1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sách: Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dienthai, 21/04/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Lê là Lê Quýnh lên tận Tuyên Quang đón quân Ô Đại Kinh và đưa về đồn trú tại Sơn Tây [1].
    Như thế là toàn bộ quân đội xâm lược của nhà Thanh đã đặt chân lên đất nước Việt Nam, đã kiểm soát được kinh thành Thăng Long và một bộ phận đất đai Bắc Hà.
    ====================================
    1. Nguyễn Thu, Lê quí kỷ sử, tờ 44. Thánh vũ ký, q. 6, tờ 37 viết là Hoàng Văn Thông. Trấn thành Sơn Tây thời bất giờ ở xã Cam Giá, huyện Phúc Lộc, tức cũng khoảng gần thị xã Sơn Tây ngày nay (xem Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Bản dịch của Viện Sử học, Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1960. t. I, tr. 99).
    ====================================
    Sự nghiệp nhục nhã của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống dẫn đường quân cướp nước về giày xéo Tổ quốc, tới đây cũng đã căn bản hoàn thành.
    Kể từ ngày Tôn Sĩ Nghị xuất quân, ngày 28 tháng Mười Mậu Thân tức ngày 25 tháng 11 năm 1788, cho đến ngày quân Thanh đặt chân lên bến Tây Long phía nam kinh thành Thăng long, ngày 25 tháng Một Mậu Thân tức ngày 7 tháng 12 năm 1788, cuộc hành quân của quân Thanh xâm lược đã phải tiến hành trong 22 ngày, không phải chỉ trong 6 ngày, như tôn Sĩ Nghị đã tâu trình với Càn Long một cách huênh hoang trước ngày xuất quân. Điều đó chứng tỏ rằng cuộc hành quân của quân Thanh không phải là tuyệt đối không gặp một cản trở, một kháng cự nào. Nó cũng chứng tỏ rằng việc quân Tây Sơn của Ngô Văn Sở rút khỏi Thăng Long không phải là một sự hoảng sợ trước quân địch, không phải là một cuộc chạy dài về Phú Xuân, Thuận Hóa, để ẩn náu mà là sự thực hiện một chiến lược đúng đắn, có thực hành những kế hoạch kháng cự nhỏ, làm chậm bước tiến của quân xâm lược, khiến quân Tây Sơn có thể rút lui an toàn về Tam Điệp, đồng thời làm cho địch không đám khinh suất, ồ ạt tiến đánh ngay Tam Điệp. Chính vì thế mà quân Thanh xâm lược đã không thể tiến nhanh trên đất nước Việt Nam và Tôn Sĩ Nghị đã phải hành quân thận trọng. Khi tới Thăng Long, sự bố trí các doanh trại, nơi trú quân của quân Thanh cũng tỏ ra rằng, mặc đầu đã chủ quan, kiêu căng lắm, Tôn Sĩ Nghị vẫn phải ít nhiều thận trọng.
    Tôn Sĩ Nghị đã không đóng quân trong thành Thăng Long, không phải là không có suy tính, mà là do cả hai lẽ khách quan và chủ quan. Khách quan là nội thành Thăng Long lúc ấy quá chật không có khả năng để cho hơn 20 vạn quân Thanh vào đồn trú. Mà chủ quan là hơn 20 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị không phải là một khối đồng nhất, nó là ba đạo quân khác nhau, chưa hề tiếp xúc với nhau bao giờ, tướng tá khác nhau, tổ chức khác nhau, kỷ luật khác nhau, tập quán sinh hoạt khác nhau, trình độ chiến đấu khác nhau, nếu dồn vào sống chung trong cùng một doanh trại thì thật là khó khăn, sẽ xảy ra nhiều vấn đề nan giải trong nội bộ của chúng. Chính vì những lẽ khách quan chủ quan ấy mà Tôn Sĩ Nghị đã không cho hơn 20 vạn quân của hắn vào đóng trong thành Thăng Long.
    Khi đóng quân ở ngoài thành Thăng Long, sự bố trí các doanh trại cũng không phải là tùy tiện. Tôn Sĩ Nghị đã cho đóng quân từ phía đông qua phía nam tới phía tây thành Thăng Long. Đạo quân Lưỡng Quảng ở hai bở sông Hồng, đạo quân Điền Châu, Triều Châu ở Khương Thượng và đạo quân Vân Quí ở Sơn Tây. Sự bố trí ấy vừa thuận tiện cho việc liên hệ giữa các đạo quân với nhau, vừa thuận tiện cho việc liên hệ với Vân Nam và Quảng Tây, vừa thuận tiện cho việc tiếp nhận quân lương của chúng từ Trung Quốc đưa sang theo hai đường Quảng Tây - Thăng Long, Vân Nam - Thăng Long, vì trên hai đường ấy quân Thanh đã lập được bảy mươi đồn quân lương nối tiếp nhau từ bên kia biên giới tới Thăng long. Khi cần tiến công Tam Điệp và tiến quân xuống Thuận Hóa, Quảng Nam, thì sự bố trí ấy cũng có nhiều thuận tiện, cả ba đạo quân sẽ có thể cùng tiến một lúc được. Đạo quân Lưỡng Quảng sẽ theo triền sông Hồng tiến xuống Vị Hòang. Đạo quân Điền Châu, Triều Châu sẽ từ Khuông Thượng theo đường chính, qua Văn Điển, tiến xuống Gián Thủy. Đạo quân Vân Quí sẽ từ Sơn Tây theo đường Chương Đức tiến xuống. Cả ba đạo quân ấy sẽ gặp nhau ở Tam Điệp và cùng tiến công quân Tây Sơn ở Tam Điệp - Biện Sơn.
    Cách bố trí đóng quân như trên chứng tỏ rằng Tôn Sĩ Nghị đã có tính toán, nhưng dù sao đấy vẫn là cách bố trí của một quân đội nghỉ ngơi. Hơn nữa, với cách bố trí đó, Tôn Sĩ Nghi tỏ ra chủ quan, khinh địch, mất cảnh giác, chỉ nghĩ đến đánh người, tùy tiện muốn đánh người lúc nào thì đánh,

    mà không nghĩ đến trường hợp bị người đánh thì đối phó như thế nào. Những sơ hở ấy của quân Thanh sẽ bộc lộ rõ trước chiến lược thiên tài đại phá 20 vạn quân Thanh của anh hùng Nguyễn Huệ sau này.
    Đi đôi với những sơ hở ấy là tinh thần chủ quan khinh địch ngày càng tăng của quân tướng nhà Thanh. Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho quân Thanh sẽ phải thất bại thảm hại một khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc.
    Tin quân Thanh xâm lược chiếm đóng kinh thành Thăng Long đưa về tới triều đình Yên Kinh [1] đã làm cho bọn phong kiến nhà Thanh vô cùng phấn khởi. Càn Long lập tức tuyên phong Tôn Sĩ Nghị tước Mưu dũng công và thăng quan tước cho tất cả các tướng sĩ tham gia cuộc xâm lược này [2].
    Những thắng lợi tương đối dễ dàng ở Bắc Hà cộng với những ân huệ của triều đình phong kiến Yên Kinh càng làm cho Tôn Sĩ Nghị tăng thêm kiêu ngạo, chủ quan khinh địch, lãng quên ý chí tiếp tục đến công, hoàn thành âm mưu xâm lược của chúng.
    Tôn Sĩ Nghị quyết định dừng lại ở Thăng Long để nghỉ ngơi. Toàn thể quan Thanh từ tướng lĩnh đến binh lính đều chỉ nghĩ đến nghỉ ngơi, ăn chơi và tác quái trên mảnh đất nước đã bị chúng xâm lược. Và như thế, con đường thất bại của chúng trong những ngày sắp tới đã hiện ra thật rõ rệt.
    ==============================
    1 . Yên Kinh nay là Bắc Kinh.
    2. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 3

