1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sách: Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dienthai, 21/04/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    đưa quân ập đến đồn Nam Đồng [1] của địch, diệt đồn Nam Đồng và tiến nhanh về phía cửa tây thành Thăng Long, bắn phá rất dữ dội. Phối hợp chiến đấu với nghĩa quân, nhân dân chín xã ngoại thành đem rồng cỏ tẩm dầu tới đánh hỏa công, thiêu đốt khắp đó đây. Trận đánh càng thêm ác liệt. Lúc ấy mới là canh tư đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 (âm lịch).
    Tôn Sĩ Nghị tại dại bản doanh ở bờ sông Hồng, nghe tiếng súng nổ ầm ầm không ngớt, vội sai thám tử chạy ngựa đi tìm hiểu tình hình. Thám tử về báo đồn quân Điền Châu ở Khương Thượng đã bị tiêu diệt, quân Tây Sơn đã vào cửa tây thành Thăng Long, đang bắn phá thiêu đốt rất kịch liệt, khói lửa rực trời. Nhưng tin ấy tới được Tôn Sĩ Nghị thì quân Tây Sơn đã vào thành Thăng Long và đô đốc Long đang tiến quân về phía đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.
    Tôn Sĩ Nghị vội lên ngựa không kịp đóng yên, mình không kịp mặc áo giáp, đem toán kỵ binh hầu cận lẻn qua cầu phao, nhằm hướng bắc mà chạy [2]. Về việc Tôn Sĩ Nghị
    ========================================
    1. Đồn Nam Đồng ở trên đường Khương Thượng vào cửa tây thành Thăng Long. Chỉ có Việt sử thông giám cương mục nói đến việc quân Tây Sơn đánh đồn này, nhưng Cương mục trình bày rất lộn xộn, khiến người đọc tưởng như Nguyễn Huệ sau khi diệt xong đồn Ngọc Hồi mới tiến đánh đồn Nam Đồng. Như thế thì không hợp lý.
    2. Trong việc quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, có một câu chuyện về viên đề lĩnh họ Đinh, bầy tôi của Lê Chiêu Thống đã làm nội ứng cho Tây Sơn đốt phá các kho lương thực khí giới của quân Thanh. Câu chuyện này được thuật lại, theo sách Đào khê nhàn thoại, trong số báo Trung bắc số xuân Kỷ Mậu 1939. Ông Hoa Bằng trong quyển Quang Trung anh hùng dân tộc, xuất bản năm 1944, đã nhấn mạnh nhiều lần về câu chuyện này coi đó như một việc quan trọng giúp cho Tây Sơn vào Thăng Long được dễ dàng và góp phần quyết định rất lớn sự tan rã của đại quân Tôn Sĩ Nghị. Đến lần tái bản năm 1951, ông Hoa Bằng chỉ đưa câu chuyện này xuống chú thích mà thôi. Chúng tôi không được đọc Đào khê nhàn thoại và cũng chưa có dịp xem lại số báo Xuân Trung bắc năm 1939. Nhưng, theo cuốn Quang Trung, anh hùng dân tộc của Hoa Bàng kể lại thì câu chuyện đại khái như sau:
    Viên đề lĩnh họ Đinh và một toán quân già yếu của Lê Chiêu Thống đã được Tôn Sĩ Nghị trao cho trách nhiệm canh giữ các kho khí giới, lương thực của quân Thanh ở trong thành Thăng Long. Khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đánh Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống thì La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã giúp Nguyễn Huệ, đi từ Nghệ An ra Thăng Long để vận động viên đề lĩnh họ Đinh làm nội ứng cho Tây Sơn, vì khi xưa Nguyễn Thiếp đã ngồi dạy học ở nhà đề lĩnh họ Đinh. Ngày 3 Tết Ký Dậu, Nguyễn Thiếp tới Thăng Long, đem biếu đề lĩnh họ Đinh một chiếc bánh chưng, trong nhân bánh có để tờ mật dụ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Đề lĩnh họ Đinh đã theo lời mật dụ, nhận làm nội ứng cho Tây Sơn và ngay đêm 4 rạng ngày 5, đề lĩnh họ Đinh đã ngầm đốt các kho khí giới, lương thực và súy phủ, tức đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long, do đấy quân Thanh ở Thăng Long tan rã, Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy. Theo chúng tôi, câu chuyện này không chắc đã có thật, vì nhiều lẽ. Một là Tôn Sĩ Nghị không đóng quân trong thành Thăng Long, không làm gì có các kho khí giới, lương thực và súy phủ của quân Thanh ở trong thành Thăng Long. Hai là khí giới và lương thực là vận mệnh của cả 20 vạn quân Thanh, không khi nào chúng lại giao cho một toán quân già và một viên tướng già của bù nhìn Lê Chiêu Thống canh giữ. Ba là thái độ hết sức tiêu cực của La sơn phu tử Nguyễn Thiếp không thể nào cho phép ông ta có được một hành động tích cực giúp Nguyễn Huệ chống lại vua Lê mà trước sau ông ta vẫn giữ một dạ trung trinh.
    Nguyễn Thiếp sống ở Nghệ An, trong phạm vi thế lực của Nguyễn Huệ, mà bao lần Nguyễn Huệ mời ra giúp việc, ông ta vẫn khăng khăng từ chối. Chỉ đến khi Chiêu Thống trốn đi, ở chết bên nước ngoài, nhà Lê không còn nữa, Nguyễn Thiếp mới chịu ra làm một vài việc với nhà Tây Sơn mà thôi. Với thái độ "trung thần" với bọn bù nhìn Lê Chiêu Thống như vậy, Nguyễn Thiếp làm sao lại có thể hết lòng giúp Nguyễn Huệ, lặn lội từ Nghệ An ra Thăng Long để khuyên đề lĩnh họ Đinh làm nội ứng cho Nguyễn Huệ, đánh lại quân Thanh, đánh lại vua Lê Chiêu Thống của ông ta?
    Cho nên theo chúng tôi, câu chuyện này không thể có thật. Theo Minh đô sử của Lê Trọng Hàm mà H. K. sao lục một đoạn đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 46, trang 21 thì không phải đề lĩnh họ Đinh đốt kho thuốc súng mà là một viên tổng tư (?) nhà Thanh có trách nhiệm giữ hòm thuốc súng ở đầu cầu phao, đương hút thuốc, thấy Tôn Sĩ Nghị chạy qua, hoảng hốtt để rơi tàn lửa vào hòm thuốc súng. Thuốc nổ, lửa cháy, tiếng nổ rầm trời. Câu chuyện này còn có thể nghe được, nhưng cũng không phải là một sự kiện quan trọng khiến quân Thanh đại bại và Tôn Sĩ Nghị phải chạy trốn.

