1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sách: Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dienthai, 21/04/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Chương hai
    NGUYỄN HUỆ TIÊU DIỆT CÁC TẬP ĐOÀN PHONG KIẾN TRỊNH-LÊ, LẬP LẠI NỀN THỐNG NHẤT TRÊN TOÀN LÃNH THỔ VIỆT NAM Ở CUỐI THẾ KỶ XVIII​
    NGUYÊN HUỆ CHIẾN THẮNG PHÚ XUÂN
    TÌNH HÌNH SUY YẾU CỦA CÁC TẬP ĐOÀN PHONG KIẾN BẮC HÀ
    Sau khi đánh chiếm Phú Xuân năm 1775, bọn chúa Trịnh đã giành được khỏi tay bọn chúa Nguyễn một vùng đất đai rộng lớn. Nhưng không phải vì thế mà tình hình Bắc Hà sáng sủa hơn trước. Trái lại, từ năm 1776 trở đi, nội bộ tập đoàn phong kiến Trịnh Lê ngày càng lục đục và suy yếu hơn, xã hội Bắc Hà ngày càng rối ren, nhân dân Bắc Hà ngày càng đói khổ.
    Về kinh tế, nạn đói diễn ra liên tiếp. Năm 1776, mất mùa, nạn đói rất nghiêm trọng. "Người sang trọng phải nhòm từng cửa để xin làm thuê hoặc vay mượn mà cũng không đắt, họ họp nhau ăn cắp ăn trộm ..." [1].
    Năm sau, 1777, nạn đói lại diễn ra, và đặc biệt nghiêm trọng là ở vùng Nghệ An. Chúa Trịnh phải cho đem tiền, đem gạo vào phát chẩn và thi hành nhiều biện pháp cứu đói khác.
    Năm sau nữa, 1778, lại đói to: "Giá gạo cao vọt, một chén nhỏ gạo trị giá một tiền, đầy đường những thây chết đói" [2].
    ----------------------------------------
    1. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch, t. XIX, tr. 51.
    2. Bản dịch đã dẫn, tr. 60.

  2. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Tình hình đói kém như thế kéo dài.
    Về chính trị, tình hình lại càng thối nát. Từ sau khi đánh chiếm Phú Xuân, Trịnh Sâm càng thêm kiêu ngạo, lộng quyền. Vua Lê hoàn toàn là bù nhìn. Trịnh Sâm ngày càng hoang dâm, tửu sắc, ăn chơi xa hoa rất mực, ngày đêm miệt mài vào yến tiệc, vào các trò chơi vô cùng hoang phí. Bọn cung nhân, quyền thần, ỷ thế làm càn, phá rối triều chính, ức hiế, bóc lột nhân dân thậm tệ. Năm 1782, Trịnh Sâm chết, các con là Trịnh Khai và Trịnh Cán âm mưu sát hại lẫn nhau để giành ngôi chúa. Thế lực của bọn thống trị họ Trịnh suy yếu đến cực độ.
    Năm 1782, quân lính ở kinh thành Thăng Long làm binh biến, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Khải làm chúa, giết bọn quyền thần Hoàng Đình Bảo và cung phi Đặng Thị Huệ, mẹ Trịnh Cán. Đầu năm 1784, quân lính ở kinh thành Thăng Long lại nổi dậy một lần nữa để chống bọn quyền thần, thân thích của Trịnh Khải là Nguyễn Lệ, Dương Khuông, Nguyễn Triêm. Nguyễn Lệ chạy trốn. Trịnh Khải phải đem tiền bạc ra chuộc mạng cho Dương Khuông, phải cách chức bọn Nguyễn Lệ, Dương Khuông và đưa Nguyễn Triêm ra cho quân lính đánh chết. Quyền bính ở triều đình và phủ chúa đều nằm trong tay quân lính. Mọi việc thay đổi, cắt đặt quan lại, tướng lĩnh, đều phải làm theo ý muốn của quân lính.
    Tại các địa phương, khởi nghĩa của nông dân luôn luôn bùng nổ. Năm 1778, Thục Toại lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa có tới hàng vạn người, đánh phá bọn quan quân nhà Trịnh ở khắp các vùng Yên Quảng, Sơn Nam, Hiến Nam (tức vùng Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên ngày nay). Năm 1779, thổ ty Hoàng Văn Đồng nổi dậy ở vùng Tụ Long (thuộc Hà Giang), tiến đánh phố Tam Kỳ (thuộc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang).

