1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sài gòn năm xưa

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 26/05/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cổng trường Chasseloup Laubat

    [​IMG]


    [​IMG]
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    Saigon Chasseloup Laubat 1966 (sau này là trường Lê Quý Đôn ngày nay)

    Lyceé Jean Jacques Rousseau Saigon. Anneé Scolaire 1965-1966. Classe de Math I. The future American astromomer Trinh Xuan Thuan is among these students.
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    (Collège Chasseloup-Laubat 1874)
    [​IMG]

    [​IMG]



    professeur de vietnamien
    [​IMG]

    Cựu học sinh Lê Quý Đôn Sài gòn 1975-1983
    [​IMG]

    Jean Jacques Rousseau - 63-64 - 9 - Co Viellard
    [​IMG]
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    La distribution des prix au Lycée Chasseloup-Laubat de Saigon en 1955 & 1956


    [​IMG]

    [​IMG]
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    Jean Jacques Rousseau - 63-64 - 9 - Co Viellard

    [​IMG]

    [​IMG]

    Năm 1984, Bà Marguerite Duras đoạt giải thưởng Goncourt với Người tình (L'Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nồng nàn và lãng mạn giữa bà với Huỳnh Thủy Lê - một chàng trai người Hoa giàu có sống tại Sa Đéc, bắt đầu từ cuộc gặp gỡ tình cờ trên một bến phà nối liền Vĩnh Long và Sa Đéc hơn 75 năm trước. Hình bà Duras khi còn học tại trường Collège Chasseloup-Laubat

    [​IMG]

    bà Duras (hàng đầu tiên, người đầu tiên bên tay trái)
    [​IMG]

    ông Huỳnh Thủy Lê
    [​IMG]

    Tiểu thuyết được dựng thành film năm 1991 bối cảnh chủ yếu là Sài Gòn và Miền tây việt nam

    Người tình Hoa kiều & cô đầm người Pháp lần gặp đầu tiên trên chuyến phà định mệnh
    [​IMG]

    Gặp nhau lần cuối tại bãi biển Hà Tiên "đã đến lúc nói lên câu giã từ", chàng theo vợ dzia` dinh còn nàng thì theo gia đình quay về cố quốc [​IMG]
    [​IMG]

    chữ ký và lời cảm ơn của đạo diễn Jean Jacques Annaud gửi tặng Ông Dương Minh Hiển chủ ngôi nhà cổ Bình Thủy nơi thực hiện cảnh quay đêm giông tố chàng trai Huỳnh Thủy Lê (diễn viên Lương Gia Huy) phủ phục trước cha van xin được cưới người con gái Pháp yêu thương.
    [​IMG]

    [​IMG]
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    Title : Rivière de Saïgon / [photogr.] Salles
    Author : Salles, Firmin André (1860-1929). Photographe
    Date of publication : 1904
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hồ Con rùa

    [​IMG]

    [​IMG]
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    Bên trong chợ Sài gòn

    [​IMG]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    [​IMG]

    Không biết chùa nào ở Sài gòn?
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Thăm Sài Gòn 90 năm trước... qua ảnh



    Theo Belle-Indochine/Bee

    [​IMG]
    Những hình ảnh tuyệt vời về Sài Gòn do nhiếp ảnh gia Pháp Ludovic Crespin thực hiện vào đầu thập niên 1920 sẽ khiến người xem ngỡ ngàng...

    [​IMG]
    Nhà hát lớn Sài Gòn.
    [​IMG]
    Quảng trường phía trước nhà hát.
    [​IMG]
    Nhà thờ Đức Bà, nhìn từ mặt sau.
    [​IMG]
    Mặt tiền của nhà thờ Đức Bà.
    [​IMG]
    Vườn hoa gần Tòa đô chính.
    [​IMG]
    Toàn cảnh chợ Bến Thành.
    [​IMG]
    Tiệm cà phê La Rotonde trên đường Catinat (Đồng khởi).
    [​IMG]
    Đường Quai de Belgique (nay là đường Tôn Đức Thắng).
    [​IMG]
    Sông Sài Gòn và cầu Khánh Hội.
    [​IMG]
    Một góc Tòa đô chính nhìn từ đường Bonnard (Lê Lợi).
    [​IMG]
    Chợ Bến Thành.
    [​IMG]
    Tượng của Đức Giám mục Pigneau Behaine ở Quảng trường Nhà thờ.
    [​IMG]
    Cột tín hiệu bên sông Sài Gòn.
    Tác giả: Thanh Bình
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vắn tắt về nguồn gốc địa danh Sài-Gòn
    Nam Mai Trinh Quốc Thuận

