn bị, các trận chiến đấu tiếp sau hầu như chỉ do các đội tiền vệ của Nguyễn Huệ đảm nhiệm. Bằng mưu trí bằng hành động dũng cảm, thần tốc, các đội tiền vệ này từ trong hành quân lập tức bước vào chiến đấu mà giành thắng lợi hoàn toàn. Cho đến trận đánh cuối cùng vào Thăng Long, chủ lực của Nguyễn Huệ hầu như còn nguyên vẹn, vì rất ít phải sử dụng đến.
    Còn chúa Trịnh thì cuống quít sợ hãi, bo bo giữ lấy kinh thành, bó tay chịu để cho hết đạo quân này đến đạo quân khác của mình bị tiêu diệt.
    Như trên đã trình bày, về mặt chỉ huy chiến dịch, Nguyễn Huệ luôn luôn nắm vững và tận dụng thời cơ có lợi, đồng thời nắm vững tình huống chính để tiến công thật dũng cảm, thần tốc từ mục tiêu này đến mục tiêu khác.
    Song, qua từng trận chiến đấu, ta thấy bao giờ Nguyễn Huệ cũng phân tích một cách cụ thể tình hình cụ thể lúc đó để quyết định nên vận dụng những phương pháp thích hợp nào nhằm đạt tới mục đích tiêu diệt sinh lực địch.
    Trong trận sông cửa Luộc, trước mặt quân đội Tây Sơn là mấy đạo quân chủ lực của nhà Trịnh, trong đó trên tuyến thứ nhất có thủy quân Đinh Tích Nhưỡng còn mạnh, ngăn chặn trên sông, và đạo bộ binh Đỗ Thế Dận phối hợp bố trí trên hai bờ sông. Kẻ địch còn mạnh, đã chuẩn bị sẵn sàng chờ cuộc tiến công. Với cách dàn trận chặt chẽ, có quân thủy, bộ trên cùng một đoạn sông, rõ ràng các tướng lĩnh Trịnh có ý định buộc đối phương phải chiến đấu trên một địa thế bất lợi, rồi từ ba mặt đánh mạnh vào thủy quân Tây Sơn. Thấy địch có chuẩn bị sẵn, Nguyễn Huệ không ra lệnh đánh ngay, ông tìm cách lừa địch, lợi dụng khi trời bắt đâu tối, cho mấy thuyền chiến lớn không người chèo, tiến thẳng vào nơi bố trí của địch, khiến Đinh Tích Nhưỡng lầm tưởng là thuyền chiến xung phong của Tây Sơn. Chỉ sau khi nhận thấy quân Trịnh đã mất nhiều tên, đạn, và tinh thần đã hoang mang cực độ vì mấy chiếc thuyền lớn cứ tiến, thì Nguyễn Huệ mới nắm thời cơ, hạ lệnh cho thủy quân xông lên, đánh thẳng vào đội hình thủy quân Đinh Tích Nhưỡng. Pháo binh của thuyền chiến cũng bắt đầu nổ súng bắn mãnh liệt vào bộ binh Trịnh trên hai bờ sông. Đó là một phương pháp tiến công độc đáo của Nguyễn Huệ: cùng trong một thời gian, dùng thủy quân tiến công thủy quân địch, thực hành đánh giáp lá cà và chiếm đoạt thuyền chiến địch, còn pháo binh tập trung hỏa lực bắn mạnh vào bộ binh địch. Kết quả, chỉ trong một thời gian ngắn, Nguyễn Huệ đã đạt được mục đích: đánh rối loạn hệ thống phòng ngự thủy bộ của địch, tiêu diệt nhanh chóng thủy quân địch, lực lượng phòng ngự chủ yếu, và chế áp mạnh bộ binh địch. Tiếp sau đó là cuộc đổ bộ lên hai bờ sông, chuyển sang tiến công vào trận địa của bộ binh Trịnh. Lần đầu tiên, bộ binh Trịnh gặp một loại vũ khí đặc biệt của quân đội Tây Sơn là hỏa hồ. Nghĩa quân Tây Sơn dũng cảm chiến đấu, được hỏa hổ yểm hộ đắc lực, xung phong mãnh liệt vào trận địa quân Trịnh và tiêu diệt toàn bộ đạo quân Đỗ Thế Dận... Chỉ trong một đêm, trận đánh đầu tiên này đã quyết định số phận của quân đội Trịnh, cả ba đạo quân chủ lực của chúa Trịnh còn lại lúc đó, đã bị tiêu diệt và hoàn toàn tan rã. Phòng tuyến thứ nhất, phòng tuyến chủ yếu của quân Trịnh đã bị chọc thủng. Cửa ngõ đưa tới Thăng Long đã mở rộng.
