1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sài Gòn năm xưa (Vương Hồng Sển)

Chủ đề trong 'Đất Sài Gòn' bởi vetgia, 10/02/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vetgia

    vetgia Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2002
    Bài viết:
    1.347
    Đã được thích:
    0
    b) Từ lộ mé sông vào Chợ Lớn.
    Con đường dài theo mé sông chạy thẳng vô Chợ Lớn, người Pháp đặt là ?oRoute Basse?(ta đồng thời cũng gọi là Đường Dưới) để đối chiếu với đường ?oRoute Haute? (ta gọi Đường Trên).
    Đường Trên trở nên con đường Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi). Con rạch dài theo Route Basse, chính là rạch Bến Nghé. Từ ngày Pháp sang đây, đố kỵ danh từ Bến Nghé là một, hai là thấy dọc theo rạch có nhiều nhà cửa người Tàu, di tích sót lại của xóm dân Minh triều sợ Tây Sơn về đây lập vùng Đề Ngạn (địa đồ cũ của Pháp ghi Bazar Chinois), nên đặt tên rạch lại là ?oArroyo chinois?.(
    - Đường Norodom (cũng gọi đường Hoàng Lân, Thống Nhất) nay là Lê Duẩn, cho thông thương từ 1872. một khúc đường này và đường Catinat (Đồng Khởi) được tráng nhựa đầu tiên, xưa chúng tôi gọi là đường keo su.
    - Các giếng đường Thống Nhất đều do kỹ sư Berger đứng coi đào năm 1884.
    - Trại lính thủy mé sông (caserne Garnier) có từ năm 1906.
    - Dưỡng đường Angier, có từ năm 1908, ở ngay vườn Bách thảo, góc Nguyễn Bỉnh Khiêm-Lê Thánh Tôn, bị bom Mỹ dội năm 1944, nay đã dẹp và thay vào là dưỡng đường Saint Paul, đặt ở đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) ngay trường nữ học Gia Long (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai).
    - Đường Lefèbvre (Nguyễn Công Trứ) có ngôi nhà số 1 cũ nhất, xây năm 1865.
    - Đường Chaigneau (Tôn Thất Đạm), nơi nhà số 49, bà Arnold thấy một hồ nước bằng đá đề 1856, đường Pellerin (Pasteur), nhà số 20 và đường Dayor (Nguyễn Văn Sâm) số 26 là nhà xưa, kiến trúc theo điệu Tàu, có hồi văn, bắt chỉ, sơn son, mạ vàng.
    - Tòa Pháp đình, xây từ năm 1881 đến năm 1885.
    - Trường Chasseloup Laubat, nay đã đổi là trường Jean Jacques Rousseau, kế là trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn, xây từ 1879 đến 1885.)
    Theo Gia Định thông chí, Trịnh Hoài Đức kể lại, thời đại Miên triều, xửa xưa, chỗ này vốn cây cối rậm rạp. Một bầy trâu rừng từ đâu kéo đến tụ hội nơi dây, nửa đêm trâu mẹ lạc mất nghé con; canh khuya lặng lẽ rống kêu con mấy tiếng vang rền: ?oNghé ọ! Nghé ọ? nghe trả lời văng vẳng đâu đây, nghe vậy mà tìm hoài không thấy bóng thấy tăm, trâu mẹ nóng tình mẫu tử, hiệp sức với đoàn trâu cổ, ruồng phá suốt canh thâu. Rạng đông, con rạch đã khai thông, lấy tích ấy đặt tên ?oKompong Krabei? (Kompong là vũng; Krabei là trâu => Vũng Trâu), sau này ta dịch ?oVàm Bến Nghé? chữ viết là ?oNgưu Chử?.
    Còn danh từ ?oNhà Rồng? là do tích trên nóc nhà hãng tàu chạy biển (Pháp gọi Messageries Maritimes) có gắn đôi rồng bằng đất nung tráng men xanh, ngày nay còn sừng sựng. Nhà này tạo lập hồi Pháp vừa qua đây. Thuở ấy, hai bên rạch Arroyo Chinois nhà sàn cất san sát, dân cư trù mật, nhưng khúc chợ sung túc hơn cả thì ở vào khoảng từ cột cờ Thủ Ngữ chạy đến cầu Mống mút đường Công Lý, xóm này có tên riêng là ?oDãy Thầy Bói? cũng gọi là ?oĐường Thợ Tiện?. Đây là dãy nhà đẹp nhứt thuở ?ocựu trào? phong lưu nhứt đời đó, vừa giàu vừa sang. Mà có chi đâu cho đáng danh từ vừa đẹp vừa sang: thay vì cột tạp cột tràm là được bộ cột gỗ danh mọc gõ, cẩm lai, mây núi; thay vì lợp lá lợp tranh thì được nóc lợp ngói; thay vì vách ván vách đất, được vách có phong tô hẳn hoi, chỉ được bấy nhiêu ấy mà đã gọi giàu sang tột bực, mấy chú nhà quê buổi đó đi ngang dừng chân hít hà : ?oHứ! Nhà gì cột bóng ngó thấy mặt, vách rờ mát tay!?; không bì như bây giờ, nhà cao chọc trời còn muốn cao thêm, sẵn thang máy rút, phòng có máy lạnh còn chê chưa vừa ý muốn! Xưa người thưa đất rộng, xây nhà đếm căn, nay đất ít đông người, xây nhà kể từng, xưa một cắc một thước vuông đất chợ, mà dân không có tiền mua, nay đất ngoại ô mấy trăm mấy ngàn một thước cũng có người tậu để dành làm giá, ngày sau khi bán dễ siết họng.
    Từ Cầu Mống chạy giáp chợ Cầu Ông Lãnh là địa phận làng Long Hưng Môn, nhà cất tấp nập chen chúc theo mé sông.
    Trong tập khảo về Tôn Thọ Tường, ông Khuông Việt có ghi rằng nhà Tôn Thọ Tường ở làng Nhơn Hòa Xã, ranh giới làng này chạy từ Rạch Cầu Kho đến đại lộ Kitchener và căn cứ theo Tôn Thọ Võ, con nuôi thứ hai của Tôn Thọ Tường thì ngôi nhà này tọa lạc tại ngã ba dưới Cầu Oâng Lãnh phía Chợ Lớn gần dinh Lãnh sự Việt Nam Nguyễn Thành Ý, và gần nhà ông Trần Ngươn Vị. Tôn vay ba trăm đồng bạc ?ocon ó?(piastres mexicaines) của trạng sư Blanscubé, tờ vay bạc có thông ngôn Janneau chứng kiến để xây cất nhà này. Về sau Tôn mất, con là Thọ Võ bán nhà một ngàn quan tiền Lang sa (trang 54-55, Tôn Thọ Tường, Khuông Việt).
    Nhà Tôn có treo đôi liễn?
    ?oAnh hùng hà xứ bất,
    Quân tử kiến cơ nhi?.(trang 80)
    Con đường Boresse cũ (nay là đường Yersin) thời đó là một con đường kỳ lạ nhứt. Hai bên đường chòi lá lụp xụp, ẩm thấp, bầy hầy. Đây là xóm Mọi Lào, trong số Chàm, Miên, Lào đều có, đời đàng cựu bị bắt bán mọi, nay người Pháp đánh đòn tâm lý, ra lịnh phóng thích và cho phép tụ họp nơi con đường này. Họ sanh nhai bằng nghề ít vốn là lên rừng đốn lá dừa nước đem về đương gàu lá để múc nước giếng.
    Sau này bọn Mọi Lào đều chết già hoặc chết lần mòn hoặc giả di cư theo con cháu đi làm ăn xứ khác. Đường Borresse cũng như đường Lefèbvre, đổi lại một nghề mới không thua sự quái gở là gái mãi dâm làm ăn công khai ngoài đường từ chạng vạng nhá nhem cho đến khuya lơ khuya lắc, tụ tập ngoài phố lả lơi níu kéo, bày trò khả ố, má trét phấn chì môi bết giấy khói nhang, đem đổi rẻ một hai hào bạc. Cô nào tốt số gặp khách sộp cho năm cắc một đồng bạc, còn coi quý hơn tờ giấy bạc một trăm hai trăm bây giờ; qua ngày sau, tiếng đồn rùm, tặng đó là ?ohuê khôi? phở lở! Danh từ ?ođ? Bồ Rệt? có thua gì danh từ ?oAnh chị Bồn Kèn?.
    Năm 1913, xã trưởng Cuniac sai lấp ao lầy ?oMarais de Boresse? và xây cất tòa Chợ Mới. Bọn gái mãi dâm châu Aâu, gồm gái tứ chiếng: Hy Lạp, Lỗ Mã Ni (Rumanie), Ba Nhĩ Cán (Balkan) không ưa gần gụi gái ?oBồ Rệt?, lập riêng xóm Bình Khang đường Fillippini, d?TEspagne và Mac Mahon. Chiều chiều lính sơn đá cười giỡn trêu đùa ngoài đường, đánh ma ní tay tư (Mannille à quatre) thua phải trả bốn cốc khai vị (consomation), vừa đúng 8 cắc bạc (0$80) đã là sạch túi!(Bạc quan thời ấy tính một đồng bạc Đông Dương ăn 2,15franc đến 2,20franc). Góc Bồn Kèn tứ diện có bốn nhà hàng rượu tây, ăn khách từ sáu giờ chiều đến hai giờ khuya , sau dẹp dần chỉ còn lại quán Pancrazi là giỏi chịu đựng nhứt. Quán Café de la musique ở góc đường Tự Do và Lê Lợi ngang Nhà Hát Tây, năm 1905 sang cho lão quán Pancrazi, kế biến thành nhà thuốc tây Solirène, rốt lại là nhà bán kem Givral.
    Cái Cầu Quan đã nói nơi đoạn trước, chính ở gần con đường Bồ Rệt, đúng ra đường Kitchener, chỗ ấy nay còn một ngôi đình, một rạp hát bội còn giữ tên xưa ?oĐình Cầu Quan? và ?oRạp Hát Cầu Quan? như lúc cựu thời.
    Còn gái Nhật Bổn thì tụ tập khỏi Bót Nhì (Commissariat du 2è Arrondissement) Cầu Ông Lãnh, đóng đô trên dãy lầu ngó mặt xéo qua Bót Nhì. Năm 1914, trước ngày có tin xảy ra trận châu Âu đại chiến, gái Nhật được mật lịnh bên xứ tự rút lui về đảo Hoa Đào, từ ấy không trở qua Sài Gòn nữa.
    Rạch Cầu Quan chạy tới Xóm Lò Heo là rạch Cầu Ông Lãnh. Gọi làm vậy vì đây có cái cầu bằng cây danh mộc do ông Lãnh binh xuất tiền ra làm, cũng như trên rạch Thị Nghè, gần vườn Bách thảo, có cầu Thị Nghè, con gái ông Vân Trường Hầu, xuất tiền ra cất. Tích này nhiều người biết. Chồng bà là một ông Nghè chính cống; làm lại mục trong dinh Tả quân. Bà thương chồng, không muốn chồng sang đò cực thân nên tu kiều, âm đức lưu truyền đến ngày nay, cũng là một gương sáng soi chung thiên cổ.
    Xóm Lò Heo đi vô một đỗi là đến ?oCầu Rạch Bần?. Nơi đây, năm xưa lối 1920, tôi có quen một vọng tộc họ Võ. Chủ gia có kể lại cho tôi nghe một chuyện nay. Nơi đây, năm xưa lối 1920, tôi có quen một vọng tộc họ Võ. Chủ gia có kể lại cho tôi nghe một chuyện nay nhắc lại với cả sự dè dặt là chuyện Võ Phi Loan trong chuyện Lục Vân Tiên, Ông Đồ Chiểu là ?orể hụt ?o của gia đình này. Bởi mất vợ vì ?omù lòa người ta không gả con? nên ông Đồ không quên ghi lên tờ giấy trắng họ danh của con người đen bạc.
    Khỏi chợ Cầu Ông Lãnh một đỗi thì gặp ?oCầu Muối?, vì thuở xưa, những thuyền đi biển (ghe cửa) chở muối lại đổi chác với người Sài Gòn đều đổ bến tại đây. Trong xóm có những kho bằng lá của đàng cựu dùng chứa muối. Ngày Sài Gòn bị Tây chiếm, binh ta rút lui, bỏ lại đây trơ trọi mấy dãy nhà xơ xác, mặc tình mưa sa gió táp. Chốn này cũng còn giữ được một rạp hát bội và ột ngôi đình xưa để y tên cũ: Rạp hát và đình Cầu Muối.
    Khỏi Cầu Muối thì đến Cầu Kho, rồi đến Xóm Bà Tiệm. Gọi Cầu Kho vì xưa đây là ?oKho Cẩm Thảo? của nhà vua xây để tích trữ lương mễ từ Lục Tỉnh tải lên cống nạp. Tên chữ khác gọi là ?oTân Triêm Phường?.
    Từ Cầu Bà Tiệm vô xa chút nữa là tới Cầu Bà Đô. Đây là địa phận làng Hòa Thạnh và làng Tân Thạnh, tục danh ?oXóm Lá?(bán lá lợp nhà) và ?oXóm Cốm?(bán cốm, cốm chùi). Bờ sông đối diện cũng trữ và bán lá nên cũng gọi luôn là ?oXóm Lá?.
    Từ Cầu Bà Đô vô xa chút nữa thì đến Cầu Hộc là địa phận làng Bình Yên. Dân cư tại đây sinh sống bằng nghề đổi chác với ghe cửa và thuyền buồm từ Huế trẩy vô Nam. Gọi Cầu Hộc làm vậy vì tại đây xưa có một cái giếng xây miệng vuông vức như cái hộc đong lúa (giếng hộc). Cụ Trương Vĩnh Ký thuở sanh tiền thường khen giếng này nước ngọt nấu trà thơm ngon không nước giếng nào bì.
    Từ Cầu Hộc vô xa chút nữa, thì đến một cái đập gần dưỡng đường Chợ Quán. Đó là làng Tân Kiểng(Nay khảo bộ Đại Nam Nhất thống chí bản dịch ông Cử Nguyễn Tạo trang 74 thấy ghi : ?onơi chợ Tân Kiểng, thường năm đến ngày Nguyên đán, có tổ chức cuộc chơi vân xa và đánh đu tiên, nên gọi là Chợ Lớn?. Lấy đó mà suy chỗ này xưa phải phồn thịnh nhứt mới có bày những thú phong lưu xưa như ?ovân xa?, ?ođu tiên?. Có phải là ?oĐề Ngạn? sơ khởi ở chốn này chăng? Nào dè chưa đầy hai trăm năm, mà đã ?osao dời vật đổi?, chốn phồn thịnh nhứt đã không còn ở chỗ cũ năm xưa! Cũng trong Đại Nam Nhất thống chí trang 91 có nhắc tích năm Canh Dần thứ sáu-1771-đời vua Duệ Tông có con hổ vào nhà một người dân phía Nam chợ Tân Kiểng, nhờ có sư Tăng Ân và đồ đệt tên Trí Năng hiệp sức mới hạ được. Điển này cho ta biết thế kỷ XVIII, vùng Chợ Quán còn cọp đến viếng!), tục danh ?oXóm Lò Rèn Thợ Vắp?. Nhà thương Chợ Quán cất trên đất thuộc làng xưa ?oPhú Hội Thôn?. Tại đây có một lò hầm vôi. Khỏi dưỡng đường Chợ Quán một đỗi có một cây cầu dùng làm ranh giới làng Đức Lập và tiếp theo đó là làng Tân Châu, tục danh ?oXóm Câu? vì dân cư chuyên nghề hạ bạc. Xa thêm một đỗi nữa là làng An Bình Thôn tục danh ?oXóm Dầu?, chữ gọi ?oPhụng Du Thôn?(bán dầu phộng).
    Từ Xóm Dầu chạy vô nhà máy xay cũng còn là làng An Bình. Đối diện bên kia rạch là làng ?oAn Hòa? của phường Vạn Đò. Tại đây có con rạch có tên ?oRạch Bà Tịnh? cầu tại đây cũng gọi là ?oCầu Bà Tịnh?. Rạch Bà Tịnh chạy từ nhà máy xay trở ra đường Võ Tánh, đến một cây me đại thọ thì dứt. Gốc me này lối năm 1952 tôi còn thấy nhánh gốc cằn còi có vẻ cổ thụ lắm; năm 1957, có việc đi trở lại xóm này thì gốc me xưa đã mất hay là do búa đô thành đã đi trước tôi rồi? Trước đây, lối năm 1955, ?oCháo trắng Cây Me? tiếng đồn ngon nhất, khuya nào cũng kéo nhóm phong lưu xa mã về cười giỡn nơi đây!
    Xa vô trong một đỗi nữa thì tới Vịnh Bà Thuông, rạch này do Phó Tổng trấn thành Gia Định Huỳnh Công Lý đứng xem đào, hồi năm 1819, rạch chạy từ đây ra ngã tư. Xóm này là xóm xay lúa giã gạo. Tại đây có một cái giếng nước ngọt hữu danh, mang tên Pháp là ?opuits d?TArdan?. Cũng lạ: puits d?TArdan trước kia ở bên kia bờ sông. Sau nước Vịnh Bà Thuông xoáy mạnh và chảy dộng vô giếng thét lâu ngày ăn đứt mất khuỷnh đất ấy rồi giếng lọt vào giữa vịnh, kế biệt tích luôn. Bà Thuông chữ gọi Thị Thông. Xưa nơi đây có cầu Thị Thông và An Thông Hà.
    Từ Cầu Bà Thuông chạy vô tới Cầu Sắt là làng An Điềm. Nơi đây đột khởi một đồi đất chỉ vừa bộng giếng, bốn phía nước sông bao vây, tư mùa đục, mặn, chỉ duy nước giếng tràn lên là ngọt, mát; xét ra mạch nước ở sâu và xa ngầm đến, tên chữ Tấn Tỉnh. Đời ấy ghe thuyền múc nước chở đi bán xa gần là múc nước giếng này(Đại Nam Nhất thống chí, Nguyễn Tạo dịch, trang 65). Xóm An Điềm, mé rạch có tên riêng là ?oXóm Chỉ?(xưa bán kim chỉ) nay còn thông dụng. Cầu Xóm Chỉ bắc qua Xóm Đầm ở bên kia mé rạch.