  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    bỏ chạy và quân Thanh ở bờ sông Hồng bị tan vỡ, các sử sách cũ đều có nhiều tình tiết khác nhau. Hoàng Lê nhất thống chí nói rằng khi Tôn Sĩ Nghị chạy trốn, "Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều bị rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa " [1]. Đại Nam chính biên liệt truyện viết: "Tôn Sĩ Nghị đóng trên bãi cát, được tin bại trận vội vàng cưỡi ngựa một mình chạy về Bắc. Tướng sĩ thấy vậy tranh nhau qua cầu mà chạy, cầu đứt, lăn ngã cả xuống sông, chết đến vài vạn người, làm cho nước sông không chảy được" [2].
    Sách Trung Quốc như quyển Thánh vũ ký của Ngụy Nguyên thì lại đưa thêm một vài chi tiết: "...Tôn Sĩ Nghị chạy trốn khị sang được bờ bắc sông Phú Lương
    =======================
    1. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 365.
    2. Đại Nam chính biến liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.

    =======================
    (tức sông Hồng - Tác giả chú thích) liền cắi đứt các cầu phao bắc qua sông, khiến các đạo quân của các tướng Hứa Thế Thanh và Trương Triều Long bị bỏ rơi lại ở bên bờ nam. Do đấy hơn một vạn người, vừa tướng vừa quân, xô đẩy nhau nhảy xuống sông để bơi sang bờ bắc và đều bị chết đuối tất cả" [1].
    Những chi tiết này nếu quả đúng sự thật thì nó càng cho thấy rõ cái đê hèn của Tôn Sĩ Nghị, một viên tướng chỉ huy đã cam tâm làm chết hàng vạn quân tướng của mình để tìm lấy cái sống sót cho riêng một bản thân.
    Những chi tiết trong các sách nói trên, tuy có những điểm khác nhau, nhưng đều nhất trí với nhau ở một điểm là quân Thanh đã thất bại thảm hại và tướng chỉ huy Tôn Sĩ Nghị đã phải chạy trốn một cách nhục nhã.
    Chiến thắng rực rỡ của đạo quân đô đốc Long tiến vào Thăng Long và sự thất bại thảm hại của giặc đã được nhà thơ đương thời Ngô Ngọc Du thuật lại bằng hai câu thơ:
    Hỏa long nhất trận tặc phi mị
    Khí thành sang độ tranh đào sinh [2].
    (Lửa rồng một trận giặc tan tành,
    Bỏ thành cướp đò trốn thật nhanh).

    Sự thật mà nhân dân ta ghi lại là như thế đó.
    Trong khi Tôn Sĩ Nghị vượt cầu phao chạy trốn, thì bù nhìn Lê Chiêu Thống từ trong nội điện thấy cửa tây thành Thăng Long bị đánh phá dữ dội, cũng vội vàng, bỏ cả vợ con,
    =========================================
    1. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 37.
    2. Hai câu này trích trong bài thơ "Long thành quang phục kỷ thực" (ghi lại sự thật về việc thu phục vinh quang thành Thăng Long) của Ngô Ngọc Du. Hỏa long là rồng lửa, tức là một thứ đánh hỏa công làm thành hình con rồng bện bằng rơm cỏ khô tẩm dầu để đốt. Kèm theo bài thơ, tác giả chú thích một câu chữ Hán, dịch nghĩa như sau: "Quân Tây Sơn tiến công thành Thăng Long, nhân dân chín xã ngoại thành sôi nổi bện rơm cỏ thành hình rồng, tẩm dầu đốt lửa, đánh trận rồng lửa".

