1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sài gòn năm xưa

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 26/05/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Chú thích
    Sài Côn, một phần đất của Chân Lập được Trịnh Hoài Đức nói đến trong
    Gia Định Thành Thông Chí. Năm sớm nhất được nhắc đến là Giáp Dần 1674:
    “Tháng 2 mùa xuân năm thứ 27, Giáp Dần (1674) (Lê Gia Tông, niên hiệu
    Đức Nguyên năm đầu, Đại Thanh Khang Hy thứ 13), Nặc Đài (Neac Ang Dai)
    nước Cao Miên (sách Nam Việt chí của Nguyễn Bảng Trung chép là Nặc Ô Đài,
    sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép là Nặc Đài) đánh đuổi vua nước ấy
    là Nặc Ong Non; Nặc Ong Non chạy sang ta tránh, vua sai tướng Dương Lâm
    hầu ở dinh Thái Khang (nay là trấn Bình Hòa) làm Thống suất, Tham mưu Diên
    Phái hầu làm Hiệp lý biên vụ, đưa quân tiến đánh. Mùa hạ tháng 4 phá được ba
    lũy: Sài Côn (nay là đất trấn Phiên An), Gò Vách và Nam Vang, Nặc Đài thua
    chạy rồi chết. Nặc Thu xin lạy hàng…4
    …Tháng 6 mùa hạ được tiệp báo, triều đình nghị sự chuẩn cho Nặc Thu là
    nhánh đích được làm Cao Miên Chính quốc vương, đóng dinh ở thành Vũng
    Luông; Nặc Non làm Phó quốc vương, đóng dinh ở thành Sài Côn,”5
    Và năm gần đây nhất mà Sài Côn được nhắc đến đến trong Gia Định
    Thành Thông Chí là năm Canh Ngọ 1690: “tháng ba mùa xuân năm thứ 4 Canh
    Ngọ (1690) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 11, Đại Thanh Khang Hy thứ
    29), Hào Lương hầu đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về
    Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định.”6
    Sau khi Cao Miên được bình định 1690, địa danh Sài Côn không còn nhắc
    đến trong Gia Định Thành Thông Chí. Như vậy Sài Côn là tên một vùng đất của
    sứ Cao Miên.
    Khi Trịnh Hoài Đức soạn bộ Gia Định Thanh Thông Chí thì Sài Côn đã được
    cải tên là trấn Phiên An –“Sài Côn (nay là đất trấn Phiên An)”-, và được tả lại
    như sau:
    Trấn Phiên An đất rộng việc nhiều, đường thủy đường bộ thông thương.
    Phía bắc giáp với trấn Biên Hòa, phía trên từ sông Đức Giang (tục gọi là sông
    Thủ Đức) đến Bình Giang (thuộc huyện Bình Dương, tục gọi là sông Bến Nghé)
    chuyển rẽ xuống ngã ba cửa Phù Gia (tục gọi là ngã ba sông Nhà Bè) rồi đổ
    thẳng ra cửa biển Cần Giờ , bờ nam của sông là địa giới trấn Phiên An. Phía
    nam giáp trấn Định Tường, trên từ Quang Hóa, Quang Phong, về phía tây đến
    Vàm Dừa, Rạch Cỏ, đến sông Bát Chiên, chuyển xuống đông đến Vũng Gù, qua
    Tra Giang rồi ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp), dùng bờ bắc bắc của sông này làm
    địa giới trấn Phiên An. Trấn Phiên An phía đông là biển, phía tây giáp đất Cao
    Miên, ngăn chặn người man núi, gối vào chằm phá đông tây cách nhau 352 dặm,
    [FONT=arial,sans-serif]Page 8[/FONT]
    nam bắc cách nhau 107 dặm. Trấn này buổi đầu mới lập gọi là dinh Phiên
    Trấn, trông coi 1 huyện 4 tổng, lỵ sở đóng tại thôn Tân Lân, tổng Bình Trị, huyện
    Bình Dương ngày nay.”7
    Trịnh Hoài Đức cũng có nói tới sự hình thành của dinh Phiên Trấn vào năm
    Mậu Dần 1698 như sau:
    “Mùa xuân năm thứ 8, Mậu Dần (1698) thời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế
    (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu), (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 19, Đại
    Thanh Khang Hy thứ 37), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ
    Nguyễn (Hữu Cảnh) sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm
    phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn
    Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh
    Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn).” 8
    Như vậy vùng đất có tên là Sài Côn của Cao Miên đã chính thức được xóa
    bỏ, và được đổi lại là dinh Phiên Trấn vào năm 1698.
    Thế rồi còn Sài Gòn, địa lý và hình thành như thề nào? Sài Gòn được đề cập
    trong Gia Đinh Thành Thông Chí vào năm 1782. Năm(5) năm sau khi người
    Hoa dọn ra Cù Lao Phố (Đinh Dậu) 1777. Sài Gòn thường được viết liền với chữ
    phố hay phố chợ.
    “Mùa xuân tháng 3 năm Nhâm Dần, (1782) quân giặc Tây Sơn do Nguyễn
    Văn Nhạc đem binh thủy bộ vào cướp phá, Gia Định thất thủ. Tháng 4 thì bộ
    binh Tây Sơn từ trấn Biên Hòa do thượng đạo đến trấn Phiên An. Lúc ấy quan
    binh là Tiết chế Hữu chưởng dinh Dụ Quận công Nguyễn điều biệt tướng ở Bắc
    Hà là Tự Thuật hầu và tướng quân đạo Hòa Nghĩa là Chương Mỹ hầu Trần
    Công Chương về toan khôi phục. Khi gặp toán tiền quân giặc Tây Sơn vừa đến
    vùng Vườn Trầu, bèn phục binh trong rừng đánh úp quân Tây Sơn, hai hầu Tự và
    Chương giết được đại tướng Tây Sơn là ngụy Hộ giá tên Ngạn, chẳng ngờ lúc ấy
    đại binh ngụy Tây Sơn kéo đến, quan quân phải rút lui. Ngụy Nhạc được báo tin,
    rất thương tiếc cái chết của Ngạn, mất Ngạn như mất cả hai cánh tay mặt, trái.
    Sau biết quân Hòa Nghĩa đều là người Tàu, Nhạc bèn giận lây, nên phàm
    người Tàu không kể mới cũ, binh lính hay thương buôn , đều bị giết tất cả hơn