  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    NGUYỄN HUỆ TIẾN QUÂN RA BẮC,
    ĐẠI PHÁ HAI MƯƠI VẠN QUÂN THANH

    Ngày 20 tháng Một năm Mậu Thân, Ngô Văn Sở đưa quân về tới Tam Điệp thì cũng ngay ngày hôm ấy Ngô Văn Sở cử đô đốc Nguyễn Văn Tuyết phi ngựa vào Phú Xuân cấp báo Nguyễn Huệ. Chỉ bốn ngày sau, tức 24 tháng Một năm Mậu Thân (21 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Văn Tuyết tới Phú Xuân. Nghe báo cáo đầy đủ tình hình, Nguyễn Huệ quyết định ngay ngày hôm sau 25 tháng Một năm Mậu Thân tức ngày 22 tháng 12 năm 1788 xuất quân tiến ra Bắc.
    Mới nghe thì tưởng như lệnh xuất quân ấy có vẻ nóng vội. Nhưng thật ra, lệnh xuất quân ấy đã dựa trên những cơ sở thực tế của nó. Từ nhiều tháng trước, những đạo quân ở Phú Xuân của Nguyễn Huệ đã được huấn luyện và chuẩn bị đầy đủ, chu đáo, lúc nào cũng ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng đợi lệnh lên đường xuất trận để đối phó với mọi tình hình bất trắc xảy ra, dù là ở phía nam hay ở phía bắc. Nếu không có một sự chuẩn bị chu đáo, một tư thế sẵn sàng chiến đấu như thế, thì không có một đạo quân nào gồm trên dưới chục vạn người có thể ngày hôm trước được tin giặc đến mà lập tức ngày hôm sau đã xuất phát lên đường đi hàng ngàn dặm để đánh giặc.
    Tình thế nước nhà lúc ấy, phía bắc có giặc ngoài xâm lược, phía nam có bọn ********* Nguyễn ánh quấy rối, việc đại quân của Nguyễn Huệ ở Phú Xuân tiến vào Nam hay tiến ra Bắc là một vấn đề quan trọng, quyết định vận mệnh của Tổ quốc, đòi hỏi người lãnh đạo chiến tranh, người tướng chỉ huy quân đội phải có một sự tính toán vững chắc, một nhận định tình hình thật sáng suốt và có
    chủ trương phương hướng thật đúng đắn.
    Trong những tháng cuối năm 1788, Nguyễn ánh đánh phá dữ dội ở miền Gia Định, Nguyễn Nhạc nhiều lần viết thư yêu cầu Nguyễn Huệ đưa quân vào Gia Định. Nguyễn Nhạc chỉ xin giữ một vùng Qui Nhơn, tự xưng là Tây vương, nhường mọi quyền bính trong cả nước và trong nghĩa quân Tây Sơn cho Nguyễn Huệ. Nhưng Nguyễn Huệ đã không đem quân vào Nam ngay, mặc dầu Nguyễn Huệ có đầy đủ điều kiện về quân sự để đánh tan bọn ********* Nguyễn Ánh. Bởi vì ở ngoài Bắc, 20 vạn quân Thanh đang chuẩn bị tiến sang xâm lược. Mà đó là vấn đề quan trọng bậc nhất lúc ấy. Nếu Nguyễn Huệ đem đại quân vào Nam đánh Nguyễn ánh thì khi quân Thanh sang xâm lược, Nguyễn Huệ sẽ không đối phó kịp thời. Nguyễn Huệ từ Gia Định quay trở ra để chống đánh quân Thanh sẽ gặp nhiều khó khăn. Trái lại, Nguyễn Huệ cũng không thể đem quân ra Bắc từ trước để chờ đánh quân Thanh. Bởi vì trách nhiệm của Nguyễn Huệ lúc này là trách nhiệm đối với cả nước. Nếu Nguyễn Huệ đem đại quân ra Bắc lâu ngày thì miền Nam có thể sơ hở, bọn ********* có thể đem quân ra quấy rối Qui Nhơn, Phú Xuân. Nếu Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc để đón đánh 20 vạn quân Thanh tại biên giới, thì thắng lợi chưa chắc đã nhanh chóng. Mà thắng lợi ở Bắc Hà không nhanh chóng thì lại càng là cơ hội tốt để bọn ********* Nguyễn ánh đánh ra Qui Nhơn, Phú Xuân.
    Để xảy ra tình trạng cùng một lúc phải đương đầu với thù trong giặc ngoài ở cả hai mặt trận, phía bắc và phía nam thì thật là nguy hiểm. Cho nên quân đội của Nguyễn Huệ ở Phú Xuân, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu từ lâu, mà đến

    bây giờ Nguyễn Huệ mới hạ lệnh xuất quân là hợp thời, đúng lúc.
    Nhưng ra Bắc mới chỉ là để giải quyết những vấn đề cấp bách ở miền Bắc, còn những vấn đề ở Gia Định thì giải quyết như thế nào; làm thế nào để giữ được an toàn cho Phú Xuân, Qui Nhơn, để quân dân từ Phú Xuân trở vào Gia Định được yên lòng trong khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc. Tất cả những việc đó đều được Nguyễn Huệ lưu tâm chu đáo. Trước khi tiến quân ra Bắc, Nguyễn Huệ cho một tướng tin cẩn là Diệm cầm thư của ông vào Gia Định trao cho tướng chỉ huy quân Tây Sơn trong đó là Phạm Văn Tham. Trong thư, Nguyễn Huệ dặn dò phương hướng chiến lược và động viên quân dân miền Nam cố gắng chiến đấu, chờ ông giải quyết xong công việc Bắc Hà sẽ tiến đại quân vào Nam tiêu diệt bọn ********* Nguyễn Ánh.
    Trước khi ra Bắc, để làm sáng tỏ danh nghĩa đối với cả nước, sáng tỏ trách nhiệm của mình đối với toàn dân ở cả hai miền Nam Bắc, ông quyết định lên ngôi hoàng đế. Ngày 25 tháng Một năm Mậu Thân, Nguyễn Huệ làm lễ
    =============================================
    1. Nguyễn Huệ cho người tin cậy là Diệm vào Gia Định đưa mật thư cho Phạm Văn Tham. Nhưng đầu năm 1789, trong khi Nguyễn Huệ chiến thắng rực rỡ ở Bắc Hà, thì ở Gia Định, Phạm Văn Tham thất bại liên tiếp. Khi Diệm vào tới Gia Định, Phạm Văn Tham đã phải đầu hàng Nguyễn Ánh. Diệm bí mật tìm đến gặp Phạm Văn Tham và đưa bức thư của Nguyễn Huệ cho Phạm Văn Tham. Phạm Văn Tham ân hận: "Nay việc đã như thế này thì làm thế nào được?". Diệm nói: "Nay dẫu bị thua, nhưng không bao lâu chúa ta hẳn trở lại. Gia Định lại tất về tay chúng ta. Tướng quân nên liệu tính đi". Tham giữ Diệm ở lại với mình. Việc tiết lộ, Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh giết chết và bêu đầu ba ngày tại Gia Định. Đại Nam thực lục, Bản dịch của Viện Sử học, t. II, tr. 101; thư của giáo sĩ Tây Ban Nha Castuera viết ngày 11 tháng 6 năm 1789 trong B.S.E.I. Nouv. sér. tomc XV. n0 3 - 4. 1940, p. 100.