    ==========================================
    cùng mấy tên quan hầu cận đưa mẹ chạy ra Tây Long với Tôn Sĩ Nghị. Nhưng ra tới bờ sông thì Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, quân Thanh đương tan tác, cầu phao đã gãy, thuyền bè qua sông không có, bọn Lê Chiêu Thống, hoảng sợ, vội men theo bờ sông, chạy miết lên phía Nghi Tàm, cướp được một chiếc thuyền đánh cá, chèo sang bờ bắc, tìm đường chạy theo Tôn Sĩ Nghị lên ải Nam Quan [1].
    Em ruột Lê Chiêu Thống là Lê Duy Chi làm nhiệm vụ chỉ huy quân Lê đóng giữ ở cửa ô Yên Hoa [2] tức cửa bắc thành Thăng Long, khi thấy chiến tranh đã diễn ra ở cửa tây cũng hoảng sợ, vội đem quân vào nội điện, tính cùng Lê Chiêu Thống tìm đường chạy trốn. Nhưng vào tới nội điện thì Lê Chiêu Thống đã bỏ trốn rồi, chỉ còn lại lũ vợ con của y. Lê Duy Chi không dám nghĩ đến việc đi tìm bọn Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị, vội cùng lũ vợ con Lê Chiêu Thống tìm lối thoát ra ngoài thành Thăng Long, rồi chạy thẳng lên phía Tuyên Quang [3].
    Cũng sáng sớm ngày mồng 5 tháng Giêng Kỷ Dậu tức ngày 30 tháng 1 năm 1789 trong khi đô đốc Long phá tan đồn Khương Thượng, tiến vào Thăng Long và hàng vạn quân Thanh ở bờ sông Hồng bị tiêu diệt, Tôn Sĩ Nghị phải
    chạy trốn, thì Nguyễn Huệ cũng đưa đạo quân chủ lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi của Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long. Ngọc Hồi là một đồn kiên cố nhất ở mặt trận phía nam Thăng Long, quân đông, tướng giỏi, hỏa lực mạnh, xung quanh đồn đều đặt địa lôi [4] và cắm chông sắt [5]. Cho nên đánh đồn này, Nguyễn Huệ đã chuẩn bị tương đối kỹ.
    ==================================
    1 . Ngô gia văn phái, Tàí liệu đã dẫn, tr. 366.
    2. Sau đổi là cửa ô Yên Phụ.
    3. Nguyễn Thu, Tài liệu đã dẫn, tờ 47. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 378.
    4. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.
    5. Việt sử thống giám cương mục, Bản dịch của Viện sử học, t. XX, tr. 62.

  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Để phá hỏa lực của địch, Nguyễn Huệ cho làm sẵn hai mươi cái mộc đỡ đạn khá lớn, cứ ba tấm ván ghép thành một cái mộc, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín.
    Mờ sáng ngày mồng 5 tháng Giêng, Nguyễn Huệ hạ lệnh xung phong đánh đồn, tự mình buộc khăn vàng vào cổ tỏ ý quyết chiến [1] và cưỡi voi ra trận đốc chiến [2]. Đội tượng binh của Nguyên Huệ, gồm hơn một trăm voi chiến rầm rộ xông lên [3]. Quân Thanh trong đồn Ngọc Hồi cho toán kỳ binh tinh nhuệ vun vút xông ra chặn bước tiến của đoàn voi chiến [4]. Quân hai bên gần nhau, ngựa quân Thanh trông thấy voi Tây Sơn hoảng sợ, ***g lên chạy về, chà đạp lẫn nhau. Quân Tây Sơn thúc voi tiến lên bắn giết.
    Kỳ binh Thanh cắm cổ chạy về đồn [5]. Quân Thanh không dám ra ngoài nghênh chiến, phải ở trong đồn cố thủ [6] và bắn đại bác ra rất dữ đội để cản xung phong của đội voi chiến Tây Sơn [7]. Nguyễn Huệ hạ lệnh cho đội voi chiến chia ra làm hai cánh tả hữu, đánh vào hai bên sườn địch [8], và bộ binh cũng chia ra làm hai: một cánh đi vòng qua phía sau đồn Ngọc Hồi, đóng ở phía đông đê Yên Duyên để chặn đường rút chạy về Tây Long của quân Thanh ở
    =====================================
    1. Lê Kỷ (dã sử) dẫn trong Quang Trung, anh hùng dân tộc của Hoa Bằng. Nhà xuất bản Bốn phương, Hà Nội, 1951, tr .191.
    2. Có tài liệu đưa ra việc Nguyễn Huệ đốt hết quân lương trước khi đánh Ngọc Hồi, để tỏ ý quyết chiến. Chúng tôi cho rằng việc ấy không thể có thật. Đốt quân lương vừa là một việc không cần thiết, vừa là một hành động phi quân sự và cũng rất vô chính trị. Trong chiến tranh, quân lương là vấn đề rất hệ trọng. Đốt quân lương của mình để tỏ ý quyết chiến đánh dịch là một việc hết sức liều lĩnh không thể có được trong khi nghệ thuật quân sự của Tây Sơn đã ở trình độ phát triển. Nguyễn Huệ cũng không thể đem đốt lương ăn của quân trong khi người dân Bắc Hà đương bị nạn đói nghiêm trọng.
    3, 4, 5, 6. Nguyễn Thu, Lê quí kỷ sự, tờ 47. Việt sử thong giám cương mục, Bản dịch đã dẫn, t. XX., tr. 62.
    7, 8. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 134.
    ===================================