    Những thung lũng sâu không bao giờ thiếu nước,
    Những trái núi to lớn bao giờ cũng có lối đi qua!
  2. vetgia

    vetgia Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2002
    Bài viết:
    1.347
    Đã được thích:
    0
    c) Bên kia rạch Bến Nghé
    Kể dài theo bờ rạch là làng: Khánh Hội, Tân Vĩnh, Vĩnh Khánh, Bình Xuyên và Tứ Xuân (Làng Vĩnh Hội sau này là do các làng Khánh Hội, Tân Vĩnh và Vĩnh Khánh gộp chung lại). Ranh làng Tứ Xuân đụng rạch Ông Bé, tục danh là Xóm Te (Te lá giủi dùng để đánh cá. Giủi trong Nam gọi là ?onhủi?). Kế đến làng An Thành (sau đổi thành Tuy Thành), làng Bình Hòa (Thạnh Bình), tục danh Xóm Rớ (Rớ là một thứ lưới có thể cất lên cất xuống được, giống như một cái vó thu nhỏ). Kế đến làng An Hòa Đông, Hưng Phú (Xóm Than). Trước khi vô đến Chợ Lớn, ngang Xóm Than, có một giếng gần mé sông, tên gọi ?oGiếng Hàng Xáo?, vì dân đổi nước đem về nấu ăn vẫn đồn đãi và đua nhau đến giếng này giành giựt đổi chác:
    ?oGiếng Hàng Xáo múc lao xao,
    Kẻ chở thuyền người chuyên bộ??
    (Gia Định vịnh, trang 9)
    Xét ra, khi chưa đặt ống nước và dựng nhà máy lọc và dẫn nước xa về Sài Gòn, thì vẫn đề giếng ăn là lợi hại nhất trong đời sống người dân thuở ấy. Thậm chí các quan Tây, nhà nào không có hầm chứa nước mưa thì cũng ăn nước giếng, và giếng nào nước tốt thì nổi danh khắp vùng.
    Từ Xóm Than vô Chợ Lớn, hai bên bờ sông, nhà sàn san sát. Chỗ này ghe thuyền miền Lục Tỉnh lên đậu kẹo lền, nào ghe lườn đánh rỗi, bán bánh kẹo, cháo, v.v? bán đến khuya lơ khuya lắc, vẫn còn nghe tiếng gái rao hàng lanh lảnh dưới sông, hò hát nghêu ngao, tục gọi ?obán rổi?.
    d) Cầu và kinh rạch vùng Chợ Lớn.
    Dọc theo kinh Chợ Lớn có rất nhiều cầu cao cẳng, đặc biệt của xứ Chợ Lớn, vì cầu rất cao có bực thang bộ hành lên xuống dễ dàng, xe đạt dắt tay hoặc khiêng vai qua lại không khó, nhưng bất tiện xe cộ chạy qua không được, cầu này cốt ý làm ra để giúp người hai bên cầu qua lại bằng chân khỏi đi ghe đò lâu lắc, duy xe cộ phải chạy vòng ngả khác, còn đường nước vẫn lưu thông, ghe chài và tàu có thể chun qua lòn lại không trở ngại lắm. Kể sơ là:
    1?"Cầu Xóm Chỉ, ngay con đường Tản Đà;
    2 - Cầu Chợ Lớn, trở vô Chợ Lớn cũ;
    3 ?" Cầu Chà Và, gọi làm vậy vì xưa đây là phố Chà(người Ấn Độ) bán vải;
    4 ?" Cầu Xóm Củi;
    5 ?" Cầu Ông Lớn (vì xưa dân không dám gọi tên Đỗ Hữu Phương);
    6 ?" Cầu Bót Bình Tây qua Bình Đông;
    7 ?" Cầu Ba cẳng trổ ra đường Cambodge và Yunnan;
    8 ?" Cầu có bực thang trở ra đường xuống đường Gò Công;
    9 ?" Cầu Palikao;(gần đây có nhà giàu thứ tư là Hộ Định)
    ???
    Kể hoài không dứt, chỉ thêm bực trí. Vậy xin để đó, tạm thời nhắc lại Chợ Lớn thuở xưa có hai đường thủy thông thương với Mỹ Tho và miền Hậu Giang, có thể nói hai đường sanh mạng giúp sự chuyên chở thổ sản và mễ cốc miền Tây được mau chóng và rẻ tiền:
    1) Thứ nhất là Rạch Chợ Lớn nối liền Rạch Cát (Sa Giang) và Rạch Bến Nghé, do kinh Ruột Ngựa (Mã Trường Giang đào năm 1772) và Rạch Lò Gốm, có Kinh Vòng Thành (Canal de Ceinture) ăn thông đến phía sau đồn Cây Mai. Gọi Kinh Vòng Thành vì người Pháp chiếm Sài Gòn vào tháng 11 năm 1862, theo dự án Coffyn thì Đô đốc Bonard truyền đào kinh nối Rạch CHợ Lớn đến Rạch Cầu Kiệu để làm cho có nước bao bọc vùng Sài Gòn Chợ Lớn trở thành như một cù lao. Có cả thảy bốn chục ngàn nhân công ra đào kinh ấy, định bề ngang hai thước, bề sâu sáu thước, băng qua Đồng Tập Trận, dài lối sáu cây số ngàn (6km). Nhưng công việc dở dang thất bại và Đô đốc Bonard đành bỏ nửa chừng công việc ấy.
    Đoạn Rạch Chợ Lớn, từ Cầu Sắt đến Rạch Lò Gốm, trước kia có Rạch Phố Xếp đào năm 1778, giờ đã lấp thành Đại lộ Tổng đốc Phương.
    Khúc rạch chạy từ đường Vân Nam (Yunnan) đến Cầu Ba Cẳng (trước hãng xà bông Trương Văn Bền) xưa đào năm 1782. trên đoạn này có Cầu Sắt, Cầu Đường, Cầu Vân Nam (bắc ngang Rạch đường Vân Nam). Cầu Khâm Sai (sau cất lại đổi tên là ?oCầu Ba Miệng?), và Cầu Phước Lâm là cầu nấc, cao cẳng, xe cộ qua lại không được. Đoạn rạch nầy từ Cầu Sắt đến Rạch Lò Gốm sau lấp đi trở nên đường Khổng Tử, thêm một khúc là đường Trang Tử và Bến Xe Đò. Khi lấp rạch thì các cầu cũng bị triệt hạ.
    Đoạn từ Rạch Lò Gốm vô Rạch Cát, tại đường Danel (nay là Phạm ĐÌnh Hổ), ngay đồn Cây Mai, có cầu có bực thang, tiếng Pháp là Pont Danel, ta đặt tên cầu Công-xi-heo. Kế bên cầu có lò heo Đô thành, từ ngày lò làm heo được dời về Chánh Hưng thì trụ sở lò heo được sửa lại làm trường học chi nhánh Trường Cây Gõ. Dọc theo rạch, phía tay trái có con rạch nhỏ của Lò Siêu trên có bắc cầu gọi ?oCầu Khum?.
    Đoạn đường Minh Phụng, bắc ngang qua Rạch Lò Gốm có Cầu Cây Gõ. Cầu này khi xưa làm bằng sắt trên lót ván, nhưng hai bên dốc cầu quẹo xuống đường Lò Gốm và đường Phú Lâm, cao và gắt, nên thường xảy ra tai nạn xe kiếng lật đổ nơi đây. Từ năm 1924, cầu này được đúc lại bằng đá sạn và đã bớt nạn xe ngã. Nới vô trong gần Lò Lu, thì có Cầu Bà Kế, vì ăn thông với đường Bà Kế, bay là đường Phú Lâm, và có ?oCầu Xây?, loại cầu làm bằng cây lót hai tấm ván có tay vịn, nhưng twf khi mở con đường Renault và cầu đút Renault(nay là đường và cầu Hậu Giang) thì cầu xây đã dẹp.
    Dọc theo Rạch Lò Gốm, về phía tay mặt có con rạch nhỏ của lò làm gạch hiệu Quảng Di Thành, đào để tiện chở chuyên đất hầm gạch twf Phú Định (nay là phía tay trái đường Hậu Giang), trên con rạch nhỏ này có ?oCầu Chú Bon?, cột bằng sắt. Tại Cầu Bà Kế trở bên tay mặt, có Rạch Ông Buông, chảy một nhánh tới làng Tân Hóa, một nhánh tới làng Tân Khai. Trên nhánh đi Tân Khai có cầu sắt gọi ?oCầu Đồn? vì trên đường trổ ngay trước đồn Phú Lâm. Trên nhánh đi Tân Hóa có ?oCầu Tre?, cầu xe lửa (xe chạy đường Sài Gòn ?" Mỹ Tho) và Cầu Ông Buông tại bót Phú Lâm là trên đường đi về Lục Tỉnh. Còn khoảng rạch từ bót Phú Lâm tới ngã ba Rạch Lò Gốm thì có cầu cây của tư nhơn bắc để đi qua chùa Giải Bịnh (nay gọi Thiên Trước Tự).
    Rạch Chợ Lớn, ngày xưa là đường giao thông thịnh vượng. Tại chỗ bến xe, ngày trước ghe chài đậu tấp nập để vô ụ ghe sửa chữa. Uï ghe ngày nay trở nên Chợ Bình Tây do ông Thông Hiệp hiến đất để xây cất. Dọc hai bên Rạch Lò Gốm, xưa có lò gạch: lò Tín Di Hưng, Quảng Di Thành, Hiệp Hưng; thêm có lò siêu và lò làm lu.
    Lò gạch Tín Di Hưng tại ngã ba Kinh Vòng Thành nay đã dẹp, trên khu đất này nay phố xá cất đông đúc.
    Lò siêu Bửu Nguyên sau cũng nghỉ việc, trở nên lò làm ve chai và giấy súc.
    Còn lò lu thì sau đổi thành lò chén nhưng cũng không phát đạt cho lắm.
    Lò siêu ở sau Đồn Cây Mai cũng dùng Kinh Vòng Thành để ra Chợ Lớn. Khi Kinh Vòng Thành cạn thì lò siêu cũng thôi không còn hoạt động.
    Đối diện lò siêu Bửu Nguyên, bên tay mặt Rạch Lò Gốm, khi xưa có giếng Hộ Tùng, giếng xây hộc vuông, nước thật ngọt và trong mát, mùa hạn nắng, ghe đổi nước từ Chợ Đệm, Bến Lức, Cầu Ông Thìn, Cần Giuộc, Cần Đước? đều đua nhau chen chúc đến nơi đây, gây cảnh tấp nập ồn ào. Từ khi lấp Rạch Chợ Lớn, Rạch Kinh Vòng Thành không thông thương và cạn dần. Các lò gạch, lò lu, lò gốm, lò siêu do sinh kế đã mất cũng dẹp dần. Ngày nay xóm Lò Gốm chỉ còn có cái tên trơn và không sản xuất đồ gốm nữa.
    2) Con đường thủy thứ nhì là Kinh CHợ Lớn cũng gọi Kinh Tàu Hủ (Arroyo Chinois). Vùng Chợ Lớn thuở nay buôn bán thịnh vượng một phần lớn là nhờ Kinh Tàu Hủ này. Đây là đường thủy vận nối liền Sài Gòn với các sông ngòi chảy xuống miệt Hậu Giang. Con đường thủy này tiện lợi vô cùng vì đã thâu ngắn đường ghe thuyền tránh được nguy hiểm khỏi trổ ra đường biển để vào cửa Cần Giờ. Tàu nhỏ, ghe thương hồ, các ghe chài ?oăn lúa? từ Bạc Liêu, Bãi Xàu, Sóc Trăng kéo lên hoặc thuyền ?ocá đen? Biển Hồ (Nam Vang) đổ xuống đều noi theo Kinh Tàu Hủ này mà ?oăn hàng?, ?oăn gạo? hoặc đợi ?ocất lúa? lên cho các nhà ?otầu khậu?(?otầu khậu? hoặc ?otùa khậu? do hai chữ ?oĐại Khổ? đọc giọng Tiều(Triều Châu)) và nhà máy xay xát Chợ Lớn, cũng như nhờ con kinh Tàu Hủ này để giao dịch với thương cảng và tàu hàng tàu buôn xuất ngoại.
    Con kinh này, ngoài việc lợi ích giao thông và kinh tế còn là đường chiến lược, thuở xưa tàu binh Pháp đã mượn nó mà đến vây Đồn Cây Mai và thuận đường đánh úp Chợ Mỹ Tho. Con kinh Tàu Hủ đã từng chứng kiến những biến cố lịch sử đau thương của ta và lịch sử đó đã được ghi rành trong cận sử Việt.
    Khảo ra vì Rạch Chợ Lớn cạn hẹp (cũng vì thế nên sau Pháp lấp bỏ), để có một con kinh rộng lớn hơn, nên năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819) vua hạ lịnh đào kinh Tàu Hủ, Phó Tổng trấn Gia Định thành là Huỳnh Công Lý (cha vợ vua Minh Mạng) được phong làm Khâm sai, hiệp với Tổng Thanh tra Gia Định điều khiển mười một ngàn bốn trăm sáu chục nhân công (11.460), chia làm ba tốp, mỗi dân công lãnh một số tiền và một khẩu phần, khởi công ngày 23 tháng Giêng, đến ngày 23 tháng Tư năm Kỷ Mão (1819) là hoàn thành, đúng ba tháng. Con kinh này bắt đầu từ Cầu Đề Thông (nôm gọi Cầu Bà Thuông) chạy đến ngã tư sông Rạch Cát. Sách nói kinh dài 2.129 tầm và bộ, bằng chín dặm rưỡi (mỗi dặm 576 thước tây => 576 x 9,5 = 5.472m). Bề ngang rộng 15 tầm (mỗi tầm 8 xích, tính ra 0.32 x 8 x 15 = 36.90m). Bề sâu được 9 bộ (mỗi bộ 6 xích = 0.32 x 6 x 9 = 17.28m). mỗi bên kinh có chừa một bờ đất rộng 8 tầm. Đào rồi, vua Gia Long đặt tên khúc kinh ấy là An Thông Hạ.
    Về sau, người Pháp cho vét lại hai lần vào năm 1887 và 1895.
    Nay ráp lại với đoạn Chợ Quán và Cầu Ông Lãnh, gọi chung là Kinh Tàu Hủ (tài liệu lấy trong Phổ Thông số 15 ra ngày 15/07/1959 do ông Lê Ngọc Trụ viết).
    Theo bộ Gia Định thông chí của ông Trịnh Hoài Đức, thì vốn là lạch nhỏ cũ đào rộng ra, nhưng xét qua địa đồ xưa của ông Trần Văn Học vẽ về tỉnh Gia Định trước năm 1815 thì không thấy có con lạch nhỏ ấy.
    Theo sử, Rạch Chợ Lớn chứng kiến hai trận chiến tranh:
    1 ?" Thời Nguyễn Ánh, binh Tây Sơn giết người Hoa kiều nơi chỗ gọi ?oThầy Ngôồn? (Đề Ngạn), trong ba tháng ?okhông ai dám rớ miếng cá miếng tôm? (1872).
    2 ?" Thời Pháp chiếm đóng Sài Gòn, thủy quân Pháp dùng khinh pháo hạm Jaccaréo án ngữ trên Kinh Chợ Lớn, đậu tại đường Tản Đà (vì thế trước kia đường này được đặt tên la Jaccaréo), còn một chiếc khác đậu tại sông Rạch Cát để bao vây Đồn Cây Mai của Nguyễn Tri Phương.
    Con Kinh Chợ Lớn thường nổi cồn cát cản trở sự thông thương và phải được vét hoài mới dùng thuận tiện.
    Dọc hai bên bờ kinh, có nhiều nhà máy xay gạo như hiệu Nam Long, hiệu Kiến Phong là danh tiếng nhứt, đều của Hoa kiều và nhiều chành lúa gạo dựng san sát kế lìen nhau từ Bình Tây đến Bình Đông. Hãng rượu Bình Tây cũng ở về hữu ngạn kinh Chợ Lớn này. Những cầu bắt ngang kinh Chợ Lớn kể từ Chợ Lớn cũ trở vô Bình Đông thì có Cầu Chà Và dùng để đi qua Xóm Củi, Cầu Bót Bình Tây và Cầu Hãng rượu là loại cầu có mang cá, xe cộ muốn qua phải theo hai mang cá tả hữu leo lên. Hai dãy nhà máy này được một thời thịnh vượng. Qua đời Nhựt trưng dụng về quân sự, trở nên những đích cho máy bay Đồng Minh dội bom. Năm 1945, có một trận bom dội xuống trúng nhằm nhà máy Nam Long, khiến thường dân vô tội chết rất nhiều.
    Còn giữa khoảng Rạch Lò Gốm và Kinh Chợ Lớn, có kinh gọi kinh Hàng Bàng nối liền hai đường thủy nầy do khúc kinh đường Vân Nam hiệp thành mộtngã ba và nơi đây có cây Cầu Ba Ngã. Cầu này nguyên khi xưa làm bằng sắt lót ván, vì một cuộc hỏa hoạn xảy ra ở đường Gia Long (nay là Trịnh Hoài Đức), thiên hạ bu đông trên cầu để đứng xem, dồn dập quá sức chịu đựng nên cầu sập. Sau này xây lại cầu đúc sạn cốt sắt và đặt tên Cầu Ba Cẳng.
    Dọc kinh đường Vân Nam đến Cầu Ba Cẳng, trước mặt hãng xà bông Trương Văn Bền, nay đã lấp bằng. Chỉ còn khoảng từ Cầu chạy ra tới Kinh Chợ Lớn là có nước chảy (tháng Hai năm 1961, sau lấp bằng; nhưng Cầu Ba Cẳng đến năm 1986 vẫn còn ngó thấy chớ không phá bỏ).
    Bắc ngang khoảng kinh này, dọc theo kinh Chợ Lớn thì có cầu Ông Lớn (Tổng đốc Đỗ Hữu Phương). Còn từ ngã ba Cầu Ba Cẳng đến Rạch Lò Gốm có cả thảy năm cây cầu:
    - Cầu nấc đường Gò Công, xe đi không được, đã kể rồi!
    - Cầu Palikao.
    - Cầu nấc đường Minh Phụng.
    - Cầu Kinh.
    Hai cầu nấc kể sau đây nay đã thay bằng cầu đúc, cái thứ nhứt là Cầu Bình Tây, cái thứ nhì là cầu đúc Bình Tiên. Kinh chỗ này gọi Kinh Hàng Bàng, vì khi xưa dọc hai bên bờ kinh này có trồng cây bàng bóng to mát mẻ, thường có ghe chài đậu tại kinh này nhiều vì có ụ sửa ghe (sau lấp bằng nên Chợ Lớn Mới). Hai dãy nhà hai bờ kinh phần nhiều là của người Tàu, nhà cất khít sát nhau chen chúc. Bản tính đàn bà người Tàu hay tiện tặn, đụng gì cũng cất để dành, xác mía, dăm bào không món nào muốn bỏ, nhưng đàn bà Tàu cũng có tánh rất lơ đễnh khinh thường, thêm trẻ con người Tàu có tánh ưa chơi lửa, nên hỏa hoạn xảy ra thường. Khoảng đầu năm 1923, lối tháng Giêng âm lịch, một cuộc hỏa tai tàn khốc chưa từng thấy xảy ra. Hai dãy nhà ngói và lá từ khoảng Cầu Bình Tây chạy suốt đến cầu đúc Bình Tiên đều làm mồi cho lửa. Lửa gặp gió chiều càng mạnh dữ thêm, nên dân cư đa phần lo dọn đồ đạc, lớp lo cõng con dắt mẹ, la khóc rùm trời. Sức lửa mau lẹ cứu cấp không xuể, lửa dồn người ta ra giữa đường và từng cơn gió, lửa táp vào người rùng rợn không tả xiết. Túng thế nạn nhân nhảy xuống kinh, nhưng than ôi nước kinh lại nóng như sôi, nạn nhân chết quay còn chết luộc! Sáng ngày sau, đi ngang đây còn bay mùi khét, nào lợn gà, bò nguyên con nằm chình ình chỏng cẳng, nào dưa hấu nguyên vựa, khô cá gộc cháy nguyên kho, bày ra không ma trơi nào lượm! Sau trận hỏa tai dữ tợn năm đó, có một dạo hèn lâu, không một ai dám nhắc đến chuyện trở về lập cơ chỉ nơi chốn cũ Kinh Hàng Bàng. Chánh phủ Pháp thừa dịp làm ra con đường ở vùng đó để xe miệt Hậu Giang bận lên chạy một chiều vô Chợ Lớn, nên gọi đường Hậu Giang. Nhờ dấu vết cũ không còn, nên dân dạn dần mà trở về, đến nay mới có mòi phồn thịnh. Ngờ đâu năm 1945, quân đội Nhựt kéo đến đây, thiếu cây dùng nên hạ lịnh đốn cây bàng cây me ở hai bên bờ kinh Hàng Bàng và Rạch Lò Gốm để làm hầm nấp nơi cầu Bình Điền, báo hại dân cư hai xóm, bất luận mặc y phục Lang sa hay Việt đều bị chúng lùa bắt đi kéo gỗ, khiến nhiều người phải chuồi mình xuống Rạch Lò Gốm, kết gỗ thành bè thả trôi ra xa mới thoát khỏi tay bọn quân lùn.
    Kể về kinh rạch còn có Kinh Lò Gốm (Canal des Porteries) ở vùng Rạch Cát và Kinh đôi (Canal de Doublement), đào sau kinh An Thông Hạ, cũng là một con đường thủy giúp ích rất nhiều cho sự thịnh vượng hai đô thị Sài Gòn và Chợ Lớn.

