1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sài gòn năm xưa

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 26/05/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hình ảnh chợ Cũ Sài gòn




    Khoảng những năm 10,20 thế kỷ 20

    [​IMG]

    [​IMG]

    Góc đường Hàm Nghi

    [​IMG]
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Gia Định phú
    của Không rõ



    1. Phủ Gia Định![1] phủ Gia Định! Nhà đủ người no chốn chốn,
    Xứ Sài Gòn! xứ Sài Gòn! Ở ăn vui thú nơi nơi.
    2. Lạc thổ[2] nhóm bốn dân: sĩ nông công thương ngư tiều canh độc [3],
    Kim thành[4]xây tám hướng: càn khảm cấn tốn ly khôn đoài.[5].
    3. Lợi đất thinh thinh[6] xóm Vườn Mít[7]
    Bầu trời vòi vọi núi Mô Xoài[8].
    4. Đông đảo thay phường Mỹ Hội[9],
    Sum nghiêm bấy làng Tân Khai.[10]
    5. Ngói lợp vẩy lân [11], phố thương khách nhà ngang nhà dọc,
    Hiên che[12] cánh én, nhà quan dân hàng vắn hàng dài.
    6. Gái nhơ nhởn tay vòng tay xuyến,[13]
    Trai xênh xang chơn hớn chơn hài [14].
    7. Dù võng nghênh ngang chợ Điều Khiển[15]
    Quan quân rậm rật cầu Khâm Sai[16].
    8. Kẻ vào Chợ Quán, ra Bến Nghé [17],
    Người xuống Nhà Bè[18]lên Đồng Nai.
    9. Coi ngoài rạch Bà Nghè[19], dòng trắng hây hây tờ quyến trải[20],
    Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt lá chàm rai[21].
    10. Dưới bến hát lẳng lơ, giọng con đò, giọng con rổi,
    Trên bờ ca khỏng khảnh, tiếng thằng mục, tiếng thằng nài [22].
    11. Chợ Cây Da thằng Mọi, coi bán đủ thuốc xiêm, cau mứt [23],
    Cái rạch cầu Con Miên[24], thấy làm nguyên cột vắp, ván trai[25].
    12. Trên Cây Da Còm [26], nỡ để ông già đầu đội[27]
    Dưới đường đi cầu Khắt[28], bỏ chi con trẻ lạc lài (loài).
    13. Đường Nước Nhỉ[29] đất tiu tiu, người thương khách lại qua mát mẻ,[30]
    Quán Nước lên[31]dòng cuồn cuộn, kẻ bộ hành tắm giặt nghỉ ngơi[32].
    14. Kho Cẩm Thảo chứa thuế vua, mạch nước sữa dân [33]Mạch nước sữa dân ai dám phá,
    Chùa Kim Chương[34] làm tôi Phật tương chua muối mặn sãi trường chay.
    15. Kinh Gạo[35], người bán gạo, lưng vơi chẳng dám điều hết kiếp,
    Chợ Rau, kẻ buôn rau, mắc rẻ ở ăn cái đồng nài[36].
    16. Trong làng Cây Gõ[37], nhà bền rường cột,
    Ngoài chợ Cây Vông[38], chất đống chông gai.
    17. Nhắm kinh Mới[39]như chỉ giăng đường đất,
    Đi chợ Hôm[40]vừa tối sập mặt trời.
    18. Chùa Cẩm Đệm[41]nên nghiêm, rực rực thấy thầy nằm nệm gấm,
    Xóm Hoa Nương [42] đua nở, dầy dầy coi khách bẻ ngụy người.
    19. Trong Chợ Lớn[43]thinh thinh, góp nhóp bốn phương đủ hết loài rừng vật biển,
    Trên cầu Quan[44]lồ lộ, lại qua mấy phía, thảy đều chú đội cậu cai.
    20. Giếng Bà Nhuận[45]mạch cam tuyền, trai gái thảy thỏa tình khát vọng,
    Cầu Bà Thuông[46]đường quan lộ, gần xa đều phỉ chí quy lai.
    21. Chói chói bấy! chùa Ông Quan Đế[47], chí trung nghĩa cao xa ngàn thuở,
    Thăm thẳm thay! miếu Đức Thánh Nhân[48]mối tư văn[49] dựng để muôn đời.
    22. Nhìn thấy chùa Ông Bổn Đầu Công[50], dám quên chữ ngọn rau tấc đất,
    Ngó thấy miếu Công Thần[51] chư vị, chạnh tưởng câu niềm chúa nghĩa tôi.
    23. Kẻ lâm dâm vái Bà Chúa Thai Sanh[52], xin mẹ tròn con vuông, chẳng sanh trai thời sanh gái,
    Người ký cúc lạy chùa Bà Mã Hậu[53], xin thuận buồm xuôi gió, đi đến chốn về đến nơi.
    24. Cắc cớ[54] chợ Lò Rèn[55], chát chát tựa nhà Ban[56] đánh búa,
    Lạ lùng xóm Lò Gốm[57], chạy vo vo như Bàn Cổ [58] xây trời.
    25. Khỏi lo bề lẩm nhẩm dầm sương, rong vát người đi đường chợ Sỏi[59],
    Hằng lấy kẻ gầu hào, xúc ốc, nồng nã kẻ ở xóm Lò Vôi[60].
    26. Gắng gỏi bấy cho đàn bà xứ Gò Vấp[61]
    Thanh thao thay hình hòa thượng chùa Cây Mai[62]
    27. Giếng Hàng Xáo[63]múc dập dìu, kẻ chở thuyền người chuyên bộ,
    Xóm Cối Xay [64]làm tở mở, chồng sửa họng vợ đục tai.
    28. Trong Cầu Đường[65]bào chuốt ngọt ngon, đủ đường phổi, đường cát, đường phèn, đường hạ,
    Ngoài Xóm Bột[66] phơi phong trắng dã, nhiều bột mì, bột đậu, bột lọc, bột khoai.
    29. Đồng Tập Trận [67]rộng cả ngàn, coi xấp xỉ bằng Thái Nguyên dã,[68]
    Gò Mô Súng [69] cao lúp xúp,
    Nhằm sâm si nửa tợ Vọng Vân Đài [70]
    30. Chốn thi trường[71]lẩy lẩy nho sinh, đều nhắm cánh hộc hồng, một thuở bảng vàng lăm chiếm,
    Nhà quốc học dầy dầy sĩ tử, gắng gia công đèn sách, mười thu nghiêng sắt chuyên mài.
    31. Cầu Cây Gõ[72] trầy trầy, hốt gẫn hổ ngươi cho cái cầu Ông Bỉnh,
    Quán cao lâu vòi vọi, đành hay mắc cỡ cho cái quán Bà Cai[73].
    32.Trước phố phường bày hàng bày hóa
    Sau nhà quê trồng bắp trồng khoai.
    33. Thuyền An Nam lui tới, ghe đen mũi ghe vàng mũi [74]vào ra coi lòa nước,
    Người phương Đông qua lại, tàu xanh mang, tàu đỏ mang hàng hóa chất ngất trời.
    34. Trọ trẹ ở dưới sông, quân Huế kéo nhau hò “hố hụi”
    Lô xô dầy trên chợ, khách già lạu chèo ỏi “ài ô”.
    35. Lều thầy bói[75] cắm bên đường, thấy gieo tiền hào[76] sách hào đơn mà quyết đoán quẻ rằng linh quẻ,
    Bọn quân phường ngồi dưới cội, nghe đổ sứa hồi khoan hồi nhặt, giọng dầy vang hơi thiệt tốt hơi[77].
    36. Phiêu diêu cho chú ở dưới ghe, nghề nghiệp ruổi đầu sông đổi nước,
    Cắc cớ bấy ông ngồi trên trại, máy móc làm cái ống dòm trời.
    37. Lũ Tây dương da trắng bạc, mồm giợt giạt, miệng dứt lác[78], tóc quăn co, tưởng thần qủy, thần ma, thần sát,
    Quân Ô-rô mặt đen thui, môi tếch tác, đầu quăn chít, ngỡ thiên bồng, thiên tướng, thiên lôi [79]
    38. Con bưng rổ te te chạy vát,
    Thằng cầm chèo hất hất đứng coi.
    39. Lính nghèo ngoài cửa kéo chổng khu, tội báo ham vui chơi con thỏa,
    Trùm ruộng trong ghe xui mất của, thương vì vác mặt ngó cái đòi.
    40. Nhiều nhà giàu một lạ một lùng, có kẻ giàu dư muôn dư triệu,
    Mấy ai khó cho bần cho thiểu, khó không trơn bề đất cắm dùi.
    41.Chốn chốn phong hoa ca vịnh[80]
    Nhà nhà lịch sự vui chơi.
    42.Lũ bảy đoàn ba, rật rật thấy ban mai khách trúc,
    Kẻ qua người lại, dầy dầy nghe lạc ngựa chuông voi.
    43. Nhắm cảnh vật lịch ư quá lịch,
    Nhìn phong quang vui rất đổi vui.
    44. Muốn nói mà chẳng hay vừa hết,
    Muốn coi mà chẳng hay vừa thôi.
    45. Tôi nay học còn muốn học,
    Tài hãy sơ tài.
    46. Mặt thấy dân khang vật phụ[81],
    Tình ưng xúc cảnh hứng hoài[82]:
    Bỡ ngỡ lầy tây xế bóng hường,
    Trông chừng non nước chạnh quân vương.
    Lơ thơ nội lục cây mờ khói,
    Man mác non xanh lá đượm sương.
    Đèn thỏ mãi chờ miền hải đảo,
    Thuyền ngư vắng nhóm bãi Tiêu Tương[83].
    Lẽ hằng đắp đổi theo hôm sớm,
    Cơn cớ chi người luống chạnh thương.