    Ngọc hồi [1], mở cánh xung phong đánh thẳng vào phía trước đồn Ngọc Hồi. Cánh quân xung phong này gồm những binh sĩ khỏe mạnh, thiện chiến, chia thành nhiều toán. Mỗi toán có mười người, mình giắt đoản đao, khiêng một mộc gỗ làm bằng ba tấm ván ghép lại, ngoài có phủ rơm ướt, và hai mươi người cầm vũ khí tiến theo sau bức mộc gỗ.
    Toàn bộ cánh quân xung phong có sáu trăm người, chia làm hai mươi toán, dàn thành trận thế chữ nhất [2], ngang nhiên tiến vào trận địa. Đại bác trong đồn Ngọc Hồi bắn ra mất hiệu lực. Quân Thanh vội vàng bắn hỏa mù khiến trận địa tối tăm, hòng làm rối loạn hàng ngũ quân Tây Sơn [3]. Nhưng hỏa hổ của quân Tây Sơn tung lửa cháy sáng rực trời. Quân Tây Sơn vẫn ào ạt tiến lên, bất chấp cả đại bác, cung tên [4] và hỏa mù của giặc. Đoàn quân xung phong Tây Sơn tiến sát mặt đồn Ngọc Hồi, quẳng mộc gỗ xuống đất, phá tan cửa lũy [5] xông thẳng vào đại doanh của địch ở trong đồn. Quân Thanh liều mạng chống lại [6]. Quân xung kích Tây Sơn rút đoản đao ra hỗn chiến [7]. Quân chủ lực Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, tiến vào đồn chi viện cho đoàn quân xung kích. "Quân đông như kiến cỏ, thế lực ồ ạt như nước thủy triều đang lên" [8]. Quân Thanh địch không nổi chạy trốn ra khắp bốn phía, nhưng lại chạm phải địa lôi của chúng đã đặt từ trước nên bị chết rất nhiều [9]. Trong khi đó các đội voi chiến đã từ hai bên sườn đồn tiến vào đốt phá đồn lũy. Đại doanh của địch cũng bị đốt cháy. Đồn Ngọc Hồi nằm trong một cơn bão lửa, vì trên lưng một con
    ==========================================
    1, 2, 3. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 363.
    4. Viết sử thông giám cương mục, Bản dịch đã dẫn, t. XX,
    5. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.
    6, 8. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 134.
    7, 9. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.

    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 13:01 ngày 24/06/2008
  4. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    voi chiến của Tây Sơn đều có ba, bốn chiến sĩ Tây Sơn quấn khăn đỏ, ngồi ném "hỏa cầu lưu hoàng" (tức hỏa hổ) ra khắp nơi, đốt cháy mọi vật, đốt cháy cả người [1].
    Đồn Ngọc Hồi bị hoàn toàn tiêu diệt [2]. Tàn quân Thanh tìm đường theo hướng đông trốn chạy về Tây Long. Nhưng chạy tới gần đê Yên Duyên [3] thì đã thấy quân Tây Sơn đóng kín, quân kỳ phấp phới, quân nhạc vang lừng, chặn mất lối về, tàn quân Thanh hoảng sợ, vội chạy tạt ngang về phía tây, định theo đường Vịnh Kiều [4] trốn về Thăng Long. Nhưng chúng chưa chạy được bao lâu thì đạo tượng binh do đô đốc Bảo chỉ huy đã từ phía làng Đại áng xông tới. Tàn quân Thanh không còn hồn vía, vội chạy lên làng Quỳnh Đô [5] địch trốn vào đầm Mực ở làng này đã ẩn náu.
    ==================================
    1. Trần Nguyên Nhiếp, Tài 1iệu đã dẫn, tr.134.
    2. Nay ở gần thôn Ngọc Hồi, về phía đông, còn có vết tích
    3. Yên Duyên, có tài liệu chú thích là Yên Kiện. Chú thích này có thể chưa đúng lắm, vì Yên Kiện ở phía tây Ngọc Hồi, không phải phía đông. Yên Kiện và Ngọc Hồi đều giáp sông Tô Lịch, mà sông Tô Lịch thì không có đê. Cho nên có ý kiến cho rằng: đê Yên Duyên có thể là khúc đê sông Hồng ở phía đông Ngọc Hồi, chạy thẳng lên phía Tây Long, đi qua địa phận mấy làng Yên Duyên sở thượng, sở hạ mà ngày nay vẫn còn tên cũ. Chúng tôi thấy ý kiến này có phần hợp lý.
    4. Vịnh Kiều: nay là thôn ích Vịnh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. ích Vịnh tục gọi là làng Viềng. Tại đây, có một cầu bắc qua sông Tô Lịch nên gọi và Vịnh Kiều, tức cầu Vịnh hoặc cầu Viềng.
    5. Đầm Mực là một đầm lớn rộng khoảng 70 - 80 mẫu, thuộc thôn Quỳnh Đô, xã Vĩnh Quỳnh. Tương truyền khi xưa tại giữa đầm có một cái gò rộng, gọi là gò Đầm, là nơi chôn xác quân Thanh chết trong trận Đầm Mực. Gò này đã bị lở sau nạn lụt năm Quí Tỵ (1893). (Về chú thích 4, 5, xem thêm: Vũ Tuấn Sán, tài liệu đã dẫn, tr. 19 - 20).

    ========================================
    Đây là bước đường cùng và cũng là bước đường chịu chết của tàn quân Thanh. Đạo quân voi của đô đốc Bảo ào ạt tiến vào đầm Mực, giày đạp lên quân cướp nước. Tàn quân Thanh chết hàng vạn [1]. Không một tên nào chạy thoát. Có tên nào tìm đường trốn vào các làng xóm chung quanh thì đều bị nhân dân đón bắt, giết chết [2]. Như thế là toàn bộ quân Thanh ở mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long đều bị tiêu diệt, toàn bộ hệ thống đồn lũy kiên cố của chúng ở mặt trận này đều bị phá tan, các tướng Thanh chỉ huy mặt trận phía nam, như Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng [3] đều tử trận. Quân Tây Sơn đã chiến thắng rực rỡ ở mặt trận phía nam kinh thành Thăng Long. Nhân dân địa phương vô cùng phân khởi, sung sướng, đem cơm nước, rượu thịt ra tận mặt trận để khao thưởng các chiến sĩ cứu nước anh hùng, đã chiến thắng oanh liệt, giành lại tự do, độc lập cho dân tộc [4]. Quân dân tay bắt mặt mừng, ân tình thắm thiết.
    Còn đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây thì không cần đánh cũng đã phải sớm bỏ chạy. Sáng mồng 5 Tết, được tin toàn
    ==================================
    1. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 364.
    2. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương.
    3. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 37. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34. Việl sử thông giám cương mục, chính biên, q. 47, tờ 41.
    4. Theo truyền tụng của nhân dân địa phương. Theo Đào Khê nhàn thoại, Hoa Bằng dẫn trong Quang Trung, anh hùng dân tộc, thì khi ở Ngọc Hồi, quân đội Nguyễn Huệ được nhân dân địa phương nhiệt liệt hoan nghênh, đem cỗ bàn bánh trái ra khao quân và viết 4 chữ lớn để chào mừng nghĩa quân "Hậu lai kỳ tô", có nghĩa là "vua đến thì dân sống lại". Nguyễn Huệ cảm ơn nhân dân, không dám làm phiền dân, chỉ xin nhận một ít bánh chưng, thứ quà tiêu biểu của ngày Tết. Câu chuyện này nói lên tình cảm của nhân dân Bắc Hà đối với Nguyễn Huệ và thái độ liêm chính của Nguyễn Huệ, nhất là sự quan tâm của Nguyễn Huệ đối với tình hình đói kém của nhân dân Bắc Hà lúc đó.