    10.000 người, từ Bến Nghé đến Sài Gòn, thây nằm chồng chất ngổn ngang,
    xác quăng xuống sông làm nước nghẽn không chảy được nữa! Trải qua 2, 3
    tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông này. Còn hàng hóa của Tàu như
    sa, lụa, trà, thuốc, hương, giấy (nói chung bất cứ vật gì của người Tàu), ai có
    trong nhà cũng đều đem quăng ra đường, mà chẳng ai dám lấy. Qua năm sau,
    thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán đến 1 mạch còn các
    hàng hóa khác cũng đều cao giá, nhân dân đều khổ theo.”9
    Năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung vì đại nghĩa, giải quyết cái họa mất
    nước phương bắc, tạm hoản việc bình định Đàng Trong, mang đại quân ra Bắc
    Hà phá quân Thanh. Năm 1790 Nguyễn Ánh lợi dụng lúc vua Quang Trung bận
    [FONT=arial,sans-serif]Page 9[/FONT]
    việc giao hảo với nhà Thanh, cải cách triều chính, kinh tế… Bắc Hà, mà xây
    dưng kinh thành Gia Định ở đất Phiên Trấn đễ lo kế lâu dài đối phó nhà Nguyễn
    Tây Sơn. Gia Định Thành Thông Chí có viết như sau:
    “Ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất thứ 13 (1790), tại chỗ gò cao thôn Tân Khai
    thuộc đất Bình Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen, mở ra
    8 cửa, có 8 con đường ngang dọc, từ đông đến tây là 131 trượng 2 thước ta, từ
    nam đến bắc cũng như thế, bề cao 13 thước ta, chân dày 7 trượng 5 thước ta,
    đắp làm ba cấp, tọa ngôi Càn, trông hướng Tốn. Trong thành, phía trước bên tả
    dựng Thái miếu…. Ngoài thành đường sá chợ phố ngang dọc được sắp xếp rất
    thứ tự, ….đầu từ cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài Gòn đến cầu
    Bình An qua gò chùa Tuyên đến sông Thuận An. Bến đò Thủ Đoàn đưa qua sông
    Hưng Hòa, trải qua gò Trấn Định rồi đến gò Triệu. Đường rộng 6 tầm, hai bên
    đều trồng cây mù u và cây mít là những thứ cây thích hợp với đất này. Cầu cống
    thuyền bến đều luôn được tăng gia việc tu bổ, đường rộng suốt phẳng như đá
    mài, gọi là đường thiên lý phía nam” 10
    “PHỐ CHỢ SÀI GÒN
    Cách trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường
    phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một
    đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền
    mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong
    phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở,
    tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có.
    Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán: Phúc
    Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu; phía tây ở giữa
    đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam
    đường phố lớn về phía tây có hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng,
    như Tam nguyên, rằm, mùng một thì treo đèn đặt án, tranh đua kỳ xảo trông như
    là cây lửa, cầu sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu,
    thật là một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. …. Giữa phố về phía đông đường lớn có
    chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp
    đèn mua bán.”11
    Tóm lại, trích dẫn từ Gia Định Thành Thông Chí cho thấy Sài Côn Sài
    Gòn khác xa nhau trên hai phương diện. Một là thời gian, hai là địa lý đất đai.
    Địa danh Sài Côn là một vùng đất rộng mênh mông của Chân Lạp(Cao Miên)
    từ năm 1690 trở về trước, được Nguyễn Hữu Cảnh đặt là dinh Phiên Trấn năm
    1698, sau nầy Nguyễn Ánh đổi lại là trấn Phiên An năm 1802 (?)
    Địa danh Sài Gòn là tên một phố chợ thành lập sau năm 1777, do người Hoa
    chạy từ Cù Lao Phố, dời lên bờ sông Tân Bình ở vùng Chợ Lớn ngày nay, và gọi
    đó là "Thày Ngòn", âm tiếng Quảng Đông chữ Đê Ngạn. Sài Gòn là tiếng Việt
    phiên âm của Thày Ngòn theo như cụ Vương Hồng Sển viết trong “Sài Gòn
    Năm Xưa”.
    [FONT=arial,sans-serif]Page 10[/FONT]
    1 Saigon năm xưa, 1962, Vương Hồng Sển
    @ Francis Garnier, một nhà du khảo, thám hiểm kỳ cựu, có nhiều uy tính ở thời
    buổi đó
    2, 11 Gia Định Thành Thông Chí 1822 , Trịnh Hoài Đức.
    Hậu học Lý Việt Dũng dịch, 2004, bản internet
    Quyển 6, Thành Trì Chí, trang 11
    3, 4 Quyển 3, Cương Vực Chí, trang 2 :
    Năm Giáp Dần, 1674,… Mùa hạ tháng tư phá được 3 lũy: Sài-Côn (nay là trấn
    Phiên An), Gò vách và Nam Vang…
    Không biết Sài-Côn ở đây dịch từ chữ 柴崑 hay chữ 柴棍
    Không thấy trong chú thích của bản dịch.
    5 Quyển 3, Cương Vực Chí, trang 3
    6,8 Quyển 3, Cương Vực Chí, trang 4
    7 Quyển 3, Cương Vực Chí, trang 20
    9 Gia Định Thành Thông Chí 1822 , phần 1
    Hậu học Lý Việt Dũng dịch, 2004, bản internet, Trang 48
    10 Quyển 6, Thành Trì Chí, trang 1
    * “Hán Việt Từ Điển” 1966, tái bản lần 2, Thiều Chửu.
    Nhà in Hưng Long, Sài-Còn
    Các nguồn tham khảo khác trên internet:
    “Việt Nam Sử Lược,” Lệ Thần Trần Trọng Kim, bản internet.
    “Hán Việt Tự Điển Trích Giảng” , Hội Khai Trí Tiến Đức, bản internet
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    LƯỢC SỬ SÀI GÒN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