    [sửa] Chú thích cuối trang

    1. ▲ Phủ Gia Định: Đơn vị hành chính này do thống suất Nguyễn Hữu Cảnh lập năm 1698. Trong quá trình Nam tiến, đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, lãnh thổ miền Nam được sắp xếp lại và đất Gia Định thuộc dinh Phiên Trấn. Ở thời điểm tác giả làm ra bài này (phỏng định ở đầu thế kỷ 19), phủ Gia Định đã không còn tồn tại, nhưng cái tên ấy thỉnh thoảng vẫn còn được dùng do thói quen. Như ở đây tác giả dùng cái tên “phủ Gia Định” để chỉ vùng Sài Gòn và Chợ Lớn.
    2. ▲ Lạc thổ có nghĩa như lạc cảnh, tức cảnh vui.
    3. ▲ Theo quan niệm của người Việt xưa, thì ngư, tiều, canh, độc (đọc sách) là tứ ẩn, tức là bốn cái thú điền viên, xa lánh trần tục.
    4. ▲ Bản Trương Vĩnh Ký chép là Quy thành, tức "thành Gia Định" hay "thành Phiên An" do chúa Nguyễn Phúc Ánh ra lệnh khởi công xây dựng vào ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất (1790) tại làng Tân Khai. Theo Trương Vĩnh Ký thì trung tâm tòa thành ở đúng vị trí nhà thờ Đức Bà Sài Gòn hiện nay. Tòa thành có 8 cạnh nên còn gọi là "Thành Bát Quái" hay "Thành Quy". Năm 1835, sau khi đánh dẹp cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng sai phá thành cũ, xây thành mới gọi là "Thành Phụng". Năm 1859, quân thực dân Pháp tấn công thành. Và sau khi thành bị đánh hạ, họ đã phá hủy hoàn toàn.
    5. ▲ Đây là 8 quái trong Bát quái.
    6. ▲ Chưa rõ nghĩa, nhưng rất có thể như thênh thênh, tức rộng rãi, đối với từ vòi vọi (rất cao) ở câu dưới.
    7. ▲ Theo Vương Hồng Sển, xóm Vườn Mít ở lối đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nơi đặt Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh. Ông cho biết ngày xưa dân nghèo ở đây lấy hột mít xay ra bột để bán (Sài Gòn năm xưa, tr. 149 và Sài Gòn tạp phín lù, tr.367). Bản trong Tổng tập dư địa chí (tập 4) giải thích: Đây là xóm làm bột, ở ngoài thôn chợ Đũi, và Vườn Mít là chỗ trường diêm khi trước ở trong thành Quy (tr. 137).
    8. ▲ Núi Mô Xoài còn gọi là núi Dinh ở Bà Rịa.
    9. ▲ Thôn Mỹ Hội bắt đầu từ mé kinh Cây Cám (là con kinh ở phường Bến Nghé, do kỹ sư Bovet đề xuất đào năm 1867, bị lấp năm 1892. Cây Cám là loại cây, lá có phấn mịn như cám, mọc cạnh kinh) chạy lên tới ranh làng Tân Khai (tục danh là Chợ Sỏi). Theo Vương Hồng Sển thì "thành phố Sài Gòn" buổi ấy nằm trên phần đất thôn Mỹ Hội (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 100).
    10. ▲ Làng Tân Khai, tục danh là "Chợ Sỏi" hay Bến Sỏi" (vì bến sông có nhiều cát sỏi), hay Vàm Bến Nghé", ranh đất giáp với đường Trường Tiền (đầu đường có sở đúc tiền thời chúa Nguyễn lập năm 1796), tức đường mé sông lối Cầu Mống. Khi xưa, đường mé sông nhà cửa đông đúc lớp trên bờ, lớp dưới mé nước, chạy dài chen chúc khúc khít nhau (Trịnh Hoài Đức ghi là chợ phố Lịch Tân), có bến tắm ngựa. (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 100 và Sài Gòn- Gia Định qua thơ văn, tr. 270).
    11. ▲ Lân tức Kỳ lân, là một trong 4 linh vật của tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Á Đông. Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam là "Ngói liền liền đuôi lân" (tr. 137).
    12. ▲ Bản Trương Vĩnh Ký chép là "sè", có nghĩa là thấp lắm. Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam cũng chép là "sè".
    13. ▲ Nhơ nhởn có nghĩa vui vẻ, không lo lắng (Thanh Nghị, tr. 1020). Bản Trương Vĩnh Ký chép là: "Gái nha nhuốc tay vòng tay kiểng". Kiểng là vòng đeo ở chân hoặc ở cổ. Xuyến là vòng đeo ở cổ tay. Vậy, chữ "xuyến" dùng trong bản này đúng hơn. Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam chép là "Gái nha nhuốc tay vòng tay niễng" (tr. 137)
    14. ▲ Chơn hớn (Hán) chơn hài có nghĩa là chân giày chân dép.
    15. ▲ Chợ Điều Khiển lập năm 1731, nằm gần đồn Dinh (ở góc đường Nguyễn Trãi với Phạm Ngũ Lão ngày nay) thời chúa Nguyễn. Nguyễn Đình Đầu giải thích: "Chợ này nằm gần đường quan lộ (nay là đường Nguyễn Trãi), cụ thể là nằm trên đường Nam Quốc Cang (Địa chí tập 1, tr. 164)
    16. ▲ Rậm rật: "Thôi thúc trong lòng đến mức khó có thể dừng được" (Nguyễn Như Ý chủ biên, Từ điển Tiếng Việt thông dụng. NXB Giáo Dục, 1996, tr. 919). Cầu Khâm Sai là chiếc cầu bằng gỗ nằm cuối đường Kim Biên, phường 13, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, do một viên quan làm chức khâm sai tạo lập, nên có tên ấy. Về sau, cầu bị phá bỏ.
    17. ▲ Chợ Quán khi trước ở tại làng Tân Kiểng (kế làng Nhơn Giang và Bến Nghé) nên còn gọi là chợ Tân Kiểng. Đây là một trong số ít ngôi chợ có từ nửa cuối thế kỷ 18 ở trấn Phiên An. Gọi là Chợ Quán vì thuở trước chợ nhóm ở lối nhà thương Chợ Quán (nay là Trung tâm Bệnh Nhiệt Đới ở số 190 Bến Hàm Tử, phường 1, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, chung quanh chợ có nhiều quán xá. Bến Nghé là tên chỉ vùng đất trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Theo Vương Hồng Sển, thì người Việt đã tụ tập ở đây từ 1790 (Sài Gòn năm xưa, tr. 88).
    18. ▲ Nhà Bè là ngã ba sông Nhà Bè. Kêu vậy là vì trước đây Võ Thủ Hoằng cho kết tre làm bè, cất nhà trữ gạo củi…để cho người qua đây ăn ở mỗi khi gặp phải con nước ngược. Lần hồi về sau, người ta bắt chước làm hai ba chục cái bè để bán hàng, thành ra cái chợ Nhà Bè. Đến sau khi đường bộ thông, cộng thêm nỗi quân Tây Sơn vào đánh mới tan nát Nhà Bè đi (theo bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam, tr. 137).
    19. ▲ Rạch Bà Nghè, tức rạch Thị Nghè (tên chữ là Bình Trị Giang), là một con rạch (hoặc sông) bắt nguồn từ rạch Nhiêu Lộc đổ ra sông Sài Gòn. Gia định thành thông chí chép: "Bà Nghè là con gái đầu của Khâm sai Chánh thống Vân Trường hầu, tên bà là Nguyễn Thị Khánh, có chồng là thư ký mỗ, người đương thời gọi là Bà Nghè mà không gọi tên thật. Nhân vì khi đầu bà khai chiếm đất ở, bắc cầu ngang qua sông để tiện đi lại, nên dân quen gọi là cầu Bà Nghè (cầu Thị Nghè), cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè" (mục "Trấn Phiên An").
    20. ▲ Tờ quyến: tờ giấy mỏng thường dùng để vấn thuốc lá.
    21. ▲ Giồng Ông Tố (Lão Tố cang) là vùng đất cao ở Thủ Đức. Khi xưa, cây giâu gia (hay dâu gia, giâu da) mọc đầy ở đây, người Xiêm La sang Sài Gòn buôn bán gọi cây này là chàm rai. Xem [1]. Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam chép "Cây xanh mịt mịt lá chàm rai", và chú thích là: Giồng ở bên kia sông Sài Gòn, dài 7 dặm, rộng 4 dặm, có cây cối mọc rậm rạp, 4 phía có ruộng, trước mặt có rạch, cũng kêu là rạch Giồng Ông Tố (tr. 138).
    22. ▲ Con rổi: người đi bán cá (theo Sài Gòn - Gia Định qua thơ văn xưa, tr. 263). Thằng mục: người chăn nuôi súc vật. Thằng nài: người cỡi voi hay ngựa.
    23. ▲ Theo Trương Vĩnh Ký trong “Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận”, thì chợ Cây Da Thằng Mọi ở gần chợ Điều Khiển (Huỳnh Minh nói hai tên đó chỉ cùng một chợ)...Vương Hồng Sển cũng nói đây là hai ngôi chợ ở gần nhau. Và vì chợ ở cạnh gốc cây da, thường bán loại chân đèn bằng gốm, có hình người màu đen (mọi), đội trên đầu dĩa đèn chứa dầu lạc hay dầu dừa, nên có tên này. Thuốc xiêm: thuốc lá xắt và ướp theo cách người Xiêm La.