    Những thung lũng sâu không bao giờ thiếu nước,
    Những trái núi to lớn bao giờ cũng có lối đi qua!
  3. vetgia

    vetgia Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2002
    Bài viết:
    1.347
    Đã được thích:
    0
    e) Nhà Xóm trong Chợ Lớn
    Những xóm trong Chợ Lớn còn giữ được tên theo xưa là:
    Xóm Than.
    Xóm Củi.
    Xóm Dầu (chuyên bán dầu phộng).
    Xóm Bàu Sen. Gần đồn Cây Mai. Thật ra là bàu lũ loạn, đầy cỏ rác, cỏ lục bình; sen không mọc nữa. Đừng lộn với Bàu Sen đường Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi), miệt Chợ Quán.
    Xóm Giá, làm giá đậu xanh ở gần Cầu Cây Gõ. Làm nghề này phải thức khuya dậy sớm. Từ hai giờ khuya đến năm giờ sáng phải xuống sông đãi giá, làm cho sạch vỏ đậu xanh còn đeo theo, để kịp tang tảng sáng có bán tại Chợ. Mỗi người đãi đậu đem theo một ngọn đèn nên quang cảnh khúc sông giữa đêm khuya thật nhộn nhịp vui mắt. Gặp chầu Chợ Tết thì cảnh càng tưng bừng náo nhiệt suốt đêm.
    Xóm Lò Bún, gần giếng Hộ Tùng.
    Xóm Phú Giáo, khi xưa giáo mắm (gần đồn Cây Mai).
    Xóm Rẫy Cải của người Tiều (Triều Châu), ở hai bên lộ đi Lục Tỉnh. (Người Tiều trước kia có sắm xe hai ngựa để chở cải ra các Chợ Sài Gòn, Chợ Lớn, Bình Đông, Bình Tây, thứ xe này ngày nay không thấy họ dùng nữa, đổi lại còn thấy ta dùng chở cá, chở đồ khi dọn nhà. Ta nay gọi đó là ?oxe cá?; xe cá chiếc thắng một ngựa, xe cá đôi thắng hai ngựa; và quên rằng sơ khởi đó là xe cải của người Tiều bày ra)
    Xóm Ụ Ghe (Chợ Lớn mới).
    Xóm Cây Cui (Bình Đông).
    Khi xe lửa điện đường mé sông còn chạy, trong các xóm có xe chạy ngang, công ty Pháp lựa tên cũ đặt cho các trạm xe đỗ, tên Việt kèm tên Pháp, và hình dung bằng một ám hiệu tượng trưng, vừa treo trên nhà ga vừa in trên vé tàu, như ga Jaccaréo là ?oTrạm Xóm Củi?, ám hiệu ?ocây bồ cào sắt??
    Con đường Sài Gòn vô Chợ Lớn, tục danh Đường Trên (Route Haute).
    Đường Trên (Route Haute), xưa do ông Olivier de Puymanue phóng hoa tiêu, đẻ nối liền Sài Gòn vô Chợ Lớn, đối chiếu với Đường Dưới (Route Basse) ngả mé sông.
    Xưa có hai đường xe lửa nối liền Sài Gòn vô Chợ Lớn:
    A ?" Một đường mé sông, xe chạy bằng than củi, tải vận hàng hóa và trái cây miệt Lái Thiêu, trạm chánh trước Chợ Bến Thành. Xe chạy hai ngả:
    1) Trước chạy từ Chợ Bến Thành, bọc đại lộ De la Somme (nay là Hàm Nghi), dọc theo mé sông tới đường Luro (Cường Để), lên trạm Hàng Sao (đường Mạc Đĩnh Chi), quẹo Phan Đình Phùng (nay Nguyễn Đình Chiểu), Đinh Tiên Hoàng, ghé qua Đất Hộ, thẳng vô Gia ĐỊnh, trạm chót Lái Thiêu.
    Sau đổi bỏ đoạn đường bọc De la Somme dọc theo mé sông đến Luro kể trên, sửa lại xe chạy từ Bến Thành chạy dọc theo đường Bonard khỏi Catinat quẹo sau Nhà Hát Tây trổ ra đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng), chạy lên Đất Hộ, Gia Định, Lái Thiêu.
    2) Xe đỗ ga chánh Bến Thành rồi chạy vô Chợ Lớn, trạm chót là ga Bình Tây.
    B ?" Một đường gọi xe lửa giữa, trước chạy than củi, sau chạy điện. Xe chở bộ hành nhiều hơn hàng hóa, bắt đầu từ ga Chợ cũ Sài Gòn, đổ ra Chợ Mới Bến Thành, rồi chạy cặp với đường tàu hỏa Sài Gòn ?" Mỹ Tho dài theo đường Phạm Viết Chánh, Nguyễn Hoàng thẳng tới ga An Bình, chạy dọc theo đường Thủy Binh (Đồng Khánh), bọc theo đường Tổng đốc Phương trổ ra ga chót là ga Chợ cũ Chợ Lớn (ga RoDier, nổi danh xưa là điếm móc túi nhiều và tài nhất). Đi đường này đã sang : Vé hạng nhất Sài Gòn vô Chợ Lớn là một hào bạc (0$10) được ngồi băng dài có trải nệm bố trắng. Hạng nhì sáu chiêm tây (0$06). Đường chỉ non có 6 cây số ngàn (6km) mà chạy hơn ba mươi phút mới đến nơi, có đủ hỷ nộ ai lạc; vui vì xe chạy một đỗi, thấy Di tích Đồng Tập Trận mênh mông (nay là đại lộ Lý Thái Tổ) và nếu là buổi trưa, sẽ được ngắm cảnh người Tàu ngủ gà gật trên xe, buồn là có khi nội khúc đường ấy đường ấy đã bị điếm giật tiền nhảy xe, hay anh chị móc túi. Sách nói khi xưa, làm con đường này gặp nhiều mồ mả (ắt chốn Đồng Tập Trận cũ). Lang sa có lệ phát ba quan tiền và một xấp vải cho mỗi ngôi mộ và mả bị cải táng.
    a) Sau bỏ con đường và xe chạy củi. Thay vào là đường xe điện và đường xe chạy từ Chợ Bến Thành dài theo khoảng giữa đường Trần Hưng Đạo đến đường Đồng Khánh, Tổng đốc Phương và trạm chót là ga RoDier. Đường sắt này đã bãi bỏ hồi năm 1953 và qua 1954 được khỏa lấp bằng nhựa (Còn một đường xe lửa nhỏ nối liền Chợ Đát Hộ_Đa Kao_ qua Chợ Tân ĐỊnh, chạy dài theo đường Paul Bert_Trần Quang Khải. Sơ khởi chạy không lấy tiền sau đó phải thâu tượng trưng mỗi chuyến một xu để tránh nạn trẻ nít lên ngồi choán chỗ làm khách bộ hành phải đứng!).
    Ba bốn mươi năm về trước, hai bên đường xe lửa giữa có trồng xoài và mít chen lộn nhau, tàn lá sum sê bóng rợp, đến nay vì lần hồi mở mang đường ra rộng lớn đủ phương tiện lưu thông nên không còn gốc đại thọ nào còn sót lại, có còn chăng là những danh từ khêu gợi : Xóm Vườn Xoài Bà Lớn (mộ phần của gia tộc Đỗ Hữu Phương) trên đường Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ), XÓm Vườn Mít (xưa dân nghèo lấy hột mít xay ra bột để bán)_xóm này truy ra lối Tabert-Mac Mahon cũ, đừng lộn vơí xóm mít trên Phú Nhuận, đường Võ DI Nguy nối dài.
    Học giả Trương Vĩnh Ký chép rằng xưa tại chỗ Khám Lớn cũ, gần bên Tòa Pháp đình, thuở đó có một cái Chợ tục danh ?oChợ Da Còm?, tức là Chợ nhóm dưới một gốc cây da nhánh còm lá gie xuống mặt đất. Xưa đây là xóm bán trống, bán lọng, yên ngựa và mão Tú tài.
    Nhắc đến cây da, còn thấy ở Tòa Pháp đình, phía góc đường Nguyễn Du và Nguyễn Trung Trực, có mấy gốc đã lâu đời, có dính líu với ?ocây da còm? khi xưa chăng?
    Tiếp theo Chợ Da Còm còn có Chợ Đũi (bán đũi, bán lụa?). Thuở cụ Trương Vĩnh Ký còn sanh tiền thì Chợ Đũi ăn dài từ Xóm Boresse giáp qua đường xe lửa Sài Gòn ?" Mỹ Tho. Khỏi Chợ Đũi là Xóm Đệm Buồm rồi tới XÓm Thuận Kiều (Danh từ ?oThuận Kiều?, trong vài sách Pháp lại viết ?oTong Keou? khiến chúng ta hoang mang, kẻ dịch ?oĐông Kiều?, người cho ?oĐông Khẩu?! Trong quyển ?oHistore de I?Texpé***ion de Cochinchine? của Pallu de la Barriere, danh từ ?oĐồng Cháy?, Pháp viết ?oDone Chai?, thiệt là ?obí lù?. Trong quyển ?oBulletin de la Société des Etudes Indochinoises? trang 93, tác giả kể ?oles forts de Nghia, de Biguekague, et de Kiala, ceux de Tangray et de Tanky? ?" de Bazancourt p.307,308. Il est difficile en raison de l?Torthographe apdaoptée par l?Tauteur, de savoir ofu se trouvaient ces ouvrages? ?" B.S.E.I Octoobre Décembre 1935 p.93. Theo tôi, tôi định cho đây là những đồn : đồn Nghĩa, đồn Bình Khánh, đồn Chà Là, đồn Tân Ngãi, đồn Tân Kỳ, định vậy nhưng còn các học giả uyên thâm phủ chính.).
    Còn nói về cùng Chợ Mới như ngày nay ta thấy, xưa kia lại là một ao sình lầy nước đọng. Như đã nói rồi, năm 1913, người Pháp lấy ao vũng xây nhà chợ có làm lễ lạc thành trọng thể gọi lễ ?okhai tân thị?. Chợ này ở gần chỗ bến nước của thành xưa nên gọi ?oChợ Bến Thành? cho đến nay vẫn gọi như thế. Ngày khai mạc có chưng ?ocộ bảy bang? (bảy bang có phải : Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hakas ?" Khách gia, Hẹ, Hải Nam, Chettys, Chà Và ?" gồm người mập lê ?oPakistanais?, người Hồi ?oMahométans? chăng? Khó trả lời dứt khoát, vì xưa chưa có người Tàu tỉnh Bắc Kinh và Tô Châu và các tỉnh khác qua đây. Bảy bang là bảy bang Trung Hoa hay pha lộn bảy bang ngoại kiều như trên; tức liệt người Ấn Độ, khác tôn giáo, khác phong tục chung hàng ngũ với những người Trung Hoa? Kẻ ăn thịt mỡ, người chừa thịt heo, thế mà người khi xưa người Pháp ép nhập nhau, lạ thật?) có cộ bong hình ?oQuan Âm tay xách giỏ cá?, hình ?oHồng Hài Nhi cầm quạt ba tiêu chấp tay bái Phật Bà? toàn do đồng nam đồng nữ tình nguyện chịu cho các thợ bong hình thế nộm giấy, cả ngày đứng trên một cột sắt nhỏ có hoa lá che kín, chân tay tê cứng vì không được cử động. Lại có múa lân, thí võ, hát Triều Châu, hát Quảng Đông và hát bội diễn ngoài trời, cộ đèn, cộ bông, nhạc ngũ âm và nhạc ?omủ dích? Pháp. Sánh với ngày nay thì cuộc lễ rất tầm thường, nhưng vào thời ấy tiếng đồn khắp Lục Tỉnh, đâu đâu cũng nô nức kéo nhau về Sài Gòn. Có câu: ?oXem được lễ Tết tân thị một lần chết cũng sướng thân!? Mà đi thì chỉ có đường thủy là tiện.
    Nhắc lại thuở đó, có tàu ?oLục Tỉnh? chạy từ Sài Gòn lên Nam Vang trải qua các chợ như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Châu Đốc v.v? Tàu nhỏ hơn chạy miệt Hậu Giang thì có tàu Pélican, Sarcelle, Cormoran của hãng Messageries Fluviales tục gọi hãng tàu Nam Vang, chạy khởi hành từ Mỹ Tho xuống Bạc Liêu đi qua các chợ như Chợ Gạo, Tam Bình, Trà Ôn, Cần Thơ, Phụng Hiệp, Sóc Trăng, Bãi Xàu, Cổ Cò v.v? và tàu khác đường Mỹ Tho ?" Rạch Giá. Hãng tàu các chú cũng chạy kình một đường với tàu Tây. Về sau mới có Oâng Phán Nuôi ở Vĩnh Long sắm tàu chạy nhưng không tranh đua cùng hai hãng Tây, Tàu.
    Đường Bộ thời ấy (trước 1913) chưa được thông thương, vì chưa có cầu bắc qua sông lớn. Bởi cho nên, như đã nói rồi nhờ vị trí trên bờ có xe lửa nối liền với thủ đô, dưới sông có tàu thuyền chạy Lục Tỉnh, Mỹ Tho thời ấy chỉ nhượng có một Sài Gòn.
    Nhắc lại lễ khai tân thị chợ Bến Thành năm đó (mars 1914) đã phá kỷ lục về hội hè vui vẻ. Ông già bà cả từng mục kích lễ này đến nay còn nhắc, và tự hào chứng kiến một ?oTân Vương Hội?(danh từ của các báo thời ấy dùng).
    Tục lệ thành Sài Gòn và Chợ Lớn, cho đến về sau lâu lắm mới dẹp là dân trong thành phố hễ quá mười giờ đêm muốn ra đường là phải xách theo một ***g đèn, lại nữa riêng Chợ Lớn, xóm của gái điếm cũng gọi ?oXóm ***g Đèn?, đã là xóm huê nương tức nhiên phải về khuya, khách làng chơi cơm nước phủ phê rồi mới xách ***g đèn đến thăm, sự ấy cũng dễ hiểu.