    Lâu nay tôi vẫn nghĩ rằng nguồn gốc địa danh Sàigòn đã nói rành mach trong quyển "Sài Gòn năm Xưa" 1962, của cụ
    Vương Hồng Sển (1902-1996). Nếu có ai thắc mắc thì dỡ lại sách cũ, sẽ thấy giải thích thỏa đáng.

    Gần đây tôi có đọc bản dịch "Gia Định Thành Thông Chí" 1822 , của Trịnh Hoài Đức (1765-1825). Quá thích thú, tôi xin
    mạo muội được vắn tắt góp ý về nguồn gốc địa danh Sài Gòn.

    Cù Lao Phố, tiền thân của “Thày-ngòn” Đề-Ngạn
    Bát lộ kỳ binh Mãn Thanh phá tan quân Lý Tự Thành ở Sơn Hải quan, chiếm lấy Bắc Kinh lập ra nhà Thanh năm1644.
    Nhưng vùng Hoa Nam nước Tàu , nhà Thanh phong đất cho do ba di thần nhà Minh cai trị, Ngô Tam Quế ở Vân Nam
    và Quảng Tây, Thượng Khả Hỉ ở Quảng Đông, Cảnh Tinh Trung ở Phúc Kiến. Sử gọi đó là Tam Phiên Vương. Thượng
    Khả Hỉ chết năm 1677, và Ngô Tam Quế chết năm 1678, đến năm 1681, nhà Thanh mới dẹp được tàn quân Vân Nam,
    thống nhất nước Tàu.

    Trần Thượng Xuyên, người Quảng Đông, tổng binh 3 châu, Cao-Lôi-Liêm, cùng với phó tướng Trần An Bình đến Đàng
    Trong đầu chúa Nguyễn năm 1679. Được chúa Nguyễn cho vào lập nghiệp ở miền Nam. Trần Thượng Xuyên và
    Trần An Bình mang bản bộ binh mã cùng thê tử , chiến thuyền vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lân , cù lao Phố Biên
    Hòa. Trần Thượng Xuyên là một danh tướng giúp chúa Nguyễn mở mang bờ cỏi. Còn là nhà chánh trị, có óc tổ chức,
    cai trị, và buôn bán ông đã lập phố xá ở Bàn Lân Biên Hòa, gọi là Nông Nại (農奶) Đại Phố, Nông Nại phiên âm tiếng
    Đồng Nai. (phải chăng Cù Lao phố có tên từ Nông Nại Đại Phố, xây dưng trên một cù lao ? Thời buổi đó miền Nam
    chưa chính thức thuộc quyền Chúa Nguyễn, dân cư thưa thớt, chắc chưa có cái cù lao tên Phố trước khi Trần Thượng
    Xuyên đến).
    Trần Thượng Xuyên mất năm 1720. Lúc sống được Chúa ban" Nguyễn vi vương,Trần vi tướng, đại đại công thần bất
    tuyệt". Sau khi mất được vua Minh Mạng sắc phong "Thượng Đẳng Thần"

    “Thày-ngòn” và Sài-gòn
    Năm 1777 quân Tây Sơn tràn vào Nam truy sát Nguyễn Vương, và tàn phá Cù Lao Phố. Khoảng năm 1778 người Hoa
    sống xót chạy dọc dòng sông Bến Nghé, dời vô vùng đất Chợ lớn ngày nay, đắp đất bồi đê lập phố buôn bán, đặt tên là
    Đề Ngạn 堤岸, nay thuộc khoảng đường Triệu Quang Phục (trước 1975), mà ba má tôi khi xưa thường gọi là đường
    Quảng Đông- người Tàu gọi là Cửn Tăng coi (Tiều), hay Cỏn Túng cái (Quảng), từ bến Hàm Tử chạy đến cầu Chà Và ,
    vùng Bưu điện Chợ lớn.