  5. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Khi chủ lực Tây Sơn tiến đến gần phòng tuyến thứ hai của quân Trịnh, Nguyễn Huệ thấy rõ địch ở đây suy yếu nhiều, lại tiến hành phòng ngự vội vã, tuy thủy bộ dựa vào nhau và yểm hộ lẫn nhau, nhưng hệ thống phòng ngự đó không còn tính chất vững mạnh như trên sông cửa Luộc. Hơn nữa, quân Trịnh hoàn toàn bị bất ngờ, không tin rằng Nguyễn Huệ có thể tiến quân nhanh chóng như vậy. Nguyễn Huệ quyết định không tiến công bằng sức mạnh, mà áp dụng phương pháp tập kích bất ngờ. Ông dành chủ lực cho đòn đánh cuối cùng vào Thăng Long, chỉ phái một đội tiền vệ nhỏ làm nhiệm vụ vu hồi vào sau lưng đội thủy quân Trịnh đóng tại bến Thúy ái. Toàn bộ đội thủy quân này đã nhanh chóng bị loại khỏi vòng chiến.
    Với hành động dũng cảm, thần tốc, đội tiền vệ Tây Sơn lập tức chuyển sang tập kích bất ngờ đội quân Hoàng Phùng Cơ đóng tại hồ Vạn Xuân. Đội quân này mất hẳn năng lực chống cự có tổ chức, và bị hoàn toàn tiêu diệt.
    Tác phong chiến đấu dũng cảm, mãnh liệt, thần tốc, liên tục của binh sĩ Tây Sơn khác xa với tác phong chiến đấu của binh sĩ trong các quân đội *********. Với dũng khí áp đảo địch, họ còn thông thạo vận dụng các thủ đoạn chiến đấu như vu hồi, bao vây địch, khiến cho quân địch không kịp đối phó, tinh thần càng mau chóng suy sụp. Có tinh thần và tác phong chiến đấu như vậy, lại biết vận dụng những thủ đoạn chiến đấu đúng đắn, quân đội Tây Sơn tuy ít so với địch trong từng trận, nhưng vẫn chiến thắng một cách vẻ vang.
    Trận đánh vào Thăng Long đã kết thúc rất nhanh chóng. Lực lượng còn lại trong tay chúa Trịnh không có bao nhiêu. Chúa Trịnh tuy đã bố trí khá chu đáo, lại giữ nguyên vẹn một đội tượng binh quan trọng, nhưng lực lượng đó không còn là địch thủ xứng đáng của chủ lực Tây Sơn. Sau khi đổ bộ lên bến Tây Long, Nguyễn Huệ cho một đội quân nhỏ thọc thẳng vào phủ chúa Trịnh, còn chủ lực thì đánh thẳng vào trận địa quân Trịnh, hướng chủ yếu nhằm lầu Ngũ Long, bản doanh của chúa Trịnh.
    Một lần nữa, sức xung phong vũ bão và hỏa hổ của quân đội Tây Sơn đã gây thiệt hại nghiêm trọng và khủng khiếp cho tàn quân Trịnh. Hỏa hổ còn gây sợ hãi cho đội tượng binh quân Trịnh.
    Chiến dịch giải phóng Bắc Hà, tiêu diệt quân đội Trịnh đã kết thúc sau 10 ngày chiến đấu. Trải qua bốn trận chiến đấu lớn, Nguyễn Huệ đã hoàn toàn tiêu diệt quân đội Trịnh, gồm mấy vạn thủy binh, bộ binh, tượng binh và hàng trăm thuyền chiến.
    Trong khoảng hơn một tháng (thời gian tác chiến là 20 ngày) bằng hai chiến dịch lớn, từ Phú Xuân ra Thăng Long, quân đội Tây Sơn do Nguyên Huệ chỉ huy đã hạ nhiều thành lũy, tiêu diệt trên mười vạn quân địch, đánh đổ tập đoàn phong kiến ********* nhà Trịnh, đưa nền nghệ thuật quân sự của dân tộc ta đi lên những bước phát triển mới.
