1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sách: Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dienthai, 21/04/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    NHỮNG NGÀY ĐẦU CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA
    Trước căm hờn sôi sục của nhân dân Đàng trong đối với bọn phong kiến nhà Nguyễn, năm 1771 ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ, người Tây Sơn[1] nhóm họp quần chúng khởi nghĩa.
    Ba anh em đều rất trẻ, Nguyễn Huệ khi ấy mới 19 tuổi. Nhưng họ đã nắm đúng thời cơ khởi nghĩa, và đã chuẩn bị tốt cho cuộc khởi nghĩa.
    Quân thù của phong trào Tay Sơn cũng như của toàn thể nông dân Việt Nam thời ấy là bọn chúa Nguyễn ở Đàng trong và bọn vua Lê, chúa Trịnh ở Đàng ngoài. Nói rằng ở nửa cuối thế kỷ XVIII, cả hai tập đoàn ấy đều đã suy yếu hoặc suy yếu đến cực độ là nói suy yếu về mặt chính trị, kinh tế... nhưng về mặt quân sự thì chúng, bằng nhiều biện pháp, vẫn còn duy trì được một lực lượng mạnh, nếu so với những lực lượng quật khởi chống lại chúng thì chúng vẫn mạnh hơn hẳn. Bởi vì chúng là những tập đoàn thống trị, lúc nào cũng có lực lượng vũ trang trong tay để tự vệ. Quân đội của chúng có tổ chức, có thao luyện, có kinh ...
    ---------------------------------------------------------------------
    1. Anh em Tây Sơn có bốn người, một người em gái là út. Tây Sơn, sau đổi thành hai xã An Khê và Cửu An, thuộc huyện Tân An, tỉnh Công Tum. Thời bấy giờ phủ Qui Nhơn gồm cả 3 tỉnh Bình Định, Công Tum và Plây-cu sau này. Cách đây 40 - 50 năm, An Khê và Cửu An vẫn là hai xã đông dân nhất, giàu nhất trong số 29 xã của huyện Tân An, và cũng đông nhất, giàu nhất trong tỉnh Công Tum.
  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    ...nghiệm chiến đấu, đủ sức đối phó với mọi phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra ở cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII cho đến trước ngày phong trào Tây Sơn quật khởi. Và những lực lượng quân sự ấy vẫn có thể là những trở lực lớn cho phong trào nông dân Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XVIII.
    Quân số và trang bị của những lực lượng quân sự ấy có thể thay đổi ở từng thời kỳ, thời chiến khác, thời bình khác, nhưng đại thể thì con số không xê xích nhau nhiều lắm. Nhà Nguễn lúc nào cũng có khoảng non 10 vạn lục quân. Thủy quân có khoảng 200 thuyền chiến. Mỗi thuyền chiến của nhà Nguyễn có từ 50 đến 60 mái chèo, và từ 3 đến 5 khấu đại bác. Kỳ binh của nhà Nguyễn có khoảng từ 200 đến 300 ngựa chiến. Không thấy tài liệu nào nói nhà Nguyễn có tổ chức tượng binh.
    Quân đội nhà Trịnh còn mạnh hơn quân đội nhà Nguyễn. Lục quân nhà Trịnh lúc nào cũng có trên 10 vạn người. Có khi có tới ngót 20 vạn người. Thủy quân gồm có khoảng 500 thuyền chiến, trang bị của thuyền chiến Trịnh cũng tương tự như thuyền chiến Nguyễn. Quân đội Trịnh có một đội tượng binh lớn gồm từ 300 đến 500 voi chiến. Mỗi voi chiến có 6, 7 binh sĩ cầm vũ khí ngồi trên. Voi chiến của nhà Trịnh đôi khi mang cả đại bác nữa.
    Cả hai quân đội Trịnh, Nguyễn đều dùng vũ khí đạn dược kiểu phương Tây, hoặc mua của ngoại quốc, hoặc dựng xưởng chế lấy, thuê người phương Tây trông nom như bọn chúa Nguyễn đã làm.