    Ngoài mấy cuộc khởi nghĩa tương đối lớn này, còn có nhiều cuộc nổi dậy khác nổ ra ở nhiều nơi. Tại Thái Bình có cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh Du lãnh đạo, nhằm mục đích "cướp của nhà giàu đem nuôi dân đói". Tại Kinh Bắc (Hà Bắc) Đinh Văn Trú lãnh dạo nông dân khởi nghĩa tiến đánh các vùng Bảo Lộc (thuộc Hà Bắc và Chi Lăng (thuộc Lạng Sơn). Tới năm 1785, vùng ven biển lại có cuộc khởi nghĩa lớn do hai thủ lĩnh Thiêm Liên và Sơn lãnh đạo hoạt động cho tới năm 1786, khi nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà.
    ở Thuận Hóa, Phú Xuân, bọn quan, tướng nhà Trịnh, đứng đầu là Phạm Ngô Cầu lại là những kẻ nhu nhược, bất tài [1], nhưng hống hách, áp bức nhân dân rất tàn nhẫn [2] khiến nhân dân hết sức căm hờn, oán giận.
    Tình hình trên đây đã cho thấy chính quyền phong kiến Lê Trịnh ở Bắc Hà và Thuận Hoá đã lung lay đến tận gốc, nhân dân đã hoàn toàn đối lập với bọn thống trị, chống lại chúng và mong chờ ngày đánh đổ chúng.
    Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân đánh ra Bắc Hà chính là năm nạn đói trầm trọng đang lan tràn khắp Bắc Hà. Sử cũ ghi rằng: "Tháng 3, dân bị nạn đói, giá gạo cao vọt, dân trong kinh kỳ và tứ trấn bị đói to, thây chết nằm liền nhau. Trịnh Khải hạ lệnh chiêu mộ nhân dân, ai nộp của sẽ trao cho quan chức nhưng không ai hưởng ứng. Bèn dùng sắc lệnh bắt ức nhà giàu để lấy tiền chia ra phát chẩn" [3].
    ---------------------------------------------
    1. Ngô gia văn phái, Hoàn Lê nhất thống chí. Bản dịch. tr. 94.
    2. Thư của La Bartette ngày 23 tháng 6 năm 1786 trong L. Cadière, Documents relatifs à l'' époque de Gia Long BEFEO. 1912. n0 7, p, 13.
    3. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch của Viện Sử học. t. XX, tr. 12.

  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Một giáo sĩ Pháp là Le Roy, có mặt ở Bắc Hà năm đó, đã mô tả những tệ nạn và cảnh đói khổ lúc ấy như sau: "Bọn "các lái" [1] đã làm giàu trong lúc đói kém, chúng thừa dịp mất mùa đã bán gạo rất đắt, Không một chút từ tâm mặc cho những người khốn cùng chết đói đầy đường đầy chợ" [2].
    Tình hình đói khổ này càng khơi sâu thêm mâu thuẫn giữa quảng đại quần chúng với các tập đoàn phong kiến thống trị Bắc Hà, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghĩa quân Tây Sơn tiến ra lật đổ thế lực nhà Trịnh.
    KẾ HOẠCH TIẾN CÔNG QUÂN TRỊNH CỦA NGUYỄN HUỆ
    Năm 1785, sau khi đánh tan quân Xiêm và đuổi bọn Nguyễn ánh cùng tàn quân của hắn chạy sang Xiêm, nghĩa quân Tây Sơn được rảnh tay ở phía Nam để đối phó với phía Bắc. Từ năm 1775 đến bấy giờ, trải qua 10 năm ròng rã, nghĩa quân Tây Sơn phải chịu để cho quân Trịnh làm chủ Thuận Hóa và chiếm đóng từ đèo Hải Vân trở ra, vì nghĩa quân ở cái thế không thể cùng một lúc đương đầu với cả hai tập đoàn phong kiến thống tri: bọn chúa Nguyễn ở miền Nam và bọn chúa Trịnh ở miền Bắc. Nhưng đến lúc này tình thế đã đổi khác, miền Nam đã tương đối ổn định, tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn đã tan rã mà ở miền Bắc thì tình hình rối ren đến cực độ, bọn chúa Trịnh hết sức suy yếu. Đó là thời cơ thuận lợi để nghĩa quân Tây Sơn tiến hành tiêu diệt tập đoàn phong kiến nhà Trịnh.