    Hai chiến dịch Phú Xuân và Thăng Long là hai chiến dịch tiến công. Trong cả hai chiến dịch tiến công này, đặc điểm nổi bật là sự kết hợp rất chặt chẽ giữa tiến công thần tốc với tổ chức tiếp tế kịp thời, giải quyết vấn đề phát triển chiến dịch liên tục. Do đó, các cuộc tiến công luôn luôn giành được thắng lợi, làm cho địch mất khả năng tập trung lực lượng lớn để phản công.
    Nhờ bảo đảm tốc độ tiến công cao, nên đã ngăn chặn sự cơ động của địch, cũng tức là buộc địch nằm trong trạng thái phân tán. Bảo đảm tốc độ tiến công cao, giữ vững lực lượng tập trung, nên thực hiện được tập trung ưu thế thực sự, phát huy cao độ tính chủ động, để sử dụng ưu thế đó lần lượt tiêu diệt từng đạo quân phân tán của địch. Kết quả của phương pháp đó là giành được thắng lợi, hoàn toàn đạt được mục tiêu chủ yếu là tiêu diệt sinh lực địch.
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 10:15 ngày 25/05/2008
  6. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Trong hai chiến dịch này, tốc độ tiến công cao của quân đội Nguyên Huệ là một trong những yếu tố quan trọng nhất để bảo đảm thực hành chiến dịch một cách thắng lợi. Song, muốn bảo đảm tiến công với tốc độ cao, điều căn bản là phải biết sử dụng thủy quân, lục quân một cách thích hợp, để chọc thủng phòng ngự địch một cách nhanh chóng mà phát triền thắng lợi cũng thật nhanh. Việc trao nhiệm vụ thích hợp cho thủy quân, lục quân (trong chiến dịch và từng trận chiến đấu), việc hành động ăn ý giữa thủy quân, lục quân nhằm hoàn thành nhiệm vụ chung, đã được Nguyen Huệ giải quyết tốt.
    Một điểm quan trọng khác, là tốc độ tiến công cao không thể tách rời việc bảo đảm cung cấp kịp thời lương thực, vũ khí, đạn dược, thuốc men cho quân đội tác chiến. Nguyễn Huệ đặc biệt chú trọng giải quyết chu đáo vấn đề phức tạp này. Lực lượng càng lớn, thủy quân, lục quân càng nhiều thành phần, tác chiến xảy ra xa căn cứ hậu phương, thì vấn đề bảo đảm cung cấp càng thêm phức tạp. Trong hai chiến dịch này, nhất là trong chiến dịch giải phóng Thăng Long, ngoài thủy đội vận tải, việc đánh chiếm các kho lương thực, vũ khí của địch, việc huy động vật lực tại chỗ, đã được Nguyễn Huệ đặt thành nhiệm vụ quan trọng, thậm chí là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, ngang hang với nhiệm vụ tiêu diệt địch.
    Ngoài những vấn đề lớn trên đây, đã được Nguyễn Huệ giải quyết rất tài tình, chúng ta cũng cần chú ý đến một số điểm nổi bật khác trong nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch của Nguyễn Huệ. Trước hết phải nói rằng chiến dịch đánh
    Bắc Hà năm 1786 này của Nguyễn Huệ là cả một chuỗi bất ngờ đem đến cho địch. Từ trận mở đầu chiến dịch tới trận kết thúc chiến dịch, quân địch đều hoàn toàn bị đánh bất ngờ. Đèo Hải Vân bị đánh bất ngờ, thành Phú Xuân bị đánh bất ngờ, từ sông Gianh, Đồng Hới trở vào đều bị đánh bất ngờ. Trên đường Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc,

    quân địch ở mọi cứ điểm đều bị đánh bất ngờ. Nghệ An, Thanh Hóa, Vị Hoàng bị đánh bất ngờ. Những nơi đã bày binh bố trận hẳn hoi, quân Trịnh cũng vẫn cứ bị đánh bất ngờ, như ở cửa Luộc, ở bến Thúy ái, ở hồ Vạn Xuân. Cho cả tới chúa Trịnh tại lầu Ngũ Long trong nội thành Thăng Long cũng bị đánh bất ngờ, và phủ chúa, hoàng cung tất thảy đều bị chiếm đóng bất ngờ, ngoài sự tưởng tượng của quân Trịnh, chúa Trịnh và vua Lê. Có thể nói rằng trong chiến dịch đánh Bắc Hà này, Nguyễn Huệ đã phát huy cao độ yếu tố bất ngờ để đánh nhanh, thắng nhanh và hoàn toàn thắng địch.