    Người yêu ơi dù mai này cách xa, mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng ta.
    Và ta biết một điều thật giản dị, càng xa em ta càng thấy yêu em!
  4. vetgia

    vetgia Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2002
    Bài viết:
    1.347
    Đã được thích:
    0
    g) Nay xin trở lại đường Thuận Kiều
    Từ đây đến ?oSở Nuôi Ngựa? cũ của nhà binh Pháp tức là trong trại ?oÔ Ma? đường Võ Tánh (Nguyễn Trãi) thì là chợ ?oĐiều KHiển? do một ông Điều Khiển tạo lập (Điều Khiển là một chức quan võ cầm binh đánh giặc trước thời Gia Long, thuở ấy thành lũy tại Sài Gòn chưa có cho nên chỗ ông Điều Khiển đồn binh hạ trại thì gọi là ?ođồn dinh?). Khỏi Chợ Điều Khiển là đến ?oChợ Cây Da Thằng Mọi?. Gọi làm vậy nhưng khoan vội tưởng rằng đây là một nhà chợ do một người Mọi nào đó đứng ra xây cất. Sự thật là tại chợ này thường thấy bày một món hàng không đâu có bán: ấy là một thứ đèn thắp dầu phộng hay dầu dừa làm bằng đất nung, nắn hình một người Chàm (ông Phỗng): hai chân quỳ, hai tay chắp lại, trên đầu đội một thếp dầu. Trong tập ?oCổ Gia Định vịnh? có câu:
    ?oCây Da thằng mọi, coi bán đủ thuốc xiêm cau mứt.
    Cái cầu Cao Mên, thấy làm nguyên cột vắp ván trai.?
    (Đây là thuốc lá xắt và ướp kiểu người Xiêm dùng. Cau mứt là cau trái để già, nấu kẹo như mứt, người Thổ rất thích ăn. Hai món là gia vị đặc biệt trong miếng trầu thời xưa, nay đã ít được thấy, không khác ?ocây đèn thằng Mọi?.).
    Khỏi Chợ Cây Da Thằng Mọi, có một cánh đồng rộng lớn trống trải và cây cỏ mọc tùm lum nhiều chỗ. Ngày nay nhà cửa cất lấp bít bùng không còn nhìn được nơi nào, chớ xưa kia đây là ?oĐồng Tập Trận?, cung gọi ?oMả Ngụy? hay ?oMả Biền Tru?(Danh từ Mả Ngụy bây giờ thỉnh thoảng còn nghe trong dân gian dùng từ nguyền rủa độc địa: ?oĐồ Mả Ngụy đầu thai!? để trách những đứa con ngỗ nghịch bất hiếu cãi lời cha mẹ ?" V.H.S. Còn đây là chú thích của ông Đặng Văn Ký, tự Minh Tải, học giả ở Gò Vấp. ?oMả Ngụy Khôi ?" chỗ ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Thanh Giản ?" nay là CMT8 và ĐBPhủ ?" khoảng Bình Dân bệnh viện. Từ đường Lê Văn Duyệt vào Chợ Lớn, Mả Ngụy nằm mé tay mặt.?). Nơi đây vua Minh Mạng đã sai chặt đầu ném thây chôn chung một huyệt mả (đến nay mặc dầu đào móng cất nhà vẫn chưa tìm gặp) cả thảy đến 1.137 người già trẻ bé lớn, đàn ông đàn bà lộn lạo, khép vào tội phản nghịch, theo giặc Khôi ở lại trong thành, chống binh lính triều đình ba năm (1832 - 1835) (Khôi là người Nùng, Tả quân bắt được, thương tài không giết, nuôi làm dưỡng tử cho ăn họ Lê Khôi, võ nghệ tuyệt luân, tay không hạ cọp trước mặt sứ thần Xiêm La quốc. Tả quân từ trần, Khôi không chịu nổi cử chỉ đê hèn của vài ô quan nên dậy giặc, giết quan triều đình chống binh chính phủ trong ba năm. Sau Khôi bị chết, triều đình mới hạ được thành Sài Gòn, Minh Mạng chưa hả cơn giận, sai phá thành bình địa và làm cỏ dân vô tội một cách tàn nhẫn).
    Như đã nói rồi nơi mục chú thích về Sở Nuôi ngựa, sở này cất trên một ngôi chùa cũ tên gọi ?oKim Chương Tự? (hay Kim Chung Tự). Chùa này lại xây trên một nền chùa Thổ đã có trước đời Gia Long. Theo cụ Trương Vĩnh Ký thì chúa Duệ Tông bị Tây Sơn bắt tại vùng Ba Thắc (thuộc Cà Mau) và chúa Mục Vương bị bắt tại Ba Vác (thuộc Bến Tre, gần Mỏ Cày) đều bị hành quyết gần Kim Chương Tự, lối năm 1776 (đây là một đoạn sử bi thảm. Duệ Tông và Mục Vương bị binh Tây Sơn bắt một phần lỗi lớn là tại Đỗ Thành Nhơn bất hòa cùng một tướng Tàu. Tướng này đã đầu hàng chúa Nguyễn, tên Lý Tài, có chân trong một hội kín, kiểu như Thiên Địa Hội sau này. Xét ra nếu Lý Tài và Đỗ Thành Nhơn biết liên kết thì Nguyễn Chúa chưa bị bắt, Tây Sơn chưa mạnh thế như sau, việc trong Nam đã thay đổi khác. Một điều khác là trong đạo binh Nguyễn Huệ đánh binh Thanh sau này có trà trộn một phần binh Minh tiếp tay nhưng không ra mặt).
    Còn tại thành lính tập Ô Ma (Camp des Mares) thì còn có miếu thờ các công thần nhà Nguyễn, lập năm 1804, chữ gọi ?oHiển Trung Từ?. Nơi đây khi xưa có các bài vị thờ tất cả 1015 sĩ tử liều mình vì nước trong các trận chống Tây Sơn, trong số đó có một võ tướng quốc tịch Pháp tử trận Thị Nại, ta gọi ông Mạnh Hoè (Manuel). Miễu này đã ghi vào bộ các cổ tích trường Viễn Đông Bác Cổ; năm 1927 chùa này được trường Bác Cổ xuất tiền trùng tu lại tử tế; qua năm 1939 triều đình Huế có biệt phái một đại thần vào đây tế tự (ngày 10 tháng 11 dương lịch). Tang thương biến đổi, đến thời binh Nhật hoành hành một lúc? Chùa đã hư tệ sẵn, thêm các lính tập đạo binh Lang sa phá phách, hầu hết những bài vị đều xiêu lạc. Vợ con binh lính đến ăn ở nơi đây không lòng bảo tồn, nên chùa mau điêu tàn. Đến lượt đạo binh viễn chinh Pháp trở lại chiếm thành Ô Ma sau khi Nhật đầu hàng, thì họ triệt hạ Hiển Trung Từ lúc nào không rõ ắt, bất chấp đó là di tích hiếm có trong Nam. Kịp đến khi Pháp trả thành Ô Ma cho Việt Nam Cộng Hòa, thì đền Trung Hiển chỉ còn một danh từ hão trong trí nhớ của những người hiếu cổ. Lại nữa, trong tập kí ức của cụ Trương Vĩnh Ký, còn nhắc một cổ miếu của thành Ô Ma này, danh gọi ?oMiễu Hội Đồng? (thờ đủ chư vị), cũng gọi là ?oMiễu Thánh?, có trước đời Gia Long. Tập kí ức cho ta biết thêm rằng vị trí miếu này ở giữa hai hào sen lớn. Nhưng năm 1885 võ quan Pháp chiếm cứ miếu này làm nơi ăn ở thành thử lâu ngày miếu xưa mất tích, nay không còn biết rõ chắc xưa ở nơi nào. Cụ Trương Vĩnh Ký nhắc lại chính trước Hiển Trung Từ và Miễu Hội Đồng ngoài Lộ cái, thuở cựu trào có xây hai cột gạch và đá, một đề ?oKhuynh Cái? (nghiêng lọng nghiêng dù), một đề ?oHạ Mã? (xuống ngựa), nay di tích ở đâu?
    Lại còn một ngôi chùa khác nữa gọi ?oChùa Oâng Phúc?, cũng gọi ?oChùa Phật Lớn?, trong tập kí ức ghi ở bọc theo một con lộ nhỏ dài theo bờ ao sen lớn thành Ô Ma, thì cụ Trương Vĩnh Ký đã nhìn nhận mất tích từ năm 1885 vậy.
    Khỏi một cống nước ăn thông với ngọn ?oRạch Cầu Bà Đô?, thì xưa kia có hai ngôi mộ khá to, tương truyền là mộ phần của hai hoàng tử con của Nguyễn Văn Nhạc tục gọi là ?oMộ Hoàng Thùy? và ?oMộ Hoàng Trớt?, nay đã không còn vì có lẽ bị phá bỏ từ lâu để xây cất nhà phố, đâu còn cháu con dòng họ để nhìn nhận? Thậm chí tiếng đồn trước kia tại Rạch Bà Đô có một cái chợ, vì nhóm họp buổi sáng nên danh gọi là ?oChợ Mai? nay cũng không biết khi xưa tọa lạc chốn nào? Rạch Bà Đô, di tích tồn tại đến năm 1959, còn dấu cũ con rạch nước dơ, nay đã lấp đi, nhường chỗ cho một trạm bán xăng, đường Trần Hưng Đạo, ngó xéo qua đại lộ Cộng Hòa (Nguyễn Văn Cừ).
    Con đường ngang Nhà Thờ Chợ Quán có hai ngôi chùa, một gọi ?oKim Tiên Tự?, sau đổi lại là ?oNhân Sơn Tự?, một cái khác nữa gọi là ?oChùa Gia Điền?. Hai chùa này đã không còn từ năm 1885.
    Từ Chợ Quán trở vô Chợ Lớn thì đầu tiên gặp ?oXóm Bột?, ngày ngày phơi trắng dã tận lề đường những bột mì, bột đậu, bột lọc, bột khoai v.v? Đi tới nữa thì gặp ?oChợ Hôm?, nhóm chiều tối để đối với ?oChợ Mai? đã nói trên.
    Sau Chợ Hôm, có một ngôi chùa thờ một vị tướng lãnh của Cao Hoàng, bị Tây Sơn giết, không biết tên, chỉ ghi họ Trần. Chùa ?oTrần Tướng? ở đâu cũng không ai biết (trong Đại Nam nhất thống chí, quyển 2, bản dịch Nguyễn Tạo, thấy trang 79 ghi như vầy: ?oTrần Tướng quân từ? ?" ở địa phận thôn Tòng Chính huyện Bình Dương. Tướng quân họ Trần, tên Thương Xuyên, người Quảng Đông, làm chức Tổng binh đời Minh, Minh mất, không chịu thần phục vua nhà Thanh, nên quy phục bản triều, đánh Cao Man có công, lại lập phố chợ ở Sài Gòn_xin hiểu là Chợ Lớn ngày nay_chiêu tụ khách thương, người đời sau nhớ công đức lập đền thờ, trong niên hiệu Minh Mạng, Thiệu Trị, đều phong làm thượng đẳng thần, đến nay xã dân phụng tự, hương hỏa như xưa. Có phải chùa ?oTrần Tướng? và ?oTrần tướng quân từ? vẫn là một hay không? Dầu sao hai chùa đã mất tích từ 1885 rồi!).
    Trên một con rạch nhỏ, gần mộ nghĩa địa người Tàu có một cái cầu, gọi ?oCầu Linh Yển?. Yển là một quân sĩ trung thành của Nguyễn Chúa, một hôm cõng vua trên vai, chạy đến đây thì ngộ nạn. Chúa được một lực sĩ thay vai cõng chạy vuột, Yển bị Tây Sơn giết. Chúa Nguyễn thương tiếc lắm, sau tức vị sai dân lập miếu thờ Yển. Trong sách ghi miếu thuộc xóm Tân Thuận, cũng có tên khác là ?oHàm Luông?.
    Gần nơi đây, thuở xa xưa có một gốc me thật lớn, dưới bóng râm có lập một quán chuyên bán bánh nghệ tục danh là ?oQuán Bánh Nghệ?. Cũng vì cây me ấy, nên xóm này gọi ?oXóm Cây Me Mát?.
    Đường Đồng Khánh (Marins cũ) có hai xóm là ?oXóm Cốm? và ?oXóm Chỉ?. Mặc dầu nay đã có tên Việt (Đồng Khánh), đường Marins xưa vẫn có một tên riêng rất thơ là ?oHàng Cháo Muối?, cho đến nay người cố cựu đất Chợ Lớn vẫn quen dùng chưa bỏ. Truy ra ở đây lúc trước có một người Triều Châu khuya khuya gánh ?ocháo muối? (thứ cháo trắng nấu thật nhừ với tấm xay nhỏ, trong cháo lỏng bỏng có vài trái bạch quả, cũng gọi ?obạch quả chúc?. Người Quảng Đông thích ăn cháo muối sau một đêm thức trắng, vì nhẹ tiêu mau khỏe con người.) bán dài theo con đường nầy. Món hàng rẻ tiền, vừa nóng vừa ngon, đã giúp ông ?odanh lưu hậu đại?. Cũng như đường Tản Đà, thuở trước mì cháo đều ngon, có thứ tép lăn bột chiên nguyên con và cháo ?obào ngư? thật ngọt. Ngày nay đã cấm bán rong ngoài đường, những thức ăn khuya đặc biệt nầy mất, và mất luôn ?onhững thú phong lưu? cựu thời của bợm sành ăn!
    Trong kẹt đường Đồng Khánh, gần đầu cầu Chà Và vài ba mươi năm trước, có một lão Tiều gánh gánh bán cháo khô cá hường ăn với cải ?otằng ô?. Đèn nhá nhem, người bu đông đến độ cháo không kịp bán, thêm tuổi vừa đôi mươi ?oăn sắt cũng tiêu?, bàn ghế không có, mỗi người tự tiện lấy húp ngon lành, ngó mặt nhau vẫn quen quen: Cô Ba Trà, ông Cò mi Kính và tớ đây, kẻ còn, người mất, đứa bạc đầu!