    [​IMG]
    (Tư liệu chưa được thẩm định)
    Nguồn:
    Người gửi: Trịnh Thanh Phong (trang riêng)
    Ngày gửi: 17h:37' 06-01-12
    Dung lượng: 7.7 KB
    Số lượt tải: 2

    Mô tả:
    Thành phố Hồ Chí Minh là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đổi tên từ Sài Gòn. Hiện nay tên gọi Sài Gòn vẫn được nhắc đến như tên bán chính thức của thành phố này.

    Những ghi chép đầu tiên về tên gọi Sài Gòn

    Địa danh Sài Gòn trên 300 năm và từng được dùng để chỉ một khu vực với diện tích khoảng 1 km² (Chợ Sài Gòn) có đông người Tàu (người Trung Quốc) sinh sống trong thế kỷ thứ 18. Địa bàn đó gần tương ứng với khu Chợ Lớn ngày nay.

    Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi chép "Rai Gon Thong" (Sài Gòn Thượng) và "Rai Gon Hạ" (Sài Gòn Hạ).

    Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Lũy Sài Gòn" (theo Hán Nho viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là "Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là "Côn".

    Sau đó danh xưng Sài Gòn được dùng để chỉ các khu vực nằm trong lũy Lão Cầm (năm 1700), lũy Hoa Phong (năm 1731) và lũy Bán Bích (năm 1772), chỉ với diện tích 5 km².