  5. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    bộ quân Thanh đóng chung quanh thành Thăng Long đều bị tiêu diệt, các tướng Thanh đều tử trận, một mình Tôn Sĩ Nghị đã chạy trốn theo đường lên ải Nam Quan, Ô Đại Kinh hoảng sợ, không dám nghĩ đến chiến đấu và cũng không đám ở lại lâu trên đất Việt Nam, sợ quân Tây Sơn đánh tới, vội vàng nhờ Hoàng Văn Đồng dẫn đường, đem đạo quân Vân Quí chạy miết về nước [1].
    Sau khi chiến thắng quân Thanh ở mặt trận phía nam, Nguyễn Huệ và đô đốc Bảo tiến quân vào Thăng Long [2].
    Đô đốc Long đem quân từ trong thành ra đón. Chiều ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, tức ngày 30 tháng 1 năm 1789, Nguyễn Huệ vào Thăng Long, chiếc chiến bào màu đỏ đã đen sạm màu thuốc súng [3].
    ===========================================
    1. Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q. 6, tờ 37 viết là Hoàng Văn Thông.
    2. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34 viết rằng sau khi tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, Nguyễn Huệ tiến quân đánh phá các đồn Văn Điển và Yên Quyết, chúng tôi cho rằng đồn Văn Điển nếu có thì cũng chỉ là một đồn nhỏ, ở cách Ngọc Hồi khoảng 3 ki-lô-mét. Trong khi các đồn Khương Thượng, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Tây Long đều bị tiêu diệt thì quân Thanh ở đồn Văn Điển tất nhiên đã chạy trốn lâu rồi. Chúng không thể, trong tình hình ấy, có tinh thần và can đảm ở lại đồn Văn Điển, chờ Nguyễn Huệ tiêu diệt xong đồn Ngọc Hồi tiến lên thì ra kháng cự và ngăn chặn lại. Về đồn Yên Quyết, nếu quả có thì nó cũng chỉ là một đồn nhỏ của quân Thanh, vì nhiều sử sách không nói tới. Và nếu cần đánh thì đó là nhiệm vụ của đạo quân đô đốc Long, không phải là nhiệm vụ của đạo quân chủ lực của Nguyễn Huệ, bởi vì Yên Quyết ở phía tây bắc đồn Khương Thượng. Không có lý gì Nguyễn Huệ cùng đạo quân chủ lực và đạo quân của đô đốc Bảo, sau khi hạ xong dồn Ngọc Hồi tiến theo đường Văn Điển, không vào thẳng cửa nam thành Thăng Long mà lại từ Văn Điển đi quặt sang phía tây bắc ngọai thành Thăng Long, xuyên qua trận địa Khương Thượng để đánh lên đồn Yên Quyết. Hành quân và phân công tác chiến như thế là không hợp lý. Cho nên việc Nguyễn Huệ và đạo quân chủ lực tiến đánh hai đồn Văn Điển và Yên Quyết có thể là không đúng sự thật.
    3. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 34.

    ===========================================
    nhân dân Thăng Long nô nức chào đón nghĩa quân tiến vào thành. Ngô Ngọc Du đã tả lại cảnh tượng tưng bừng đó trong mấy câu thơ:
    (tạm dịch:)
    Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
    Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
    Mây tạnh mù tan, trờí lại sáng,
    Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
    Chung vai sát cánh cùng nhau nói:
    Cố đô trở lại nước non ta.