    Người yêu ơi dù mai này cách xa, mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng ta.
    Và ta biết một điều thật giản dị, càng xa em ta càng thấy yêu em!
  5. vetgia

    vetgia Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2002
    Bài viết:
    1.347
    Đã được thích:
    0
    h) Cầu Đường, Cầu Khâm Sai, Chùa Cây Mai
    Nay thử bắt đầu từ trong Chợ Lớn kể ra. Về phía bên kia ?oĐường Trên? (Route Haute), lần lượt ta gặp :
    Nghe nói lại, lối năm 1885, thì chợ cũ ở vào xóm nhà Dưỡng đường Chợ Rẫy, nay chỉ còn trơ lại một danh trơn và đây có lẽ là một chợ hồi đời trước, đến trào Pháp lại dẹp đi. Trước Dưỡng đường Chợ Rẫy, xưa kia có một ngôi mộ cổ bằng vôi, kiểu chạm trổ rất khéo, tương truyền là của một ông hầu tước họ Đỗ (Tombeau du marquis de Đỗ). Trường Viễn Đông Bác cổ đã xin liệt kê làm cổ tích, nhưng chủ đất là người có thế lực, một hai xin phá để cất phố xá và viên Toàn quyền Decoux ưng lời, thiệt là rất tiếc cho một cổ tích không có người ủng hộ. Mộ phần họ Đỗ này có dính líu chăng với Tả quân phu nhơn, tên tộc là Đỗ Thị Phẫn. Tương truyền khi Lê Tả quân bị tội, phu nhơn về ngụ nơi xóm Chợ Rẫy, trong một ngôi chùa Phật, do bà mẹ năm xưa đứng tạo lập tục danh là Chùa Bà Dội.
    Từ con đường Cháo Muối (Đồng Khánh) xuống một con kinh, sau lấp đi biến thành đại lộ Tổng Đốc Phương, thì có xóm người ?oMinh Hương?, ngày nay còn sót lại một di tích nguy nga tráng lệ là chùa ?oMinh Hương Gia Thạnh?, tạo lập năm 1788, về sau có tu bổ lại nhiều lần. Chùa này nằm trên đờng Đồng Khánh, day mặt ngó qua Bót Cái Quận Tư (nay đổi làm Quận Năm), trong chùa còn giữ được đạo sắc thần của vua phong (Tài liệu này tôi viết theo nhiều sách cũ nhưng năm 1960, tôi gặp bạn học năm xưa trường Chasseloup là ông Kha Vạn Lượng, làm chủ ban quản trị chùa Minh Hương Gia Thạnh, thì ông cải chính rằng trong chùa không có sắc vua vì đây là ?ongười gốc Tàu nên vua Việt không sắc phong được?. Ông KVL thêm rằng trong chùa thờ hai chữ đại tự ?oLong Phi? là chỉ thờ vua Minh Mạng đó, và nghĩ cho điển này qua lọt mắt người Mãn Thanh vào thời ấy, cũng lạ vậy thay - VHS), cùng bài vị sơn son thếp vàng của các ông Trần Thắng Tài, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Vương Hữu Quang và bút tích liễn đối do tay Trịnh Hoài Đức viết. Đây là một xóm kỳ cựu nhất và hiệp với xóm Chùa Quan Võ, đường Triệu Quang Phục (Quảng Tống Cái cũ), là trung tâm buôn bán của cựu CHợ Lớn ngày xưa. Ông Trương Vĩnh Ký nhắc năm 1885 tại đây có nhiều nhà buôn giàu có, vách xây gạch hai mươi, nnóc có phong tô, lợp ngói lăn ống y một kiểu kiến trúc như bên Trung Quốc, nay xem lại nhiều nhà vẫn y như cũ.
    Các nhà buôn lớn người Tàu xưng ?oTầu Khậu?o, do danh từ (đây là từ tiếng Hoa, đọc âm Hán Việt là ?oThổ khố?, nghĩa là nhà chứa hàng hóa) phát âm giọng Triều Châu Phúc Kiến. Cũng có khi họ dùng danh từ ?oĐại Khố? (đồng một nghĩa với từ trên). Khi khác họ tâng nhau, xưng là ?oTàu kê? (Đại Gia), tỷ dụ như Chà Đen cho vay bạc, tức Chà chetty cũng xưng ?oTàu kê mập?, ?oTàu kê ốm?, Chà bán vải cũng xưng ?oTàu kê bán vải?, thậm chí mụ tú bà cũng bắt gọi mình là ?oMụ Tàu kê? và oái ăm thay, ?ohạng lãnh giấy số ở nhà má? hẳn đòi để treo giá ngọc, cũng xưng mình là ?ocon gái nhà đại gia?, ?ogái Tàu kê? chính cống!
    Mỗi năm cứ đến mùa gió thuận, thì thuyền buôn miệt Sơn Đầu (Swa-tow) chở hàng từ Trung Hoa sang đất Việt đổi chác lăng xăng: cam Quảng (Quảng Đông), cam Tiều (Triều Châu), hồng khô, kim quýt kiểng, hàng lụa Bắc Thảo ...
    Ở gần vùng này, trong sách còn ghi một cái cầu danh gọi Cầu Đường, vì ở xóm bán đường phèn, đường thẻ, đường hạ, đường cát, đường phổi đủ thứ. Cầu Đường này nối liền hai cái chợ:
    - Một chợ nhà ***g hình tam giác, trong chợ bán đủ món, dọc ba bên có tiệm chạp phô Hoa kiều tấp nập (nay nhà chợ đã nhường chỗ cho nhà Bưu điện Chợ Lớn).
    - Một chợ hình chữ nhật, từ Cầu Đường đến đường Thủy Binh, nay trở nên một đoạn của đại lộ Tổng đốc Phương. Và ngày nay Rạch Chợ Lớn cũng gọi Rạch Cầu Đường biến thành đại lộ Gaudot, và nhà ?oThông Hiệp? của Quách Đàm chính ở đây day mặt tiền ra Rạch Cầu Đường (Rạch Chợ Lớn) với cái mộng ?ophong thủy đầu Rồng?.
    Từ Cầu Đường vô Cầu Khâm Sai, trên đường Gò Công, cũng gọi Cầu Khâm Sai hay Cầu Ba Miệng, nhà cửa nối liền san sát xem rất ngoạn mục. Xóm Lò Gốm ở ném về làng Phú Lâm, trên một con kinh thông ra Ngã Tư, đầu kia chạy tới Cầu Khâm Sai, dân trong xóm sanh nhai bằng nghề làm đồ gốm, ngói gạch, chậu kiểng, lu mái, đôn sành để chậu kiểng v.v...
    Tại ngã tư, đầu đường Cây Mai cũ (nay Nguyễn Trãi) xưa có một cái cầu, danh gọi ?oCầu Phố? vì bắc trong con đường ?oPhố Xếp?, là đường Tổng Đốc Phương hiện nay, nơi đây có kinh và nhà Đỗ Hữu Phương, nay kinh đã lấp, nhà họ Đỗ đã bán cho người Tàu dỡ mất và thế vào là nhà phố lầu cao ngất, tửu quán, ciné. Kinh Cầu Phố hồi đó gọi là ?oKinh và Đường Phố Xếp?. Thân trên Chùa Bà (thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu), dọc đường lên Cầu Phố, xưa có một cái giếng, tục gọi nôm na ?oGiếng Chùa Bà? hoặc ?oGiếng Bộng?. Có danh là nước tốt và ngọt hiền nên các nhà văn nhân thuở ấy đặt là ?oGiếng Cam Tuyền?.
    Dài theo bờ kinh từ Cầu Đường trở ra đến Cầu Kinh Phố Xếp, là địa phận làng Quới Đức. Chợ nơi đây cũng gọi là ?oChợ Kinh?.
    Chỗ Nhà Thờ Cha Tam hiện nay xưa là ?oChợ Lò Rèn?, đây là xóm của thợ rèn và thợ kéo chỉ sắt. Vì họ chuyên môn giỏi giắn nên thời ấy đã gọi họ là quân Mậu Tài. Chợ Lò Rèn ở bên kia đầu Cầu Phố. Ngày nay vẫn còn vài tiệm chuyên nghề kéo chỉ sắt và cán kim ngân ra lá, trước cửa tiệm có trưng bày một hay vài cái máy cán, quen gọi là ?obàn cán? (laminoir).
    Lối Đồn Cây Mai có một cái cầu gọi ?oCầu Ông Tiều?. Theo tôi, ?oTiều? đây là ?oTriều Châu? đọc trại đi, vì xóm có nhiều người làm rẫy dân Tiều, chớ không có người tiều phu nào.
    Theo ông Trịnh Hoài Đức, Chùa Cây Mai, tên chữ là Thứu Lãnh Tự, nguyên cất trên một nền chùa cổ Cao Miên, xung quanh có đào ao rộng và sâu, hồi xưa mỗi năm tại đây có tổ chức lễ đua ?oghe ngo? (ghe ngo là ?otúk nguâ? của người Miên dùng để thi đua các làng có chùa Miên) tức là lễ ?ođưa? nước khi cuối mùa làm lúa và ?olễ rước nước? đầu mùa làm ruộng. Dưới đời vua Minh Mạng, chùa được tu bổ lại, tương truyền hai ông Nguyễn Tri Phương và Phan Thanh Giản có lập tại đây một thủy tạ trên có gác cao. Bấy lâu nghe đồn tại chùa có một gốc mai già bông trắng, từng trải mấy phen biến cố, và đã làm đầu đề bài thơ bất hủ sau:
    Vịnh Mai Sơn Tự (Chùa Cây Mai) Phú Lâm
    ?oĐau đớn thay cho Mai cách dưới đèo.
    Mười phần trong sạch phận cheo leo.
    Sương in tuyết đóng cành thưa thớt.
    Xuân đến thu về, sãi quạnh hiu.
    Lặng lẽ chuông quen con bóng xế.
    Tò le kèn lạ mặt trời chiều.
    Những tay rượu thánh thi thần cũ.
    Trông cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu.?

    (Tôn Thọ Tường, bản Khuông Việt, tr.88)
    (Cũng bài thơ ?oVịnh Cây Mai? của Tôn Thọ Tường, tôi thấy còn hai bản khác nữa, tiện đây xin chép ra nhàn lãm. Xin hỏi tại sao một bài văn của Pháp, Trung Hoa như thơ của Victor Hugo, của Lý Thái Bạch thì Pháp, Trung Hoa, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ đều y như nhau một bản, không sai một chữ, còn đến phiên thơ trong Nam như Lục Vân Tiên của cụ NĐC, thơ của Tôn Thọ Tường, thơ của Phan Văn Trị cho đến ngoài Bắc như Kim Vân Kiều của cụ ND, thơ của các ông Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát đều tam sao thất bổn, mỗi ông sao chép đều sửa đổi khác nhau rất nhiều, và chừng nào mới nói chuyện thống nhất các bản văn xưa lại cho học sinh, sĩ tử nhờ?
    Một bài đề Đông Mai Sơn cảm tác ?" số 61
    ?oLắc lẻo thương mai phận dưới đèo,
    Trăm phần trong sạch phận cheo leo,
    Hoa in tuyết đóng nhành thưa thớt,
    Gió thổi hương tàn sãi quạnh hiu,
    Lẳng lặng chuông rung cơn bóng xế,
    Tò le kèn thổi mặt trời chiều,
    Những tay rượu thánh thi thần cũ
    Nhìn cảnh bao nhiêu cảm bấy nhiêu.?

    Bản này sao y nguyên văn trong xấp ?oCổ Thị? trang 42, tập ?oViệt âm văn tuyển? của nhà in J.Viết năm 1919.
    Còn đây là bản của Đông Hồ tiên sinh sao lục, đăng trong ?oBách Khoa? số 76 ngày 1/3/1960:
    ?oCám cảnh Cây Mai cách dưới đèo,
    Mười phần trong sạch phận cheo leo.
    Sương in tuyết đóng cành thưa thớt,
    Xuân tới thu về nỗi quạnh hiu.
    Lặng lẽ chuông quen cơn bóng xế,
    Tò le kèn lạ mặt trời chiều.
    Những tay rượt thánh thơ thần cũ,
    Trông cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu.?