    Ngày 11 tháng 4 năm 1861, sau khi chiếm được thành Gia Định, Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) bao gồm cả vùng Sài Gòn và Bến Nghé. Đến ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền thống đốc Nam Kỳ, chuẩn đô đốc Pierre Roze đã ký nghị định quy định lại diện tích của thành phố Sài Gòn chỉ còn 3km2 tại khu Bến Nghé cũ, đồng thời cũng quy định thành phố Chợ Lớn (tiếng Pháp: Ville de Cholon) tại khu vực Sài Gòn cũ. Từ đó tên gọi Sài Gòn chính thức dùng để chỉ vùng đất Bến Nghé, và tên Chợ Lớn để chỉ vùng Sài Gòn cũ. Sau năm 1956, tên gọi Sài Gòn được dùng chung để chỉ cả 2 vùng đất này.

    Các giả thuyết về nguồn gốc tên gọi Sài Gòn

    Đề Ngạn

    Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 người Pháp là Aubaret và Francis Garnier. Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine, và Garnier, Cholen, thì năm 1778 người Hoa ở Cù lao Phố (Biên Hòa) vì giúp đỡ nhà Nguyễn nên bị quân nhà Tây Sơn tàn sát phải rút lui theo con sông Tân Bình (Bến Nghé), chọn vùng đất ở giữa đường Mỹ Tho đi Cù lao Phố mà xây dựng tân sở, ngày sau thành phố Chợ Lớn. Năm 1782 họ lại bị quân nhà Tây Sơn tàn sát một lần nữa. Ít lâu sau họ xây dựng lại, đắp đê cao nên đặt tên chỗ mới là "Tai-Ngon", hoặc "Tin-Gan", phát âm theo giọng Quảng Đông là "Thầy Ngồn" hay "Thì Ngòn", đọc theo âm Hán-Việt là "Đề Ngạn" (堤岸). Họ dùng danh từ "Tây Cống" hoặc "Xây-cóon", "Xi-cóon" để ám chỉ vùng người Việt ở tức chợ Bến Thành ngày nay.

    Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì "Thầy Ngòn", "Xi Coón" rất giống "Sài Gòn". Tuy nhiên, giả thuyết này về sau bị chứng minh tính bất hợp lý khi phát hiện tài liệu ghi lại tên gọi Sài Gòn đã được sử dụng từ trước 1778.

    Củi và Bông gòn

    Có thuyết nói rằng "Sài Gòn" bắt nguồn từ chữ "Sài" theo chữ Hán là củi và "Gòn" là chữ Nôm chỉ cây bông gòn.

    "Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn. Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận. ... Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó."

    (Trương Vĩnh Ký, Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong Excursions et Reconnaissance X. Saigon, Imprimerie Coloniale 1885)

    Tương tự có nhiều thuyết cho rằng "Sài Gòn" từ chữ "Prey Kor" (Rừng Gòn) hay "Kai Gon" (Cây Gòn) mà ra. Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông gòn.

    Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được dấu tích của một thứ "rừng gòn" ở vùng Sài Gòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả Trương Vĩnh Ký. Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó không có phát triển gì lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sài Gòn.

    Thêm nữa là cây gòn thời đó dùng làm hàng rào chứ không làm củi. Và theo Lê Trung Hoa trong Địa Danh thì "sài" chỉ xuất hiện trong các từ ghép Hán-Việt, như "sài Tân" chứ chưa bao giờ được dùng như một từ đơn, nên không thể nói "củi" được, là "sài" được, hay là "củi gòn" là "Sài Gòn" được.

    Vậy, thuyết Sài Gòn là "củi gòn" đã bị bác bỏ bởi thực tế địa lý và ngữ học.

    Bến Củi

    Dọc theo con đường Nam tiến của dân tộc Việt Nam có nhiều bến bên các dòng sông: Bến Vân đồn, Bến Thủy, Bến Hải, Bến Quan, Bến Ván, Bến Thóc, Bến Đình, Bến Tranh, Bến Tre, Bến Súc, Bến Tắm Ngựa, Bến Thành, Bến Thành... Một số địa danh bị biến đổi như Bến Ván đã được đổi ra Bản Tân, Bến Thóc đã đổi ra Mễ Tân. Rất có thể địa danh Bến Củi đã được đổi ra Sài Tân hoặc Sài Ngạn (do người Quảng Đông sống ở khu vực này gọi bến (bờ) bằng chữ Ngạn, củi gỗ là Sài. "Sài Ngạn" (được phát âm như là "Xây-cóon" hay "Xi-cóon") có lẽ do phát âm trại thành "Sài Gòn".

    Tuy nhiên giả thuyết này bị phát bỏ vì mơ hồ và thiếu thuyết phục, vì tên gọi Sài Gòn được ghi chép từ ngay trước khi người Hoa bỏ Cù Lao Phố về Sài Gòn.