    24. ▲ Cầu Con Miên, tức cầu Cao Miên, nay là cầu Bông, bắc qua rạch Thị Nghè nối quận 1 với quận Bình Thạnh. Trịnh Hoài Đức cho biết năm 1736, triều đình Chân Lạp lại xảy ra việc tranh chấp ngôi vua, buộc Nặc Tha chạy sang Gia Định. Sau khi được phép ở chỗ này, Nặc Tha bèn cho làm cầu ván bắc qua sông để tiện việc qua lại, được người đời gọi là cầu Cao Miên. Sau đổi là Cầu Hoa, rồi vì kỵ úy bà Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng) nên đổi là Cầu Bông.
    25. ▲ Vắp là tên cây, âm gốc từ tiếng Khmer là Kompăp. Đây là một loại danh mộc, cây cao, gỗ cứng chắc. Gia Định thành thông chí chép: "Cây váp, lá như lá khế, thân cao xỏng, cứng chắc, sắc tím đen, muốn dùng làm đồ xài thì dùng lúc cây mới đốn còn tươi, để lâu thì dao búa đẽo cũng không vào, chịu đựng được nước mưa, đốt làm than để nấu đồng sắt, rất cần cho việc quốc gia.
    Cũng theo sách này, thì "cây trai (chay) có lá nhỏ mà dài, cành thẳng lên như cán chổi, gỗ bền chắc, trăm năm không mục, lâu ngày gân cây như răng lược, người ta thường dùng làm quan quách và cột mốc giới" (Sản vật chí).
    26. ▲ Cây Da Còm là một cây da nhánh còm, lá gie khòm xuống mặt đất. Bên cây da này có chợ gọi là chợ Cây Da Còm. Sau, nhà cầm quyền Pháp cho dẹp chợ và cất lên Khám Lớn Sài Gòn (Maison Centrale de Saigon), nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ở số 69, đường Lý Tự Trọng, phường Bến Thành, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
    27. ▲ Thời thái bình, theo Mạnh Tử thì không có cảnh “lão giả bất phụ đai ư đạo lộ” (ông già không gùi đội nơi đường sá). Tác giả dùng tích này có ý nói ngược lại.
    28. ▲ Cầu Khất: Cầu có nhiều trẻ em ăn xin. Bản Trương Vĩnh Ký chép là Cầu Khắc và giải thích đây là cầu Bà Châu (còn một cái cầu trùng tên ở ngoài chợ Cầu Kho nay thuộc phường Cầu Kho, quận 1). Xét ra, cái tên Cầu Khắc hợp lý hơn.
    29. ▲ Trịnh Hoài Đức chép: "Phía bắc chùa Kim Chương có suối nước ngọt bốn mùa dưới đất chảy tràn ra ướt dầm cả đường đi". Trương Vĩnh Ký giải thích thêm rằng vì con đường thường bị ngập lụt, tư mùa ẩm ướt nên có cái tên này. Theo Sài Gòn-Gia Định qua thơ văn xưa' thì đường Nước Nhĩ nay là khúc đường Cống Quỳnh thông qua đường Phạm Ngũ Lão (tr.268).
    30. ▲ Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam chép "Đường Nước Nhỉ chảy tiu tiu/ Người thương khách lại qua hóng mát".
    31. ▲ Quán Nước Lên là quán nằm ở trên khúc đường Lò Gốm xuống ngã tư rạch Lào thuộc quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh bây giờ.
    32. ▲ Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam chép "Quán Nước Lên dòng dờn dợn/ Khách bộ hành tắm gội nghỉ ngơi.
    33. ▲ Kho Cẩm Thảo còn gọi là kho Giản Thảo ở làng Tân Triêm, do chúa Nguyễn sai lập năm 1741. Đây là dãy nhà kho chứa lúa thuế từ Nam Kỳ lục tỉnh chở lên nộp cho triều đình. Trên bản đồ Trần Văn Học vẽ năm 1815, nó được vẽ rõ rệt (hình vuông, có sông rạch bao quanh). Vị trí kho nay là nhà thờ Chợ Kho. Mạch nước sữa dân, ý nói số lúa này dành để phục vụ cho dân cho nước.
    34. ▲ Chùa Kim Chương hay Kim Chung Tự. Chùa này lại xây trên một nền chùa Chân Lạp đã có trước đời Gia Long. Theo Trương Vĩnh Ký thì chúa Nguyễn Phúc Thuần và chúa Nguyễn Phúc Dương đều bị quân Tây Sơn hành quyết tại đây lối năm 1777. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (1861), chùa Kim Chương đã được tháo dỡ đem về xã Mỹ Thiện (nay là xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang).
    35. ▲ Kinh Gạo ở vùng Chợ Quán, và vì nằm trong xóm chuyên bán gạo nên có tên này. Cây cầu bắt qua kinh này cũng gọi là cầu Gạo.
    36. ▲ Chợ Rau là Chợ Rẫy ở chỗ bệnh viện Chợ Rẫy ngày nay (Bến Nghé xưa, tr. 21). Nài ở trong câu này có nghĩa là cố mời, cố xin.
    37. ▲ Làng Cây Gõ ở vùng Phú Lâm, nay thuộc quận 6 (Thành phố Hồ Chí Minh).
    38. ▲ Chợ Cây Vông khi xưa ở lối nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi (ngày nay là Công viên Lê Văn Tám thuộc quận 1), gần cầu Bông.
    39. ▲ Theo Sài Gòn - Gia Định qua thơ văn, thì kinh Mới tức kinh Tàu Hủ do phó tổng trấn Gia Định Huỳnh Công Lý đốc suất đào năm 1819. Khi đào xong, được nhà vua cho đặt tên là An Thông hà, tục gọi là Kinh Mới, Pháp gọi là Arroyo Chinois. Và vì chảy ngang Chợ Lớn nên còn gọi là Rạch Chợ Lớn. Trong Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận, Trương Vĩnh Ký viết: "Hai bên bờ rạch Chợ Lớn là hai dãy nhà phố lớn bằng gạch gọi là Tàu Khậu để cho người Hoa từ Trung Quốc hàng năm đi ghe biển tới thuê. Họ đem hàng hoá chứa trong các phố đó, hoặc để bán sỉ hoặc để bán lẻ khi lưu trú tại Sài Gòn". Theo Huỳnh Tịnh Của thì từ Thổ Khố (tức là khu nhà lớn bằng gạch để chứa hàng hóa), người Triều Châu phát âm từ Tàu Khậu, sau đọc trại ra thành Tàu Hũ. Bản Trương Vĩnh Ký giải thích kinh Mới là kinh Ruột Ngựa do quan Nguyễn Cửu Đàm cho đào vào mùa thu năm Nhâm Thìn (1772), phá một đường sình lầy để đào con kinh thẳng như ruột ngựa, nên gọi là "Mã Trường Giang". Nguyễn Đình Đầu theo ý này (xem phần “tác giả” ở trên).
    40. ▲ Chợ Hôm lúc bấy giờ nhóm lúc chiều tối ở quảng đường từ Bệnh viện Phước Kiến (nay là Bệnh viện Nguyễn Trãi vào Chợ Lớn.
    41. ▲ Chùa Cẩm Đệm tức chùa Giác Lâm, còn gọi là chùa Cẩm Sơn, dựng năm 1774 (Bến Nghé xưa, tr. 18). Buổi đầu có một cư sĩ tên Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán, đến cuộc đất cao ráo ở Phú Thọ dựng một am lá. Người địa phương gọi cư sĩ ấy là ông Cẩm Đệm và ngôi thờ tự ấy là am (sau là chùa) Cẩm Đệm. Tuy nhiên, theo nhóm Nguyễn Khuê, gọi Cẩm Đệm là vì gò Cẩm Sơn cỏ mọc xanh mướt, điểm hoa dại trông như gấm thêu (tr. 269). Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cũng đã khen ngợi cảnh chùa như sau: "Ở trên gò Cẩm Sơn, cách lũy Bán Bích về phía tây 3 dặm, gò chùa nầy như đống vàng bỗng nổi lên giữa chỗ đồng bằng trải thẳng cả trăm dặm…, cây to thành rừng, hoa núi dệt gấm, sớm chiều mây khói bốc lên quấn cuộn, tuy nhỏ nhưng lý thú" (mục "Thành Trì Chí"). Theo Vương Hồng Sển, thì Tư Mắt, tay anh chị nổi tiếng một thời khi già thường đến nghe kinh niệm Phật tại đây (Sài Gòn năm xưa, tr. 213).
    42. ▲ Xóm Hoa Nương nằm tại trung tâm Chợ Lớn, nhưng chưa biết ở lối nào. Vương Hồng Sển cũng chỉ ghi như thế này: Tục lệ thành Sài Gòn và Chợ Lớn, cho đến về sau lâu lắm mới dẹp là dân trong thành phố hễ quá mười giờ đêm muốn ra đường phải xách theo một ***g đèn, lại nữa riêng Chợ Lớn, xóm của gái điếm cũng gọi "Xóm ***g Đèn", đã là xóm huê nương tức nhiên phải về khuya, khách làng chơi cơm nước phủ phê rồi mới xách ***g đèn đến thăm, sự ấy cũng dễ hiểu (Sài Gòn năm xưa, tr. 152.
    43. ▲ Chợ Lớn là trung tâm điểm của vùng Đề Ngạn xưa (theo Vương Hồng Sển thì người Hoa đã tụ tập ở đây từ năm 1778 [Sài Gòn năm xưa, tr. 88]). Chợ ven kinh, buôn bán sầm uất tại khu vực Bưu điện Chợ Lớn thuộc quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
    44. ▲ Cầu Quan, tục gọi là cầu Gọ, ở ngang Thủ Thiêm, gần xóm Thủy Trại. Sở dĩ có tên Cầu Quan là vì trong xóm có nhiều quan viên ở. Nơi đây vẫn còn một ngôi đình mang tên Đình Cầu Quan (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 116-117.
    45. ▲ Nhóm Nguyễn Khuê giải thích đấy là giếng chùa Bà, gần Chùa Bà Thiên Hậu (Chợ Lớn). Vì nước tốt và ngọt nên còn gọi là giếng Cam Tuyền (tr. 269).
    46. ▲ Cầu Bà Thuông tên chữ là Thị Thông kiều. Cầu ở đầu kinh An Thông hà, do phó tổng trấn thành Gia Định Huỳnh Công Lý đốc suất đào năm 1819.