    (Long thành quang phục kỷ thực)
    Vào tới Thăng Long, Nguyễn Huệ cho ban bố ngay một số điều lệnh cần thiết.
    Đối với nhân dân, Nguyễn Huệ hạ lệnh chiêu an, lập lại trật tự và bảo đảm sinh hoạt bình thường cho nhân dân kinh thành và nhân dân Bắc Hà.
    Đối với quân địch, Nguyễn Huệ không cho quân đuổi theo đạo quân Thanh Vân Quý của Ô Đại Kinh, vì không cần thiết và chúng cũng đã chạy xa, nhưng vẫn cho tiếp tục truy kích và chặn bắt bọn Tôn Sĩ Nghị, chủ tướng của quân Thanh, làm cho chúng khiếp đảm, phải từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam lần nữa, Nhiệm vụ này đã được trao từ trước cho đạo quân của đô đốc Lộc tiến lên đóng án ngữ ở vùng Phượng Nhãn, Lạng Giang, Yên Thế.
    Đối vớí tàn quân Thanh không chạy kịp, còn lẩn trốn ở các nơi, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho ra đầu thú, sẽ không giết và đối xử tử tế, cung cấp cho lương ăn, áo mặc. Chỉ trong khoảng 10 ngày, số tàn quân Thanh ra thú, có tới vài vạn người [1].
    =============================
    1. Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 371. Theo bài biểu của Nguyễn Huệ gửi cho Càn Long (trong Tây Sơn bang giao giao tập và Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 36) thì số tàn quân ấy là hơn 800 người. Con số vài vạn người, chưa rõ đúng sai như thế nào, nhưng con số hơn 800 người thì có thể là ít hơn sự thật, vì đó chỉ là số tù binh sẽ đem trả cho nhà Thanh, không phải là tất cả những người ra đầu thú.
  6. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Đối với quân Tây Sơn thuộc các đạo quân đã tiến vào Thăng Long, trừ những đơn vị đang làm nhiệm vụ truy kích địch trên đường Thăng Long - ải Nam Quan, Nguyễn Huệ cho phép nghỉ ngơi và chuẩn bị ăn Tết khai hạ, mồng 7 tháng Giêng, đúng như lời đã hứa trước, khi quân sĩ còn ở Tam Điệp.
    Nhiệm vụ chiến đấu cuối cùng trong chiến dịch đánh phá quân Thanh là nhiệm vụ của đạo quân của đô đốc Lộc. Trong khi các đạo quân của Nguyễn Huệ, đô đốc Long, đô đốc Bảo tiến đánh Thăng Long và đạo quân của đô đốc Tuyết tiến đánh Hải Dương, thì đạo quân của đô đốc Lộc tiến lên Kinh Bắc, đóng giữ tất cả các ngả đường đi lên ải Nam Quan, để chặn đường về của tàn quân Tôn Sĩ Nghị.
    Từ sáng sớm ngày mồng 5 tháng Giêng, Tôn sĩ Nghị rời bỏ Thăng Long, chạy miết về phía Kinh Bắc, không dám chạy theo đường chính, phải leo núi, luồn rừng mà chạy, thật là khổ sở. Chạy tới Phượng Nhãn, được tin đô đốc Lộc đang dẫn quân tới ở phía trước mặt, Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ, vội vứt ra đường tất cả những vật cần thiết mang bên mình, như sắc thư, kỳ bài, quân ấn, để chạy thoát lấy thân [1]. Trần Nguyên Nhiếp, bí thư của Tôn Sĩ Nghị và cũng là người cùng chạy với Tôn Sĩ Nghị đã tả lại cảnh chạy trốn thảm hại của chúng như sau:
    "Từ kinh thành nhà Lê sang đò Phú Lương rồi các miền đi qua phần nhiều là những nơi núi non hẻo lánh, đường đi quanh co, rẽ ngang rẽ dọc, chúng tôi luôn luôn lạc lối, khônh tìm được nẻo đi. Bất cứ gặp ai, ngươi cày, người cuốc, đàn ông đàn
    ============================
    1. Hoàng Lê nhất thông chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 369.
    [​IMG]
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 13:15 ngày 24/06/2008
  7. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    bà ... chúng tôi đều phải hỏi thăm đường. Nhờ có họ chỉ bảo cho mới tìm về được tới trấn Nam Quan. "Tôi với Chế hiến (tên chức quan của Tôn Sĩ Nghị) đói cơm khát nước, không kiếm đâu ra được ăn uống, cứ phải đi suốt bảy ngày, bảy đêm mới đến trấn Nam Quan ..." [1].
    Nhưng mặc đầu quân Thanh đã thất bại nhục nhã, chủ tướng quân Thanh đã phải chạy trốn thảm hại như vậy, khi thuật lại những sự việc ấy, người Thanh vẫn muốn đưa ra một vài sự việc nào đó để gỡ thể diện cho bọn bại tướng, bại quân của mình. Trong Quân doanh kỷ lược, trước khi tả cảnh chạy trốn thảm hại như trên, Trần Nguyên Nhiếp lại viết rằng:
    "Kinh thành nhà Lê [2] cách trấn Nam Quan hơn 2.000 dặm. Trên đọc dường ta vốn đã đặt sẵn sàng mười tám kho lương thực. Nay vì thấy thế giặc dữ tợn quá, sợ làm cỗ sẵn cho giặc ăn, cho nên đến đâu Cung Bảo [3] đều hạ lệnh đốt cháy. Thành ra quân ta không có gì ăn, bắt buộc phải vừa đánh vừa chạy" [4].
    Đó thật là những điều hết sức hoang đường và mâu thuẫn với những điều đã mô tả. Mười tám kho quân lương ấy tất nhiên phải đặt tại những đoạn đường chính trên chặng đường từ Nam Quan đến Thăng Long, không thể nào lại đặt ở những nơi núi rừng héo lánh, đường lối quanh co được. Như vậy thì bọn Tôn Sĩ Nghị có chạy theo đường chính đâu, để có thể đốt được mười tám kho quân lương ấy. Sự thật thì mười tám kho quân lương ấy có thể đã nằm trong tay quân Tây Sơn của đô đốc Lộc từ lâu rồi. Nếu quả thật Tôn Sĩ Nghị chạy qua mười tám kho quân lương
    =============================
    1. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 135.
    2. Kinh thành Thăng Long.
    3. Cung Bảo là tên hiệu của Tôn Sĩ Nghị.
    4. Trần Nguyên Nhiếp, Tài liệu đã dẫn, tr. 135.