    ---------------------------------------
    1, 2. Thư của Le Roy, giáo sĩ ở Kẻ Vĩnh (Ninh Bình) viết gửi về Pháp ngày 6 tháng 2 năm 1786 trong Cadière, đã dẫn. tr 6. Hai chữ "các lái", Le Roy tự viết bằng tiếng Việt trong bức thư tiếng Pháp, để chỉ những lái buôn.
  4. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Nhận định rõ thời cơ đó, đầu năm 1786, Nguyễn Huệ đề xuất việc tiến đánh Bắc Hà [1], nhưng Nguyễn Nhạc ngần ngại. Tháng Tư năm Bính Ngọ (1786), tướng Trịnh Phạm Ngô Cầu ở Phú Xuân cho sứ giả Nguyễn Phu Như vào Qui Nhơn, mượn tiếng trao đổi về vấn đề biên giới, để dò xét tình hình nghĩa quân Tây Sơn. Tới Qui Nhơn, Nguyễn Phu Như lại khuyên các lãnh tự Tây Sơn nên tiến đánh Phú Xuân và vạch rõ rằng: "Hai xứ Thanh - Nghệ và cả bốn trấn hiện đang bị đói lớn, dân chúng đều ta oán kêu khổ, dân với lính chẳng ưa gì nhau, tình thế không thể lâu bền, nếu lấy được Thuận Hóa thì việc dẹp yên thiên hạ không khó gì nữa" [2].
    Một tướng giỏi của Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh theo về Tây Sơn từ năm 1782, cũng nhận định như Nguyễn Phu Như. Mà Nguyễn Phu Như có thái độ phản lại nhà Trịnh cũng chính vì Nguyễn Phu Như là bạn cũ của Nguyễn Hữu Chỉnh. Thấy mọi người đều nhất trí, Nguyễn Nhạc liền quyết định tiến đánh Phú Xuân và cử Nguyễn Huệ làm thống lĩnh các quân thủy bộ, Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc và Nguyễn Lữ chỉ huy đội dự bị thủy quân [3].
    Việc đánh Phú Xuân thật ra không phải là đơn giản. Lực lượng quân đội Trịnh ở đây khá hùng hậu. Suốt từ sông Gianh tới đèo Hải Vân, không kể quân địa phương, riêng quân đội Trịnh từ Bắc Hà đưa vào cũng có trên ba vạn người, mà số quân đồn trú ở thành Phú Xuân cũng có tới vài vạn. Quân số đó của nhà Trịnh đông hơn hẳn quân số của Nguyễn ánh ở năm phát triển nhất là năm 1781
    -----------------------------------------------
    1. Đại Nam thực lục, Bản dịch của Viện Sử học, t. II, tr. 61.
    2. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 92 - 93.
    3. Đại Nam chính biên 1iệt truyện, sơ tập q. 30, tờ 12.

  5. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    và cũng đông hơn hẳn liên quân Xiêm - Nguyễn hồi đầu năm 1785.
    Cách bố trí phòng thủ tại đây cũng rất kín đáo. Từ sông Gianh tới đèo Hải Vân, trên một địa thế hẹp ngang và chạy dài, không chỗ nào là không có quân Trịnh đóng giữ. Khi có chiến tranh, các đồn quân Trịnh có thể nhanh chóng tiếp viện, ứng cứu cho nhau. Chiến trường Thuận Hóa rõ ràng không giống chiến trường Gia Định. Thuận Hóa còn hơn hẳn chiến trường Gia Định ở chỗ Thuận Hóa có cả miền Bắc Hà rộng lớn làm hậu phương an toàn.
    Quân Trịnh ở Bắc Hà lúc nào cũng có thể từ Nghệ An, Thanh Hóa, Thăng Long tiến vào cứu nguy cho Thuận Hóa.