    Dám xin hỏi nội quân tử nhất là Đông Hồ lão huynh dạy cho tôi biết còn bản nào khác nữa chăng và bản nào đúng chính nguyên văn của Tôn Thọ Tường?)
    Đầu xuân năm Canh Tý (1960), thi sĩ Đông Hồ đã đến thưởng bạch mai tận gốc, bận về viết bài ?oTìm dấu bạch mai? đăng trong Bách Khoa số 76 ngày 1/3/1960 trang 23-32.
    Kế đó ông bạn Thái Văn Kiểm có đưa tôi đến ngắm Cây mai ?ocổ tích? và viết tiếp bài ông Đông Hồ ?oTìm dấu bạch mai? cũng trong Bách Khoa số 78 ngày 1/4/1960 trang 51-58.
    Như vậy cũng đã cạn tàu ráo máng.
    Sách Gia ĐỊnh thông chí chép rằng năm 1816, sư tăng tu bổ chùa, nhân đào đất, có gặp dưới nền chùa nhiều thức gạch cũ và ngói cũ kiểu cổ Cao Miên, nhưng tiếc thay thời ấy chưa biết giá trị của những vật ấy nên không để lại dành làm tài liệu khảo cổ.
    Gần Chùa Cây Mai (chữ gọi Mai Sơn Tự, khi gọi Thứu Lãnh Tự) còn một ngôi chùa khác gọi Phụng Sơn Tự, cũng thuộc lịch sử cận kim thời đại. Chùa này gọi tục danh là ?oChùa Gò? vì cất trên một gò nổi cao, chung quanh nước bao bọc, quả là di tích của một nền chùa cổ Cao Miên. Hỏi thăm, một ông đạo trong chùa nói xưa có đào được một đại hồng chung của người Miên; tôi lấy làm ngờ vì người Cao Miên tu đạo Phật không dùng chuông như ta. Có chăng thì sách ghi lại rằng tại một nền Chùa Gò có đào gặp một khúc tay Phật đá, kiểu Miên, nhưng cũng không biết để dành khảo cứu. Vùng Cây Mai và Chùa Gò đáng được các nhà khảo cổ chú ý nhiều nếu muốn sưu tầm gối Prei Nokor.
    Còn chỗ tòa Hành chánh Chợ Lớn, xưa thuộc huyện Tân Long. Ngoài vòng rào tòa Hành chánh có con đường rải đá chạy bọc theo hông Chùa Chà Và đạo Hồi, mấy năm trước còn mang tên ?orue des Clochetons?. Đó là con đường xẻ chạy thẳng vô Chùa ?oKiểng Phước? cổ tự. Năm 1860 binh ta lấy chùa Kiểng Phước làm ổ kháng chiến chống giặc Pháp. Năm 1866 chùa đã điêu tàn vì bị dỡ phá, chỉ còn chút phương danh trong lịch sử kháng chiến mà thôi. Truy ra vị trí chùa này nằm lọt giữa con đường Maréchal Foch (nay là đường Nguyễn Văn Thoại), còn một phần lớn lại ở về lô đất bông đồ mới số 20 và 23 ngang ngang lại với trường học con gái (bông đồ 21) thường gọi ?oTrường Bà Đầm?.

    Người yêu ơi dù mai này cách xa, mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng ta.
    Và ta biết một điều thật giản dị, càng xa em ta càng thấy yêu em!
  6. vetgia

    vetgia Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2002
    Bài viết:
    1.347
    Đã được thích:
    0
    i) Trở về Chợ Quán
    Tân Kiểng, Nhơn Giang (trước 1885 mang tên Nhơn Ngãi), Bình Yên là tên ba làng xưa, sau sáp nhập làm một là vùng CHợ Quán. Trước kia, nơi đây có làng Thợ Đúc, trong một bản đồ đính theo tập nhỏ này gọi ?oancien village des fondeurs? ?" dân trong làng chuyên nghề trau lư đồng có tiếng, nổi danh một thuở, không kém lư Chợ Gạo (Phú Lâm). Gọi là ?oChợ Quán? vì thuở trước chợ nhóm họp dưới gốc những cây me đại thọ lối nhà thương Chợ Quán hiện nay. Chung quanh chợ có nhiều quán xá lốc cốc tựu một chỗ nên đặt tên làm vậy.
    Mấy mươi năm về trước, có một phú ông, sanh trưởng tại Chợ Quán di cư xuống miệt Sóc Trăng khai phá, làm ruộng lớn, lập nên sự nghiệp đồ sộ, về già thâu tóm của cải và tạo lập tại đường Trần Hưng Đạo một ngôi nhà hùng vĩ lấy tên là ?oVilla Nhơn Giang?, để nhắc lại tên xưa làng cũ. Tôi còn nhỏ không biết, mỗi lần đi ngang đều cười thầm hai chữ ?oNhơn Giang?. Sau này, chủ nhân mãn phần, gặp năm kinh tế khủng hoảng, hội ?oĐức Trí Thể Dục? đấu giá mua lại rất rẻ, nhưng không biết vì sao lại lọt vào tay quân đội Nhật đến ở, rồi chuyển lần sang quân đội Pháp đến chiếm, mãi đến khi trở nên trụ sở cơ quan cố vấn quân sự Mỹ. Đến đây là dứt hay còn thay đổi chủ nữa? Phải chăng vì nhà choán chỗ nền cũ Chùa Miên nên không ai cầm giữ được lâu bền? Hỏi thì ló mòi dị đoan, nhưng không hỏi không được! Ngôi nhà này tọa lạc trên một cuộc đất cao ráo, trong sách ông Trương Vĩnh Ký viết năm 1885 đã bày rõ vẻ cổ tích của vùng đất này, sau Viện Bảo Tàng đến đào và tìm gặp nhiều tảng đá to kiểu Cao Miên, hiện đem về đặt ngoài hành lang Việt, xem lại hình như đó là táng cửa, táng cột phướn Khmer và định chừng nếu có dịp đào đất chỗ này, may ra còn gặp cổ tích Prei Nokor nữa.
    Ngang tòa nhà cũ ?oĐức Trí Thể Dục?, có một ngôi nhà lầu không kém vĩ đại và có liên quan đến cổ tích Cổ Sài Gòn. Nhà xây cất trên nền nhà xưa của học giả Trương Vĩnh Ký tiên sinh, ngoài cửa, chục năm về trước, còn thấy gắn một bảng đá biên rành mạch sự tích này, nhưng nay không rõ vì sao đã dẹp không còn treo nữa? Chủ nhà này (quý danh là H.M.Ph.) là một người đàn bà có chí lớn và có sự nghiệp ruộng đất mênh mông vùng Sóc Trăng quê tôi. Hôm nay tôi tưởng niệm bà là người mua sắm đồ sứ cổ trước nhất trong Nam và bà quả là người có ngọc nhỡn trong khoa chơi cổ ngoạn. Năm 1940, Nhật đổ bộ vào đây, trước tiên đến chiếm cứ ngôi nhà này, đặt làm trụ sở và trục xuất bà. Nhật bại binh, ngôi nhà này sang tay quân đội Pháp, mãi đến nay tang thương biến đổi, gia chủ đã lìa trần, ngôi nhà thay chủ, trở nên một xưởng dạy đóng giày và may quân phục... Bây giờ là trại Yên Thế. Cố chủ đã mất, không rõ những đồ xưa quý giá dời giấu lúc loạn ly nay còn gìn giữ nguyên vẹn hay chăng?
    Nhắc đến bà, khiến tôi nhớ lại một buổi sáng năm 1939. Lúc ấy bà còn sõi lắm, tuổi tác trên 80 mà nhanh nhẹn như người cỡ lục tuần. Sáng hôm ấy, tôi đến gõ cửa nhờ báo tin có khách muốn xem đồ cổ ngoạn. Đến khi tôi trình diện, bà thấy tôi còn nhỏ tuổi, bà hơi ngại dạ, nhưng đẫ hứa lỡ, bà cũng chẳng đã ừ hữ có chừng. Sẵn bà ngồi rửa mặt, bà đưa tay chỉ sơ những món chưng bày gần chỗ bà ngồi cho tôi xem, tức những món để nhà bếp! Tôi rảo một vòng, thấy nào chóe lớn, tô xưa đủ cỡ, cái nào cũng khá, cũng coi được. Xem rồi, tôi định kiếu từ, nhưng nãy giờ tôi không dè chừng bà để ý từng cử chỉ, từng lời bình phẩm. Độ chừng không chướng tai bà lắm nên bà sai trẻ mở rộng cửa nhà trên lúc nào tôi không hay biết, khi tôi cáo thoái bà không cho, mời tôi bước thẳng lên thưởng thức đồ sưu tập chính thức. Đây mới quả là một bộ môn có giá trị, gồm đủ các loại: be, bầu, ngõng, hũ, chóe, nai, nậm, nhạo, vò, chum v.v... cái nào cái ấy toàn hảo xinh tốt thật cổ, thật quý, đáng gọi đồ sưu tập danh bất hư truyền. Tôi xem mãi không biết chán, day lại thấy mắt bà lóng lánh vui vui. Nhưng ngày giờ có hạn, tôi không dám lợi dụng lòng tốt của bà nên xin kiếu một phen nữa. Phu nhân không nghe, mời lên lầu xem nốt những đặc phẩm thuở nay ít cho mắt người lạ ngó vào. Ban đầu, tôi cũng tưởng vị lòng phu nhân lên xem lấy lệ, nhưng khi vào được ?otháp ngà chứa toàn bảo vật? này, tôi mới hiểu tôi tốt phước bậc nào! Làm sao tả được những cái khéo cái lạ chứa trên lầu của phu nhân? Hạt hổ phách lớn bằng trái mù u chưa lột vỏ! Ngọc mã não tiện tròn làm hạt chuỗi Bồ đề, nhưng khoét bộng ruột để chứa thuốc độc (nghe đâu đó là chuỗi thánh trị gia đời Tự Đức thường đeo hộ thân, phòng khi ngộ biến lấy đó hủy mình, khỏi lậu cơ mưu, và cũng không cho tục nhân xâm phạm quý thể). Còn đây là bộ chén trà bằng ngọc lưu ly, nếu rót nước vào thì vun chùn như miệng chén lên be thêm; còn kia là bầu thủy tinh trong suốt, lóng lánh chói như hạt sương gặp nắng; này là đấu rượu bằng sừng tê giác (nôm gọi u tây) chạm rõ khéo, tuyệt đẹp. Mà đẹp nhất, quý nhất có lẽ là hai tấm cửa bật để che gió: khuôn vành bằng trắc ?ohổ bì? vân mun vằn vện rất lạ mắt; mặt khảm ngọc thạch nguyên miếng và cẩm thạch màu xanh lục ?ophỉ thúy?, một bên thì chạm ?okỳ sơn dị thảo?, một mặt khắc bài thi, toàn ?othi ngự chế, ngự bút? vua Càn Long, nội mấy tấm ngọc này, giá thử lấy ra làm trang sức phẩm thì không biết bao nhiêu tiền. Nơi giữa nhà, dựa theo hai cột cái, chưng hai lộc bình to tướng, men lam chấm ?osơn thủy?, cái nào cái nấy sức tôi ôm không giáp và cao còn chút xíu nữa đụng trần nhà, cả hai không tì không vết, không khờn cũng không mẻ, mới đáng gọi là của vua của chúa gì đây! Nhưng theo ý tôi, những món này tuy quý lạ, vẫn không làm cho tôi say mê bằng mấy bộ chén trà và tô uống trà, có thơ nôm hoặc hiệu đề đúng vào những năm đi sứ của sứ bộ Nguyễn triều, hoặc những bình tích ?oMạnh Thần?, ?oThế Đức?, thật cổ thật xinh, thuở nay tôi chưa từng thấy ở đâu có nhiều và có đẹp như ở nhà này. Xem không mãn nhãn, nhưng phu nhân bản thân hướng dẫn, sớm giờ đã quý lắm rồi, tôi kiếu từ, bà dặn với bảo tôi khi nào rảnh trở lại tiếp xúc với các công tử và ráng giùm giảng giải nghĩa các cậu nghe rằng mua sắm đồ cổ không phải là đem tiền vứt sông vứt biển! Lúc từ giã, tôi có cảm giác sống cảnh ?oCao Thiên Tứ viếng nhà Lưu Dung? tả trong truyện Tàu ?oCàn Long hạ Giang Nam?. Cao Thiên Tứ là tên giả của vua Càn Long, xưng tạm trong khi đi chơi miền Nam, viếng nhà Lưu Dung, thấy biển đề năm chữ ?oTHIÊN HẠ ĐỆ NHẤT GIA?, vua không bằng lòng nên tự tìm hiểu trước khi phán đoán. Nhà năm ngăn bảy nắp có vòng tường bao bọc không khác cung điện của nhà vua. Vào nhà trước gặp cháu nội Lưu Dung, còn học sinh, chưa biết gì. Vô nhà tầng nhì gặp con trai họ Lưu, cũng ú ớ không trả lời được. Nhập vào tầng thứ ba gặp em Lưu Dung và tầng thứ tư gặp cha của Lưu Dung, đều ấp úng cắt nghĩa không gãy gọn năm chữ vàng nọ. Duy khi đến đại thính đường gặp một lão trượng đầu râu bạc phếu, dáng điệu thanh kỳ, đây chính là ông nội của thừa tướng Lưu Dung. Oâng giải rằng ông được tám mươi mốt tuổi, ăn lễ bát tuần thượng thọ, anh em trong xóm thấy nhà ông năm đời khoa giáp nối tiếp không dứt, phú quý vinh hoa tột phẩm, thêm trường thọ sum vầy, nên đi tặng ông tấm biển sơn son thếp vàng ?oTHIÊN HẠ ĐỆ NHẤT GIA? ấy. Cao Thiên Tứ nghe rõ tự sự, gật đầu nhận thầm rằng năm chữ vàng rất xứng và không có chi là phạm thượng. Tôi đứng lại kể sự tích này cho phu nhân nghe, không dám tự ví mình với Cao Thiên Tứ hoặc với ông hoàng đế phong lưu nhà Mãn Thanh, nhưng nhấn mạnh nơi chỗ nhà phu nhân kể từ nhà bếp, nhà dưới lầu trên không khác mấy đời thế phiệt, câu ?oTHIÊN HẠ ĐỆ NHẤT GIA? sánh với chỗ này không chi là ép gượng. Phu nhân không trả lời, đứng trước thềm nhà tiễn tôi, hai hột kim cương nơi trái tai runh rinh lóng lánh. Dè đâu đó là buổi chót! Nay bảo ngọc trân châu quý đến mấy phu nhân cũng chẳng màng bao, mấy hàng tưởng niệm thành kính này phu nhân cũng không bao giờ đọc!
    Trở lại câu chuyện làng Chợ Quán, từ đường Nhà Thương đi đến một cái ao lớn, chỗ này mới đúng là làng Thợ Đúc năm xưa.
    Gần ngôi nhà lầu Đức Trí Thể Dục, còn dấu tích một xóm cổ người Miên, hiện nay trong xóm còn một gò đất cao hơn mặt đường cái, khách đi trên đường Trần Hưng Đạo dòm vào thấy cao ngùn ngụn, đây là nền chùa và xóm Thổ đời trước. Thỉnh thoảng dân cư còn đào gặp gạch cũ kiểu Cao Miên, và cách nay mấy chục năm Viện Bảo tàng có sưu tầm tại chỗ, nào Phật đá nhỏ, Phật đồng đủ cỡ, đồ từ khí lụn vụn, đặc biệt là một đèn đồng xưa hình hoa sen, trổ tượng một nô bộc chân quỳ, hai tay bưng thiếp dầu; thêm có ba tảng đá lớn mòn lỳ, độ chừng đây là ngạch cửa chùa Thổ đời xưa. Các vật này hiện đem về lưu trữ tại Viện Bảo tàng để làm dấu tích ?oCổ Sài Gòn?, một mớ thu xếp theo hành lang, một mớ để trong tủ kiếng Trung đường.
    Từ làng Nhơn Ngãi (sau đổi Nhơn Giang) tới giáp đường Cầu Kho, xưa kia nhà phố đông đúc lắm, mỗi nhà chung quanh đều có vườn tược cây trái xum xuê. Gần đây có một xóm nguyên là của những người ăn mày khi trước. Thuở Nguyễn Aùnh tỵ nạn trong Nam, bọn này có công cứu giá. Theo khẩu truyền, bữa đó binh Tây Sơn truy nã ngặt lắm. Tưởng vua khó thoát chết. May sao chạy đến đây, bọn ăn mày ra tay ủng hộ. Một mặt họ chỉ đường cho vua ăn nấp. Một mặt họ xúm lại người đánh trống kẻ đập thùng ... làm phở lỡ thế nào, binh tướng Tây Sơn ngộ tưởng binh mã Chúa Nguyễn tụ tập nơi đây đông lắm, e quả bất địch chúng, nên họ rút lui, Nguyễn Aùnh thoát nạn. Về sau nhớ ơn xưa, Gia Long cho phép lập xóm này ban cho ba chữ ?oTân Lộc Phường?. Chỗ này, truy ra trước kia là ruộng lúa của người Miên trồng trọt, đủ biết hồi đời đó, dân thưa đất rộng đến bậc nào.
    Qua tay Nam trào, dân ta bồi ruộng thành đất nền và đào một con kinh để lấy đất lấp nền, dân trong xóm làm một cây cầu lấy tên ?oCầu Gạo?, vì trong xóm chuyên bán gạo. Cách đó không xa có một xóm bán lá lợp nhà, tục danh ?oXóm Lá Buông?. Xóm Lá Buông ăn thông qua đường Boresse cũ, giáp lại với Xóm Cầu Quan đã có nói rồi.
    Xóm Lá Buông nay biết được vị trí của nó nhờ trong sách có ghi rằng nơi đây có một khúc đường danh gọi ?oĐường Nước Nhỉ?. Đường này xét ra ở giữa đường đi Chợ Lớn đầu này trở ra Bến Thành, mé ngoài là chợ Kim Chung (Kim CHương), mé trong là ?oXóm Cây Da Thằng Mọi?. Tài liệu này tôi gặp trong chú thích ghi dưới bài ?oGia ĐỊnh vịnh? bản in Trương Vĩnh Ký 1882.
    Theo một chỗ khác trong diễn văn đọc tại trường Hậu Bổ 1885, ?oSouvenirs historiques?, chính cụ Trương Vĩnh Ký cắt nghĩa thêm rằng: ?oĐường Nước Nhỉ? có cái tên làm vậy vì thường thường đường này bị ngập lụt, tứ mùa ẩm ướt. Nếu ai còn giữ bức địa đồ xưa nào, xin tìm hộ con đường Nước Nhỉ, theo cụ Vĩnh Ký thì ở vào lối khoảng đất đi chưa tới Sở Nuôi Ngựa (Haras) của nhà binh và Đồng Tập Trận (Plaine des tombeaux), từ vườn Bà Lớn (Phan Thanh Giản) ngó qua Trường Đua cũ, cánh Đồng Tập Trận ăn thông đến Xóm Lách, trên đường Yên Đỗ, chạy ra sau nhà cũ Blancsubé, vì nhà này thường được nhắc đi nhắc lại trong bài khảo cứu của cụ Trương Vĩnh Ký. Nay định chừng thì nhà Blancsubé vốn ở lối đường Lê Văn Duyệt (Verdun cũ) giữa chặng thành Ô Ma (trụ sở Công an và Cảnh sát) chạy lên Chợ Đũi. Con Đường Nước Nhỉ phải chăng nay là con đường Cống Quỳnh ăn qua đường Phạm Ngũ Lão? Đường Cống Quỳnh trước kia là con đường Blancsubé sau đổi làm rue d?TArras.
    Để nhắc lại đây là một danh từ ?olà lạ? xưa thường dùng mà không nghe nay nói nữa, danh từ này thoạt nghe như có tính cách tục tĩu đó là hai tiếng ?oCầu Khấc?. Theo cụ Trương Vĩnh Ký xưa có đến hai cái cầu trùng tên như vậy: ấy là ?oCầu Bà Châu? (phải chăng Bà Lệ Châu thờ làm tổ của những người thợ bạc thợ vàng Chợ Lớn?) và một cầu khác nữa là ?oCầu Khấc? ngoài chợ Cầu Kho đi lên Đường Nước Nhỉ nói trên.
    Trong ?oGia Định vịnh? có câu:
    ?oTrên cây Da Còm, nỡ để ông Già gùi đội;
    Dưới đường Cầu Khấc, chỉ cho trẻ con lạc loài?
    Hai câu này dạy ta hai việc:
    - Một là người xưa tánh tình chất phác thấy sao nói vậy, không hiểu nghĩa đôi ba, thanh ý tục, không kỵ cữ tiếng trùng âm như bây giờ;
    - Hai là bởi quá say mê văn biền ngẫu, mỗi câu đều muốn đối chọi, chơi chữ, thành thử tối nghĩa. Đại ý như hai câu trên là:
    Câu thứ nhất nhắc ?oCây Da Còm? nảy ý nhớ đến cảnh ?oOâng Già? gùi đội trong đèn dầu ?oThằng Mọi chân quỳ?, hoặc văn vật, nhớ câu ?oLão giả bất phụ đái ư đạo lộ? (lời Thầy Mạnh), ý muốn nói hễ nước nhà thịnh trị thì ?oông già không gùi đội?... (gùi đội là mang đội).
    Câu nhì nói ?oCầu Khấc? thị tứ, trẻ con có thể lạc đường... (câu này theo tôi không có cũng được).