    Cũng như trong các lần đánh Gia Định trước, trong chiến dịch đánh Bắc Hà, Nguyễn Huệ đã triệt để lợi dụng những yếu tố thiên nhiên thuận lợi, sử dụng những lực lượng và những phương tiện chiến đấu thích hợp nhất để tiến hành đánh địch. Nguyên Huệ đã nhằm đúng mùa hè, khi có gió nồm thuận lợi để tiến quân ra Bắc. Nhân mùa gió, trong giai đoạn đầu của chiến dịch, quân Tây Sơn chia làm ba đạo thì hai đạo đi đường thủy, chỉ có một đạo đi đường bộ. Trong giai đoạn hai, quân tiền phong Tây Sơn đã đi đường thủy để tiến nhanh ra đánh chiếm Vị Hoàng. Sau đó, đại quân Tây Sơn cũng theo đường thủy tiến nhanh ra Vị Hoàng để kịp đánh tan chủ lực quân Trịnh tập trung ở cửa Luộc. Sau trận cửa Luộc, nhân khi gió nồm đang thổi mạnh, toàn quân Tây Sơn đã theo đường thủy tiến nhanh lên đánh chiếm Thăng Long. Nguyên Huệ còn lợi dụng sức gió để vận dụng chiến thuật, sử dụng phương tiện chiến đấu trong các trận đánh. Tại trận cửa Luộc, Nguyên Huệ đã nhân khi gió nồm thổi mạnh để đánh phá thủy quân Đinh Tích Nhưỡng và dùng hỏa hổ đánh phá bộ binh của Đỗ Thế Dận ở trên bờ sông Luộc. Nguyên Huệ cũng lợi dụng lúc thủy triều lên, mặt nước dâng cao, để dùng hỏa lực yểm hộ cho quân thủy bộ tiến công vào thành Phú Xuân.

    Trong nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch đánh Bắc Hà của Nguyễn Huệ, có một điểm nổi bật hẳn lên rất đáng chú ý. Đó là sự kết hợp giữa quân sự và chính trị. Vấn đề này, trong những lần tiến đánh Gia Định, các lãnh tụ Tây Sơn ít chú ý tới, vì một trong những lý do khi ấy là, bọn chúa Nguyễn đã suy yếu, và trên thực tế, Gia Định từ năm 1777 trở đi, đã là đất đai thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn. Nhưng tình hình Bắc Hà thì khác. Lực lượng chúa Trịnh còn mạnh, nhân dân Bắc Hà còn tin nhà Lê.
    Nguễn Huệ không thể không chú ý đến những vấn đề chính trị. Do đấy trong chiến dịch này, Nguyễn Huệ đã nêu khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh", đã truyền hịch kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân Bắc Hà và tìm cách thu phục các toán nghĩa quân đang chống Trịnh ở miền duyên hải Bắc Hà.
    Đó là một số bài học lớn rút ra từ hai chiến dịch quy mô lớn này. Đó cũng là những bài học lớn về chiến lược, chiến thuật cơ động linh hoạt của anh hùng Nguyễn Huệ.
  7. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Chương ba
    NGUYỄN HUỆ ANH DŨNG CHỐNG NGOẠI
    XÂM ĐÁNH TAN 20 VẠN QUÂN THANH,
    GIỮ VŨNG NỀN ĐỘC LẬP CỦA TỔ QUỐC​
    TÌNH HÌNH VIỆT NAM TỪ SAU KHI NGUYỄN HUỀ ĐÁNH ĐỔ NHÀ TRỊNH TỚI NGÀY QUÂN THANH XÂM LƯỢC BẮC HÀ
    (TỪ THÁNG 8 NĂM 1786 ĐẾN CUỐI NĂM 1788)​
    Sau khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Phú Xuân và Thăng Long đánh đổ thế lực nhà Trịnh, toàn bộ lãnh thổ Việt Nam đều thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn, chính quyền trong cả nước đều thống nhất trong tay nghĩa quân Tây Sơn.