    47. ▲ Chùa (thật ra là miếu) Ông tọa lạc tại số 676-678 đường Nguyễn Trãi, quận 5, do người Hoa khởi dựng từ năm 1840, thờ Quan Công, nhân vật thời Tam Quốc. Ðây cũng là nơi hội họp của người Triều Châu nên còn gọi là "Nghĩa An Hội Quán" (Nghĩa An là tên một vùng đất ở Quảng Đông (Trung Quốc) nơi đa số người Triều Châu sinh sống). Ngoài ra, trong Chợ Lớn còn có “ít nhất” bốn nơi thờ Quan Võ Đế nữa đó là: Phước An hội quán (đường Hùng Vương), Bửu Sơn Hội quán (đường Xóm Vôi) và Nghĩa Nhuận Hội quán (đường Gò Công). Theo Sài Gòn năm xưa, 208-209.
    48. ▲ Miếu Đức Thánh Nhân tức Văn Thánh miếu thờ Khổng Tử dựng năm Minh Mạng thứ 5 (1824) nhưng nay đã mất dấu. Chỉ biết ngôi miếu khi xưa ở địa phận thôn Phú Mỹ (Thị Nghè), huyện Bình Dương, phía đông tỉnh thành Sài Gòn (Gia Định xưa, tr. 63), tức ở lối cầu Văn Thánh bây giờ. Đàn Xã Tắc cũng được lập tại đây, nhưng nay cũng không còn chút dấu tích gì (Sài Gòn năm xưa, tr. 221).
    49. ▲ Tư văn: lễ nhạc, chỉ giới văn học, giới làng nho (Thanh Nghị, tr. 1278)
    50. ▲ Chùa Ông Bổn Đầu Công tức Miếu Nhị Phủ, hiện tọa lạc tại số 264 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 14, quận 5. Ông Bổn, vị thần được thờ chính trong chùa, theo nhiều người đó là thái giám Trịnh Hòa đời nhà Minh.
    51. ▲ Miếu Công Thần tức Đền Hiển Trung ở địa phận thôn Tân Triêm xưa, trong vòng thành Ô Ma (Camp des mares) nằm bên đường Nguyễn Trãi ngày nay. Đền do chúa Nguyễn Phúc Ánh sai dựng năm 1795, đến năm 1804 thì sửa lại để thờ 1.015 vị công thần thời đánh nhau với quân Tây Sơn. Năm 1945, đền đã bị quân Pháp phá bỏ sau khi quân Nhật rút đi (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 97 và 154).
    52. ▲ Bà Chúa Thai Sanh là vị thần chuyên coi việc sinh đẻ theo tín ngưỡng của người Hoa. Ngôi miếu thờ vị thần này được lập (Nguyễn Đình Đầu còn nghi ngờ năm dựng như đã dẫn trên) năm 1839, ở cạnh chùa Ông Quan Đế đã ghi trên.
    53. ▲ Chùa Bà Mã Hậu tức chùa Bà Thiên Hậu (Chợ Lớn), hiện tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi.
    54. ▲ Cắc cớ: Đùa bỡn, trêu chọc (Thanh Nghị, tr. 201).
    55. ▲ Chợ Lò Rèn ở chỗ nhà thờ Cha Tam ngày nay tức ở khu vực đường Học Lạc, phường 14, quận 5.
    56. ▲ Theo Sơn Nam (Bến Nghé xưa, tr. 90) thì Ban ở đây là Lỗ Ban (tên thật là Công Thâu Ban), tương truyền là ông tổ của nghề mộc. Trương Vĩnh Ký chỉ chú thích nhà Ban là lò rèn.
    57. ▲ Xóm Lò Gốm ở làng Phú Lâm, bên rạch Lò Gốm.
    58. ▲ Bàn Cổ được coi là vị thần khai thiên lập địa, sáng tạo ra vũ trụ trong thần thoại Trung Quốc.
    59. ▲ Chợ Sỏi xem chú thích làng Tân Khai ở câu 4.
    60. ▲ Xóm Lò Vôi ở bên sông Bến Nghé, ngay lối rạch Ông Bé (nay thuộc quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh) chảy vào trong Chợ Lớn (theo Sài Gòn năm xưa, tr. 100).
    61. ▲ Gò Vấp tức "gò có nhiều cây vắp" (vắp nói trại thành vấp). Người Chàm gọi cây này là Krai và xem như là thần mộc, yểm hộ cho dân tộc họ. (Gia Định xưa, tr. 93). Xứ Gò Vấp xưa nay là một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
    62. ▲ Chùa Cây Mai tọa lạc trên gò Mai, thuộc Gia Định xưa. Trong thời Pháp thuộc, ngôi chùa đã bị tháo gỡ, chỉ còn lại gò Mai gần như phẳng lì, nằm ở góc đường Hồng Bàng-Nguyễn Thị Nhỏ thuộc phường 16, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
    63. ▲ Trước khi vô đến Chợ Lớn, ngang Xóm Than (chỗ này ghe từ lục tỉnh lên thường neo đậu) có một cái giếng gần mé sông, tên gọi là Giếng Hàng Xáo. Nước tốt nên người dân đua nhau đến giếng này để giành giựt đổi chác (Sài Gòn năm xưa, tr. 133).
    64. ▲ Xóm Cối Xây ở trong hẽm thuộc khu vực chợ Cây Da Thằng Mọi.
    65. ▲ Cầu Đường bắt qua rạch Cầu Đường ở trong xóm bán các loại đường thuộc Chợ Lớn.
    66. ▲ Xóm Bột xưa ở quãng từ Chợ Quán đến Bệnh viện Phước Kiến (nay là Bệnh viện Nguyễn Trãi). Đi tới nữa thì gặp Chợ Hôm, nhóm lúc chiều tối (Sài Gòn năm xưa, tr. 157(.
    67. ▲ Đồng Tập Trận là một cánh đồng rộng lớn thuộc quận 3 và quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Đầu năm mới, Tổng trấn Lê Văn Duyệt thường cho quân tập trận ở lối Mô Súng, tức ở khoảng khu vực Ngã Sáu Dân chủ ngày nay.
    68. ▲ “Thái Nguyên dã” có nghĩa rộng lớn như đất nhà Châu bên Trung Quốc (chú giải của Trương Vĩnh Ký).
    69. ▲ Gọi là "Mô súng" vì nơi đây (ở khoảng khu vực Ngã Sáu Dân chủ ngày nay) có các mô đất cao đặt các khẩu súng đại bác để phục vụ cho công tác huấn luyện của quân đội nhà Nguyễn.
    70. ▲ Vọng Vân Đài là đài cao để xem mây, tựa như đài Vọng Vân đời Hán (chú thích của Trương Vĩnh Ký).
    71. ▲ Trường thi Hương Gia Định ở địa phận thôn Hòa Nghĩa, phía tây tỉnh thành, nay là Nhà văn hóa Thanh niên tại quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
    72. ▲ Cầu Cây Gõ trong Phú Lâm, ở đoạn đường Minh Phụng bắc qua rạch Lò Gốm.
    73. ▲ Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam ghi là “bà Goi”, và chú thích như sau: Cầu Ông Bỉnh, quán Bà Goi là đường Chợ Gạo xuống Rạch Nhảy, Dừa Giăng đi lên, theo lối đường có cầu Ông Bỉnh và quán Bà Goi (tr. 142).
    74. ▲ Thời trước mũi ghe thuyền của mỗi tỉnh phải sơn màu khác nhau cho dễ phân biệt, như ghe Sài Gòn thì sơn mũi màu đỏ.
    75. ▲ Trương Vĩnh Ký chú thích: "Dãy lều thầy bói ở bên đường lối chợ Cây Da Còm đi vào chợ Đũi" (dẫn lại trong Sài Gòn-Gia Định qua thơ văn xưa, tr. 277). Còn theo Vương Hồng Sển thì: "Khúc chợ sung túc hơn cả thì ở vào khoảng từ cột cờ Thủ Ngữ chạy đến đầu cầu Mống mút đường Công Lý, xóm này có tên riêng là Dãy Thầy Bói cũng gọi là Đường Thợ Tiện. Đây là dãy nhà đẹp nhứt thuở “cựu trào” (Sài Gòn năm xưa, tr. 126).
    76. ▲ Hào: Một trong sáu vạch của một quẻ trong Kinh Dịch.
    77. ▲ Câu này tả cảnh những người ăn xin ngồi dưới bóng cây, nhịp sứa (làm bằng hai miếng cây cong cong) nói thơ để xin tiền khách đi đường (theo Trương Vĩnh Ký, sách đã dẫn, tr. 277). Theo Sơn Nam thì: Giữa Cầu Kho và Chợ Quán thời chúa Nguyễn là xóm ăn mày (Bến Nghé xưa, tr. 38).
    78. ▲ Dức lác: la lối.
    79. ▲ Thuở ấy có những người Java (thuộc Nam Dương) đến Sài Gòn mua bán. Đối với con mắt người Việt lúc bấy giờ, thì họ trông thật dị dạng (theo Trương Vĩnh Ký, sách đã dẫn, tr. 277).
    80. ▲ Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam chép là: “Chốn chốn phong quan ca xướng” và chú thích “phong quan” là tử tế, lịch sự (tr. 144).
    81. ▲ Khang có nghĩa là yên vui, yên ổn. Vật phụ chưa biết nghĩa. Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam chép là: “Mắt nhìn thấy dân phong vật phú” và chú thích “dân phong vật phú” là dân đông, vật nhiều.
    82. ▲ Bản in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam chép là: “Tình thừa ưa xúc cảnh hứng hoài”. Tiếp theo là mấy câu kết thúc sau (tức không có bài thơ luật): Góp nhóp những lời quê tiếng kịch/ Nối nắm nên giọng vắn câu dài/ Mặc thuở vui vầy xếp để,/ Khi buồn lại giở coi chơi.
    83. ▲ Tiêu Tương là nơi hợp lưu của hai con sông Tiêu Thủy và Tương Thủy ở địa phận huyện Linh Lăng tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Tác giả dùng từ này có ý nói cảnh sông ở Gia Định cũng đẹp tựa Tiêu Tương, nhưng tiếc rằng bến đã vắng tàu thuyền. Tám câu cuối, tác giả có ý cảm hoài.