    Đề Ngạn堤岸: Đề là đê, ngạn là bờ, nghĩa là trên bờ sông, bờ đê -ở đây chỉ sông Bến Nghé, hay Tân Bình-,
    下馬步堤岸, 上船拜吾兄 ,xuống ngựa bước trên bờ sông, lên thuyền thăm ngô huynh –Hàn Dũ

    Người Hoa lúc đó và sau nầy chỉ gọi vỏn vẹn là Đề Ngạn, chớ không gọi Đề Ngạn Đại Phố, có phải vì sợ phô trương và
    chuốt họa diệt vong như Nông Nại Đại Phố chăng? Nhưng một lần nữa, năm 1782, quân Tây Sơn lại tràn vào cướp bóc phố
    Tàu, giết người gần như sạch sành sanh.


    /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Đê Ngạn 堤岸, đọc âm Quảng Đông là “Thày ngòn” mà Tây dịch âm : Tai-ngon (từ âm Quảng Đông ), hay TIN-gan (từ âm
    Quan thoại) . Ông Vương Hồng Sển có dẫn trang sách của Francis Garnier (1866) nói về Chợ Lớn, tôi chỉ xin trích lại đây
    đoạn nào liên hệ đến tên Saigon: "... Ceux-ci abandonnèrent Cou-lao-pho, remonterent de fleuve de Tan-Binh, et vinrent
    choisir la position actuelle de ChoLen. Cette création date d'envinron 1778. Its appelèrent leur nouvelle résidence Tai-Ngon,
    ou Tin-Gan. Le nom transformé par les Annamites en celui de Saigon fut depuis appliqué à tort, part l'expé***ion francaise,
    au Saigon actuel dont la dénomination locale est Ben-Nghe ou Ben-Thanh....”

    Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định Thành Thông Chí ” 1822 có viết về Sài gòn như sau:
    "Phố chợ Sài Gòn.
    ...phố xá liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dậm…Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miễu
    Quan Đế và 3 hội quán lớn: Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng 2 bên tã hữu; phía tây ở giữ đường
    lớn có miếu Thiên Hậu...."
    .
    Rõ ràng đây là tả phố xá Chợ Lớn trong vùng khoảng đường Triệu Quang Phục, Đồng Khánh, Nguyễn Trãi ngày nay (trước
    1975)

    Gia định Thành Thông Chí viết xong khoảng năm 1822. Hòa ước Nhâm Tuất 1862, mất 3 tỉnh miền Đông. Trích dẫn sách
    của Francis Garnier nói về Chợ Lớn xuất bản vào năm 1866.

    Căn cứ vào niên biểu thứ tự trên thì Sài-gòn là do người Việt đọc âm tiếng Quảng Đông "Thầy ngòn" của chữ Hán 堤岸
    đúng như Francis Garnier nói về Chợ Lớn (chớ không phải do Tây đọc âm Thầy-ngòn, ra Tai-Ngon, và Việt theo đó phát
    âm , sau nầy viết ra quốc ngữ là Sài-Gòn)

    Như vậy theo cụ Vương Hồng Sển thì địa danh Sài-gòn có nguồn gốc từ âm tiếng Quảng Đông "Thầy-ngòn", của chữ Hán
    堤岸 theo tôi thì phải thôi.

    Sài-gòn, Tây-cống, Chợ-lớn
    Sài-gòn thì được Tây và Việt nói và dùng trong văn kiện, giấy tờ. Do vậy theo người Hoa thì Sài-gòn là phố xá người Việt
    ở. Và người Hoa đọc âm Sài-gòn ra Sai-cụn(Tiều) hay Sấy cun (Quảng) và viết 西貢âm Hán Việt là Tây-Cống.