    Người yêu ơi dù mai này cách xa, mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng ta.
    Và ta biết một điều thật giản dị, càng xa em ta càng thấy yêu em!
  7. vetgia

    vetgia Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2002
    Bài viết:
    1.347
    Đã được thích:
    0
    j) Gần Dinh Độc Lập
    Tòa án hiện nay và trường Pháp Chasseloup cũ, đều ở ngoài thành lũy. Dinh Tả quân (trong vài sách Pháp họ viết ?oTả quân? là ?ole Ta kun?) phu nhân ở vòng rào dinh Thống Nhất (dinh Độc Lập - 1960) ngày nay.
    Xa một độ thì có ?oNhà Hoa?, tức là chốn dành cho Tả quân đến thưởng hoa giải muộn. Nhà hát bội, trường bắn ná cũng của Tả quân, nền Xã tắc đều ở vùng này. Xóm Lụa (dệt và bán lụa) cũng ở gần đây. Còn con đường Hồng Thập Tự chạy đến Sở Nuôi Ngựa cũ thì có ?oXóm Thuẫn?, ?oXóm Chậu?, ?oXóm Củ Cải?.
    ?oChợ Cây Vông? thì ở lối nghĩa địa đô thành ngày nay ăn giáp tới Cầu Bông. Theo ông Trần Văn Học là ông quan đàng cựu đời Gia Long có công vẽ ra bản đồ thành Sài Gòn thời ấy (1815) thì Cầu Bông, trước kia gọi là ?oCầu Cao Miên? (theo ?oMonographie de la province de Gia Dinh? thì năm 1833, lúc đánh với giặc Khôi, ông Trương Minh Giảng ra lệnh đốt cầu Cao Miên) sau đổi là ?oCầu Hoa? (gọi làm vậy vì đây là ?ohoa viên Lê Tả quân?) rồi vì húy tên một bà phi tần của đức Minh Mạng nên gọi ?oCầu Bông? cho đến ngày nay.
    Còn trên đường Trưng Vương, có một cái cầu gọi là ?oCầu Xóm Kiệu? sau gọi tắt ?oCầu Kiệu?, nay còn giữ tên y như trước.
    Qua khỏi ?oCầu Kiệu? thì tới chợ Phú Nhuận, tục danh xưa là ?oChợ Xã Tài?, (mả ở đường Công Lý nay đã cải táng). Làng Phú Nhuận, theo cụ Trương Vĩnh Ký, xưa sung túc lắm, trong làng đếm đến bảy mươi hai kiểng chùa, nay đâu còn?
    k) Qua bên Thị Nghè
    Thì gặp hai cầu : ?oCầu Sơn? ở vùng đình Cầu Sơn và ?oCầu Lầu?.
    Cũng tại Thị Nghè, trước nhà thương Dưỡng lão, có một khoảng ruộng công điền, xưa gọi là ?oTịch Điền?, mỗi năm Lê Tả quân đều có đến khai ?olễ hạ canh? làm gương cho nông phu bắt đầu mùa năm mới, kế bên sở ?oTịch Điền? có cái đền ?oThần Nông?, nay nhà cửa dân cư đã xâm nhập mất dấu.
    Theo cụ Trương Vĩnh Ký, lối năm 1885, gần rạch Thị Nghè đổ ra sông Sài Gòn, có một miếu thờ Đức Thánh Khổng Phu Tử, nay cũng không truy đúng ra ở nơi nào (trong phần chú thích ?oGia Định vịnh? có ghi Văn Thánh Miếu, xưa ở đường Cầu Thị Nghè qua Cầu Sơn, Cầu Lầu, khúc vòng nông, thân trên Rạch Bà Nghè). Theo nguyên văn câu này đó ai biết Miếu Văn Thánh nay ở vào đâu?
    l) Trên đường Cao Thắng
    Gần Tam Tông Miếu, mấy năm về trước còn thấy một ngôi mộ xây ô dước to lớn, vì chồm ra lộ cái quá nhiều nên bị cải táng. Hỏi ra đó là mả Huỳnh Công Lý. Công Lý là quan to có con gái hầu đức Minh Mạng, được vua sủng ái nên hay cậy thế ỷ thần. Theo cụ Trương Vĩnh Ký chép lại, Lê Tả quân mắc ra chầu vua ngoài Huế, Công Lý ở lại Sài Gòn, có làm nhiều điều ngang dọc và dường như có xúc phạm đến một cô hầu của Tả quân. Khi về Quan Lớn Thượng hay được cả giận bèn tâu tự sự lên Minh Mạng. Oâng ua này có ý binh vực cha vợ nên hạ chỉ giải Công Lý ra Kinh đặng dễ bề tha tội. Tả quân biết trước, sẵn có trong tay Thượng phương Kiếm được quyền ?otiền trảm hậu tấu? bèn chém đầu Huỳnh Công Lý (Huỳnh Công Lý, sanh tiền cậy thế ?oquốc trượng? làm nhiều điều ngang ngược, chết bị xử trảm. Còn lại nấm mồ, công vua xây, tưởng đâu êm ấm, ngờ đâu mấy chục năm trước, chính mắt tôi trông thấy người trong xóm lên án bằng cách phóng uế, xú khí bốc lên đêm ngày, kịp khi mở đường Cao Thắng, lưỡi cuốc vô tình lật nắm xương lên, dời qua quách nhỏ vùi một nơi nào nay không biết được, thảm làm sao! Chẳng qua tại lòng Trời, tự mình muốn khói hương tồn tại như ai nào được.), sai quân đóng thùng ướp muối, gởi thủ cấp về Kinh, trên nắp thùng viết mấy chữ: ?oPhụng Thừa Thánh Chỉ, xử trảm tội nhân?. Minh Mạng thấy sự đã rồi, trong lòng căm giận nhưng không làm gì được Lê Công. Sau Bố chánh Bạch Xuân Nguyên đem chuyện này ra kết tội khi quân cho Lê Công và vu thêm nhiều tội lớn nữa. Vì vậy mới có giặc Phó Vệ úy Khôi làm phản, giết Bạch Xuân Nguyên, chiếm cứ thành Sài Gòn cố thủ được ba năm. Năm 1834, Khôi đau bịnh rồi chết, bình định xong giặc Khôi, Minh Mạng sai phá bỏ thành Sài Gòn, và năm 1836 xây lại cái thành khác nhỏ hơn bằng vật liệu sẵn như đã nói rồi đoạn trước.
    Thuở ấy trong dân gian có câu hát:
    ?oBao giờ bắt được giặc Khôi.
    Cho yên việc nước chồng tôi đặng về.?
    Khôi có hai phó tướng giúp sức, là ông Hoành (tú tài) và ông Trấm. Hai người ăn ở ngang tàng, ai ai cũng sợ họ. Ngày nay, mỗi khi gặp người quá ngang ngạnh, bực tức quá thì người dân Sài Gòn Bà Chiểu thường nói:
    - Cha! Bộ nó là ông Hoành tái thế sao mà?
    - Mấy cha đó, đâu cũng là ông Hoành ông Trấm chi đây!

    As I look back on my past, I remember the tears I cried, the jokes I laugh at, the things I missed and lost, but there's one thing I'll never regret: it's the day you came into my life!
  8. vetgia

    vetgia Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/10/2002
    Bài viết:
    1.347
    Đã được thích:
    0
    V ?" PHẦN THỨ NĂM
    Cổ tích chung quanh Sài Gòn Chợ Lớn