    Prei Nokor

    Dựa theo lịch sử và phát âm có thuyết cho là "Sài Gòn" là được phiên âm từ "Prei Nokor" hay từ "Thầy Ngồn" mà ra. Prei Nokor nguyên là dinh của phó vương Chân Lạp thuộc vùng Chợ Lớn tới chùa Cây Mai, là dấu vết của một "thành phố" có từ thời Tiền Angkor (theo nhà sử học Pháp Louis Malleret). Tuy nhiên không có tài liệu nào khẳng định rằng nơi đây từng tồn tại khu dân cư trước thế kỷ 16.

    Ông Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này. Trong tiểu giáo trình Địa lý Nam Kỳ, ông đã công bố một danh sách đối chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokor.

    Hai ông Nguyễn Đình Đầu và Lê Trung Hoa đều đồng ý với thuyết này, dựa theo lịch sử và ngữ âm.

    Theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế. Tới năm 1674, Cao Miên có biến, chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm đánh và phá luỹ Sài Gòn. Vậy, từ 1623 tới 1674, vùng Prei Nokor, hay Sài Gòn, đã phát triển lắm.

    Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng", "Prei" hay "Brai" là "rừng", "Nokor" hay "Nagara" là "thị trấn". Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế.

    Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành Rai, thành "Sài", Nokor bị bỏ "no" thành "kor", và từ "kor" thành "gòn".

    Những tên gọi khác dùng để chỉ vùng đất Sài Gòn

    Trước đó Sài Gòn có nhiều tên khác nữa, đầu tiên là Thù Nại bao gồm hầu hết vùng phía Đông Nam Bộ ngày nay (rộng khoảng 20,000-25,000 km²). Đến năm 1698, Sài Gòn có tên là Huyện Tân Bình, lúc này chỉ khoảng 5,000 km² và có đường biên giới phía Tây là sông Sài Gòn.

    ….Tên gọi Thành phố Hồ Chí Minh

    Ngày 26 tháng 8 năm 1946, 57 nhân sĩ, trí thức ở Sài Gòn gửi thỉnh nguyện thư lên Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để xin đổi tên thành phố này theo tên chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng chưa thành hiện thực[6].

    Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất đổi tên nước thành Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đồng thời đặt lại tên cho thành phố theo tên của chủ tịch đầu tiên của nước, Hồ Chí Minh. Cho đến nay, tên cũ Sài Gòn vẫn được sử dụng rất phổ biến, đặc biệt trong các ngữ cảnh không chính thức.
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
  4. shopytenet

    shopytenet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    09/04/2013
    Bài viết:
    284
    Đã được thích:
    3
    Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông giờ đã trở thành cái gì! Một thành phố kém phát triển so với các thành phố châu Á khác! Nản!
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    [​IMG]
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    [​IMG]
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    [​IMG]
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    [​IMG]

    1870

    [​IMG]

    Bản đồ vùng phụ cận Saigon năm 1895, vẽ bởi Sở địa chánh. Trong bản đồ này chưa có Kinh Đôi và Kinh Tẻ. Bản đồ này cũng cho thấy tuyến đường sắt Saigon-Mỹ Tho và các tuyến đường xe điện Saigon-Cholon (gồm 2 tuyến) và tuyến Saigon-Gò Vấp. Tuyến xe điện Saigon-Gò Vấp trong bản đồ này bắt đầu từ đầu đường Tôn Đức Thắng ngày nay, chạy bọc phía bên trái khu thành Gia Định cũ, hơi khác với tuyến đường này trong thời gian sau. Trong bản đồ cũng cho thấy trường (tập) bắn và trường đua ngựa cũ, ở vị trí Bộ tư lệnh TPHCM (trước 1975 là Bộ tư lệnh Biệt khu Thủ đô SG).
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    [​IMG]