    Danh từ “Thày-ngòn” phổ biến ở người Hoa, dành cho phố xá mà Tây viết là Cho-Len, và Việt gọi là Chợ Lớn. Người Việt
    không gọi phố người Tàu là Thày-ngòn, mà gọi là Chợ-Lớn. Có lẽ vì trẹo lưỡi, nói không quen tiếng Thày-ngòn vã lại lúc
    xưa ở vùng Bưu điên Chợ-Lớn có cái chợ rất lớn vào thời buổi đó. Do đa phần là người Hoa buôn bán,
    nên người Việt gọi Chợ Lớn là phố xá ngưới Tàu, sau lớn dần, phát triển ra Thành
    Phố Chợ Lớn. Sau nầy cái chợ đó bị dẹp đi và ông Quách Đàm giúp tiền xây một
    cái chợ mới trên đó chừng 2 miles trên đường Hậu Giang, gọi đó là Chợ Lớn Mới,
    hay chợ Bình Tây. Nhưng Chợ Lớn vẩn là địa danh của Thầy-ngòn, mà chúng ta
    vẫn dùng ngày nay.


    Sài-gòn và Sài-côn (xin đọc thêm ở phần chú thích):


    Không như các địa danh khác như Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, Phiên An ... là từ Hán Việt. Sài-gòn vì là chữ phiên
    âm, Sài thì coi như có âm chữ Hán, còn Gòn là âm Nôm. Theo Vương Hồng Sển, vì “gòn” không có âm tương tự trong
    chữ Hán. Nên quan lại miền Nam phải tìm âm na ná để viết trong tấu chương trình lên triều đình Huế. Vì vây mà có danh
    từ Sài-Côn 柴 崑 hay 柴棍. (cũng như Đồng Nai (nôm) đã đươc người Hoa ở Cù Lao Phố phiên âm ra Nông Nại 農奶).
    Theo thuyết cụ Sển, thì Sài-côn phải ra đời sau Sài-gòn.

    Nhưng Gia Định Thành Thông Chí có đề cập tới Sài-côn khoảng 100 năm trước khi người Hoa lập nghiệp ở “Thầy-ngòn”
    Đề-ngạn. Như vậy Sài-côn có trước Sài-gòn trên 100 năm.

    Nói là ông bà ta vì bí quá mà phải dùng chữ Hán có na ná âm Việt đễ dịch âm chữ “Gòn” ra “Côn” thì không ổn lắm. Khi
    người Hoa dời vô Đề-ngạn lâp phố (1778 - 1788) buôn bán thì chữ Nôm đã trưởng thành, phát triển. Chinh Phụ Ngâm Khúc
    đã được bà Đoàn Thị Điễm (1705-1748) diễn nôm trước đó khoảng trên 40 năm. Thì không lẽ gì mà quan lại thời bấy giờ
    không viết được “gòn” là 棍.


    Nhưng đây mới là chổ khúc mắc. Người Việt lấy chữ 棍 (chữ Hán, âm côn,
    lại có bộ mộc đễ chỉ cây gổ) đễ đọc âm, viết cho chữ “gòn” cây gòn. Khi người
    viết ghép 2 chữ 柴棍 lại, đễ chỉ Sài-Gòn. Thì người đọc hay người dịch có thể
    nói đó là Sài-Gòn hay Sài-Côn, đều trúng cả. Vì chữ 柴棍 là chữ Hán (âm Hán
    Việt: Sài-Côn).

    Nguồn gốc đia danh Sài-Gòn đó đây.
    1. Tây Cống.
    Nguồn gốc Tây Cống thì đã giải thích như trên. Nếu ai đó cứ ép nói Tây Cống là nguồn gốc Sài-gòn, thì tui xin nói rằng,
    anh hãy thử giải thích nguồn gốc New York qua lối triết tự, giải thích ý nghĩa 2 chữ Hán Nửu-Ước cho người Mỹ.
    2. Sài-Côn, gốc gác Sài-Gòn là từ Sài-Côn.
    Có cơ sở là Gia Định Thành Thông Chí có nhắc đến Sài-Côn (vào năm Giáp
    Dần, 1674) khoảng 100 năm trước phố xá “Thầy-gòn” được người Hoa thành lập
    Nếu Sài-Côn và Sài-Gòn là cùng một địa danh thì thuyết “Thầy-ngòn” là nguồn
    gốc của Sài-gòn cần phải nghiên cứu lại.
    3. Sai-Gong, Sài-Gòn có nguồn gốc từ âm “Sai-Gong”.
    Tôi có đọc bài "Nguồn gốc địa danh Sàigòn" của nhà văn Bình-Nguyên
    Lộc. Ông căn cứ trên một quyển sách của người Mỹ ở California, ông cho rằng
    nguồn gốc Sàigòn là từ chữ Sai-gong. Theo ông thì tác giả quyển sách nói đó là