    Trên cơ sở nước nhà đã được thống nhất như thế, các tập đoàn phong kiến thống trị ở hai miền Nam Bác đã bị hoàn toàn đánh đổ, chính quyền trong cả nước đã ở trong tay, nghĩa quân Tây Sơn có thể lập lại một nền trật tự xã hội lâu dài, bền vững cho dân tộc và đưa nước nhà lên những bước phát triển mới của lịch sử. Người định đoạt vận mệnh của nước nhà trong những điều kiện lịch sử thuận lợi ấy chính là các lãnh tụ phong trào Tây sơn.
    Nhưng lại chính vì các lãnh tụ Tây Sơn quyền hạn khác nhau, tư tưởng, chí hướng khác nhau mà nước nhà sau khi đã thống nhất lại gặp một số khó khăn ở cả hai miền Nam Bắc. Nếu không có người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ đứng ra cứu vãn tình thế thì nền độc lập của Tổ quốc đã rơi vào tay 20 vạn quân Thanh xâm lược, dân tộc Việt Nam đã phải chịu ách đô hộ của phong kiến ngoại bang, chưa biết đến bao giờ mới thoát ra khỏi.
    Người gây nên những tình hình khó khăn ấy chính là người lãnh tụ tối cao của phong trào Tây Sơn, người nắm toàn quyền định đoạt mọi hoạt động của phong trào Tây Sơn. Người lãnh tụ tối cao của phong trào Tây Sơn, từ khi cuộc khởi nghĩa bắt đầu cho tới ngày Nguyễn Huệ tiến ra Thăng Long diệt nhà Trịnh, không phải là Nguyễn Huệ, mà là Nguyễn Nhạc.
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 19:49 ngày 25/05/2008
  8. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Mặc dầu Nguyễn Huệ đã chiến thắng khắp đó đây, uy danh của Nguyễn Huệ đã lừng lẫy khắp nước, nhưng từ trước cho đến bấy giờ Nguyễn Huệ vẫn chỉ là một người tướng chịu quyền chi phối của Nguyễn Nhạc. Từ trước cho đến bấy giờ, nhiệm vụ của Nguyễn Nhạc trao cho Nguyễn Huệ chỉ là nhiệm vụ đánh giặc. Đánh được giặc là nhiệm vụ hết, Nguyễn Huệ lại quay về đứng dưới trướng của Nguyễn Nhạc, không có quyền hành gì khác. Vận mệnh của phong trào Tây Sơn cũng như cách xử lý mọi công việc sau mỗi lần chiến thắng là hoàn toàn do Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc đã sớm thỏa mãn với ngôi hoàng đế ngay từ sau những chiến thắng đầu tiên của quân Tây Sơn ở Gia Định. Nguyễn Nhạc lo sợ ngôi chí tôn của mình bị xâm phạm, không muốn uy quyền của mình bị chia sẻ, cả đối với anh em ruột thịt. Nhất là đối với Nguyễn Huệ, một người có tài đức vượt hẳn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Nhạc càng e ngại, không bao giờ muốn để Nguyễn Huệ rời khỏi cạnh mình, tách xa quyền khống chế của mình. Nhưng Nguyễn Nhạc ở cái thế phải để Nguyễn Huệ đi đánh địch. Vì chỉ Nguyên Huệ đi đánh thì mới chắc thắng. Nhưng thắng xong phải về ngay. Chưa lần nào Nguyễn Nhạc chịu để Nguyễn Huệ ở lâu Gia Định, cứ sau mỗi lần chiến thắng, Nguyễn Huệ lại phải vội vàng đem quân về Qui Nhơn với Nguyễn Nhạc, khiến bọn chúa Nguyễn luôn luôn có điều kiện tổ chức phản công, đánh chiếm lại Gia Định rất dễ dàng. Nguyễn Nhạc cũng đã từng không tán thành đề nghị đánh Phú Xuân của Nguyễn Huệ. Nguyễn Nhạc lại càng không bằng lòng với việc Nguyên Huệ tiến quân ra

    Thăng Long, tiêu diệt nhà Trịnh. Nguyên Nhạc không nhận thức được rằng việc Nguyễn Huệ đánh đuổi Nguyễn Ánh khỏi Gia Định và đánh đổ nhà Trịnh ở Bắc Hà là những sự nghiệp cách mạng lớn lao, phù hợp với lợi ích của giai cấp, của dân tộc, tạo cơ sở cho phong trào Tây Sơn xây dựng một chính quyền vững mạnh và thống nhất trên cả nước. Thấy Nguyễn Huệ tiến ra Thăng Long, diệt được nhà Trịnh, Nhuyễn Nhạc vội vàng đi mải ngày đêm ra Thăng Long, để gọi Nguyễn Huệ về và hạ lệnh cho quân dội Tây Sơn rút hết khỏi Bắc Hà, bỏ mặc Bắc Hà cho bọn vua quan bất lực nhà Lê muốn làm thế nào thì làm.