    Trước những quân thù còn có lực lượng mạnh như vậy, ba anh em Tây Sơn quyết tâm tìm mọi biện pháp để tiến tới đấu tranh vũ trang với địch và nắm chắc phần thắng lợi ít ra là những thắng lợi bước đầu về mình. Họ đã để một thời gian dài, khoảng từ 1771 đến 1773, để xây dựng căn cứ, tuyên truyền khởi nghĩa và tổ chức lực lượng.
    Họ lấy ngay nơi họ sinh trưởng là vùng Tây Sơn, An Khê

    thuộc miền rừng núi Qui Nhơn làm căn cứ địa. Như trên đã trình bày, phong trào bùng nổ ở quảng Nam đã là một điều thuận lợi, các lãnh tụ Tây Sơn lại chọn miền rừng núi Qui Nhơn làm căn cứ địa khiến cho phong trào càng có thêm nhiều điều kiện để phát triển. Phủ Qui Nhơn ở thế kỷ XVIII bao gồm ba tỉnh Bình Định, Công Tum và Plây-cu ngày nay. Vùng rừng núi Qui Nhơn gồm ba phần tư đất đai phủ Qui Nhơn và là một vòng đai siết chặt lấy phủ thành Qui Nhơn là dinh lũy của chính quyền phong kiến của phủ này. Chiếm giữ được vùng rừng núi và chưa cần đánh, phủ thành Qui Nhơn của nhà Nguyễn cũng đã trở thành cô lập, chơ vơ, đợi ngày mất về tay nghĩa quân mà thôi. Nghĩa quân Tây Sơn lại đóng bản doanh tại An Khê, một cao nguyên rất bằng phẳng, cao 600 mét, rộng một chiều 50 ki-lô-mét, một chiều 35 ki-lô-mét. Đây là một địa điểm rất tốt cho việc bố trí doanh trại và tập luyện quân sự. Từ Qui Nhơn lên An Khê chỉ có một đường độc đạo vô cùng nguy hiểm. Chính vì thế từ năm 1771 là năm nghĩa quân Tây sơn bắt đầu nhóm họp đến năm 1773 là năm nghĩa quân đánh chiếm phủ thành Qui Nhơn, quân đội nhà Nguyễn chưa một lần nào dám tiến công vào căn cứ địa An Khê. Con đường Qui Nhơn lên An Khê không những là con đường độc đạo nguy hiểm ở thế kỷ XVIII, mà ngay cho tới ngày nay, con đường ấy - tức con dường 19 - cũng đã nhiều lần là mồ chôn quân Pháp và quân Mỹ xâm lược. Từ vùng rừng núi tiến xuống chiếm nốt vùng đồng bằng Qui Nhơn, nghĩa quân Tây Sơn đã có một vị trí vô cùng xung yếu về mặt chiến lược, nó cắt đứt giang sơn nhà Nguyễn ra làm đôi khiến sự liên hệ tiếp tế cho nhau bị gián đoạn, đồng thời nó cũng chia tách quân đội nhà Nguyễn ra làm hai bộ phận rời nhau, làm cho lực lượng chiến đấu của chúng bị giảm sút, khi một bộ phận nào đó bị nghĩa quân tiến công thì bộ phận khác muốn ứng cứu cũng rất khó khăn. Vùng rừng núi Qui Nhơn, đặc biệt ...
  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    ...là miền An Khê lại là nơi tập trung nhiều thành phần dân tộc, người Kinh có, người Chàm có, người Ba Na, người Gia Rai, người Xê Đăng đều có. Đó là một nguồn cung cấp nhân lực rất tốt cho phong trào. Miền An Khê lại là nơi đông đúc giàu có nhất vùng rừng núi Qui Nhơn (tức vùng Bình Định - Công Tum - Plây-cu ngày nay), cho nên đó cũng là nguồn cung cấp lương thực tốt nhất cho phong trào Tây Sơn trong thời kỳ đầu khởi nghĩa. Vùng rừng núi Qui Nhơn còn là nơi có sẵn voi lớn, ngựa hay, sẵn mỏ sắt, diêm tiêu, gỗ tốt cho nên nó cũng là nguồn cung cấp vật liệu và phương tiện chiến tranh rất phong phú cho nghĩa quân Tây Sơn.
    Người Qui Nhơn lại có truyền thống thượng võ. Cho đến thể kỷ XIX người ta vẫn còn ca ngợi truyền thống đó:
    "Ai vào Bình Định[1] mà coi
    Con gái cũng biết đi roi, đi quyền".