    1878
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [FONT=&quot]SÀIGÒN 50 NĂM TRƯỚC[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]
    [FONT=&quot]Địa-danh cũ[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]​
    [FONT=&quot]Hồi-ký BÌNH-NGUYÊN LỘC[/FONT]​
    [FONT=&quot] [/FONT]
    [FONT=&quot]Song-song với những địa-danh tên Tây, các đường phố và nhiều nơi chốn ở Sàigòn đều có tên Việt, được dân-chúng quen dùng.[/FONT]
    [FONT=&quot]Đây là những tên tôi còn nhớ lỏm-bỏm:[/FONT]
    [FONT=&quot]Bót cảnh-sát quận nhì, có tên là Xi Nho. Con đường trước bót không bao giờ mang tên Tây Chaigneau hay Signor lần nào cả. Có lẽ là một ông Tây cảnh-sát đã giữ chức-vụ liên-lạc với dân-chúng chăng?[/FONT]
    [FONT=&quot]Đầu đường Hồng-Thập-Tự ngày nay, được gọi là đường Hàng Bàng vì hai bên đường trồng hai hàng cây bàng. Tây đặt tên đường là Chasseloup Laubat, nhưng ta bất kể.[/FONT]
    [FONT=&quot]Đường Mạc-Đỉnh-Chi ngày nay, có tên Tây là Massiges nhưng ta cứ tiếp-tục gọi là đường Hàng Sao, vì hai bên đường trồng hai hàng sao, có lẽ là trồng trước các đường khác chớ về sau thì đường nào cũng trồng sao cả.[/FONT]
    [FONT=&quot]Đường Bùi-Quang-Chiêu là đường Cá Hấp thuở trước vì chỗ ấy nằm cạnh chợ Bến-Thành, các vựa cá hấp đóng đô ở đó.[/FONT]
    [FONT=&quot]Đường Bùi Chu, thuở ấy tên Tây là Frère Guillerault, nhưng người ta cứ kêu là đường Huyện Sĩ, vì cái nhà thờ cất ở đó do tiền một tư-nhơn, ông Tri-huyện-hàn Lê-Phát-Sĩ tài-trợ.[/FONT]
    [FONT=&quot]Đại-lộ Kitchener (Nguyễn-Thái-Học) được gọi là đường Lò Heo vì lò heo cũ ở đó.[/FONT]
    [FONT=&quot]Dĩ-nhiên là đường Phó-Đức-Chính, tên Tây là Alsace Lorraine được gọi là đường Chú Hỏa vì con đường ấy nổi danh nhờ cái cư-xá đồ-sộ của họ Hui-Bon-Hoa.[/FONT]
    [FONT=&quot]Đường Khổng-Tử nguyên là đường Gaudot và được gọi là đường Đèn Năm Ngọn.[/FONT]
    [FONT=&quot]Đường Phát-Diệm, tên cũ cũng là tên Việt, đường Nguyễn-Tấn-Nghiệm, vậy mà thiên-hạ cứ gọi là đường Cầu Kho. Vậy thì người dân không phải tránh tiếng Tây khó đọc, mà tránh sự bị chỉ-định. Họ ưa theo thói quen hơn.[/FONT]
    [FONT=&quot]Nhưng buồn cười lắm là có hai trường-hợp ngược đời, ta ưa Việt-hóa tên Tây, nhưng trong hai trường-hợp ta lại theo Tây một cách mù-quáng. Đó là địa-danh Đakao.[/FONT]
    [FONT=&quot]Địa-danh ấy nguyên trước là Đất Hộ, bị Tây Pháp-hóa thành Đako, rồi ĐaKao.[/FONT]
    [FONT=&quot]Ta lại mù-quáng theo Tây ở một trường-hợp nữa là vùng đất gần cầu Tân-Thuận trước kia là bãi đất hóng mát của dân Sàigòn, tên ta là Láng-Thọ. Tây Pháp-hóa thành Lanto rồi ta lại Việt-hóa thành Lăng-Tô. Không biết cái Lăng đó của Tô-Định hay của ai.[/FONT]
    [FONT=&quot]Những con đường tên Tây mà ta không có tên Việt, ta Việt-hóa nó một cách buồn cười.[/FONT]
    [FONT=&quot]Chẳng hạn đường Eyriaud des Verges (Trương-Minh-Giảng) được đặt là „Ai-vô rờ-quẹt?“, còn đường Léon Combes được đọc là „Lên-ăn-cơm“.[/FONT]
    [FONT=&quot]Đường Dixmude (Đề-Thám) là đường Đít-Xơ-Mít. Đường Blansubé, tức đoạn Phạm-Ngũ-Lão ngay chợ Thái-Bình được đọc là đường Lan-Si-Bê (*). Chợ Thái-Bình, cho tới năm 1925, còn được dân-chúng gọi là chợ Lan-Si-Bê.[/FONT]
    [FONT=&quot]Đường Huỳnh-Thúc-Kháng (Monlaii) là đường Mộng-Lầu.[/FONT]
    [FONT=&quot]Dân-chúng ưa đọc tên đường De Lattre (Công-Lý) nhứt vì tên cũ là Mac Mahon, đọc ra là Mặt-Má-Hồng, nghe hay quá.[/FONT]
    [FONT=&quot]Nhưng ngộ-nghĩnh số một là đường Phan-Thanh-Giản (Legrand de la Liraye). Vì tên Tây quá khó đọc, nên đọc ra là „Nhăn răng Rìa ai đi đây?“.[/FONT]
    [FONT=&quot]Hiệu bán thực-phẩm tươi (épicier) của Tây ở đường Tự-Do, hiệu Guyenot (ngày nay vẫn còn) cứ được gọi là „Hãng Mỡ“, tôi ngạc-nhiên, điều-tra mãi mới hay vì hiệu ấy chuyên chế-tạo xúc-xích (saucisse) nên thừa mỡ rất nhiều. Họ bèn rót mỡ nước vào thùng dầu hỏa bán cho người Quảng-Đông là dân-tộc rất thích ăn mỡ nước, mỗi tháng bán ra hằng mấy trăm thùng, nên nổi danh như vậy.[/FONT]
    [FONT=&quot]Xóm Máy Đá trong Chợlớn ngày nay, có tên như vậy vì buổi đầu hãng Larue phát-tích ở đó, và ngày nay vẫn còn chi-cuộc Larue ở đó nữa.[/FONT]
    [FONT=&quot]Thuở tôi còn học trung-học, mỗi lần trường đưa đi viếng kỹ-nghệ trong thành-phố thì viếng hãng Larue tại đó, hãng Sàigòn chưa xây.[/FONT]
    [FONT=&quot]Cái ngã sáu ở đầu các đường Lê-văn-Duyệt, Võ-Tánh, Gia-Long, Phan-văn-Hùm ngày nay, phải gọi là Ngã Sáu Quẹt-Đoong, dân-chúng mới hiểu, vì cái ngã sáu trong Chợlớn cao-niên hơn tới 30 tuổi, họ quen với tên cũ, tên mới, phải kêu thêm chút gì để phân-biệt.[/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]