    Những sai lầm ấy của Nguyễn Nhạc đã gây nên tình hình rối ren ở Bắc Hà, dẫn tới việc quân Thanh sang xâm lược tạo điều kiện cho Nguyễn ánh trở lại xâm chiếm Gia Định, đồng thời cũng gây nên tình hình chia rẽ xung đột trong nội bộ phong trào Tây Sơn trong một thời gian ngắn.
    Trước tình hình đó, nếu như Nguyễn Huệ không sớm thoát khỏi sự kiềm chế của Nguyễn Nhạc, thì bản thân Nguyễn Huệ cũng không thể phát triển được hết tài năng của mình trên mọi lĩnh vực, mà phong trào Tây Sơn và vận mệnh của Tổ quốc cũng sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa, từ sau năm 1786 trở đi.
    Trước khi từ Phú Xuân tiến quân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã viết thư báo cho Nguyễn Nhạc biết. Nguyễn Nhạc không đồng ý, cho người cầm thư ra ngăn lại, nhưng không kịp. Ngày 26 tháng Sáu Bính Ngọ tức 21 tháng 7 năm 1786. Nguyễn Huệ lại gửi thư báo tin thắng trận với Nguyễn Nhạc, và hẹn đến thu đông, sau khi xếp đặt xong mọi việc ở Bắc Hà, sẽ đem quân về Qui Nhơn. Ngày 14 tháng Bảy âm lịch, tức 7 tháng 8 năm 1786 [1], thư về đến Nguyễn Nhạc.
    Nguyễn Nhạc rất không bằng lòng và cũng rất lo ngại, tự nghĩ rằng: "... Nếu mình không thân hành ra Bắc bắt hắn phải về, ấy là thả hùm ra khỏi cũi, không bao giờ còn có thể nuôi dạy được nữa vậy" [2].
    Hoàng Lê nhất thống chí đã thuật lại việc Nguyễn Nhạc ra Bắc như sau:
    "Thế rồi, luôn trong nữa đó [3] vua Tây Sơn tự đem năm trăm tên lính thị vệ ra thẳng Phú Xuân. Tới nơi, lại lấy thêm hơn hai ngàn quân Phú Xuân đi gấp ra kinh sư. Đoàn quân tất tưởi kéo đi, dáng dấp tiều tụy, người ta không còn nhận ra đó là đám quan quân nào nữa" [4].
    Ngày 5 tháng Tám năm Bính Ngọ, tức 26 tháng 8 năm 1786, Nguyễn Nhạc ra tới Thăng Long. Nguyễn Huệ trao lại quyền bính cho Nguyễn Nhạc, các tướng lĩnh và nghĩa quân Tây Sơn ở Bắc Hà lại thuộc quyền điều khiển trực tiếp của Nguyễn Nhạc, nhất thiết mọi việc đều phải tuân theo mệnh lệnh của Nguyễn Nhạc [5].