    Cùng với tinh thần sôi sục căm thù bọn phong kiến nhà Nguyễn của nhân dân Qui Nhơn, truyền thống tốt đẹp đó cũng khiến họ nhiệt liệt hưởng ứng phong trào Tây Sơn và tham gia đông đảo vào đội quân khởi nghĩa.
    Để phát động quần chúng vùng lên đánh đổ giai cấp thống trị anh em Tây Sơn lợi dụng những mâu thuẫn rất sâu sắc trong nội bộ tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn làm mục tiêu tuyên truyền khởi nghĩa.
    Năm 1765, chúa Nguyễn là phúc Khoát chết. Trước kia, Phúc Khoát đã lập người con duy nhất của chính phí lên làm thế tử đi nối ngôi chúa, nhưng người đó chết sớm, để lại một đứa con là Nguyễn Phúc Dương. Khi Nguyễn Phúc Khoát chết, hoàng tôn tức Nguyễn Phúc Dương còn nhỏ tuổi quá không lên cầm quyền chính được, đáng lẽ ngôi chúa phải thuộc về người con lớn tuổi hơn cả của Nguyễn
    -----------------------------------------
    1.Bình Định là tên nhà Nguyễn đặt cho Qui Nhơn từ đầu thế kỷ XIX
  4. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Phúc Khoát là Nguyễn Phúc Luân và chính Nguyễn Phúc Khoát cũng đã có ý như vậy từ khỉ còn sống. Nhưng Nguyễn Phúc Khoát chết, quyền thần Trương Phúc Loan đã phế lập Nguyễn Phúc Luân, bắt Luân bỏ ngục, giết chết mọi người thân cận của Luân và đưa người con 11 tuổi của Nguyễn Phúc Khoát là Nguyên Phúc Thuần lên làm chúa. Từ đấy, quyền thần Trương Phúc Loan ngày càng tham tàn, bạo ngược. Bọn quan lại và các tầng lớp trên của xã hội Đàng trong lúc ấy đều oán ghét Trương Phúc Loan, thâm tâm muốn phù hoàng tôn Dương lên ngôi chúa, nhưng không có phương sách hoạt động. Nắm được tình hình đó, năm 1771, các lãnh tụ Tây Sơn nêu khẩu hiệu: "Đánh đổ Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Dương" để phất cờ khởi nghĩa. Trong một bài hịch xuất quân của nghĩa quân Tây Sơn sau này, phương hướng đấu tranh đầu tiên là đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan đã được nhắc lại rõ ràng:
    "Giận quốc phó[1] ra lòng bội bạc, lên Tây Sơn xướng nghĩa cần vương
    Trước là ngăn cột đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấm nghé,
    Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kéo cùng dân ra chốn lầm than.
    Ví lòng trời còn nền nếp Phú Xuân, ắt dấu cũ lại cơ đồ Hữu Hạ ...?.
    Trong những ngày đầu khởi nghĩa, nghĩa quân Tây Sơn đã tự nhận mình là quân của hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương để chống lại quân của quốc phó Trương Phúc Loan, cho nên người đương thời đã gọi:
    "Binh triều là binh quốc phó[1]
    Binh ó là binh hoàng tôn".
    ----------------------------
    1. Chỉ Trương Phúc Loan
  5. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Ó nghĩa là hò reo. Nghĩa quân đi tới đâu cũng la ó, hò reo, kêu gọi mọi người lên đường đấu tranh để ủng hộ hoàng tôn Dương.
    Trong mấy năm đầu khởi nghĩa, những người lãnh đạo phong trào Tây Sơn đã không tự nhận mình là người lãnh đạo phong trào, chỉ xưng mình là những chủ trại bình thường và vẫn lấy danh nghĩa hoàng tôn Dương làm người cầm đầu nghĩa quân. Khẩu hiệu đấu tranh này thật là sát hợp tình hình và nó đã lôi cuốn được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia phong trào Tây Sơn ngay từ thời kỳ đầu. Nhưng đối với quảng đại quần chúng nông dân thì khẩu hiệu đấu tranh ấy chưa đủ. Phải có một khẩu hiệu đấu tranh cụ thể hơn sát hợp bởi quyền lợi trước mắt của người nông dân hơn nữa. Cho nên bên cạnh khẩu hiệu đấu tranh nói trên, những người lãnh đạo phong trào Tây Sơn đã đề ra khẩu hiệu "lấy của kẻ giàu, giúp người nghèo" và khẩu hiệu ấy đã được thực hiện ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc khởi nghĩa. Chính vì có khẩu hiệu sát hợp với quần chúng như thế mà phong trào Tây Sơn đã lôi cuốn được đông đảo nông dân tham gia và sớm có một lực lượng hùng hậu ngay từ những ngày đầu để đối phó với quân thù.