  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    đăng quang [1], lấy niên hiệu Quang Trung, xóa bỏ niên hiệu Thái Đức mà trước đây Nguyễn Huệ vẫn cố giữ, mặc dù Nguyễn Nhạc đã xưng là Tây vương, đồng thời cũng xóa bỏ cả niên hiệu Chiêu Thống của nhà Lê ở Bắc Hà.
    Trong bài chiếu lên ngôi của Nguyễn Huệ, ban bố cho toàn dân Nam Bắc, có những đoạn như sau:

    "trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không có một thước đất, vốn kkông có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, mong mỏi được vua hiền để cứu đời yên dân, vì vậy trẫm tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi đi xe cỏ để mớ mang núi rừng, giúp đỡ hoàng huynh [2] rong ruổi việc nhung mã, gầy dựng
    nước ở Tây Thổ vỗ yên các nước Xiêm La, Cao Miên, đánh lấy Phú Xuân, tiên ra Thăng Long, cốt ý quét sách lọan lạc, cứu vớt dân trong vòng nước lửa, rồi sau trả lại nước cho họ Lê, trả đất về đại huynh, trẫm sẽ dùng xiêm thêu hia đỏ ngao du hai nơi mà thôi. Nhưng việc đời dun dủi, trẫm không theo được cái chí xưa đã định. Trẫm hai lần gây dựng họ Lê, thế mà tự quân họ Lê không biết giữ xã tắc bỏ nước đi bôn vong, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê chỉ trông mong vào trẫm. Về phần đại huynh có ý mỏi mệt, tình nguyện giữ một phủ Quy Nhơn, tự nhún xưng là Tây Vương, mấy nghìn dặm đất về phương nam thuộc hết về trẫm [3]. Trẫm tự nghĩ tài đức không bằng người xưa, mà đất đai thì rộng, nhân dân thì

    ===================================
    1. Lễ lên ngôi lập tại núi Bân thuộc địa phận xã An Cựu huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, gần kinh thành Phú Xuân.
    2. Chỉ Nguyễn Nhạc.
    3. Chúng tôi nhấn mạnh để chúng ta chú ý rằng Nguyễn Huệ trước sau vẫn nhận mình có trách nhiệm đối với miền Gia Định, ông không hề có ý bỏ mặc cho bọn Nguyễn Ánh đánh cướp.

  4. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    nhiều năm nghĩ cách thống trị, lo ngay ngáy như dây cương mục chỉ huy sáu ngựa..." [1].
    Những lời giản dị trong bài chiếu đã nói khá rõ những lý do lên ngôi vua của Nguyễn Huệ.
    Sau khi làm lễ đăng quang, Nguyễn Huệ tự thống lĩnh tất cả quân thủy bộ tiến ra Bắc. Ngày 29 tháng Một năm Mậu Thân tức ngày 26 tháng 12 năm 1788, đại quân tới Nghệ An. Nguyễn Huệ cho quân đóng lại ở Nghệ An hơn mười ngày. Một mặt Nguyễn Huệ cho người đem thư trá hàng [2] ra Thăng Long đưa cho Tôn Sĩ Nghị khiến giặc tăng thêm kiêu ngạo, chủ quan, mất cảnh giác, không chú ý đề phòng. Một mặt Nguyễn Huệ hạ lệnh tuyển quân ở Thanh - Nghệ, trao cho đại tướng Hám hổ hầu đảm nhiệm. Cứ ba suất đinh lấy một người ra lính, trong mấy ngày được tới hàng vạn tân binh, tổng cộng toàn quân có được
    =======================================
    1. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, thế kỷ XVIII giữa thế kỷ XIX, Nhà xuất bản văn hóa Hà Nội, 1963, tr. 222.
    2. Nguyễn Thu. Lê quý kỷ sự, tờ 46. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch của Viện Sử học, t. XX, tr. 61. Nhiều sách gần đây, dựa vào bức thư của Nguyễn Huệ gửi Càn Long sau khi chiến tranh kết thúc, để nói rằng cùng với việc đưa thư trá hàng này, Nguyễn Huệ còn cho đem trả Tôn Sĩ Nghị 10 tên quân Thanh là bọn Hắc Thiệu Tông, do tướng Tây Sơn Ngô Hồng Chấn (đoán là Ngô Văn Sở) ở Thăng Long, đã bắt từ trước chiến tranh. Sự việc này chưa chắc là có thật. Những thư từ giao thiệp với nhà Thanh sau cuộc chiến tranh, Nguyễn Huệ trao toàn quyền cho Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy ích và các tướng lĩnh Tây Sơn ở Bắc Hà đảm nhiệm. Trong những bức thư gửi cho Càn Long, nhân danh vua Quang Trung, các tướng lĩnh Tây Sơn đôi khi tìm cách buộc tội thêm cho Tôn Sĩ Nghị để lấy lẽ phải về mình. Cho nên trong đó, có thể có những sự việc không có thật. Trường hợp bị bắt của những người này không rõ ràng. Vả lại với mục đích trá hàng chỉ để làm kiêu lòng địch, Nguyễn Huệ không cần phải trả người cho Tôn Sĩ Nghị.

  5. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    mười vạn người [1] và một đội tượng binh lớn gồm vài trăm voi chiến [2].
    Nguyễn Huệ chia quân làm năm doanh: tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân và trung quân; binh lính mới tuyển ở Nghệ An được đưa vào trung quân đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Huệ. Việc phiên chế quân đội này không có gì đặc biệt, tuy nhiên nó cũng cho thấy Nguyễn Huệ rất khéo dùng người, có tài tổ chức quân đội. Những người lính mới tuyển là những người lính chưa được thao luyện, chưa quen chiến trận, nhưng họ được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của người anh hùng bách chiến bách thắng thì họ sẽ vững vàng tin tưởng, phấn khởi và phát huy được khả năng chiến đấu của họ.
    Sau khi phiên chế xong đội ngũ, Nguyễn Huệ tổ chức một cuộc duyệt binh lớn tại trấn doanh Nghệ An. Trước toàn Quân, Nguyễn Huệ tuyên bố:
    "Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương nam phương bắc chia nhau mà cai trị. Người phương bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng nữ vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm
    =================================
    1. Số lính mới tuyển, Hoàng Lê nhất thống chí nói là một vạn, Cương mục nói là tám vạn. Một vạn thì ít quá, mà tám thì lại nhiều quá, ở đây chúng tôi lấy con số toàn quân gồm cả lính cũ và lính mới là mười vạn của Đại Nam chính biên liệt truyện, vì thấy con số toàn quân mười vạn gần với sự thật hơn.
    2. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 32.