    [​IMG]
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hình ảnh chợ Cũ Sài gòn



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hình ảnh chợ Cũ Sài gòn

    Chợ cũ - Animal Market (1965)

    bán đủ mọi loài: chim, chó, mèo, rắn, trăn, rùa, khỉ, vẹt, cắc kè... nói chung là có gì bán nấy!


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hình ảnh chợ Cũ Sài gòn
    1967

    [​IMG]

    1968

    [​IMG]

    [​IMG]
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hình ảnh chợ Cũ Sài gòn
    bánh mì phá lấu 1966


    Cuối tuần mời bà con đi dạo chợ cũ. Ai nhiều tiền thì đi siêu thị, ai ít tiền thì đi dạo chợ cũ sắm đồ secondhand. Đói thì đã có bánh mì phá lấu, cứ đứng ngay đó mà ăn. Đây là một món fast food của VN, ăn bao nhiêu tính tiền bấy nhiêu, tùy thích...



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]



  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hình ảnh chợ Cũ Sài gòn

    [​IMG]

    [​IMG]



    [​IMG]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133





    [​IMG]

    [​IMG]
    Saigon 1910 - Le 1er Marché

    Chợ đầu tiên của SG: Chợ cũ đúng 100 năm trước, vị trí ngay tại Kho Bạc trên đường Nguyễn Huệ ngày nay. Trong hình này Kinh Charner phía trước Chợ đã bị lấp vào năm 1887 và hai con đường hai bên bờ kinh Charner trước đây đã được nhập lại thành Boulevard Charner, mà người Sài Gòn thời ấy vẫn quen gọi là "đường Kinh Lấp"



    [​IMG]
    COCHINCHINE - SAIGON - MARAIS BORESSE

    khu vực ao Bồ Rệt, nơi sau này lấp đi để xây chợ Bến Thành, hoàn tất năm 1914.

    Ao Bồ rệt là một phần trong khu Boresse. Tại sao Tây gọi khu này là Boresse vẫn là một câu hỏi.. Ngoài ao Bồ rệt , Sài gòn xưa còn có đường Bồ rệt nổi tiếng là khu ăn chơi.
    [​IMG]
    SAIGON - QUARTIER BORESSE

    Xóm Bồ Rệt. Khoảng thập niên 1920-30, khu vực này là xóm các nhà chứa mà dân xe kéo quen gọi là xóm Bọt Đền (bordel = whorehouse, brothel, nhà thổ). Đường Boresse ở SG xưa nay là đường BS Yersin, Q1.



    [​IMG]

    SAIGON - THEATRE DES VARIETES, rue Boresse
    "Nhà Hát Đủ Thứ" (ghi trên bảng hiệu) trên đường Yersin ngày xư