    Những giáo sĩ phương Tây có mặt ở Việt Nam lúc ấy đã nói nhiều về những hành động "cướp của nhà giàu, giúp người nghèo" của nghĩa quân Tây Sơn.
    Giáo sĩ Tây Ban Nha Ê-ma-nu-en Ca-xtu-ơ-ra (Emmanuel Castuera) ghi lại:
    "Họ tuần hành trong các làng, tuyên bố với dân chúng rằng họ không phải là giặc cướp mà là những người làm theo ý trời, rằng họ muốn thực hiện công lý và giải phóng nhân dân khỏi ách chuyên chế của bọn vua quan. Họ tuyên truyền sự bình đẳng về mọi mặt. Trung thành với chủ nghĩa của họ, những bậc tiền khu của chủ nghĩa xã hội cận đại ấy đã lấy của cải của bọn quan lại và bọn nhà giàu phân phát cho dân nghèo. Những làng mạc bị thuế má hà khắc đè nặng đã nhiệt liệt tuyên thệ hưởng ứng khởi nghĩa.."[1]
    Một giáo sĩ Tây Ban Nha khác là Đi-ê-gô đơ Giu-mi-la (Diégo de Jumilla) cũng viết:
    "Năm ngoái, 1773, khoảng đầu tháng 4, quân đội Đàng trong bắt đầu tuần hành các nơi... Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo guơm, người mang cung tên, lại có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi ngưòi Đàng trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quí đem chia cho người nghèo, họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi ... Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ..."[2].
    Những đường lối vận động cách mạng và những khẩu hiệu đấu tranh nói trên đã đoàn kết và tập hợp được mọi lực lượng để đánh địch. Ngay từ những ngày đầu cuộc khởi nghĩa, trong hàng ngũ nghĩa quân, người ta đã thấy có mặt hầu khắp các tầng lớp nhân dân và thành phần dân tộc của vùng Qui Nhơn, Quảng Nam. Bên cạnh quảng đại quần chúng nông dân là lực lượng cơ bản của phong trào, người ta thấy có những thổ hào như Nguyễn Thung, những đại phú như Huyền Khê. Bên cạnh người Việt, có người
    ------------------------
    1. Lời văn trên đây là do Lorenzo Pérez tóm tắt theo tài liệu của E. Castuera viết tháng 11 năm 1785. Lorenzo Pérez: Les Espagnols dans l''Empire d'' An nam. Bulletin de la Société des études indochinoises, nouoelle série, tome XV, n0 3, 4-1940, pp. 67, 68.
    2. Thư của giáo sĩ Tây Ban Nha Diéno de Jumilla viết ngày l5 tháng 2 năm 177l - B.S.E.I. nouvelle série, t. XV, n0 3, 4. p. 74.
  6. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Thượng, người Chàm và các thương nhân Hoa kiều hoặc dân tộc Hán như các đạo quân Hòa nghĩa và Trung nghĩa của Lý Tài và Tập Đình. Một phong trào nông dân trong thời phong kiến mà có được nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần dân tộc tham gia như thế cũng là hiếm có. Với sự nhiệt liệt hưởng ứng của quảng đại quần chúng nhân dân, ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa, lực lượng vũ trang của phong trào Tây Sơn đã có tới 3.000 người[1]. Căn cứ địa Qui Nhơn lại có nhiều voi lớn, ngựa tốt. Đồng bào miền núi Qui Nhơn có truyền thống đua ngựa, quản tượng giỏi.