    ==================================
    điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. ở các thời ấy, Bắc Nam riêng phận, bờ cỡi lặng yên, các vuat truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đang tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!" [1].
    Sau hôm duyệt binh, Nguyễn Huệ hạ lệnh tiến quân. Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân tức ngày 15 tháng năm 1789 đại quân của Nguyễn Huệ tiến tới núi Tam Điệp [2]. Tại đây, Nguyễn Huệ khẳng định chủ trương tạm lui quân của các tướng lĩnh Bắc Hà là đúng, ông nói:
    ====================================
    1. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch, tr. 359, 360.
    2. Có tài liệu như Lê triều dã sử nói rằng trong cuộc tiến quân từ Phú Xuân ra Bắc lần này, để hành binh nhanh chóng, Nguyễn Huệ đã cho quân dùng cáng 3 người một tốp thay phiên cáng nhau, khiến mọi người đều đi nhanh mà không ai bị mỏi. Sự việc này không chắc có thật. Bởi vì cáng nhau mà đi thì không thể đi nhanh được bằng đi bộ rảo cẳng, càng không thể đi nhanh đều đặn trong thời gian nhiều ngày liền. Cho nên chúng tôi cho rằng việc cáng nhau mà đi chỉ là câu chuyện người sau viết sách tưởng tượng ra để giải thích tốc độ hành quân mau lẹ của quân đội Tây Sơn. Hoặc giả có những bộ phận quân dội dùng cáng chuyên chở quân trang, quân dụng, quân lương ... để đem đi được nhiều nên nhân dân trông thấy, tưởng đoàn quân cáng nhau để hành quân nhanh.

    ===========================================
    "... Chịu nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng, đành hãy chỉnh đốn đội ngũ, rút về giữ chỗ hiểm yếu, trong thì khiến cho lòng quân kích thích, ngoàí thì khiến cho lòng giặc kiêu căng, đó là một kế rất hay... " [1].
    Rồi Nguyễn Huệ hạ lệnh đóng quân lại ở Tam Điệp một thời gian để tìm hiểu tình hình cụ thể của địch ở Bắc Hà, đồng thời truyền hịch kể tội quân Thanh xâm lược, gọi Tôn Sĩ Nghỉ là "tên ngông cuồng họ Tôn " [2] và động viên nhân dân Bắc Hà đoàn kết, quyết tâm diệt giặc.
    Trong khi Nguyễn Huệ và quân đội Tây Sơn tích cực chuẩn bị phản công như vậy thì bọn quân Thanh cướp nước ở Thăng Long lại chỉ nghĩ đến nghỉ ngơi, cướp bóc, rất ngại chiến đấu, mà đám quân "cần vương " của Lê Chiêu Thống thì đói khát, hoang mang tan rã đến cao độ. Từ biên ải tới Thăng Long, không gặp một sức kháng cự mạnh mẽ nào, Tôn Sĩ Nghị cho là quân Tây Sơn sợ hãi bỏ chạy, sinh chủ quan, kiêu căng, phá bỏ cả mọi điều quân luật đã đề ra, thả lỏng cho quân lính tự do, bừa bãi "mặc cho quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang không có kỷ luật gì cả. Có kẻ đi ra khỏi thành đến hơn mười dặm để kiếm củi đun, có kẻ đi tới các chợ búa dân gian để buôn bán, hàng ngày sớm đi tối về, xem như việc bình thường. Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân" [3]. Quân Thanh thường hoành hành cướp bóc, nạn cướp chợ, hãm hiếp không ngày nào không
    =======================================
    1. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch của Ngô Tất Tố, Nhà xuất bản Mai Lĩnh, Hà Nội, 1945, tr. 531.
    2. Nguyễn Thu, Lê quý kỷ sự, tờ 17.
    3. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí. Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1964, tr. 354.

    ========================================
    có [1]. Tôn Sĩ Nghị lại cho quân đi lùng bắt những người trước đây đã làm việc với Tây Sơn. Hàng ngày, số người này bị bắt và bị giết có tới ba bốn mươi người. Trong khoảng hơn một tháng trời, con số bị giết lên tới hàng ngàn người [2]. Tôn Sĩ Nghị lại dung túng cho những người Hoa kiều trú ngụ ở Thăng Long, Kinh Bắc, phố Hiến, dựa vào quân Thanh, ỷ thế làm càn, ngang nhiên cướp đường, cướp chợ, hãm hiếp, vu hại người lương thiện [3]. Nhân dân Bắc Hà thật là khổ sở và vô cùng oán ghét quân Thanh [4].
    Còn Lê Chiêu Thống thì thật là ươn hèn đốn mạt. Hàng ngày Chiêu Thống phải tới chầu hầu ở dinh Tôn Sĩ Nghị để đón chờ Tôn Sĩ Nghị truyền lệnh về việc quân việc nước. Tuy làm vua và đã được Càn Long phong vương cho, nhưng Chiêu Thống vẫn không dám dùng niên hiệu Chiêu Thống của mình: mọi giấy tờ vẫn phải dùng niên hiệu Càn Long. Trông thấy Lê Chiêu Thống, người Bắc Hà khi ấy đã phải than rằng:
    ?oNước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế? [5].
    Đối với quân xâm lược thì quỵ lụy khốn nạn như vậy, nhưng đối với người trong nước thì Lê Chiêu Thống lại đối xử rất tàn nhẫn, dã man. Hắn dựa vào quân Thanh để trả thù riêng cho thỏa thích. Hắn trị tội những quan lại cũ đã làm việc hoặc có giao thiệp với Tây Sơn. Hắn mổ bụng phụ nữ có mang, chặt chân ba người chú của hắn rồi quẳng
    =========================================
    1, 2. Theo một bức thư nhân danh vua Quang Trung gửi cho Càn Long trong "Tây Sơn bang giao tập?.
    3, 5. Ngô gia văn phái, tài liệu đã dẫn, tr. 348.