    Trước năm 1954, lăng miếu cổ tích trong Nam được Trường Viễn Đông Bác Cổ giao phó cho quản thủ Pháp của Viện Bảo Tàng Sài Gòn chăm nom. Đến năm 1954 thì Pháp giao quyền lại cho Viện Khảo cổ Việt Nam quản thủ. Trào Pháp bơ thờ không lưu tâm nhiều tới cổ tích trong Nam, chê không cổ như đền Đế Thiên (Cao Miên) lại không thuần túy như các đền chùa ngoài Bắc (Bút Tháp) hoặc ở miền Trung (chùa Thiên Mụ). Khi làm sổ liệt kê vào sách mục lục cổ tích, họ bỏ sót rất nhiều; nay Chính phủ ta chưa chỉnh đốn kịp, nên có nhiều người thừa dịp mua rẻ đất thổ mộ, vận động xin phép được cất nhà rồi xin bốc mả cải táng. Nếu Chánh phủ không khéo ngăn ngừa kịp lúc thì chẳng bao lâu nữa, chung quanh Sài Gòn tuy có vẻ phong quang hơn nhưng các cổ tích sẽ theo lưỡi cuốc vô tình của thợ xây nền nhà mà lui vào dĩ vãng hết. Nhiều lăng mộ có vẻ hùng vĩ, có thể nên để lại làm kiểu mẫu cho khoa kiến trúc lấy đó biết được cách thức bắt chỉ phong tô kiểu vở thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Không khéo ủng hộ và duy trì kịp thời, thì miền Nam có tiếng là rất nghèo về mỹ thuật và cổ tích, sẽ nghèo nàn về mỹ thuật và cổ tích hơn nữa, một phần lỗi là chưa làm sổ tu chỉnh liệt kê và bảo tồn cổ tích được chu đáo hơn.
    Đường Công Lý nối dài, mé tay mặt khi ta đi từ Sài Gòn lên sân bay, cách nay lối hai mươi lăm năm, có một người ngoại kiều mua một sở đất trên có một ngôi mộ lâu đời không có ai nhìn nhận cả. Đơn xin bốc mả không ai ngăn trở. Quá hạn kỳ chủ đất thuê người phá mộ. Gặp một mão bằng vàng, một sợi dây đai cũng bằng vàng, nút áo cũng bằng vàng, lược giát đầu bằng đồi mồi còn nguyên vẹn, cũng bịt bằng vàng nốt, đem ra cân thử, cân được trên một ký lô vàng ròng (lối 30 lượng). Báo đồn rùm lên, chừng ấy mới thấy một người cháu họ ra mặt, nhờ trạng sư đem vụ ra tòa phân xử. Tòa phú cho tham biện Pháp tỉnh Gia Định điều tra. Ông Dufour là người ngay thẳng, làm phúc trình trả lời; việc lâu năm tôi không còn giữ được nguyên bản, nhớ mại mại có câu như vầy:
    ?oNên lập ủy ban cân kỹ lưỡng các món đã tìm thấy trong mộ. Hãy định theo giá thị trường, đổi ra bạc băng, ký quỹ vào kho cung thác sở (caisse des dépôts et consignation) chờ lịnh tòa. Nếu người khiếu nại có đủ bằng cớ chứng minh mmình là con cháu chắt của kẻ bạc phước nằm dưới nấm mộ kia, thì cho y lãnh của ấy về (đã tính ra tiền). Nếu chứng cứ không minh bạch, khi ấy sẽ tùy Tòa định đoạt. Dầu chi đi nữa, những trang sức phẩm tìm được, nên ký thác cho Viện Bảo Tàng sở tại triển lãm cho bá tánh xem? Vì tánh chất công cộng nên không tính ra bạc số tiền công làm nên món đồ. Chúng ta, người Pháp, đã mang tiếng nhiều rằng ?ođến đây với danh hiệu kẻ đi cướp nước?. Không nên vì một lý do gì mà tư vị, ủng hộ bất chánh một ?otiểu bối? ?oăn cướp hạng nhì? mượn danh đại Pháp, bóc lột người bản xứ!?
    Tiếc thay, Việt Bảo tàng không có phần. Các bảo vật ấy về Viện không bao lâu, kế gặp chiến tranh, ông quản thủ Pháp cất kín các vật trong một tủ sắt kiên cố, chở tủ ấy xuống gửi tại tòa hành chính tỉnh Long Xuyên, tưởng vậy là chắc, không dè đến năm 1945, một nhóm người xâm đoạt luôn cả tủ cả bảo vật, Viện Bảo tàng mất hết không còn món nào.
    Đây là một vụ thứ hai về phá mộ xưa. Hôm ấy nhằm ngày 16 tháng 11 năm 1953. nhân danh đại diện quản thủ Pháp Viện Bảo tàng Sài Gòn, tôi đến làng Hòa Hưng, vào một ngõ trong hẻm chi nhánh đường Lê Văn Duyệt (CMT8) coi cho người ta bốc một ngôi mả vôi vô thừa nhận, để đất trống cho tân nghiệp chủ tiện xây cất nhà cửa. Mộ này đã bị phá từ mấy ngày trước chỉ chừa cái hòm chưa cạy nắp, những chi tiết quan trọng, mộ bia, liễn đối đều không còn nên không làm sao rõ được chức phận, phẩm tước của người quá cố. Duy thấy chiếc quan tài bằng cây huỳnh đàng mà đoán địa vị người ấy khi xưa ắt cũng lớn lắm, giàu có lắm. Gỗ trai, huỳnh đàng, người mình thích đóng hòm cũng phải. Cứ bằng chứng nơi chiếc quạt tre phất giấy dầu trong tay người chết, quạt còn xòe được như mới, chữ còn sắc sảo vì viết bằng một chất phấn kim khí sáng sáng như chì rõ ràng đề ?oGia Khánh đệ ? niên? (Gia Khánh Hoàng đế cua Mãn Thanh, trị vì xứ Trung Hoa từ năm 1796 đên năm 1820. Người chết đem theo quạt ?oGia Khánh?, lấy đó mà suy cứu định cho những năm này, còn chưa ngã ngũ, niên hiệu ?oGia Long? chưa được nhìn nhận chính thức. Mà nếu vậy tại sao không dùng niên hiệu ?oCảnh Hưng? đời Lê, khó hiểu vậy thay?) thì đoán hòm chôn đã được tròm trèm một trăm năm mươi năm rồi, thịt rã nát thành đất đen. Xương còn nguyên nhưng thâm xì, nhưng lạ thay, trên trán còn rõ ràng một miếng da người thấy lỗ chân lông nhầy nhầy nhìn còn được, cạnh gò má xương màu đỏ đỏ như nhuộm máu, buột miệng anh cò lai hôm ấy thốt ra một câu tôi nhớ mãi: ?oaccident d?Tauto?. Quên nói hôm ấy có một ông bác sĩ và một phó cảnh sát trưởng đến chứng kiến với tôi vụ cải táng này. Và trong ý anh cò lai, vì chưa thấy chiếc quạt ?oGia Khánh? nên đinh ninh thây ma nằm đó chắc của một người mới chết gần đây vì tai nạn xe cộ, ô tô húc mà thôi! Mà lạ thật! Những cái gì cho ta trường cửu, thì trở nên tro bụi: vàng xi, nút áo bạc, mấy nút bằng pha lê biến thành chai (verre). Trái lại, những vật ta cho rằng mau mục, mau tan rã còn lại ràng ràng như mới: vỏ cau ăn trầu, chiếc chiếu lót dưới người chết còn đủ màu nhuộm ô xanh ô đỏ, thậm chí giấy tiền vàng bạc còn phân biệt để nguyên xấp, bên vàng bên bạc rành rạnh, không hư; trong tay, như đã nói, cầm chiếc quạt ?oGia Khánh? gói trong vuông khăn nhiễu điều, cây quạt này xòe được lúc trong hòm lấy ra, đến cái chốt nan quạt cũng chẳng hề hấn gì (duy sau này cất để đến nay, giấy quạt khô trở nên giòn không mở ra được nữa). Trên bụng còn một gói, giở ra là trầu, thuốc xỉa (thành tro bụi), cau ăn, xác còn cứng chắc, một ống bạc đựng vôi đã hen rỉ, cả các món đựng trong một đãy trầu bằng gấm có thêu kim tuyến ràng ràng, một khăn đỏ khác gói hai cây viết lông, quản bút bằng trúc mới tinh, ngòi bút bằng lông mềm mại, khi lấy trong hòm ra, ước chừng lấy chấm mực viết như chơi, nhưng ra ío giây lát sau thì lông bút rớt ra khỏi quản. Ngay chỗ háng, giữa xương hai đùi, có một chùm lông rõ rệt. Râu đen, tóc dài đều còn nhưng sau râu lại nhét vào mồm, không để tự nhiên dài che cổ, ngực? Phong tục này xin hỏi các bậc lão thành. Răng nhuộm đen, chứng tỏ người chết là người Việt gốc gác không miền Bắc thì miền Trung, đầu chít khăn quấn tay, áo mặc nhiều lớp chồng lên nhau, vẫn còn nguyên xé nghe tèn tẹt. Chiếc lược đồi mồi vẫn chưa mục, và hai món này: khăn, lược chứng tỏ cho ta biết người quá vãng không có phẩm tước triều đình (nên không đội mão). Dầu chi cũng là một người phong lưu khác giả nên có đem theo bút lông, cây xỉa răng bạc, cây móc tai dát vàng và bao đựng thuốc xỉa, thuốc hút, đãy đựng trầu ăn. Oâ hô! Giàu sang một đời, nằm xuống đất nay đã gần một trăm năm mươi năm, thế mà chưa được yên thân! Cháu con lâu đời át đã lui về quê cũ Bắc hoặc Trung, còn sót những đứa ở lại đây, một nắm xương tàn đối với chúng sao trọng bằng tiền bạc nên chúng đã ký tên bán đất, phú cho phu phá mồ đào cốt, cải táng về đâu mặc kệ. Ván hòm cứng thật. Ngoài da mốc mốc, đất ăn xầy xầy, tưởng bở. Chạm sâu một phân tây, cứng rắn vô cùng. Thậm chí, cái máy khoan điện, thuở nay nào biết kiêng nể thứ gì, sức bực sắt đá nó còn nhai như bánh bột thế mà máy khoan đâm không thủng nắp hòm! Khoét được lỗ nào chỉ đút sâu lỗ đó, chung quanh vẫn y nguyên. Khoan cả mấy giờ không xuể đâu vào đâu, phu phá mồ ?oxổ nho? nghe mà phát mệt! Thét rồi, chúng chạy về lấy búa thầu và đục thép cỡ lớn ra nói chuyện với huỳnh đàng! Nghĩ mà tội cho người nằm đó! Sắm hòm cây danh mộc tưởng chừng đủ chịu đựng với thời gian, không dè kẻ thù ngày nay là đức cháu bất hiếu, một tên võ phu tay cầm búa thầu đục thép. Không một tiếng não bạt ê a, không một câu kinh an ủi. Nằm trơ đó mà chờ người ta mổ búa lớn vào nắp vào đầu. Nhà chức trách cũng bất lực, vô phương cứu cấp, mục kiến cho đám phu phá mồ dang thần lực nện búa thầu vào đầu đục, búa nào búa nấy nháng như búa Thiên Lôi. Hòm mở toang ra, chúng hốt lấy hốt để, từ hòm huỳnh đàng chuyển cốt qua một cái quách nhỏ bằng cây tạp dầu. Chiếc hòm quý huỳnh đàng mới làu làu phu phá mồ thừa hưởng, bán manh bán mủn cho phường dị đoan đem về là ghế xây, bàn cầu cơ. Quách dầu, vài đứa đem vùi một chỗ vô danh, chờ ngày không mục nát tự nhiên, thì đến năm cải táng nhường chỗ cho lớp khác. Chung quy có mớ đồ vật ký thác cho Viện Bảo tàng còn lưu lại hậu thế, kỳ dư trở về tro bụi. Nếu chánh phủ không sớm thảo điều lệ bảo vệ các cổ tích, lăng cũ, mộ xưa, cấm mua bán đất thổ mộ, liệt kê các ngôi mả bằng ô dước, vôi đá tại Việt Nam thì chẳng bao lâu nữa chung quanh Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn không còn sót lại một cái nào khỏi bị lưỡi cuốc phu phá mồ đưa về dĩ vãng.
    Ngày trước đất rộng, dân gian tín ngưỡng, sợ chùa, miễu, mộ phần. Ngày nay đất chật, sự tin tưởng thần thánh, quỷ ma đã bớt, nhất là những đất có chôn mả thường bán rẻ tiền, miếng nào còn sót lại trong đô thành không chầy thì kíp cũng có người mua, dời mộ xây cất dinh thự, lâu đài, ít lâu người cố cựu cũng không làm sao nhớ nổi.
    Đại lược các cổ tích còn sót lại và ngày nay còn thấy là:
    - Lăng Thượng Công Lê Văn Duyệt tại chợ Bà Chiểu. Tả quân từ trần 1832, năm 1835 mộ bị san bằng phẳng, núm mộ bị xiềng lòi tói sắt. Năm 1848, vua Tự Đức tha tội truyền xây lại như cũ. Năm 1868, Tả quân được truy phục ?oVọng các công thần, chưởng Tả quân Bình Tây Tướng quân Quận Công? và được vào ?oMiếu Trung Hưng Công Thần?.
    - Lăng Phò mã Hậu quân Võ Tánh, mộ chánh tại Bình Định, đây là mộ chôn hình nhân bằng sáp, vì người tự thiêu trên giàn hỏa, không còn thây thi. Mất năm Tân Dậu, ngày hai mươi bảy tháng năm năm 1801. lăng nằm trong vùng đất quân sự, vào cửa phải xin phép trước. Xưa tuy không vẻ nguy nga nhưng trang nghiêm. Nay tiêu điều lạnh lẽo. Trước năm 1942 còn sót lại bốn cây đại thọ đứng tứ trụ bốn góc lăng, là bốn cây thông do Gia Long sắc chỉ dạy trồng. Mỗi cây lớn cả ôm, da trổ da quy nứt lục lăng trông rất ngộ. Binh Nhật chiếm Sài Gòn, đục thông lấy tòng hương làm chết khô bốn cây cổ thụ, nay còn sót một gốc khô đứng sừng sựng, cảnh tang thương càng làm thêm đau lòng người hiếu cổ.
    - Lăng Long Vân hầu Trương Tấn Bửu, đường Trương Tấn Bửu (nay là Trần Huy Liệu, Phú Nhuận). Mất năm Minh Mạng thứ 8, ngày 2 tháng 8 năm 1827. vì người quản thủ không có óc thẩm mỹ, sửa chữa miếu kiểu ngoại lai, mộ phần trét xi măng, sơn vôi lố lăng trông xốn mắt.
    - Lăng Bình Giang Bá Võ Di Nguy tại Phú Nhuận, trong hẻm một con đường mang tên của Oâng nhưng con cháu đã bán đất chung quanh lăng, còn chừa nội phần mộ, kề bên có một chuồng heo dơ bẩn và một ngôi miếu thờ không đáng danh là miếu thờ. Đất là đất của Vua, con cháu công thần ăn hoa lợi. Nay trở nên đất của Nhà nước, tại sao ban quản thủ không xin thủ tiêu tờ mua bán đất bất hợp pháp (về sau nhờ khéo triều đình, hội Phú Trung mua lại phầnđất có ngôi mộ và đền thờ, diện tích 709 m2, tờ đoạn mãi lập ngày 26/9/1953, Me Bérenger)? (Bình Giang Quận công tử trận tại Thị Nại năm 1801).
    - Lăng Bá Đa Lộc (Eùvêque d?TAdran), thường gọi ?oLăng Cha Cả? ở Tân Sơn Nhất, đường lên sân bay. Mất năm 1799, chôn vào đêm. Đám tang nửa theo phép đạo Thiên Chúa, nửa theo lễ tục Nam, tế trọng thể, bài ai điếu viết trên lụa vàng, nay còn để dành tại họ Sài Gòn.
    - Sau Lăng Cha Cả là mộ phần chung các vị mụcc sư kế tiếp mất tại đây. Trong số, có mộ cha R. P. Liot, là bí thư của Đức linh mục d?TAdran.
    - Lăng Lê Văn Phong, sanh tiền tặng ?oông Tả Dinh? là em của Lê Tả quân. Mất trước Tả quân nên mộ phần kiên cố hùng vĩ bởi do Tả quân đứng trông nom xây cất. Chúng tôi mới tìm được trước ở trong hoa viên nhà ông quản lý Đông Pháp Ngân hàng, sau vì đổi chủ nên mất tích. Trước ở về phía hữu đường Mac Mahon nối dài, nay ở về phía hữu đường Ngô Đình Khôi (?), khuất trong xa, phải cố tìm mới ra mối.
    - Lăng Nguyễn Văn Học, trước kia Pháp gọi ?otombeu du Maréchal Nguyễn Văn Học?. Nay truy ra không có công thần nào triều Nguyễn có tên họ như vậy. Có chăng là ông Trần Văn Học,tác giả bức địa đồ tỉnh Gia Định họa năm 1815? Ngày trước ngôi mộ Nguyễn Văn Học ở chỗ khác, chủ đất xin dời nên tham biện sai gỡ ra từng khối nguyên đem về ráp lại trong hoa viên gần tòa hành chính như hiện nay ta thấy. Năm cải táng, 1939, lấy được đồ trang sức phẩm bằng vàng, mão, đai của nhất phẩm đại thần, về sau ông quản thủ Pháp dời giấu ở Long Xuyên bị cướp chung một số kiếp với những đồ vàng đào được tại đường Công Lý (NKKN) đã nói ở đoạn trước.
    - Lăng quý tộc họ Hồ, hoàng thái hậu, vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị tại làng Linh Chiểu Tây (Thủ Đức). Lăng này còn tốt, tuy có vẻ đìu hiu. Trong sử ngày xưa, vua Tự Đức sai ông Phan Thanh Giản sang Pháp nói chuyện đem tiền chuộc đất ba tỉnh Miền Đông cũng vì những ngôi mộ này một phần nào.
    - Lăng ông Nhiêu Lộc, cách kiến trúc khác hơn những lăng đã thấy, hình vuông vắn như ngôi nhà vững chắc. Lăng này trước kia Trường Viễn Đông Bác cổ chưa liệt kê, may thời nay lọt trong sở nhà đất thuộc sân bay Tân Sơn Nhất, tại đường Chi Lăng (?), giữa khoảng Võ Di Nguy (?) và Ngô Đình Khôi (?). Một ngôi mộ xưa nhỏ hơn mộ Nhiêu Lộc, vì ở gie ra ngoài đường Chi Lăng, nên đã bị phá, không biết khi cải táng có gặp món đồ gì có giá trị cổ tích chăng, vì lúc sau này, Ty Vệ sinh Đô thành, mỗi khi cải táng, không như trước, mời đại diện Viện Khảo cổ tham dự.
    - Đất mộ phần dòng họ TrươngMinh, tại Gò Vấp, đến đây hỏi thăm nhiều người biết. Phủ thờ cũ kỹ, kèo trính mối leo cả dây. Đặc biệt nơi đây còn giữ được trên trăm bài vị tiền nhân trong dòng họ. Còn sót vài món từ khí, bàn thờ, hoành phi, liễn đối nguyên xưa của nhà ông Thế Tải Trương Minh Ký, một học giả đồng thời ông Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký. Mồ mả có cái xưa nhất là của ông bà Trương Minh Giảng thì xây bằng vôi trộn ô dước theo kiểu thế kỷ XIX, có riêng một ngôi mộ núm tròn kiểu khác lạ chưa từng thấy, đến như ngôi mộ của ông Trương Minh Ký cất đầu lối thế kỷ XIX đã ?olai Tây?, có nóc bắt bông thạch cao kiểu bắt chước các mồ mả đạo Thiên Chúa, xuống một bậc nữa, đến cháu con ông Thế Tải thì có cái ngả hẳn về đạo Thiên Chúa, dầu núm đất cũng khắc mộ bia Việt ngữ, tên họ kèm theo tên thánh thêm đặt ảnh chụp ***g kiếng chân dung người quá vãng. Đi xem đất phần mộ họ Trương Minh, biết được kiểu mồ mả ba thế hệ: thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và thế kỷ XX.

    As I look back on my past, I remember the tears I cried, the jokes I laugh at, the things I missed and lost, but there's one thing I'll never regret: it's the day you came into my life!

Chia sẻ trang này