  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    Trần Thượng Xuyên
    [FONT=&quot]Trần Thượng Xuyên [4] và những thế hệ [/FONT]
    [FONT=&quot]người[/FONT][FONT=&quot] Hoa [/FONT][FONT=&quot]đầu[/FONT][FONT=&quot] tiên trên đất Nam bộ[/FONT]
    [FONT=&quot]PHAN AN[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]
    [FONT=&quot]Ở quận 5 TP.HCM, có một di tích văn hóa Lịch sử cấp quốc gia mang tên ''Minh Hương Gia Thạnh Đình'' tọa lạc số 380 đường Trần Hưng Đạo. [/FONT][FONT=&quot]Đó là ngôi đình của làng Minh Hương, làng của những người Hoa được thành lập sớm nhất trên đất Nam bộ Việt Nam, ít ra cũng cách nay khoảng 250 năm. Trong đình thờ nhiều vị thần linh và những người có công gây dựng, bảo vệ cộng đồng người Hoa như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Nguyễn Hữu Cảnh... Trong số các vị được thờ tự, tri ân đó có cả Trần Thượng Xuyên, một trong những người có công dìu dắt, lãnh đạo một nhóm người Hoa từ Quảng Đông Trung Quốc đến lập nghiệp mưu sinh trên đất Nam bộ Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ XVll. Trước bàn thờ ông trong đình có đôi câu liễn chữ Hán như sau: [/FONT]
    [FONT=&quot]Sử tắc Bắc triều thần, Công thường trinh trọng [/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Ninh vi Nam quốc khách, trúc bạch chiếu thủy [/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Tạm dịch:[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Triều Bắc thẹn làm tôi, cương thường giữ vẹn[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Nước Nam xin làm khách, sử sách rạng danh.[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Bài vị của ông trên bàn thờ có ghi: ''Phụ Quốc Đô Đốc Tướng Quân, Thắng Tài Hầu, Gia Phong Oai Dịch Chiêu Đổng Hiển Linh, Trần Công Thượng Đẳng Thần''.[/FONT]
    [FONT=&quot]Bài vị và câu liễn đã thể hiện rõ phần nào về lịch sử' vai trò và vị trí của Trần Thượng Xuyên đối với người Hoa và vùng đất Nam bộ vào thế kỷ XVll – XVlll . [/FONT]
    [FONT=&quot]Trần Thượng Xuyên là thế hệ người Hoa đầu tiên trên đất Nam bộ. Ông là người đã rời bỏ đất nước Trung Hoa vì lý do chính trị. Ông là một võ quan của vương triều Minh trung Quốc. Khi vương triều Minh bị nhà Thanh lật đổ, mà nhà Thanh vốn là một ngoại tộc trong cái nhìn của người Hán đương thời, đã khiến cho nhiều quan lại nhà Minh không chậu hợp tác, đành rời bỏ Trung Quốc tìm nơi nương náu, ẩn dật chờ thời. Trước đây một số tư liệu thường nhấn mạnh đến lý do ''Phản Thanh phục Minh''của một số nhóm di dân Trung Hoa tìm đến Việt Nam kiểu như Trần Thượng Xuyên tìm đến Nam bộ. Theo tôi, trong chừng mực nào đó, nhóm di dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch tìm đến Nam bộ vào năm 1679, không hẳn hoàn toàn như vậy. [/FONT]
    [FONT=&quot]Thực ra nhóm lưu dân này trước khi đến Việt Nam, đã có thời gian lưu lại Đài Loan, lúc đó do Trịnh Thành Công chủ xướng việc chống nhà Thanh hy vọng trở lại lục địa. Khi thấy không còn hy vọng gì vào sự gây dựng lại nhà Minh, khi các cuộc bạo loạn chống lại nhà Thanh của Ngô Tam Quế ở lục địa và của Trịnh Thành Công ở Đài Loan đã đến hồi vãn cuộc nên Trần và Dương tìm đường tỵ nạn chính trị trên đất Việt Nam. Lúc này, nhóm của Trần và Dương đến Nam bộ tìm đất mưu sinh là chính, chứ không hẳn vì mục đích phản Thanh, phục Minh''. Quả thực cho đến nay, cũng chưa thấy có ý kiến nào lý giải tại sao Trần và Dương lại chọn đất Việt Nam để tá túc, mà không phải là một quốc gia nào khác ở Đông Nam Á? Hoặc giả tại sao là xứ Đàng Trong mà không phải là Đàng Ngoài. Về một mặt nào đó, phía Bắc Việt Nam, xứ Đàng Ngoài đương thời gần với Trung Hoa hơn và thuận lợi hơn cho ý đồ, công cuộc ''Phản Thanh phục Minh''. Hẳn sự chọn lựa của Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch tìm đến Đàng Trong, đến vùng đất Nam bộ không hoàn toàn ngẫu nhiên, mà có ý đồ nhất định. Ý đồ chính, theo tôi là sự chọn lựa vùng đất định cư và mưu sinh lâu dài. [/FONT]
    [FONT=&quot]Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch là những thế hệ cư dân đầu tiên của Người Hoa trên đất Nam bộ, nhưng có lẽ chưa phải là những người Trung Hoa đầu tiên tìm đến Nam bộ. Rất tiếc những tư liệu về những người Trung Hoa tìm đến định cư ở Nam bộ đến nay vẫn chưa đầy đủ và rõ ràng. Tuy nhiên theo tôi, trước thời điểm nhóm người Hoa của Trần và Dương đến Nam bộ hẳn có những người Trung Hoa đã đến Nam bộ hoặc xứ Đàng Trong. Không kể cuộc hành trình của phái bộ sứ thần Trung Quốc do Châu Đạt Quan đã đi qua đất Nam bộ trên đường đến kinh đô Vương quốc Chân Lạp vào thế kỷ Xlll, thì vào khoảng thế kỷ XVI - XVll, hẳn đã có những thương nhân Trung Hoa đã đến Nam bộ trong mối quanh giao thương với xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn. [/FONT]
    [FONT=&quot]Ngay trường hợp Mạc Cửu, một thương nhân người Hoa cũng đã tìm đến vùng đất cực Nam Nam bộ và Campuchia vào thời điểm 1671 trước khi họ Trần và họ Dương đến Nam bộ gần mươi năm. Họ Trần và họ Dương trước khi dẫn hơn 3.000 lưu dân Trung Hoa đến Nam bộ, hẳn đã có những thông tin cần thiết về xứ Đàng Trong ở Việt Nam và các vị đã có sự lựa chọn thích hợp. Và thực tế sự lựa chọn đó về sau này, cho thấy là những người lãnh đạo đoàn di dân đến Nam bộ năm 1679 là đúng đắn. Đất Nam bộ đương thời là vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, có điều kiện để những lưu dân Trung Hoa định cư lâu dài, cũng như mở mang, phát triển. Hai bên, những người lãnh đạo xứ Đàng Trong và những lưu dân Trung Hoa có những ý đồ và mục đích tương hợp nhau, gặp gỡ và gắn kết nhau để tồn tại và phát triển trên vùng đất phương Nam Việt Nam.[/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]
    [FONT=&quot]* * *[/FONT]
    [FONT=&quot]Vào cuối thế kỷ XVll, trên vùng đất Nam bộ Việt Nam đã hình thành ba trung tâm tụ cư của người Hoa.[/FONT][FONT=&quot] Đó là vùng Biên Hòa - Sài Gòn, với nòng cốt là nhóm di dân của Trần Thượng Xuyên. Trung tâm thứ hai là vùng nằm từ bờ Bắc sông Tiền và sông Hậu mà tập trung là ở Mỹ Tho và hướng về phía Tây Bắc với các tỉnh Đồng Tháp, Vinh Long, Cần Thơ... Khởi đầu trung tâm này là nhóm người Hoa của Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến chỉ huy tách ra từ đoàn di dân 3.000 người cùng Trần Thượng Xuyên đến Việt Nam vào năm 1679. Trung tâm tụ cư người Hoa thứ ba là khu vực Hà Tiên và phía Tây sông Hậu. Nhóm người Hoa đầu tiên đến vùng đất Hà Tiên do sự dẫn dắt của Mạc Cửu, một thương nhân Quảng Đông. Từa trung tâm ban đầu đó, người Hoa tiếp tục nhập cư và mở rộng khu vực cư trú ra hầu hết các vùng đất Nam bộ. Có thể xem Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu... và những lớp di dân người Hoa đến Nam trong khoảng cuối thế kỷ XVll - XVlll - là những thế hệ người Hoa đầu tiên trên đất Nam bộ. Những thế hệ di dân người Hoa đầu tiên này rõ ràng là những người tiên phong~dũng cảm và ít nhiều mạo hiểm khi lựa chọn vùng đất định cư ở Nam bộ vào thời điểm lịch sử lúc đương thời. [/FONT]