    =============================
    ấy thì không có lý gì Tôn Sĩ Nghị và bọn quân sĩ tùy tùng lại chịu nhịn đói để đốt tất cả mười tám kho quân lương đi.
    Bọn Tôn Sĩ Nghị đã phải chạy suốt bảy ngày bảy đêm không dám nghỉ, bản thân Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ cả những vật tùy thân, mang đi không vất vả, khó khăn gì, là sắc thư, quân ấn, kỳ bài, để chạy thoát lấy thân, thì chúng làm gì còn có thì giờ và can đảm để dừng lại đốt phá mười tám kho quân lương trên chặng đường lao đầu chạy trốn của chúng. Cho nên việc Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh đốt mười tám kho quân lương chỉ là một điều hoàn toàn bịa đặt của Trần Nguyên Nhiếp. Mấy chục năm sau trận thất bại của quân Thanh ở Việt Nam, Ngụy Nguyên, tác giả sách Thánh vũ ký cũng nhắc lại những điều bịa đặt trên và còn nói rằng Tôn Sĩ Nghị không những đốt quân lương, mà còn đốt rất nhiều khí giới đạn dược trên dọc đường chạy trốn.
    Đi xa hơn những điều bịa đặt của Trần Nguyên Nhiếp, Ngụy Nguyên lại viết rằng khi Tôn Sĩ Nghị chạy trốn, mấy chục vạn binh mã chỉ còn chưa đầy một nửa chạy theo [1].
    Chưa đầy một nửa của mấy chục vạn binh mã, tức là khoảng mười vạn binh mã. Khi chạy mà còn có tới mười vạn binh mã, tức là còn một lực lượng quân sự khá lớn trong tay, thì sao lại chạy trốn một cách thảm hại đến thế, nhịn đói nhịn khát, chạy suốt bảy ngày bảy đêm không dám nghỉ.
    Có mười vạn quân trong tay, tại sao thấy đạo quân của đô đốc Lộc chỉ có khoảng trên dưới một vạn quân, mà khiếp sợ đến thế, phải vứt cả sắc thư, ấn tín, để chạy lấy thân. Giáo sĩ Đơ-la Bi-xa-se-rơ (De la Bissachère) ở Việt Nam thời kỳ này, viết rằng số tàn quân chạy theo Tôn Sĩ Nghị chỉ khoảng bốn, năm mươi người [2]. Con số này có thể là gần đúng với sự thật.
    ================================
    1 . Ngụy Nguyên. Tài liệu đã dẫn, tờ 37.
    2. De la Bissachère, Etat actuel du Tonkin ... Galignani, Paris, 1812, tome II, p. 170.

    =================================
    Trong khi bọn cướp nước Tôn Sĩ Nghị đang trên đường chạy trốn để thoát lấy thân như vậy, thì bọn bán nước Lê Chiêu Thống cũng lao đầu chạy theo bọn cướp nước. Ngay từ sáng sớm ngày mồng 5 tháng Giêng, bọn Lê Chiêu Thống đã định bám gót bọn Tôn Sĩ Nghị, nhưng không kịp, Tôn Sĩ Nghị đã chạy trốn từ trước. Bọn Lê Chiêu Thống lật đật tìm đường chạy theo. Trưa ngày 6 tháng Giêng, bọn Lê Chiêu Thống chạy tới núi Tam Tằng, tưởng theo kịp bọn Tôn Sĩ Nghị, nhưng tới nơi thì bọn Tôn Sĩ Nghị cũng lại đã chạy đi mất rồi [1]. Bọn Lê Chiêu Thống dành dắt díu nhau chạy lên phía Hòa Lạc. Tới Hòa Lạc chưa kịp nghỉ ngơi thì đã dược tin quân Tây Sơn sắp đuổi kịp, bọn Lê Chiêu Thống lại phải lên đường chạy trốn [2]. Cuối cùng, bọn bán nước thất thế và bọn cướp nước đại bại cũng đã gặp được nhau ở cửa ải Nam Quan. Lúc ấy cũng là lúc quân Tây Sơn đuổi tới nơi. Bọn Lê Chiêu Thống vội vàng theo bọn Tôn Sĩ Nghị chạy sang bên kia biên giới, sống nhục nhã trên đất nước người, và sau này, cả bọn bán nước Lê Chiêu Thống đều phải chết nhục nhã trên đất nước người.
    Đó cũng là con đường kết thúc cuộc đời không thể tránh khỏi của tất cả những kẻ bán nước, làm tay sai cho quân cướp nước.
    Quân Tây Sơn dừng lại ở biên giới, không đuổi theo nữa, nhưng nói phao lên rằng: sẽ vượt biên giới, đuổi bắt cho bằng được Lê Chiêu Thống mới thôi. Nghe tin ấy và thấy bọn Tôn Sĩ Nghị thất thểu chạy về, ngườí Thanh ở vùng biên giới xôn xao sợ hãi. Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc, già trẻ lớn bé, dắt díu bồng bế nhau chạy trốn, cả một quãng dài vài trăm dặm, lặng ngắt không còn bóng người, không còn thấy khói lửa thổi nấu nữa [3].
    =================================
    1, 2. Hoàng Lê nhất thông chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 366.
    3. Hoàng Lê nhất thông chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 370. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 35.