    Đồng bào cả miền Qui Nhơn, Kinh cũng như Thượng, đều có truyền thống thượng võ, giỏi roi, giỏi quyền, giỏi quân sự. Cho nên những đội quân dầu tiên của phong trào Tây Sơn đã là những đội quân thiện chiến và dũng cảm.
    Tới đầu năm 1773, lực lượng vũ trang của nghĩa quân đã có tới hàng vạn người, căn cứ địa của nghĩa quân đã bao gồm một khu vực rộng lớn của phủ Qui Nhơn: vùng núi An Khê và ba huyện Phù Ly, Bồng Sơn, Tuy Viễn.
    Trong thời kỳ đầu Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ chưa xuất hiện như những lãnh tụ của phong trào. Phần vì họ còn trẻ tuổi phần vì muốn thực hiện chính sách đoàn hết các lực lượng, nghĩa quân Tây Sơn đã cử ba người có tính chất tiêu biểu nhất lúc bấy giờ đứng ra lãnh đạo phong trào: Nguyễn Nhạc, đại diện cho những người đề xướng phong trào, Huyền Khê, một người giàu có lớn và Nguyễn Thung, một thổ hào có thế lực ở phủ Qui Nhơn. Nghĩa quân Tây Sơn bắt đầu xây dựng chính quyền của nông dân trong căn cứ địa, theo hình thức tổ chức riêng của mình. Nguyễn Nhạc làm chủ trại nhất, cầm chính quyền hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn. Nguyễn Thung làm chủ trại nhì, cầm chính quyền huyện Tuy Viễn. Huyền Khê làm chủ trại ba, chuyên trách việc quân lương.
    Bên cạnh những người lãnh đạo, có mấy người tướng giúp việc là Lý Tài và Tập Định, trực tiếp chỉ huy hai toán quân người Hoa kiều và người dân tộc Hán do họ chiêu mộ.
    Tới đây công tác chuẩn bị khởi nghĩa coi như hoàn thành. Nghĩa quân có khả năng kỉểm soát hoàn toàn vùng Qui Nhơn. Giờ khởi nghĩa đã tới. Nghĩa quân có thể mở những đợt tiến công đầu tiên vào quân địch và nắm chắc phần thắng lợi.
    ------------------------------------
    1. Al. Faure. Les Français en Cochinchine au XVIII siècle... Chaliamel, Paris, 1891.
  7. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    [​IMG]
  8. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    NGUYỄN HUỆ CHIẾN THẮNG PHÚ YÊN MỞ ĐẦU THỜI KỲ PHÁT TRIỂN LỚN MẠNH CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN
    Giữa năm 1773, căn cứ địa đã được xây dựng vững chắc, những điều kiện vật chất và tính thần để vũ trang tác chiến với địch đã có đầy đủ, nghĩa quân Tây Sơn bắt đầu tiến công địch. Trong một đêm[1], nghĩa quân hạ thành Qui Nhơn. Tuần phủ Qui Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên bỏ cả vợ con, vứt cả ấn tín[2], chạy trốn. Nghĩa quân Tây Sơn tiến công liên tiếp vào các phủ Quảng Ngãi, Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận và đã thu được thắng lợi to lớn trong buổi đầu. Trong vòng mấy tháng cuối năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn đã làm chủ cả một dải đất đai chạy dài từ Quảng Ngãi vào Bình Thuận. Lần đầu tiên, ngọn cờ đỏ[3] chiến thắng của nghĩa quân Tây Sơn phấp phới bay trên các thành lũy, dinh thự của bọn vua quan phong
    ----------------------------
    1. Theo thư của Diégo de Jumilla viết ngày 15 tháng 2 năm 1774. B.S E.I. nouvelle série, t.XV, n0S 3-4. 3è et 4d trimestre 1940, p 74, thì nghĩa quân Tây Sơn đánh thành Qui Nhơn vào một buổi sáng, khoảng giữa tháng 9 năm 1773.
    2. Thư của Diégo de Jumilla ngày 15 tháng 2 năm 1774, tài liệu đã dẫn, tr.74.
    3. Các tài líệu cũ của ta đều nói cờ Tây Sơn màu đỏ Al. Faure trong Les Francaí en Cochinchine au XVIIIè siècle, Challamel, Paris, 1891, tr. 31 cũng nói cờ Tây Sơn màu đỏ. Diéngo de Jumilla trong thư viết ngày 15 tháng 2 năm 1774, nói rõ cờ Tây Sơn bằng lụa đỏ.