    Về phía nghĩa quân Tây Sơn, quân số không phải là đông hơn hẳn quân Trịnh ở Thuận Hóa để có thể áp đảo địch một cách dễ dàng. Lực lượng nghĩa quân tiến đánh Phú Xuân lần này, cũng như các lần tiến đánh Gia Định, không phải là một lực lượng quan trọng, dùng quân số để thắng địch. Nhất là với lần tiến đánh Thuận Hóa, dù sử cũ không cho biết số liệu cụ thể, chúng ta cũng thấy rằng lực lượng quân sự của Tây Sơn không có được là bao [1], bởi vì đại bộ phận quân đội Tây Sơn phải đóng rải suốt từ Quảng Nam, Quang Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận vào cho tới Gia Định, Long Xuyên để làm nhiệm vụ bảo vệ, cũng tức là quân đội Tây Sơn phải có mặt trên nửa đất nước Việt Nam lúc bấy giờ. Như thế nghĩa quân Tây Sơn không thể dành được một lực lượng lớn để tiến đánh Thuận Hóa. Cho nên muốn chiến thắng Thuận Hóa, nghĩa quận Tây Sơn cần phải có một phương châm tác
    -------------------------------------------
    1. Legrand de la Liraye trong cuốn Notes historiques sur la nation annamite, xuất bản năm 1865. tr. 92 nói rằng quân Tây Sơn tiến đánh Phú Xuân có tất cả 1 vạn: tiền quân 5 nghìn, hậu quân 2 nghìn và thủy binh 3 nghìn. Nhưng không rõ tác giả căn cứ vào tài liệu nào.
  6. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    chiến và một kế hoạch tiến công hoàn toàn khác với những lần tiến đánh Gia Định trước đây và phải có một quyết tâm chiến đấu rất lớn của toàn quân. Tiến công Thuận Hóa, không thể đánh thẳng ngay vào Phú Xuân như những lần đánh Gia Định, vì quân Trịnh ở hai phía sông Gianh và Hải Vân có thể dồn về ứng cứu dễ dàng. Cũng không thể đánh dần từng bước từ đào Hải Vân đánh ra, vì như thế nhất định sẽ bị quân Trịnh ở Phú Xuân chặn đứng lại.
    Tuy nhiên Thuận Hóa lúc ấy vẫn có những nhược điểm căn bản có thể làm tê liệt ưu thế của nó. Đã từ lâu, đất Thuận Hoá không có chinh chiến, quân Thuận Hóa ít chiến đấu, quân đông, đồn trại nhiều, nhưng phòng thủ không cẩn mật. Tướng lĩnh tham nhũng tàn bạo, nhân dân oán ghét. Đó là những điều kiện thất bại của Thuận Hóa một khi bị tiến công.
    Nắm vững tình hình chung và triệt để lợi dụng thời tiết thuận lợi của mùa hè, gió nồm thổi mạnh có thể đưa thủy quân tiến nhanh lên đánh phá các cứ điểm ở xa. Nguyễn Huệ quyết định một kế hoạch tiến công bất ngờ và chớp nhoáng ở tất cả các cứ điểm, từ Hải Vân đánh lên, từ sông Gianh đánh xuống, từ cạnh sườn đánh vào Phú Xuân, làm cho quân Trịnh ở khắp nơi trên đất Thuận Hóa, không kịp giở tay và không thể ứng cứu được cho nhau.
    Để thực hiện kế hoạch đó, Nguyễn Huệ chia quân tiến đánh theo ba đường:
    - Một đạo thủy quân tiến đánh Phú Xuân.
    - Một đạo thủy quân khác tiến thẳng lên sông Gianh. Tới đây, đạo quân này chia làm hai: một cánh đóng án ngữ ở sông Gianh, đề phòng quân Trịnh ở Bắc Hà tiến vào cứu viện, một cánh đánh xuống các đồn quân Trịnh ở Bố Chính, Leo Heo, lũy Đồng Hới và hợp quân với bộ binh từ Phú Xuân tiến ra để cùng đánh Dinh Cát.
    - Tất cả bộ binh tập trung tiến đánh đèo Hải Vân, giải quyết xong đèo Hải Vân, tiến lên phối hợp với đạo
    [​IMG]
    thủy quân thứ nhất đánh thành Phú Xuân, giải quyết xong Phú Xuân sẽ tiến đánh đồn Dinh Cát và nếu cần, sẽ tiến lên phía sông Gianh, tiếp viện cho đạo thủy quân thứ hai cùng đánh lũy Đồng Hới và các đồn chung quanh.