    tiếng thổ âm của người Quảng Đông. Sai-gong là âm của chữ Tây Giang. Sông Tây
    Giang ở tỉnh Quảng Đông. Người Quảng Đông ở vùng Saigon vì nhớ quê hương
    mà đặt tên Sai-gong, sau nầy ra Saigon.


    Thuyết của Bình-Nguyên Lộc có yếu điễm (要點) cần lưu ý:
    Sai-gong là do một người Mỹ ở California phiên âm một thổ âm Quảng Đông, nếu
    lấy đó giải thích là nguồn gốc tên Saigon ở Việt Nam thì có nhiều kẻ hở về ngữ
    âm. Người Mỹ hay người Pháp phiên âm tiếng Tàu khác xa với người Việt phiên
    âm tiếng Tàu. Tây Giang 西 江, theo giọng Quảng Đông thì người mình viết là
    "Sấy Cón" chớ không phải "Sai-gong", như người Mỹ đọc.
    Nếu Sài-gòn xuất xứ từ Sai-gong (Tây Giang) thì tại sao trong cộng đồng
    người Hoa ở Saigon- Chợlớn không có giấy tờ, sách vở hay báo chí đề cập Sai-
    gong, hay Sàigòn là Tây Giang. Nếu là nỗi hoài hương của người Quảng Đông mà
    đặt tên Sai-gong, thì cộng đồng người Hoa phải nhắc nhiều đến Tây Giang, chớ
    nào đâu có chữ Tây Cống, với Đề Ngạn. Nên biết, đia danh Sán Đầu 汕頭 “Soa
    Tháo” * ở Quảng Đông, có nói tới trong “Saigon năm xưa”, mà hầu hết người
    Triều Châu ở vùng Đông Nam Á, dù là người sanh đẻ tại chỗ đều biết đến, và
    nhắc nhở. Còn Tây Giang "Sấy Cón", hay “Sai-gong” không nghe một người
    Quảng Đông nào trong Chợ Lớn nhắc đến.
    Như vậy lịch sử và sinh hoạt của cộng đồng người Hoa ở Saigon Chợ lớn đã
    phủ nhận thuyết Tây Giang của ông Bình-Nguyên Lộc.
    Lúc trước ở Saigon có người đọc tên đường Võ Tánh ra Vũ Tính (chính tai
    tôi nghe một ông thầy dạy Anh văn ở trường Bồ Đề Chợ Lớn nói với học trò trong
    lớp). Không phải người Bắc di cư lúc đó không đánh vần được Võ Tánh, mà vì họ
    quen với vũ, tính, đọc vậy cho rằng mình đúng. Võ Tánh sanh đẻ ở miền Nam, thì
    cha mẹ đặt tên con phải theo phát âm miền Nam. Nếu người Việt không nên đọc
    tên Võ Tánh ra Vũ Tính thì phải càng nên thận trọng khi dẫn từ Sai-gong, phiên âm
    của một người Mỹ về âm Quảng Đông, Tây Giang, nói đó nguồn gốc của tên Sài
    Gòn.
    4. Có người nói Sài Gòn là có nguồn từ Sen và Gòn.
    Sen là bông sen, theo thuyết nầy thì do công chúa Ngọc Vạn mang vào Nam
    khi bà được chúa Nguyễn Phước Nguyên giá gả cho vua Chân Lập Chey Chetta II,
    Bà mang sen vào trồng ở vùng Prei Kor (tức vùng Chợ Lớn ngày nay). Còn gòn là
    cây gòn, đã có ở vùng Pre Kor lâu đời. Khi đọc thuyết nầy, tôi không thấy có trích
    dẫn, nên không đễ ý nguồn và tên tác giả. Nhưng từ Sen ra Sài thì nó xa vời vợi.