    =========================================
    xác xuống giếng v.v., chỉ vì những người này đã có liên hệ với Tây Sơn [1]. Bọn chân tay của Lê Chiêu Thống là bọn Lê Quýnh, bất tài, vô hạnh, suốt ngày say mê rượu chè, công nhiên ăn của đút lót, vu hãm các bạn đồng liêu cũ. Triều đình bù nhìn của Lê Chiêu Thông như vậy chỉ làm hại nước và nhục nước, khiến cho quân xâm lược càng thêm khinh nhờn, hống hách, kiêu căng, tàn bạo.
    Bắc Hà lúc ấy, mấy năm liền mất mùa đói kém, nhất là nắm l788 lại càng đói kém dữ dội. Bọn vua tôi Lê Chiêu Thống phải thu lương thực của nhân dân để nuôi quân Thanh. Nhưng các châu huyện đều không có thóc lúa để cung ứng. Chiêu Thống phải cho quần thần chia nhau đi các nơi đốc thúc lấy lương. Dân chúng kêu khóc, nhịn đói mà dâng nộp. "Đường tiếp tế lương thực cho quân Thanh thì xa, nên bao nhiêu lương và tiền mà triều đình thu được của dân đều đem cung đốn cho họ hết sạch. Còn vài vạn người vừa nghĩa binh các đạo, vừa cựu binh Thanh -Nghệ [2] thì đều lòng không dạ trống đi theo việc binh nhung. Lòng người do đấy lại càng chia rẽ tan tác" [3].
    Trong khi ở Bắc Hà quân Thanh cướp nước tàn bạo như vậy, quần chúng nhân dân khổ sở như vậy, bọn ********* Lê Chiêu Thống có những hành động đê hèn nhục nhã như vậy, thì bọn ********* Nguyễn Ánh ở Gia Định cũng có những hành động đê hèn nhục nhã không kém. Chúng cũng cầu mong quân xâm lược nước ngoài vào cướp nước, vào giày xéo lên Tổ quốc, chém giết đồng bào của
    =======================================
    1, 3. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch dã dẫn, t. XX tr. 60.
    2. Quân đội cũ của Lê Chiêu Thống, người Thanh Hóa, Nghệ An.

    =======================================
    chúng. Được tin quân Thanh tiến sang cướp nước ở phía bắc, Nguyễn ánh mừng rỡ, vội vàng cho lũ chân tay là bọn Phan Văn Trọng, Lâm Đề mang thư sang triều đình nhà Thanh tỏ lòng hoan nghênh, thần phục và đem 50 vạn cân gạo để giúp lương cho quân Thanh đánh chiếm Bắc Hà. Nhưng không may cho bọn ********* Nguyễn ánh, hành động nhục nhã của chúng đã không đi đến kết quả nào. Các thuyền gạo của chúng ra tới biển, gặp bão, bị đắm, cả gạo và người đều làm mồi cho cá biển [l].
    Trong tình hình Bắc Hà hỗn loạn, do quân Thanh xâm lược và bọn ********* Chiêu Thống gây nên, một vài cựu thần nhà Lê đã trông thấy nguy cơ có thể bị tiêu diệt, lấy làm lo lắng và muốn có những hành động quân sự kịp thời. Ngô Tưởng Đào dâng sớ yêu cầu kịp thời tiến đánh quân Ngô Văn Sở ở Tam Điệp. Tôn Sĩ Nghị khoác lác, từ chối:
    "Việc gì mà phảí vội vã như vậy? ... Giặc gầy mà ta đang béo, hãy để chúng tự đến nộp thịt ..." [2].
    Tuy nói ngông nghênh như vậy, nhưng thấy mọi người thúc giục, Tôn Sĩ Nghị cũng không dám để việc quân trễ tràng lắm. Hắn liền quyết định sang xuân, mồng 6 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), sẽ xuất quân và bắt đầu bố trí canh gác đề phòng [3]. Ngoài các đạo quân lớn vẫn đóng tại các vị trí cũ, Tôn Sĩ Nghị bắt đầu đặt thêm đồn canh phòng.
    Từ Thăng Long về phía nam chừng 60 dặm, Tôn Sĩ Nghị chia quân đóng giữ một số nơi, đắp lũy đất lập đồn để canh gác. Những đồn mới lập ấy gồm có: một đồn ở làng Ngọc Hồi huyện Thanh Trì, một đồn ở làng Hà Hồi huyện
    =======================================
    1. Đại Nam thực lực, Bản dịch của Viện sử học, t. II, tr. 121.
    2. Ngô gia văn phái, Tài liệu đã dẫn, tr. 350.
    3. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch, t. XX, tr. 61, nói vì có thủ chiếu của Càn Long, Tôn Sĩ Nghị mới phải tính đến mưu kế tiến quân. Sự việc này nếu có thật. thì chỉ là thêm một nguyên nhân, chứ không phải là nguyên nhân duy nhất.

  6. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Thường Tín, một đồn ở làng Nhật Tảo huyện Duy Tiên và một đồn ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết huyện Thanh Liêm. Nhưng kế hoạch bố trí mới của Tôn Sĩ Nghi lại chỉ là kế hoạch phòng thủ thụ động, ngồi chờ người đến đánh để đỡ vì vậy bọn thần tử nhà Lê vẫn lo sợ.
    Một người cung nhân cũ trong cung vua Lê, quê ở Trường Yên, vùng núi Tam Điệp, đã phải cố đi từ Trường Yên ra Thăng Long để nói về tình hình và than thở với Thái hậu mẹ Lê Chiêu Thống:
    "Xe vua trở về kinh thành, đã gần một tháng. Hiệu lệnh ban ra, chẳng qua mới đến các vùng Ứng Hòa, Thường Tín, Từ Sơn, Thuận Thành, Quảng Oai, năm lộ mà thôi. Còn như từ Trường Yên về nam, Thanh Hoa là đất căn bản, lăng tẩm tiền triều ở đó. Nghệ An cũng là quận chân tay, quân cấm và quân túc trực đều lấy người ở đấy, thì nay vẫn bị mất về tay giặc, tín tức không thông, đó thật là điều đáng lo rất lớn. Hiện nay, việc nước hư thực thế nào, thế giặc mạnh yếu ra sao, những người đứng ngoài mà xem, không ai không biết. Trước đây hoàng thượng gặp nạn phảí chạy, các quan trèo đèo vượt suối khó nhọc vất vả đã hơn một năm, bao nhiêu nhân tình chắc đã từng trải hết rồi, sao vẫn điềm nhiên không lo nghĩ gì cả? Tổng đốc họ Tôn từ thượng quốc tới đây, thế nước và tình hình của giặc chỉ biết đại khái. Đến như các miền, cũng có nơi xung yếu, nơi bình thường, chìa đồn và mai phục, cần phải trù tính kỹ càng. Việc binh có lúc nên đánh, lúc nên giữ, phải tùy cơ ứng biến trong chốc lát. Tất cả những điều ấy, họ làm sao mà hiểu được rõ ràng, đích xác? Vả chăng, khi trước L ê Quýnh khai báo ở bên ấy, nói rằng: "Nhiều nơi trong nước ta không chịu theo giặc, người chuộng nghĩa còn nhiều, lòng người cũng có thể trông cậy, nếu được đại binh

    sang làm thanh viện thì công việc khôí phục có thể thành ...". Đó chỉ là một cách nói, để tổng đốc họ Tôn không cho việc ấy là khó. Quýnh vì muốn chóng được quân sang cứu, cho nên mới bịa ra lời nói hão để lừa đối họ. Họ cũng tưởng là thật, hăng hái tiến lên, không còn lo nghĩ gì về sau. Cứ xem lời lẽ trong bài hịch, thì những điều họ bắt buộc mình phảí đương lấy, rất là nặng nề; còn họ thì chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, láy thanh thế suông để dọa dẫm mà thôi. Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỉ thần, khômh ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi? Họ chẳng qua chỉ là người khách, chuyến này sang cũng cốt xem sự thể khó hay dễ để liệu bề tiến lui mà thôi. Nhưng còn nhà nước của ta thì sao? Thái hậu có thể chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa chững?" [1].