    [FONT=&quot]Hơn ba thế kỷ về trước, vùng đất Nam bộ hãy còn bạt ngàn là rừng rậm và đầm lầy, sông ngòi chằng chịt. Đó là một vùng đất đầy tiềm năng, nhưng cũng đầy thách đố với những người tiên phong khai phá bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên hoang dã. Trần Thượng Xuyên và những thế hệ di dân người Hoa tìm đến đất Nam bộ đã phải đối diện và khắc phục biết bao gian nan vất vả để có thể kiến tạo cho một cuộc sống ổn định, lâu dài. Tuy nhiên, những thế hệ người Hoa đầu tiên này cũng gặp không ít may mắn, thuận lợi trong việc khai mở mảnh đất mưu sinh. Trước hết là sự gặp gỡ của những di dân người Hoa với người Việt và Khmer trên vùng đất Nam bộ. Đó cũng là cuộc gặp gỡ của những người nông dân, thợ thủ công, những kẻ lưu lạc nghèo đói, đành phải rời bỏ quê hương của người Việt ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ, của người Khmer ở đầu châu thổ, phía thượng nguồn sông Mê Lông thuộc đất Chân Lạp xưa. Những người lao động nghèo khổ này đã tìm đến Nam bộ để tạo dựng một cuộc sống mới, mong mỏi thoát kiếp nghèo đói Chính cái thân phận nhọc nhằn, khổ đau ấy đã kết nối người Hoa, người Việt, người Khmer cùng các tộc người anh em khác trên đất Nam bộ từ thuở ban đầu Đó cũng chính là sức mạnh cho người Hoa, người Việt, người Khmer trong công cuộc chinh phục vùng đất Nam bộ trong những thế kỷ tiếp theo. Một ưu ái khác với những thế hệ người Hoa đầu tiên trên đất Nam bộ, đó là những quy chế ưu tiên cho những lưu dân Trung Hoa tìm đến và nhập tịch Việt Nam của các chính quyền Nhà nước đương thời- chúa Nguyễn cai trị xứ Đàng Trong và sau đó là vương triều họ Nguyễn. Những lưu dân người Hoa, được tự do đi lại, tự do buôn bán, được tự do giao dịch với người bản xứ và hơn thế nữa được lấy vợ người bản xứ, được sở hữu bất động sản... Hơn hết là được Nhà nước khuyến khích hội nhập vào cộng đồng cư dân Việt Nam. Đó là việc cho phép. Người Hoa đã trở thành công dân Việt Nam được lập làng Minh Hương, hoặc làng Thanh Hà gần giống như làng của người Việt đương thời. Làng (xã) Minh Hương Gia ở Chợ Lớn với ngôi đình Minh Hương Gia Thạnh là một dẫn liệu về chính sách của Nhà nước phong kiến Việt Nam có phần ưu ái với người Hoa. Mặc dù là những lưu dân mới đều từ Trung Hoa trong thế hệ đầu tiên, nhưng Nhà nước phong kiến Việt Nam, đương thời là chúa Nguyễn và tiếp theo là các vua Nguyễn đều rất quý trọng và tin tưởng ở những đóng góp của người Hoa cho vùng đất Nam bộ và xứ Đàng Trong nói chung. Chúa Nguyễn đã phong chức tước cho Trần Thượng Xuyên xem ông như một vị quan lớn của chúa Nguyễn ở đất Gia định.Với Mạc Cửu và những người kế nghiệp đã được chúa Nguyễn phong tước chức cho quyền tự quản trị vùng đất Hà Tiên... Những nhân tài của các thế hệ người Hoa đầu tiên trên đất Nam bộ, cũng đã được các chúa Nguyễn, vua Nguyễn ưu ái tin dùng mà các ông Trịnh Hoài đức, Ngô Nhân Tịnh là một dẫn chứng rõ nét. Trịnh Hoài Đức là đời thứ ba, ông nội ông sang cùng thời với Trần Thượng Xuyên. Cha Trinh Hoài Đức đã trở thành quan chức của chúa Nguyễn, còn bản thân Trịnh Hoài Đức là một quan lại cao cấp dưới hai triều vua đầu nhà Nguyễn...[/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]
    [FONT=&quot]* * *[/FONT]
    [FONT=&quot]Trần Thượng Xuyên và những thế hệ đầu tiên của người Hoa trên đất Nam bộ đã nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam và đã có những đóng góp tích cực trong công cuộc khai mở, phát triển và gìn giữ vùng đất Nam bộ. Những tư liệu ghi chép trong các biên niên sử của nhà Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại[FONT=&quot] Nam nhất thống chí... cũng như ghi chép của một số các tác giả đương thời như Lê quý Đôn, Trịnh Hoài[/FONT] Đức, Doãn Uẩn, Nguyễn Cư Trinh... cho thấy những thế hệ người Hoa đầu tiên ở Nam bộ có nhiều đóng góp tích cực trên nhiều lĩnh vực. [/FONT]
    [FONT=&quot]Trước hết, là trên lĩnh vực kinh tế. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, nhiều lần ghi lại việc người Hoa (còn gọi là người Đường, người Thanh) tham gia việc khai khẩn đất đai, lập vườn, ruộng ở đồng bằng sông Cửu Long. Người Hoa cũng tham dự vào việc đào các kinh làm thủy lợi, giao thông như kinh Mã Trường (Ruột ngựa) ở Gia Định, Kinh Vĩnh Tế (An Giang)... [/FONT]
    [FONT=&quot]Đặc biệt, những đóng góp của những thế hệ đầu tiên của người Hoa vào đời sống kinh tế trên vùng đất Nam bộ đó là hoạt động thương mại và thủ công nghiệp. Ngay từ những thế hệ di dân đầu tiên từ duyên hải Nam Trung Hoa, nơi có hoạt động thương mại khá sầm uất từ thế kỷ XV - XVl, đã có không ít các thương nhân, cả những thương nhân từng hoạt động ngoại thương trên vùng Đông Nam Á như Mạc Cửu. Hoạt động thương nghiệp là một thế mạnh của người Hoa và khi đến Nam bộ, một trong những công việc đầu tiên là lập các phố thị, tổ chức kinh doanh buôn bán. Trần Thượng Xuyên cùng những người di dân Trung Hoa, đến Biên Hòa, chẳng bao lâu sau đã thay đổi một cù lao hoang, hóa thành một trung tâm thương mãi lớn nhất vùng Đông Nam bộ. ''Phố xá, mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo bờ sông liên tục tới hơn 5 dặm. Đường phố chia thành ba hạng, phố lớn lót đá trắng, phố ngang lót đá ong, phố nhỏ lót gạch xanh. Đường phố bằng phẳng rộng rãi. Ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến neo đậu san sát nhau. Ấy là một chỗ đại đô hội, nhà buôn lớn Đến giao dịch rất nhiều... Gia Định thành thông chợ, cùng thời với Cù lao Phố ở Biên Hòa là cảng thị Mỹ Tho, cảng thị Hà Tiên, rồi đến khu đô thị Chợ Lớn... Đó là những trung tâm thương mại lớn ở Nam bộ vào thế kỷ XVll - XVlll, mà phần lớn là công sức của thế hệ di dân người Hoa đầu tiên gây dựng nên. Hoạt động thương mãi không chỉ trong vùng, trong rước, mà mở rộng giao thương với nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động thương mại của người Hoa đã góp phần làm cho vùng đất Nam bộ, cũng như xứ Đàng Trong thịnh vượng nhanh chóng. Mặt khác, với những hoạt động thương mại này, đã góp phần vào việc hình thành nền kinh tế mang lính chất hàng hóa ở Nam bộ khá sớm. [/FONT]
    [FONT=&quot]Tiếp theo, những đóng góp của các thế hệ người Hoa đầu tiên ở Nam bộ, là mở mang và phát triển các hoạt động thủ công nghiệp. Cũng giống như các thương nhân, trong số di dân người Hoa đến Nam bộ có không ít thợ thủ công. Vùng đất Nam bộ thuở ban đầu khai mở đã tạo điều kiện cho việc phát huy tài năng, tay nghề của các thợ thủ công người Hoa. Dàu vết của các hoạt động thủ công nghiệp người Hoa vẫn còn đậm nét ở khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn. Ơ đó, đến nay vẫn lưu giữ các địa danh Lò gốm, Lò rèn, Xóm thiếc, Xóm chỉ, Xóm Vôi... Những địa danh này là ghi dấu vùng đất đã tồn tại những nghề thủ công của người Hoa có từ rất sớm trên đất Nam bộ. Những hoạt động thủ công của người Hoa đã sớm trở thành việc sản xuất hàng hóa cung cấp cho nhu cầu của người dân Nam bộ cũng như các quốc gia lân cận. Nói đến nghề thủ công của người Hoa trong buổi ban đầu trên đất Nam bộ, không thể không nhắc đến hai trung tâm gốm sứ nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam là Đồng Nai và Bình Dương (Biên Hòa và Thủ Dầu Một). Những thợ thủ công của người Hoa đã sớm nhận ra tiềm năng gốm sứ của hai địa phương này, có đất sét tốt, có nguồn nhiên liệu dồi dào là gỗ rừng và thuận đường giao thông... Những thợ thủ công người Hoa đã xây dựng các lò gốm sứ theo kinh nghiệm, cùng kỹ thuật chế tác của Trung Hoa vào sản xuất các sản phẩm gốm sứ đáp ứng nhu cầu của người dân Nam bộ. [/FONT]
    [FONT=&quot]Những sản phẩm gốm sứ của Biên Hòa và Bình Dương đã tạo nên một phong cách đặc sắc trong văn hóa gốm sứ củaViệt Nam và vùng đất Nam bộ. Đến định cư ở Nam bộ, người Hoa đã tạo dựng cho mình một đời sống tinh thần, một văn hóa Hoa ở Việt Nam. Ngày nay văn hóa Hoa là một bộ phận cấu thành của văn hóa các dân tộc việt Nam. Những lưu dân Trung Hoa đến Nam bộ, trong hành trang của mình, đã mang theo một vốn văn hóa trung Hoa, là một văn hóa lớn ở châu Á. Trong quá trình sinh tụ trên đất Nam bộ, người Hoa một mặt tiếp nhận các ảnh hưởng văn hóa của các cộng đồng cư dân như Việt, Khmer. Mặt khác, văn hóa của người Hoa cũng tác động và ảnh hưởng đến người Việt, người Khmer và các dân tộc anh em ở Việt Nam. Trên vùng đất Nam bộ, có thể thấy khá [FONT=&quot]rỡ nét những ảnh hướng, kết quả của quá trình giao lưu văn hóa Hoa - Việt, Hoa - Khmer... mà ngay từ những[/FONT] thế hệ người Hoa đầu tiên đã đem đến vùng đất này. Sự giao lưu văn hóa đó diễn ra trên nhiều mặt của cuộc sống vật chất, tinh thần của người dân Nam bộ. Hủ tiếu bánh bao, lẩu... là món ăn của người Hoa, lay đã trở thành món ăn quen thuộc của người Nam bộ. Nhà ở kiểu hình ống cũng vốn của người Hoa ở các đô thị Nam Trung Hoa, đã được người Hoa phổ biến ở các đô thị Việt Nam như Biên Hòa, Chợ Lớn, Mỹ Tho... [/FONT]