    [FONT=&quot]Chú-thích của BBT[/FONT][FONT=&quot]:[/FONT]
    [FONT=&quot](*) [/FONT][FONT=&quot]Theo tài-liệu chúng tôi tìm được thì đường Blansubé được đổi ra đường Duy-Tân, hiện nay là đường Phạm Ngọc Thạch. Còn đường Phạm-Ngũ-Lão có tên cũ là Colonel Grimaud. Rất tiếc chúng tôi không tìm được dấu-vết của đường nầy ở đoạn có tên là Blansubé = Lan-Si-Bê và chợ Thái-Bình với tên chợ Lan-Si-Bê như BNL đã kể.[/FONT]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cống rãnh ở Sài Gòn xưa

    Trần Hữu Quang

    [​IMG]

    Song song với công việc làm vỉa hè đường phố của đô thị Sài Gòn thuở ban đầu trong thập niên 1860, là quá trình xây dựng các đường cống rãnh thoát nước thải.

    Đầu năm 1871, một đơn khiến nại của dân cư ở đường Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) và vài đường khác xung quanh đường Bonard (nay là Lê Lợi) đã lên tiếng báo động rằng việc lấp kênh Charner (nay là đại lộ Nguyễn Huệ) mà không tính toán gì tới chuyện thoát nước đã làm cho nhiều đoạn đường bị ngập vào mùa mưa, gây ra những vũng nước tù đọng, có thể nguy hại cho sức khỏe công cộng.

    Thực ra, trước năm 1867, nhà cầm quyền Pháp đã cho làm một vài đường ống cống chính đổ ra kênh Charner. Đường cống này thỉnh thoảng bị nghẹt, gây ô nhiễm và hôi thối cho khu vực xung quanh, và Hội đồng thành phố (HĐTP) đã nhiều lần lên tiếng phản đối và yêu cầu phải giải quyết chuyện này, chẳng hạn bằng cách lấp hẳn kênh Charner.

    Khoảng giữa năm 1871, HĐTP đã thúc bách giám đốc Sở Cầu đường phải nhanh chóng cung cấp sơ đồ độ cao của thành phố để có thể cho bắt tay làm hệ thống ống cống. Vài tháng sau, tuy đã có sơ đồ độ cao, nhưng HĐTP còn đặt ra yêu cầu là phải làm thế nào để tránh tình trạng nghẹt cống và ngập nước khi có cơn mưa lớn vào đúng lúc con nước thủy triều lên cao - vì lúc đó cống sẽ không kịp thoát nước.

    Hệ thống ống cống bắt đầu được xây dựng dần dần kể từ đó (1872). Đến năm 1905, HĐTP lại quyết định phải vay thêm để có kinh phí hoàn tất hệ thống cống còn dang dở.

    Vào năm 1903, do nhận thấy nước đọng ở các xi-phông (siphon) ở các miệng cống (nhằm ngăn chặn mùi hôi bốc ra khỏi miệng cống) trở thành ổ sinh sôi muỗi anôphen và muỗi vằn, nhất là ở đường Nationale (nay là Hai Bà Trưng) và đường Lagrandière (nay là Lý Tự Trọng) xung quanh bệnh viện Sài Gòn (nay là Bệnh viện Nhi đồng II), nên Viện Pasteur đã đề nghị phải làm sạch các vũng nước tù đọng, và tiêu diệt lăng quăng ở các bọng nước ở miệng cống, bằng cách quét qua mặt nước bằng một miếng vải thấm dầu lửa.