    Cung nhân già ấy chỉ là một người phụ nữ bình thường, nhưng họ đã thấy được phần nào sự thật của tình hình. Bởi vì họ đã sống ở Trường Yên, tiếp cận với nơi quân đội Tây Sơn đóng giữ. Họ thấy rõ khí thế sục sôi chiến đấu của quân dân từ Trường Yên trở vào và thấy rõ khả năng chiến thắng của quân đội Tây Sơn. Quay nhìn ra Bắc, nhất là đặt chân tới Thăng Long, họ đã thấy tất cả cái yếu hèn của vua tôi Lê Chiêu Thống, và mầm mống thất bại của
    =====================================
    1. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí. Bản dịch đã dẫn, tr. 355 - 356.
  7. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    quân Thanh. Nhìn thấy sự thật, nhưng sợ việc đã muộn. Bọn vua tôi nhà Lê cũng thấy nhận định tình hình như thế là đúng, nhưng không có cách nào khác hơn là đến cầu khẩn với Tôn Sĩ Nghị để Tôn Sĩ Nghị xuất quân mà thôi.
    Thấy có người vạch rõ tình hình và đặt vấn đề một cách cấp thiết như vậy, Tôn Sĩ Nghị cũng giật mình và cũng tự cảm thấy mình đã sai lầm. Nhưng thời cơ đã lỡ, quân luật đã trễ tràng, binh lính đã uể oải, bản thân Tôn Sĩ Nghị cũng thấy khó khăn lúng túng, không biết xoay sở như thế nào, chỉ còn biết mắng nhiếc bọn bù nhìn và đùn cho bọn bù nhìn xuất quân trước:
    "Trước đây tới đón chào ta ở Lạng Sơn, sao không nói cho rõ? Bấy giờ, nhân khi ta thắng, đè bẹp ngay chúng đang lúc khốn đốn, há chẳng dễ dàng hơn hay sao? Nay đã bỏ lỡ cơ hội ấy, để chúng có thì giờ thong thả mà bày mưu đặt chước, cách trị chúng cần phải tính toán cho chu đáo, không thể hấp tấp. Vả lại đã định đến sang xuân, vào ngày mồng 6 thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa. Nếu muốn đi gấp thì cho phép vua tôi nhà ngươi đem một đạo quân đi trước cũng được" [l].
    Trước sự tình như thế, bọn vua tôi Lê Chiêu Thống không còn biết nói gì nữa. Nhưng khổ cho chúng là cắt cử ai đem quân đi trước bây giờ, và đi trước thì đánh chác ra làm sao ? Bọn triều thần ở Thăng Long sợ chết, không
    tên nào dám đi, đành phải dùng lệnh vua điều động viên trấn thủ Sơn Tây [2], không phải là đi đánh quân Tây Sơn ở Tam Điệp mà là đem quân bản bộ ở Sơn Tây xuống đóng
    ===================================
    1. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 356 - 357.
    2. Tức Hoàng Phùng Tứ như đã nói ở trên. Nhiều sách khác gọi là Hoàng Phùng Nghĩa.

  8. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    ở Gián Khẩu, lập thành một đồn tiền tiêu án ngữ đường tiến ra Thăng Long của quân đội Tây Sơn [1].
    Sự điều động quân Lê từ Sơn Tây xuống Gián Khẩu như thế không phải để chủ động tiến công quân đội Tây Sơn mà chỉ có nghĩa là đi làm bia đỡ đạn, chịu chết trước để cho quân Thanh yên tĩnh, nghỉ ngơi cho đến ngày 6 tháng Giêng. Nhưng tình hình khẩn trương đã không cho phép Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh được yên tĩnh nghỉ ngơi. Ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thân tức ngày 18 tháng 1 năm 1789 thám tử của quân Thanh từ các nơi chạy ngựa về Thăng Long báo với Tôn Sĩ Nghị là quân Tây Sơn đang tuyển thêm lính ở Thanh Hóa, Nghệ An và chuẩn bị tiến đánh Bắc Hà [2]. Tôn Sĩ Nghị vội vàng "cho quân đi đóng giữ ở tất cả các nơi hiểm yếu trên khắp bốn ngả đường, còn đại quân thì sáng chiều tập dượt để chuẩn bị tác chiến" [3].
    Tôn Sĩ Nghị lại cử đề đốc Hứa Thế Hanh trực tiếp chỉ huy mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long và tăng cường quân lực cho các đồn quân đã có ở mặt trận này, từ Ngọc Hồi đến bờ bắc sông Nguyệt Quyết [4].
    Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh có chuẩn bị đề phòng thì cũng đã muộn quá rồi. Nguyễn Huệ và đại quân Tây Sơn đã tới Tam Điệp từ ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân và Nguyễn Huệ đang nghiên cứu kỹ tình hình địch, để đánh cho địch một trận thật bất ngờ, quyết thắng. Biết địch đã định ngày 6 tháng Giêng sẽ từ Thăng Long xuất quân, Nguyễn Huệ quyết định quân đội Tây Sơn sẽ đánh tan quân Thanh và tiến vào Thăng Long, trước ngày mồng 6 tháng
    ==================================
    1 . Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí. Bản dịch đã dẫn, tr. 357.
    2, 3. Theo Quân doanh kỷ lược, của Trần Nguyên Nhiếp, do Trần Văn Giáp sưu tầm và Văn Tân dẫn trong Cách mạng Tây Sơn, Nhà xuất bản Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958, tr. 115.
    4. Nguyễn Thu, Tài liệu đã dẫn, tờ 46. Cương mục, Bản dịch đã dẫn, t. XX. tr. 61.