  9. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    kiến, gạt bỏ uy thế chính trị từ hàng bao đời của chúng tại những nơi đây.
    Tuy vậy, lực lượng nghĩa quân còn yếu, quân chưa nhiều (mặc dầu đã có được 26.000 người[1] nhưng so với địch thì vẫn còn ít), vũ khí còn thiếu[2], kinh nghiệm xây dựng chính quyền chưa có, nên việc làm chủ và giữ gìn một vùng đất đai rộng lớn như vậy không phải không có khó khăn.
    Đầu năm 1774, chúa Nguyễn cho quân tiến xuống Quảng Nam để tiến công nghĩa quân. Chủ tướng quân Nguyễn là Tôn Thất Thăng, sợ thanh thế nghĩa quân, không dám đánh và bỏ trốn. Mùa hè năm 1774, chúa Nguyễn cử Tống Phúc Hiệp đem đại quân từ Gia Đinh theo hai đường thủy bộ tiến đánh nghĩa quân. Nghĩa quân Tây Sơn phải rút khỏi Bình Thuận, Diên Khánh, Bình khang, để giữ vững từ Phú Yên trở ra Quảng Ngãi.
    Trong phạm vi đất đai như vậy, nghĩa quân Tây Sơn có thể củng cố căn cứ, phát triển lực lượng, chuẩn bị cho những đợt tấn công mạnh mẽ hơn. Nhưng cũng trong lúc này, lợi dụng cơ hội chúa Nguyễn đang phải tập trung lực lượng để đối phó với nghĩa quân Tây Sơn, chúa Trịnh cử Hoàng Ngũ Phúc đem đại quân từ Bắc Hà tiến vào đánh chúa Nguyễn.
    Mùa đông năm 1774, quân Trịh vượt sông Gianh, lần lượt đánh chiếm Bố Chính, Đồng Hới, tiến nhanh vào Thuận Hóa. Ngày 30 tháng 1 năm 1775, quân Trinh hạ thành Phú Xuân, chúa Nguyễn Phúc Thuần phải bỏ kinh
    ----------------------------------
    1. Thư của Diégo de Jumilla viết ngày 9 tháng 8 năm 1774 tài liệu đã dẫn. tr. 78.
    2. Legrand de la Liraye trong Notes historiques sur la nation annamite. tr. 89, nói rằng: trong trận đánh Qui Nhơn năm 1773, vũ khí chủ yếu của nghĩa quân là giáo tre và đuốc. Đuốc làm vũ khí nói đây chính là hỏa khí, một thứ vũ khí rất lợi hại mà, qua tài liệu này, ta thấy nghĩa quân Tây Sơn đã tự chế tạo và sử dụng ngay từ những ngày đầu khởi nghĩa.

  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    thành chạy vào Quảng Nam. Không để cho bọn chúa Nguyễn kịp nghỉ ngơi, nghĩa quân Tây Sơn theo hai đường thủy bộ tiến ra đánh Quảng Nam. Nguyễn Phúc Thuần vội chạy vào Gia Định, để cháu là Nguyễn Phúc Dương và một số tướng lĩnh ở lại hoạt động ở vùng Cu Đê thuộc Quảng Nam.
    Tháng hai năm ất Mùi (1775), quân Trịnh tiến xuống Quảng Nam. Nghĩa quân Tây Sơn cũng tiến lên lùng bắt được bọn Nguyễn Phúc Dương. Tháng Tư âm lịch, quân Trịnh vượt qua đèo Hải Vân, tiến đánh nghĩa quân Tây Sơn. Lần đầu tiên, nghĩa quân Tây Sơn tiếp xúc với quân Trịnh đang đà thắng lợi. Nguyễn Nhạc cử Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, tiến đánh quân Trịnh ở Cẩm Sa thuộc Quảng Nam. Nhưng Tập Đình bị đại bại; bỏ trốn khỏi hàng ngũ nghĩa quân, tìm đường chạy về Trung Quốc. Nguyễn Nhạc và Lý Tài phải rút quân về Bản Tân (giáp giới Quảng Nam - Quảng Ngãi). Quân Trịnh vẫn tiến. Nguyễn Nhạc phải rút về Qui Nhơn.