    Biết Phạm Ngô Cầu, chủ tướng Trịnh ở Phú Xuân là người rất mê tín dị đoan và để làm tê liệt cảnh giác của chúng, Nguyễn Huệ cho thuyền đưa một nghĩa quân Hoa kiều tới Phú Xuân trước, giả làm "thầy Tàu" xem tướng số. "Thầy Tàu" vào ra mắt Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, thường gọi là Quận Tạo [1], để nói họa phúc và khuyên Phạm Ngô Cầu làm chay, cầu trời phật để tai qua nạn khỏi. Khi Phạm Ngô Cầu chuẩn bị tổ chức đàn chay cầu phúc,
    thì nghĩa quân Tây Sơn ở Qui Nhơn bắt đầu lên đường đánh Phú Xuân. Ngày 28 tháng Tư năm Bính Ngọ [2], tức ngày 25 tháng 5 năm 1786, các đạo quân thủy bộ, dưới sự chỉ huy của danh tướng Nguyễn huệ, được lệnh xuất phát.
    ĐÁNH ĐÈO HẢI VÂN
    Hải Vân là một rặng núi thuộc dãy Trường Sơn, chạy ngang ra biển, làm thành một ranh giới thiên nhiên giữa
    -------------------------------------
    1. Tài liệu của các giáo sĩ phương Tây thời bấy giờ thường gọi Phạm Ngô Cầu là "Co tao", tức Quận Tạo, hoặc Quan Đại tức quan Đại tướng.
    2. Một vài tác giả viết về Nguyễn Huệ, thường nói ngày xuất quân là 18 tháng Năm âm lịch và ngày đánh Hải Vân là 24 tháng Năm âm lịch. Vấn đề thời gian như thế, cần bàn lại. Từ Qui Nhơn tới đèo Hải Vân, đường dài hơn 300 ki-lô-mét. Nếu xuất quân ngày 18, ngày 24 đã hạ xong đồn Hải Vân, tức là đi hơn 300 ki-lô-mét, chỉ mất 6 ngày, mỗi ngày hành quân trên 50 ki-lô-mét. Trong điều kiện hành quân không bằng cơ giới như thời bấy giờ thì không thể đi nhanh như thế được. Ở đây chúng tôi lấy ngày xuất quân theo Hoàng Lê nhất thống chí (Bản dịch của Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964, tr. 93).

  7. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Nam. Rặng núi này gồm nhiều ngọn núi to cao và hiểm trở. Từ ngang lưng rặng núi trở lên, lúc nào cũng có mây mù bao phủ, vì thế xưa gọi là Hải Vân sơn. Chỗ gần biển là một quả núi thấp hơn, không gồ ghề lắm, người xưa mở lối đi qua rặng núi, nên gọi là đèo Hải Vân. Đèo này tuy thấp so với các ngọn núi của rặng Hải Vân. Nhưng cũng vẫn là cao lắm. Đứng dưới chân đèo nhìn lên, mây phủ mịt mù, không thấy đỉnh đèo. Càng đi lên, đường đèo càng quanh co, mây mù càng dày đặc. Những ngày xấu trời, đi trên đèo, cách nhau khoảng 5 mét, không nhìn thấy người. Từ Qui Nhơn, Quảng Nam ra Thừa Thiên, đi đường bộ nhất thiết phải qua đèo Hải Vân. Đã là đường độc dạo, đường đèo lại dốc cao, quanh co lắm khe nhiều suối. Đi đường vô ý có thể lăn xuống khe, xuống suối.
    Thời xưa trên đường đèo ấy có nhiều thú dữ ra hại người qua đường. Cho nên, qua đèo Hải Vân, không thể đi riêng lẻ từng người mà phải đi thành từng đoàn đông đỡ giúp đỡ nhau trong những chặng đường đèo nguy hiểm. Đèo Hải Vân có một phía sườn núi chạy ra biển, nhưng từ mặt biển không có đường đi lên đèo và quãng biển ở chân núi ấy, gọi là hang Giơi, thường thường sóng to, gió lớn, ghe thuyền ít khi dám qua lại chỗ đó.