  8. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Tới đây, trên đất nước Việt Nam, cũng không còn bóng một tên quân xâm lược hung hãn nào nữa, trừ một số tù binh thảm hại đầu hàng. Hơn hai mươi vạn quân Thanh đã bị hoàn toàn tiêu diệt. Trận đại phá quân Thanh đã căn bản kết thúc thắng lợi, từ chiều ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi Nguyên Huệ vào Thăng Long, sau 5 ngày tốc chiến tốc thắng vô cùng vẻ vang của quân đội Tây Sơn.
    Trận đại phá quân Thanh của Nguyễn Huệ đã thành công rực rỡ và hết sức nhanh gọn. Nước Việt Nam kể từ khi lập quốc cho tới cuối thế kỷ XVIII đã trải qua rất nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và đã chiến thắng tất cả những kẻ thù xâm lược hung hãn nhất của các thời đại, nhưng chưa có một trận nào tiêu diệt được một cách gọn ghẽ toàn bộ quân xâm lược, gồm một lực lượng rất lớn, trên 20 vạn người, trong một thời gian rất ngắn, chỉ có năm ngày, như trận đại phá quân Thanh của Nguyễn Huệ. Chiến thắng lớn lao này đã nói lên rất đầy đủ và rõ ràng về thiên tài quân sự của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Chiến thắng ấy đã giữ vữg nền độc lập của Tổ quốc, đồng thời cũng vĩnh viễn chấm dứt nạn xâm lăng của các tập đoàn phong kiến phương Bắc luôn luôn đe dọa dân tộc Việt Nam từ mấy nghìn năm trước. Thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ đã góp phần quyết định rất lớn vào sự nghiệp cứu nước vẻ vang này của quân đội Tây Sơn và của toàn thể dân tộc Việt Nam thời bấy giờ.
  9. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    NHỮNG BÀI HỌC CỦA CHIẾN DỊCH ĐẠI PHÁ 20 VẠN QUÂN THANH
    Chiến dịch phản công giải phóng Thăng Long của quân đội Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy là một trận quyết chiến chiến lược vĩ đại, có tính chất quyết định kết cục của chiến tranh, là một chiến dịch mà chủ lực tinh nhuệ của quân đội hai bên giao chiến để thực hiện mục đích và nhiệm vụ chiến lược của mình.
    Trong lịch sử nước ta từ thế kỷ thứ XVIII trở về trước, chưa bao giờ diễn ra một chiến dịch quy mô rộng lớn như chiến dịch này.
    Trước hết, qui mô đó thể hiện ở số lượng quân đội, binh khí, khí tài của hai bên: cùng trong một thời gian, 10 vạn quân chủ lực của Nguyễn Huệ đã giao chiến với 20 vạn quân Thanh.
    Qui mô đó còn thể hiện ở không gian rộng lớn mà chiến dịch xảy ra: quân đội Nguyễn Huệ xuất phát từ Phú Xuân, từ trung tâm địa lý của đất nước, làm một cuộc hành quân đến tận đồng bằng Bắc Hà, tác chiến với địch trên một mặt trận rộng và một bề sâu lớn đến 80 ki-lô-mét. Nếu kể cả việc truy kích địch thì bề sâu đó còn sâu hơn nhiều, khoảng trên 200 ki-lô-mét.
    Qui mô và kết cục của chiến dịch thật là to lớn. Nó càng có ý nghĩa to lớn ở đặc điểm nổi bật trong sự so sánh lực lượng vũ trang của hai bên. Nguyễn Huệ đã nắm được những qui luật nào, đã dựa vào những nguyên tắc nào, để dùng một binh lực ít hơn địch (10 vạn để tiêu diệt 20 vạn quân địch, tỉ lệ là 1chống 2, có lợi cho quân Thanh), thực hiện một chiến dịch đánh nhanh, giải quyết nhanh, loại ra ngoài vòng chiến đấu toàn bộ quân địch? Đó là những vấn đề nghiên cứu dưới đây của chiến dịch này.
    1. CHIẾN LƯỢC
    Như lịch sử đã ghi rõ, ngay hôm được tin quân Thanh vào xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ đã hạ lệnh xuất quân, đem chủ lực của mình ra Bắc để thực hành quyết chiến chiến lược vĩ đại: tiêu diệt toàn bộ 20 vạn quân chủ lực nhà Thanh, giải phóng Thăng Long và toàn bộ đất đai miền Bắc nước ta, phá tan ngay từ đầu kế hoạch chiến lược của địch, kết thúc chiến tranh, chấm dứt nạn xâm lược hàng ngàn năm của phong kiến phương Bắc, chấm dứt luôn cả một triều đại thống trị (nhà Lê) đã có từ trên 300 năm ở nước ta.
    Khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu, Nguyễn Huệ phân tích đúng đắn tình hình và đề ra chủ trương chính trị rất sáng suốt làm cơ sở thắng lợi cho cuộc chiến tranh. Đối với bọn phong kiến nhà Thanh, Nguyễn Huệ hoàn toàn hiểu rằng, để che đậy bộ mặt xâm lược, chúng phải núp dưới chiêu bài "phù Lê diệt Tây Sơn" nhằm thực hiện mục đích chính trị: "Mưu đồ lấy nước ta làm quận huyện", [1] cướp đoạt nền độc lập của dân tộc ta, thủ tiêu phong trào cách mạng của nông dân ta". Do đó, Nguyễn Huệ khẳng định: chiến tranh do chúng gây nên là chiến tranh xâm lược, chiến tranh phi nghĩa, chiến tranh do nhân dân ta tiến hành để tự vệ là chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh chính nghĩa.
    Nếu như trước đây, khi tiến quân ra Bắc tiêu diệt nhà Trịnh, với tình hình chính trị lúc ấy, Nguyễn Huệ vẫn giữ
    =======================================
    1. Lời tuyên bố của Nguyễn Huệ tại cuộc duyệt binh lớn ở trấn doanh Nghệ An, trước khi xuất quân tiêu diệt quân Thanh.
  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Tui đang làm cái ebôk của sách này nên ngại pót tiếp lắm!
    Bác nào quan tâm thì down về đọc tiếp:
    http://tuan01.googlepages.com/THTTQSCNHue.chm

Chia sẻ trang này