    Tôi nguyên sanh đẻ ở đường Frère Louis, nay là đường Nguyễn Trãi. Nhau
    rún ở vùng Bào Sen, Chợ Quán. Thì Sen và Gòn tôi không có lạ.Tôi còn nhớ khi
    nhỏ ba má tôi có cất một ngôi nhà ngói ở xóm Bào Sen, sau chánh phủ căn cứ trên
    khuôn viên nhà ba má tôi, phân lô cất ra nhiều dãy nhà tôm.
    Sau mặt hậu nhà tôi có dãy nhà chánh phủ, sau đó là lò đúc, sau lò đúc là một cái
    bào. Ba má tôi có nói là bào có nhiều sen. Nhưng khi tôi biết, thì, sen thì ít, mà rau
    muống thì nhiều. Nhưng dần dần rau muống cũng nhường cho xà bần, thiên hạ lấn
    đất xây chuồng heo, cất nhà. Tôi còn nhớ có một năm mưa lớn, nước lụt trào ra bào,
    tội mấy dãy nhà ở mé thấp, nước ngập. Thiên hạ lấy rổ vớt cá, kho tiêu, ăn được
    mấy bữa.
    Xóm sau nhà ba má tôi có khoảng đất trống, có 3, 4 cây gòn già không biết ai
    trồng từ bao giờ. Hàng năm tới mùa gòn chín vàng, trái gòn nứt dọc, bông gòn theo
    gió bay phơi phới vui vui. Có năm anh tôi đi mót được vài trái gòn rụng đem về cho
    má tôi dồn gối (bông gòn đây khác với bông gòn của cây bông vải). Chéo lên
    khoảng đất trống đó có cây me, có một thầy hù (thợ hớt tóc) lúc đầu ông treo một
    tấm kiếng, bắt cái ghế đẩu dưới gốc cây, hớt tóc con nít. Sau ông xin phép bà con
    trong xóm cất lên cái chòi hớt tóc tại gốc me. Ở luôn đó, cu ky một mình không vợ
    con gì. Nghe nói quê ổng ở miền Trung, nhưng giọng nói như người trong xóm. Có
    lần ông khoe chai rượu bổ "Tam tinh hải cẩu" của ổng. Đó là chai la de con cọp
    hiệu trái khớm, chai ngâm chuột con đỏ ói với rượu đế. Ông có giải thích chỉ có ổ
    chuột nào lứa nhỏ, nhét lọt qua miệng chai la de thì ngâm mới bổ. Con nít nghe sao
    tin vậy đời nào dám thử thuốc bổ của ổng.
    Qua hai xóm nửa là thành 72 rồi đại lộ Trần Hưng Đạo. Tôi còn nhớ ở góc
    đường có cây me keo già, bên đó là dãy nhà gạch mặt tiền ra đường Trần Hưng Đạo.
    Căn thứ hai là nhà của Út Trà Ôn.
    Tôi nói xa đà dòng do kỷ niệm thơ ấu với sen với gòn. Nhưng tôi không thấy
    liên hệ gì giữa sen, gòn với nguồn gốc địa danh Sài-gòn.


    Tóm lại
    Tạm nói địa danh Sài-gòn do người Việt đọc lại phát âm tiếng Quảng Đông “Thày-ngòn” của chữ 堤岸, mà âm Hán-việt là
    Đề-ngạn. Tây nói và viết Sai-gon trong giao dich hàng ngày và giấy tờ hành chánh. Sau nầy người mình viết ra
    quốc ngữ là Sài-gòn.
    Còn Tây cống là người Hoa (Triều Châu) đọc âm Sài-gòn ra “Sai-cọn” chữ Hán là 西貢 âm Hán-việt là Tây cống
    Ts Trịnh Quốc Thuận
    26 tháng Chạp năm Tân Mão 2011

Chia sẻ trang này