    Qua Hải Vân cũng như qua hang Giơi, thời xưa thật là khó khăn nguy hiểm, cho nên người xưa đã có câu:
    "Đi đường thì sợ Hải Vân
    Đi ghe thì sợ sóng thần hang Giơi"
    Như vậy, đèo Hải Vân rõ ràng là một vi trí xung yếu.
    Nhà Trịnh, sau khi chiếm được Phú Xuân, đã cho làm tại đỉnh đèo Hải Vân một dãy lũy kiên cố, để chống giữ với những bất trắc ở phía nam. Vì có dãy lũy này nên đèo Hải Vân thời ấy, người ta cũng còn gọi là đỉnh Lũy [1].
    ---------------------------------------------
    1. Cao Xuân Dục, Đại Nam nhất thông chí. q . 5, Quảng Nam tỉnh.
  8. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Để tiến công một vị trí xung yếu như đèo Hải Vân, Nguyễn Huệ đã bố trí kế hoạch như thế nào? Tất nhiên không dùng thủy binh, vì không có đường từ biển lên đèo, như trên chúng ta đã thấy. Quãng biển hang Giơi lại không phải là nơi thuận lợi cho thủy chiến, nên đánh đèo Hải Vân, phải dùng bộ binh. Tiến đánh vị trí Hải Vân của quân Trịnh, tức là tiến đánh theo một đường độc đạo, mà lại là đường đèo cao, dốc trên đỉnh đèo có chiến lũy kiên cố và quân Trịnh có ưu thế từ trên đánh xuống. Cho nên tiến công đèo Hải Vân có địa thế hiểm trở như vậy thật là một việc khó khăn. Nhưng nghĩa quân Tây Sơn đã vượt qua tất cả những khó khăn ấy. Đèo Hải Vân đã bị nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm rất nhanh. Hải Vân tuy là một vị trí xung yếu, có thành lũy kiên cố, nhưng quân tướng phòng thủ Hai Vân trễ tràng, vì đã hơn 10 năm không có chinh chiến, quân tướng nhà Trịnh ở đây sống nhàn tản thái bình đã quá lâu, không lúc nào nghĩ đến bị đánh, nên bị đánh là bất ngờ, trở tay không kịp. Trong trường hợp ấy vị trí xung yếu, thành lũy kiên cố đều không phát huy tác dụng được. Hải Vân lại là con đường qua lại của nhân dân Thuận, Quảng. Cho nên Hải Vân tuy là một nơi xung yêu có thành lũy kiên cố, nhưng lại là một nơi sơ hở, lúc nào cũng có thể bị tập kích bất ngờ. Một cứ điểm sơ hở, tinh thần quân tướng phòng thủ trễ tràng mà bị đánh bất ngờ, thì dù xung yếu, kiên cố đến đâu, cũng bị hạ dễ dàng. Nếu lực lượng đối phương đông mạnh hơn, thì lại càng bị tiêu diệt nhanh chóng. Đó cũng là những nguyên nhân khiến Hải Vân bị hạ, một khi nghĩa quân Tây Sơn tiến đánh.
    Trong trận đánh Phú Xuân, nghĩa quân Tây Sơn gồm cả quân thủy và quân bộ thì bộ binh là đạo quân chủ lực do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy và Nguyễn Hữu Chỉnh làm phó tướng [1]. Đạo bộ binh chủ lực này có nhiệm vụ đánh đèo Hải Vân để tiến lên đánh phá thành Phú Xuân.
    ---------------------------------------
    1. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30, tờ 18.
  9. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Khoảng trung tuần tháng Năm năm Bính Ngọ, đạo quân chủ lực Tây Sơn tiến tới đèo Hải Vân. Bị đánh bất ngờ, quân Trịnh ở dây không kịp trở tay và đã tan vỡ nhanh chóng trước sức tiến công mạnh mẽ của quân chủ lực Tây Sơn. Chủ tướng Trịnh là Hoàng Nghĩa Hồ tử trận.
    Lấy xong đào Hải Vân, Nguyễn Huệ lập tức cho quân tiến nhanh đánh phá Phú Xuân.
    Để làm kế ly gián các tướng lĩnh địch ở Phú Xuân, trước khi rời đèo Hải Vân, tiến quân ra phú Xuân, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho Nguyễn Hữu Chỉnh lấy tình quen cũ viết thư dụ hàng phó tướng Trịnh ở Phú Xuân là Hoàng Đình Thể [1] và cho người phi ngựa đem ra Phú Xuân, nhưng trao thư cho Phạm Ngô Cầu mà không trao cho Hoàng Đình Thể [2], khiến địch hoang mang chia rẽ.