    Ngày 17 tháng Tám Bính Ngọ, sau khi tới Thăng Long hơn 10 ngày, Nguyễn Nhạc bí mật hạ lệnh cho tất cả các quân thủy bộ Tây Sơn chuẩn bị lên đường, rút về Nam. Canh hai đêm hôm ấy, Nguyễn Nhạc cho người vào từ biệt
    =======================================
    1, 2. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch dã dẫn, tr.135. La Bartette trong thư đề ngày 1 tháng 8 năm 1786 nói rằng Nguyễn Nhạc từ Qui Nhơn ra tới Phú Xuân ngày hôm trước, tức ngày 31 tháng 7 năm 1786. Nguyễn Huệ vào Thăng Long ngày 21 tháng 7 mà ngày 31 tháng 7 Nguyễn Nhạc đã tới Phú Xuân rồi thì nhanh quá, không đủ thời gian để thư đi, người đi nữa. Ngày của HoàngLê nhất thống chí hợp lý hơn.
    3. Ngày 14 tháng Bảy năm Bính Ngọ.
    4, 5. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 135 - 136, 138.

  9. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Lê Chiêu Thống rồi lặng lẽ đem quân đi, bỏ mặc Bắc Hà cho bọn vua quan nhà Lê xoay xở [1].
    Thấy nghĩa quân Tây Sơn bỏ đi, bọn vua tôi nhà Lê hoảng sợ, không biết lo liệu việc nước như thế nào. Lê Chiêu Thống đành phải: "Viết thư triệu hết những người thế gia và bày tôi cũ dấy quân vào bảo vệ hoàng thành. Vì thế hào mục các nơi chiếm giữ châu quận, chiêu tập binh mã đều mượn danh njhĩa "bảo vệ". Những hạng vô lại đánh giết lẫn nhau, trong nước thành ra rối loạn" [2]. Tình hình Bắc Hà trở nên rối ren từ đây.
    Thấy quân đội Tây Sơn rút khỏi Bắc Hà, bọn thân thuộc nhà Trịnh tranh nhau tiến về Thăng Long, giành lại ngôi chúa. Trịnh Lệ, con Trịnh Doanh, từ huyện Văn Giang đem quân lên đóng ở cung Tây Long, uy hiếp Lê Chiêu Thống phải trao quyền Chúa cho mình. Trong khi ấy, Trịnh Bồng, con Trịnh Giang, cũng đem quân từ huyện Chương Đức tiến về Thăng Long. Quân của Trịnh Lệ và quân của Trịnh Bồng đánh nhau ở địa phận làng Nhân Mục. Quân Trịnh Lệ tan vỡ, Trịnh Lệ phải chạy lên vùng Bắc, Trịnh Bồng vào thành Thăng Long. Lê Chiêu Thống phải tái lập ngôi Chúa cho nhà Trịnh và phong Trịnh Bồng làm "Nguyên soái tổng quốc chính, Yến đô vương". Bọn tướng cũ như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ, Dương Trọng Tế mượn cớ tôn phò nhà chúa cũng từ các nơi đem quân về Thăng Long, tranh nhau quyền hành. Triều chính rối nát.
    Bọn Trịnh Bồng và Đinh Tích Nhưỡng câu kết với nhau, bức hiếp nhân dân. "Ngay giữa ban ngày, thủ hạ ra sức cướp bóc dân cư gần kinh thành, không có hiệu
    ========================================
    1. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch của Viện Sử học, t. XX, tr. 22. Hoàng Lê nhất thống chí. Bản dịch ..., tr. 145.
    2. Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch đã dẫn, tr. 23.

    ========================================
    lệnh ngăn cấm" [l], và cũng không có ai kiềm chế được.
    Lê Chiếu Thống phải bí mật hạ chiếu cần vương gửi đi các nơi, để lo đối phó với bọn nhà chúa mới ngoi lên.
    Về phần các lãnh tụ Tây Sơn, sau khi rút quân từ Bắc Hà về Nam, cũng sinh ra hiềm khích xung đột.
    Nguyễn Huệ không theo Nguyễn Nhạc trở về Qui Nhơn mà ở lại Phú Xuân [2]. Khi ấy thanh thế của Nguyễn Huệ rất lừng lẫy. Nhân dân Thuận, Quảng suy tôn Nguyễn Huệ làm Đức Chúa [3]. Hay tin ấy, Nguyễn Nhạc hoảng sợ, hăm dọa trị tội Nguyễn Huệ [4]. Trong tình hình như vậy và đứng trước lợi ích của phong trào, của Tổ quốc, Nguyễn Huệ thấy không thể chung theo những hành động của Nguyễn Nhạc đi ngược lại mục đích đấu tranh của nghĩa quân. Nguyễn Huệ phản đối sự hăm dọa của Nguyễn Nhạc và truyền hịch vạch rõ những sai trái của Nguyễn Nhạc.