    Về hố xí, trong những thập niên đầu thế kỷ này, dân cư Sài Gòn vẫn áp dụng phổ biến phương pháp "đổ thùng". Cuối năm 1906, một nhà kinh doanh người Pháp Bonnet đến đề nghị với HĐTP cho áp dụng một phương pháp mới mang tên Rivoli Septic Tank. Đây là kỹ thuật hố xí tự hoại, nhằm diệt khuẩn trong phân. Ông đã làm thử thành công một số hố xí ở Chợ Lớn để chứng minh. Chính quyền thành phố đã xem xét vài lần đề nghị này, nhưng lúc đó đã không đi đến quyết định dứt khoát.

    Đến năm 1913, theo báo cáo của Sở Công chánh Đông Dương, "một phần diện tích của thành phố Sài Gòn đã được trang bị hệ thống ống cống, tiếp nhận nước thải từ các hộ gia đình đổ ra đường hoặc đổ vào các ống nhánh, cũng như nước mưa, ngoại trừ phân, bởi vì phân được chở ra đổ ngoài phạm vị thành phố bằng thùng xe"

    Sau năm 1954, hệ thống cống ở Sài Gòn tiếp tục được xây dựng theo tốc độ đô thị hóa, với chức năng vừa thoát nước mưa, vừa thoát nước thải gia dụng lẫn nước thải công nghiệp, đổ ra ở nhiều điểm sông rạch khác nhau; và thành phố chưa có hệ thống lọc nước thải.

    Tính đến năm 1988, toàn thành phố có khoảng 500 km đường ống cống trên các tuyến đường phố chính, phần lớn bằng bêtông và một số ít đoạn ống bằng thép với 12 kích cỡ khác nhau, đường kính từ 100 mm tới 2.200 mm, theo dạng hình tròn, nửa tròn, hay hình móng ngựa. Hầu hết đều đã cũ hoặc quá cũ. Ngoài ra, còn có khoảng 150 km ống cống ở các hẻm. Về nắp miệng cống, có tổng cộng 22.613 cái, với 22 loại kích cỡ và hình dạng khác nhau bằng gang, bằng thép hoặc bêtông cốt thép.

    Theo TBKTSG
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Ngộ nghĩnh quảng cáo ở Việt Nam thời thuộc địa

    Thứ năm, 31/05/2012, 17:02
    Thông qua những tờ quảng cáo này, người xem sẽ có những khám phá thú vị về đời sống vật chất cũng như tinh thần của tầng lớp thượng lưu Việt Nam cách đây 1 thế kỷ.

    >> Có khuất tất sau các hợp đồng quảng cáo bia Sài Gòn?
    >> Vạch trần chiêu trò quảng cáo của các ông chủ mỳ gói
    >> 5 quảng cáo bị 'ném đá' nhiều nhất tại Việt Nam



    Những tờ quảng cáo này được trích từ tạp chí Pháp Extrême-Asie, số 10, xuất bản vào tháng 4/1927 dưới sự bảo trợ của Toàn quyền Đông Dương.


    [​IMG]

    Quảng cáo các mặt hàng thịt tươi sống.

    [​IMG]

    Quảng cáo cho hãng dược phẩm thành
    lập năm 1920 của nhà hóa dược Louis Sarreau.


    [​IMG]

    "Siêu xe" thời thuộc địa.

    [​IMG]

    Quảng cáo cho khách sạn Cung điện Langbian ở Đà Lạt.

    [​IMG]

    Chiếc ô là vật dụng thể hiện địa vị của người
    sở hữu và một chiếc ô "hàng hiệu" là mơ ước của nhiều người.


    [​IMG]

    Quảng cáo của Công ty Brossard và
    Mopin,công ty tài chính lâu đời nhất Đông Dương.


    [​IMG]

    Còn đây là quảng cáo của Tổng công ty tài chính thuộc địa Pháp.

    [​IMG]

    Nước ngọt đóng chai là một
    đồ uống phổ biến trong xã hội thuộc địa.


    [​IMG]

    Quảng cáo cho trung tâm mua sắm Charner ở Sài Gòn.

    [​IMG]

    Quảng cáo cho xưởng ảnh do ông Khánh Kỳ thành lập năm 1907.

    [​IMG]

    Quảng cáo cho một cửa hàng cổ vật.

    [​IMG]

    Ngân hàng Đông Dương.

    [​IMG]

    Quảng cáo sản phẩm cao su địa phương.

Chia sẻ trang này