    HẠ THÀNH PHÚ XUÂN
    Trong khi quân thủy bộ Tây Sơn đương ào ạt tiến về Phú Xuân thì Phạm Ngô Cầu, chủ tướng thành Phú Xuân vãn mải mê với đàn chay cầu phúc, tổ chức rất lớn, bảy ngày bảy đêm liền tại chùa Thiên Mụ [3], ngôi chùa to nhất
    thành Phú Xuân, do các chúa Nguyễn xây dựng. Hầu hết các tướng lĩnh và quân lính nhà Trịnh ở thành Phú Xuân đều phải tới đàn chay chầu chực, phục dịch suốt ngày đêm, rất vất vả, mệt mỏi [4].
    ----------------------------------------
    1. Đại Nam thực 1ục , Bản dịch của Viện Sử học, t. II, tr. 62.
    2. Đại Nam thính biên liệt truyện, sơ tập, q. 30 và Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 95.
    3. Thư của giám mục La Bartette gửi về Pháp ngày 23 tháng 6 năm 1786 trong L. Cadière, Documents relatifs à l'' époque de Gia Long, B.E.F.E.O, n07, 1912, p.12, Thư của Le Breton gửi về Pháp ngày 10 tháng 7 năm 1787 cũng trong tài liệu Cadière.
    4. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 95.

  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Khi một vài tàn binh Trịnh ở đèo Hải Vân chạy về tới Phú Xuân, báo cho Phạm Ngô Cầu là đèo Hải Vân đã bị chiếm đóng, tướng Hoàng Nghĩa Hồ đã tử trận, quân Trịnh ở Hải Vân đã bị tiêu diệt và quân đội Tây Sơn đương rầm
    rộ tiến lên, sắp tới Phú Xuân thì Phạm Ngô Cầu vẫn còn ở trong chùa Thiên Mụ để cầu cho tai qua nạn khỏi. Nghe tin quân Tây Sơn sắp tới, Phạm Ngô Cầu hoảng sợ, biết việc làm chay là mắc mưu thám tử Tây Sơn [1], vội chạy về thành trù tính mưu kế đối phó. Nhưng quân sĩ mỏi mệt về đàn chay và khiếp sợ trước thanh thế dũng mãnh của quân đội Tây Sơn, nên hết thảy đều không còn tinh thần chiến đấu.
    Trong khi bối rối, Phạm Ngô Cầu lại nhận được thư của Nguyễn Hữu Chỉnh gửi cho Hoàng Đình Thể, lòng càng thêm hoang mang. Phạm Ngô Cầu ngờ Hoàng Đình Thể có ý muốn hàng Tây Sơn và lo sợ Hoàng Đình Thể sẽ hại mình để lấy công với Tây Sơn, nên tự bản thân Phạm Ngô Cầu cũng sẵn ý muốn hàng. Cầu dìm bức thư của Chỉnh gửi cho Thể [2].
    Giữa lúc ấy, quân thủy bộ Tây Sơn đều đã tới sát Phú Xuân. Đạo thủy quân do Vũ Văn Nhậm chỉ huy [3] tới cửa biển [4] gần thành Phú Xuân thì gặp một tàu Bồ Đào Nha, đậu tại bến. Tầu này có quan hệ chặt chẽ với Phú Xuân, nên thuyền trưởng và các sĩ quan trên tầu có ý muốn ủng
    ----------------------------------------
    1, 2. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch, tr. 95.
    3. Trong chiến dịch này, dưới quyền tiết chế của Nguyễn Huệ. có 3 đạo quân và 3 đại tướng là Nguyễn Lữ, Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm. Nguyễn Hữu Chỉnh đi với đạo quân chủ lực, Nguyễn Lữ chỉ huy đạo thủy quân đánh phía sông Gianh - Quang Bình, còn đạo thủy quân đánh Phú Xuân, chúng tôi đoán là do Vũ Văn Nhậm chỉ huy, vì không còn viên đại tướng nào khác nữa.
    4. Có thể là cửa biển Thuận An. Nhưng không tài liệu nào nói rõ tên.

Chia sẻ trang này