  9. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Giêng ấy. Biết quân Thanh chỉ lập một mặt trận chính là mặt trận phía nam thành Thăng Long và tập trung quân chủ lực ở đấy đặc biệt là ở hai đồn quân kiên cố nhất là Hà Hồi và Ngọc Hồi, còn đại quân của Tôn Sĩ Nghị đóng ở hai bờ sông Hồng và mấy vạn quân Điền Châu, Triều Châu của Sầm Nghi Đống, đóng ở Khương Thượng, phía tây nam thành Thăng Long, đều chỉ ở tư thế đợi chờ, đợi chờ tin tức của mặt trận phía nam và đợi chờ ngày xuất quân. ở phía bắc thành Thăng Long, có một nhóm quân cần vương của Lê Chiêu Thống, do Lệ Duy Chi chỉ huy là một lực lượng không đáng kể, một khi quân Thanh đã thất bại.
    Nắm được kế hoạch và cách bố trí lực lượng của địch, Nguyễn Huệ chia quân làm năm đạo để tiến đánh quân Thanh với những nhiệm vụ cụ thể cho từng đạo quân như sau:
    Đạo quân thứ nhất là đạo quân chủ lực do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy có Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân làm tiên phong và Hám hổ hầu đi hậu quân đốc chiến. Đạo quân này gồm có cả bộ binh, tượng binh, kỵ binh, làm nhiệm vụ đánh vào mặt trận chính của quân Thanh trên đường phía nam kinh thành Thăng Long.
    Đạo quân thứ hai đi đường thủy, do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy, tiến vào sông Lục Đầu, tiêu diệt quân cần vương của Lê Chiêu Thống ở Hải Dương, rồi tiến lên uy hiếp cạnh sườn phía đông của Tôn Sĩ Nghị đóng ở bờ sông Hồng, làm tiếp ứng cho đạo quân chủ lực và các đạo quân khác đánh vào Thăng Long.
    Đạo quân thứ ba đo đại đô đốc Lộc chỉ huy, cũng đi đường thủy cùng với đạo quân thứ hai. Khi vào đến sông Lục Đầu thì đạo quân thứ ba này sẽ đi gấp lên các hạt Phượng Nhãn, Lạng Giang, Yên Thế, để chặn đường chạy về của quân Thanh.
    Đạo quân thứ tư do đại đô đốc Bảo chỉ huy, gồm tượng binh và kỵ binh, có nhiệm vụ đi theo đường Sơn Minh (huyện Ứng Hòa, Hà Tây ngày nay) ra làng Đại Áng, ở phía tây nam đồn Ngọc Hồi, để phối hợp với đạo quân chủ
    lực tiến công đồn này, vừa là vị trí quan trọng nhất của mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long, vừa là bản doanh của viên tướng chỉ huy mặt trận là đề đốc Hứa Thế Hanh.
    Đạo quân thứ năm cũng gồm tượng binh và kỵ binh do đô đốc Long chỉ huy. Đạo quân này có nhiệm vụ đánh bất ngờ vào Thăng Long, tiến vào Thăng Long trước tất cả các đạo quân khác, làm cho toàn bộ quân địch ở tất cả các mặt trận xung quanh Thăng Long đều hoang mang tan rã mau chóng. Đạo quân thứ năm sẽ đi theo dường huyện Chương Đức (tức huyện Chương Mỹ, Hà Tây ngày nay) tiến theo hướng Sơn Tây nhưng rẽ quặt sang làng Nhân Mục, rồi tạt ngang sang tập kích đồn quân Điền Châu, Triều Châu của Sầm Nghi Đống ở Khương Thượng, liền sát kinh thành Thăng Long về phía tây nam. Tiêu diệt xong đồn Khương Thượng, đạo quân thứ năm của đô đốc Long sẽ theo cửa tây, tiến ngay vào Thăng Long, một mặt chiếm đóng kinh thành, một mặt tiếp tục tiến công vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở Tây Long phía đông kinh thành Thăng Long và chặn bắt tàn quân Thanh từ phía Ngọc Hồi và các đồn khác ở mặt trận phía nam chạy về Thăng Long.
    Sau khi phân phối đội ngũ và trao nhiệm vụ cho các đạo quân, Nguyễn Huệ hạ lệnh ngày 30 tháng Chạp năm Mậu Thân tức ngày 25 tháng 1 năm 1789 sẽ xuất quân đến đánh các đồn tiền tiêu của giặc. Ngày hôm ấy, trước khi lên đường, Nguyễn Huệ cho làm tiệc khao quân và nói với tướng sĩ rằng:
    "Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên đán trước, đợi đến mồng 7 tháng Giêng vào thành Thăng Long, sẽ mở tiệc lớn. Các người hãy ghi lấy lời ta nói xem có đúng thế không" [1].
    Sau bữa tiệc lên đường, đạo quân chủ lực của Nguyễn Huệ rầm rộ xuất phát, "quân xếp thành hàng lại có voi đi kèm giúp sức" [2]. Ngay đêm hôm ấy, 30 tháng Chạp năm Mậu Thân đạo quân chủ lực của Nguyễn Huệ vượt sông Gián Thủy, tiến công vào đồn Gián Khẩu, một đồn tiền tiêu của giặc do quân Lê Chiêu Thống đóng giữ. Quân Lê hoàn toàn tan vỡ, tướng Lê là Hoàng Phùng Tứ [3] bỏ chạy. Nguyễn Huệ cho quân theo phía sông Thanh Quyết tiến lên [4], dọc đường gặp một toán quân Thanh do thám. Toán quân này trông thấy bóng quân Tây Sơn vội vàng bỏ chạy. Nguyễn Huệ một mặt cho quân đuổi bắt toán quân Thanh do thám, một mặt, trên đường hành quân, lần lượt tiêu diệt các đồn quân Thanh đóng ở xa Thăng Long [5], như các đồn ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết (thuộc huyện Thanh Liêm) và đồn Nhật Tảo (thuộc huyện Duy Tiên). Đạo quân chủ lực của Nguyễn Huệ tiến tới huyện Phú Xuyên [6] (thuộc Hà Tây ngày nay) thì bắt sống được toàn bộ toán quân Thanh do thám. Vì các đồn quân ở xa và toán quân do thám đều bị tiêu diệt
    ===================================
    1. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 33.
    2. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 115.
    3. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 33 viết là Hoàng Phùng Nghĩa.
    4. Gián Khẩu thuộc trấn Sơn Nam. Có nhiều sách viết gần đây thường cho rằng sau khi đánh xong Gián Khẩu, Nguyễn Huệ cho quân vào đánh Nam Định, trấn lỵ Sơn Nam. Việc này không chắc có thật, một là quân Tay Sơn không cần thiết phải rẽ vào đánh Nam Định rồi mới quay trở ra theo sông Thanh Quyết tiến lên, hai là trấn lỵ Sơn Nam lúc ấy gọi là Vị Hoàng, không gọi là Nam Định, mà trong các sử cũ đều không nói đến việc Nguyễn Huệ đánh quân Thanh hay quân Lê Chiêu Thống ở Vị Hoàng.
    5. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 33.
    6. Cách Thăng Long khoảng trên 30 ki-lô-mét.