    Thấy nghĩa quân Tây Sơn đang bị thất bại nặng nề trước sức tiến công của quân Trịnh, tháng Năm năm Ât Mùi (1775), tướng Nguyễn ở Bình Khang, Diên Khánh là Tống Phúc Hiệp đem toàn quân đánh chiếm Phú Yên.
    Nghĩa quân Tây Sơn phải rời bỏ Phú Yên rút về Qui Nhơn.
    Như vậy là căn cứ địa của nghĩa quân bị thu hẹp lại trong phạm vi Qui Nhơn, Quảng Ngãi và lâm vào cái thế bị kẹp giữa hai gọng kìm. Quân Trịnh uy hiếp ở sườn phía bắc Qui Nhơn. Sườn phía nam Qui Nhơn bị quân Nguyễn của Tống Phúc Hiệp uy hiếp. Quân địch ở hai mặt tổng số có tới 5, 6 vạn quân. Không gỡ khỏi cái thế bị bao vây này, nghĩa quân Tây Sơn có nguy cơ bị tiêu diệt nhanh chóng. Căn cứ địa Qui Nhơn chỉ thuận lợi cho nghĩa quân Tây Sơn trong trường hợp đối phó với một kẻ thù, chia cắt lực lượng của một kẻ thù ra làm nhiều bộ phận để tiến đánh dễ dàng. Nhưng trong trường hợp phải đối phó với cả hai kẻ thù. Quân Trịnh từ phía Bắc kéo xuống, quân Nguyễn từ phía Nam tiến lên. Ccùng tập trung lực lượng tiến vào căn cứ địa thì nghĩa quân Tây Sơn ở vào cái thế thật nguy hiểm, không thể đương đầu nổi với cả hai kẻ thù một lúc.
    Để đối phó với tình hình đó, nghĩa quân Tây sơn đã có một chiến lược mầu nhiệm: dùng biện pháp ngoại giao để chặn tay một kẻ thù và chuẩn bị tiến công một kẻ thù.
    Trong hai kẻ thù lúc ấy, quân Trịnh của Hoàng Ngũ Phúc vẫn là đối thủ nguy hiểm nhất. Cần phải hòa hoãn được với quân Trịnh, để tập trung lực lượng tiến công quân Nguyễn. Nguyễn Nhạc cho người tới thương thuyết với tướng Trịnh Hoàng Ngũ Phúc xin nhận làm đội quân tiền phong của Trịnh để đánh Nguyễn. Quân Trịnh, sau một thời gian hành quân xa , từ Bắc vào và phải liên tục chiến đấu trong gần một năm trời, cũng có ý muốn nghỉ ngơi đôi chút rồi sẽ quyết định sau, nên Hoàng Ngũ Phúc đã nhận lời hòa hoãn với nghĩa quân Tây Sơn và nhân danh chúa Trịnh, phong cho Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân. Nhưng tướng Trịnh vẫn không lui quân, vẫn đóng nguyên ở vị trí cũ, sát với căn cứ địa của nghĩa quân với ý đồ: nếu nghĩa quân Tây Sơn đánh thắng quân Nguyễn, tiến sâu được vào Nam, thì quân Trịnh sẽ tiến theo sau, chiếm lấy thành quả chiến thắng của nghĩa quân, thu phục đất đai mới mà không phải khó nhọc. Trái lại, nếu nghĩa quân Tây Sơn không thắng được quân Nguyễn, hoặc bị quân Nguyễn đánh bại thì khi ấy quân Trịnh sẽ tiến vào căn cứ địa Quảng Ngãi, Qui Nhơn, tiêu diệt nghĩa quân, trực tiếp đối phó với quân Nguyễn. Nghĩa quân Tây Sơn cũng thấy rõ những ý đồ ấy của quân Trịnh.
    Nghĩa quân quyết định phải đánh chiếm được Phú Yên, đẩy lùi quân Nguyễn về phía nam, đồng thời lấy chiến thắng đó làm áp lực buộc quân Trịnh phải từ bỏ ý đồ xâm phạm vào căn cứ địa của nghĩa quân.

Chia sẻ trang này