    Nguyễn Nhạc quyết định đem quân đánh Nguyễn Huệ. Khi ấy Nguyễn Huệ có rất ít quân, vì đại bộ phận quân đội Tây Sơn thuộc quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ khi ra đánh Bắc Hà, đã phải theo Nguyễn Nhạc về Qui Nhơn. Để đối phó với sự uy hiếp bằng quân sự của Nguyễn nhạc, Nguyễn Huệ hạ lệnh tuyển quân suốt từ Phú Xuân trở ra sông Gianh, thanh niên từ 16 tuổi trở lên đều ra tòng quân. Trong một thời gian ngắn, Nguyễn Huệ đã có một đạo quân gồm sáu vạn người [6].
    Nguyễn Huệ tiến quân vào Qui Nhơn, vây hãm Nguyễn Nhạc ở trong thành trong vài tháng liền, đã buộc Nguyễn Nhạc phải nhượng bộ, từ bỏ ý muốn kiềm chế Nguyễn Huệ
    =======================================
    1. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch đã dẫn, tr. 25.
    2. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 229.
    3, 4, 6. Thư của giáo sĩ Doussain, ngày 6 tháng 6 năm 1787, trong Cadière, Tài liệu đã dẫn, tr. 19.
    5. Đại nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 14, và Thư của Doussain đã dẫn trên.

  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    mãi mãi. Nguyễn Nhạc phải báo tin gấp cho tướng Đặng Văn Trấn, trấn thủ Gia Định đem quân về cứu viện. Nguyễn Huệ cho quân chặn đánh Đặng Văn Trấn ở Tiên Châu (phú Yên). Đặng Văn Trấn và toàn quân đều bị Nguyễn Huệ bắt sống [1]. Sau khi tiêu diệt viện binh của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cho đắp ụ đất cao ở ngoài thành Qui Nhơn và đặt đại bác bắn vào thành [2]. Nguyễn Nhạc hoảng sợ phải nhượng bộ, xin giảng hòa [3]. Cuộc xung đột chấm dứt khoảng đầu năm 1787. Hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ thỏa thuận lấy xứ Bản Tân làm địa giới, từ Thăng Hoa, Điện Bàn trở ra Bắc thuộc quyền Nguyễn Huệ, từ Quảng Nghĩa trở vào Nam thuộc quyền Nguyễn Nhạc.
    Tháng 3 năm 1787, Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Lữ làm Đông định vương và cử vào trấn thủ Gia Định, có thái bảo Phạm Văn Tham giúp việc.
    Như thế là từ đây Nguyễn Huệ hoàn toàn thoát khỏi sự kiềm chế của Nguyễn Nhạc, mặc dầu Nguyễn Huệ vẫn thừa nhận Nguyễn Nhạc là hoàng đế trung ương và chịu nhận tước Bắc Bình vương của Nguyễn Nhạc phong cho.
    Chính nhờ thoát khỏi sự kiềm chế của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã xếp đặt lại tốt mọi công việc từ Thuận, Quảng trở ra, diệt trừ được tình trạng rối ren ở Bắc Hà và tiến tới đại phá 20 vạn quân Thanh xâm lược sau này.
    Trong khi các lãnh tụ Tây Sơn có sự hiềm khích xung đột thì tình hình Bắc Hà cũng ngày càng rối nát thêm.
    Tháng Một năm Bính Ngọ, Trịnh Bồng đem quân vây chặt hoàng thành, mưu đồ phế bỏ Lê Chiêu Thống, lập vua
    =======================================
    1. Đại nam thực lực, Bản dịch đã dẫn, t. II, tr. 63.
    2. Đại nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 14.
    3. La Bissachère trong Etat actuel du Tonkin, de ra Cochinchine... Galignani, Paris, 1812, tome II, p. 169, lại nói rằng: Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc, tuy bất hòa nhưng chưa cùng nhau giao chiến, vì khi sắp đánh nhau thì Nguyễn Lữ đứng ra điều đình, hai bên lại giảng hòa.

Chia sẻ trang này