  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    gọn hoặc bị bắt gọn, nên các đồn quân Thanh từ Hà Hồi trở về Thăng Long không biết tin tức gì về việc tiến quân của quân Tây Sơn.
    Nửa đêm mồng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu tức ngày 28 tháng 1 năm 1789, quân Tây Sơn tiến tới trước đồn Hà Hồi, một trong những đồn quân quan trọng của quân Thanh ở cách Thăng Long chừng 20 ki-lô-mét. Nhưng quân Thanh trong đồn không biết gì hết. Nguyễn Huệ cho vây chặt lấy đồn, rồi bắc loa truyền hịch, tiếng quân lính thưa vang, tưởng như có mấy vạn người đang chuẩn bị xung phong vào đồn. Quân Thanh trong đồn giật mình hoảng sợ, mất hết tinh thần chiến đấu, lũ lượt ra hàng. Quân Tây Sơn thu hết lương thực, khí giới. Như thế là chỉ trong khoảnh khắc Nguyễn Huệ đã hoàn toàn tiêu diệt đồn Hà Hồi của quân Thanh mà không mất một mũi tên, hòn đạn.
    Ngày mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu tức ngày 29 tháng 1 năm 1789, Nguyễn Huệ tiến quân lên Ngọc Hồi [1], một đồn quân kiên cố nhất, tập trung tất cả các tướng lĩnh cao cấp của quân Thanh, để chỉ huy mặt trận phía nam thành Thăng Long. Cũng ngày hôm ấy, đồn Ngọc Hồi phải cho quân về cấp báo với Tôn Sĩ Nghị:
    "Quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. ở đấy cách đồn Ngọc Hồi không xa, sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới" [2].
    Tất cả bọn quân ấy đều hoảng sợ trước sự tiến quân thần tốc của Tây Sơn và đều nói:
    "Thật là tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất chui lên" [3].
    ==============================
    1. Đồn Ngọc Hồi ở phía dưới Thăng Long chừng 13 - 14 ki-lô-mét.
    2, 3. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 465.

    ==============================
    Tôn Sĩ Nghị được cấp báo rất hoảng sợ, vội cho lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp cùng viên hàng tướng Phan Khải Đức đem quân cần vương của Lê Chiêu Thống tới tiếp viện cho đồn Ngọc Hồi. Tôn Sĩ Nghị lại sai hai mươi kỵ binh hầu cận mình đi cùng Thang Hùng Nghiệp, với mệnh lệnh là cứ trong chốc lát phải phi ngựa về báo tin và báo tin liên tiếp cho Tôn Sĩ Nghị.
    Nhưng tới Ngọc Hồi, Nguyễn Huệ không đánh địch ngay, ông chờ cho đạo quân của đô đốc Long đánh vào Khương Thượng rồi ông mới đánh. Cả ngày mồng 4, ông chỉ chuẩn bị cho chiến đấu sắp tới và phô trương thanh thế uy hiếp tinh thần địch, đồng thời thu hút tất cả sự chú ý và đề phòng của địch vào mặt trận Ngọc Hồi mà không lo phòng thủ nơi khác, ông nắm chắc địch đang rất hoang mang lo sợ. Địch hoang mang trước cuộc tiến quân thần tốc của quân dội Tây Sơn, và càng hoang mang lo sợ không hiểu quân đội Tây Sơn lớn mạnh như thế nào mà đã tiêu diệt nhanh gọn tất cả những lực lượng và căn cứ phòng thủ của chúng trên chặng đường từ Gián Khẩu lên Hà Hồi. Cũng không hiểu tại sao quân đội Tây Sơn đã tới Ngọc Hồi mà chưa đánh và sẽ đánh vào lúc nào, địch càng sợ.
    Với những hoang mang lo sợ như thế và không hiểu nổi hành động của quân đội Tây Sơn, địch ở Ngọc Hồi không dám chủ động tiến công, đành chờ đối phương đánh rồi sẽ tùy liệu đối phó lại.
    Đúng như những tính toán của nghĩa quân, cả ngày mồng 4, địch ở Ngọc Hồi, không dám tiến ra khỏi đồn để đánh nghĩa quân. Và cả ngày mồng 4, Tôn Sĩ Nghị tại Thăng Long lúc nào cũng nơm nớp lo, nhưng chỉ lo một mặt trận phía nam, mà không ngờ rằng lại có một mặt trận khác diễn ra ngay bên cạnh sườn Tôn Sĩ Nghị. Và chính cái mặt trận bất ngờ ấy đã là một yếu tố góp phần làm cho quân Thanh tan rã mau chóng.

    Cũng trong ngày mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi Nguyễn Huệ tiến lên Ngọc Hồi, thì đạo quân của đô đốc Long cũng tiến tới làng Nhân Mục [1]. Và ngay quá nửa đêm hôm ấy, đạo quân của đô đốc Long, hàng ngũ chỉnh tề, các đội voi chiến đều mang đại bác trên lưng [2], tiến sang đánh đồn Khương Thượng [3] của quân Thanh. Quả nhiên, quân Thanh ở đây đều là quân ô hợp, và tướng chỉ huy cũng không phải là tướng cao cấp, đã quen chiến đấu, nên bị đánh bất ngờ, đồn Khương Thượng đã tan vỡ nhanh chóng. Trong đêm tối dày đặc [4], quân Thanh chạy tán loạn, vừa bị tên đạn, vừa giày xéo lên nhau mà chết, nhiều vô kể. Đô đốc Long cho quân xung phong vào đồn, chém giết như vào chỗ không người. Sầm Nghi Đống đã phải tự tử chết ngay tại đài chỉ huy của hắn ở Loa Sơn [5]. Diệt xong đồn quân lớn gồm mấy vạn người của Sầm Nghi Đống [6], đô đốc Long
    ==================================
    1. Nhân Mục tức là khu vực hai xã Nhân Chính, Khương Đình bây giờ, trên con đường Hà Nội vào Hà Đông.
    2. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 36, 37.
    3. Đồn Khương Thượng và Loa Sơn đều thuộc khu vục chùa Bộc hiện nay (khu phố Đống Đa, thành phố Hà Nội).
    4. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký ... q. 6. tờ 36, 37.
    5. Đồn Loa Sơn thuộc khu vực chùa Bộc hiện nay (khu phố Đống Đa, thành phố Hà Nội).
    6. Xác mấy vạn quân địch chết đầy khắp trận địa. Khi chiến tranh kết thúc, nghĩa quân và nhân dân đã thu nhặt xác địch xếp thành 12 đống lớn đắp đất chôn cất. Lối chôn nổi, xếp xác giặc đắp đất lên trên làm thành những gò đống lớn là một lối cổ truyền ở các nước phương Đông. Những đống xác giặc đó, chữ Hán gọi là Kình nghê kinh quán tức là gò đống chôn xác những tên giặc hung dữ như loại cá kình, cá nghê ngoài biển. Một nhà thơ đương thời là Ngô Ngọc Du đã làm bài thơ Loa Sơn điếu cổ để ca ngợi chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở mặt trận Khươngg Thượng, trong có câu:
    Thánh nam thập nhị kình nghê quán
    Chiến diệu anh hùng đại võ công
    (Thánh nam xác giặc mười hai đống,
    Ngời sáng anh hùng đại võ công).
    Tại 12 gò này, về sau đa mọc um tùm, nên gọi là Khu Đống Đa. Khoảng giữa thế kỷ XIX, có việc đào đất làm đường, mở chợ ở gần khu vực này, nhặt dược rất nhiều xác giặc nữa, lại tập trung đắp thành một đống thứ 13, tức là đống đa có đền Trung Liệt hiện nay. Từ cuối thế kỷ XIX trở về sau, 13 đống đa ấy đã bị phá hủy gần hết. Bây giờ chỉ còn lại hai đống. Một là Đống Đa có đền Trung Liệt, hai là Đống thiêng ở trong khu lăng mộ Hoàng Cao Khải.

Chia sẻ trang này