    [FONT=&quot]Trong ngôn ngữ của người Việt, Khmer đồng bằng sông Cửu Long đã có sự đan xen tiếng Triều Châu, Quảng Đông... thư cách xưng hô: Hia, Chế, Ỷ Trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, như tôn giáo tín ngưỡng của người Hoa thờ trời, thờ Bà Thiên Hậu, Quan Công... đã ảnh hưởng khá nhiều đến các cư dân Nam bộ. [/FONT]
    [FONT=&quot]Phần nhiều các gia đình ở Nam bộ đều có bàn thờ Thiên trước sân, thờ ông Địa, Thần Tài trong nhà, không ít nhà có bàn thờ Ngũ hành nương nương, Bà Thiên Hậu, Quan Công... Sân khấu cải lương Nam bộ, theo một số nhà nghiên cứu cũng chịu ảnh hướng của sân khấu hát Quảng, hát Tiều cua người Hoa... Những dẫn liệu về sự giao lưu, tiếp nhận văn hóa của người Hoa, của các cộng đồng cư dân Nam bộ, sẽ còn nêu ra nhiều hơn nữa. Hơn hết đó là sự đóng góp của những thế hệ người Hoa cho sự thành tạo một nét văn hóa Nam bộ của Việt Nam. [/FONT]
    [FONT=&quot]Một thực tế khác, cũng không kém phần quan trọng khi đề cập đến Trần Thượng Xuyên và những thế hệ người Hoa đầu tiên ở Nam bộ, là sự đóng góp của người Hoa trong công cuộc bảo vệ vùng đất Nam bộ, chống lại các thế lực thù địch, xâm lấn. Vào khoảng thế kỷ XVll - XVlll, vùng đất Nam bộ luôn bị đe dọa bởi các thế lực phong kiến bên ngoài như Chân Lạp, Xiêm La, Java... Vì vậy, chúa Nguyễn và nhà Nguyễn rết coi trọng việc mở mang và phòng thủ đất Nam bộ. Việc chấp thuận cho một bộ phận lớn di dân Trung Hoa đến sinh sống ở Nam bộ, cũng nằm trong ý đồ của các chúa và vua Nguyễn. Mặt khác, người Hoa định cư trên đất Nam bộ cũng sớm nhận thức được trách nhiệm của mình, đoàn kế~và góp sức cùng các dân tộc anh em để bảo vệ, gìn giữ vùng đất Nam bộ. Trần Thượng Xuyên đã được chúa Nguyễn nhiều tần giao việc chỉ huy quân đội ở Gia Định, trong đó chắc chắn có không ít binh lính là người Hoa, chiến đấu chống lại các đội quân xâm Iược của Chân Lạp vùng biên giới Nam bộ. Mạc cửu, MạcThiênTích cũng phải nhiều lần trực tiếp chỉ huy quân lính đương đầu với giặc Xiêm La, Chân Lạp~iến công lấn chiếm là Tiên. Trong việc ổn định và khẳng định chủ quyền vùng đất Nam bộ trong lịch sử Việt Nam, đã có nhiều đóng góp tích cực của người Hoa, đặc biệt là những thế hệ người Hoa đầu tiên trên đất Nam bộ, thời Trần Thượng Xuyên, Mạc Cửu...[/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]
    [FONT=&quot]* * *[/FONT]
    [FONT=&quot]Trở lại phần đầu bài viết, tôi muốn lưu ý về đôi câu liễn trước bàn thờ Trần Thượng Xuyên ở đình Minh Hương Gia Thạnh Chợ Lớn. Câu liễn ấy là của người đời sau, mà chắc là người Hoa, cũng có thể là người Việt và biết đâu là người lai hai dòng máu Việt- Hoa - Người Minh Hương như một số nhà nghiên cứu quen gọi... Nhưng, cho dù thế nào, thì hơn hết vẫn là người Nam bộ phẩm bình, đánh giá công lao, sự nghiệp của Trần Thượng Xuyên, hoặc rộng hơn là thế hệ của những người Hoa tiên phong lập nghiệp trên đất Nam bộ, một phần đất của Việt Nam. Những người Hoa đành phải chua xót giã từ đất quê để đến Nam bộ lập nghiệp mưu sinh. ơ đây, họ đã tìm thấy sự ổn định và nhìn thấy một tương lai yên bình. Mong ước của Trần Thượng Xuyên và những thế hệ người Hoa đầu tiên ấy là trúc bạch chiếu thủy'' khi ''Ninh vi Nam quốc khách'', góp sức mình vào dòng lịch sử nước Nam, nơi họ đã chọn làm quê hương. ở thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, có ngôi miếu cổ thờ Bà Thiên Hậu, một vị thần mà người Hoa vượt biên tin rằng Bà sẽ giúp họ được yên lành trên biến, đến được bến bơ ømong mỏi. Ngôi miếu, theo lời người dân đã có hơn 200 năm về trước, do những người Hoa quê ở Triệu Khánh thuộc tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc vượt biển đến Rạch Giá - Hà Tiên tìm đất sống. Trước cửa miếu có câu đối:[/FONT]
    [FONT=&quot]Quảng giao di vực[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Triệu tập đồng nhân[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot](Hai chữ Quảng, Triệu mở đầu các vế đối, ghi lại tên vùng đất nguyên quán Triệu Khánh, Quảng Đông).[/FONT]
    [FONT=&quot]Tạm dịch:[/FONT]
    [FONT=&quot]Mớ rộng mối giao lưu nơi vùng đất khác[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Tập hợp những người cùng như nhau.[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot](Chữ Triệu, vốn nghĩa là mở đầu, ngay thẳng, nhưng ở đây tác giả dùng âm với nghĩa là triệu tập, tập hợp).[/FONT]
    [FONT=&quot]Theo tôi, câu đói ấy là của những người Hoa trong những thế hệ đầu tiên ở Nam bộ - thế hệ của Trần Thượng Xuyên khẳng đình về cuộc sống của mình trên đất Nam bộ: vừa mở rộng mối quan hệ với các cộng đồng cư dân Việt, Khmer và các dân tộc anh em ở Việt Nam, vừa đoàn kết gắn bó giữa những người cùng chung số phận, cùng chung công cuộc khai mở vùng đất Nam bộ.[/FONT]
    [FONT=&quot](Nguồn: sugia.vn)[/FONT]
    [FONT=&quot][/FONT]
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [FONT=&quot]Trần Thượng Xuyên[/FONT][FONT=&quot] [2][/FONT][FONT=&quot] [/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]và quan hệ của ông với chúa Nguyễn[/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT][FONT=&quot]1.[/FONT][FONT=&quot] Trần Thượng Xuyên tự Thắng Tài là tổng binh ba châu Cao, Lôi, Liêm nay là đất huyện Mậu Danh, huyện Hai Hương, huyện Hợp Phố thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. [/FONT]
    [FONT=&quot]Vào thời Minh mạt, Trịnh Thành Công chiếm cứ đảo Đài Loan, phối hợp cùng Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh, nhiều quan chức nhà Minh và những người chống đối nhà Thanh đều tìm đến đây hoạt động. Bọn người này nhóm họp nhau trong phong trào ''phản Thanh, phục Minh» Trần Thượng Xuyên là một trong số đó. Cuối thập niên của thế kỷ XVll, phong trào “phản thanh, phục Minh” gặp nhiều khó khăn, đặc biệt sau cái chết của Trịnh Thành Công. [/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Cùng đường, năm 1679, dư đảng của họ Trịnh gồm tổng binh Long Môn Dương Ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến và tổng binh Cao, Lôi, Liêm, Trần Thượng Xuyên, phó tướng Trần An Bình, đem binh lính và quyến thuộc hơn 3.000 người và 50 chân thuyền, chạy sang Đại Việt, dọc theo bờ biển từ cửa Eo (cửa Thuận An, Huế ngày nay đến cửa Đà Nẵng xin tỵ nạn. Sử nhà Nguyễn chép: tuần quan cửa Tư Dung là Trí Thắng hầu đi thuyền nhỏ ra hỏi, bọn Dương Ngạn Địch treo cờ trắng rồi trình lên rằng ''Chúng tôi là tội lưu vong của nhà Đại Minh, vì nước thề hết lòng trung, nay lực kiệt, thế cùng, quốc tộ nhà Minh đã chấm dứt, chúng tôi chẳng chịu làm tôi nhà Thanh, nên chạy đến quý quốc, thành tâm xin làm tôi tớ”. Trí Thắng hầu đem việc tâu lên chúa Nguyễn Phước Tần. [/FONT]
    [FONT=&quot]Nhận thấy đây là một việc rất khó xử, nhưng cũng lại là một cơ hội tốt để có thêm vây cánh, chúa bèn theo lời bàn của một đình thần ''... phong tục, tiếng nói của họ khác ta, khó bề sai khiến, nhưng nghĩ họ bị thế cùng bức bách, chạy đến nhờ ta, lòng trung tiết ý chân thành ấy, chúng ta không nỡ cự tuyệt. Hiện nay đất ĐốngPhố nước Cao Miên đất đai màu mỡ nghìn dặm, triều đình chưa rảnh để kinh lý, chi bằng cho họ vào đó cư trú, cậy sức của họ để mớ mang đất đai, thế là làm một việc mà được ba đíều lợi” cho bọn người Dương Ngạn Địch,Trần Thượng Xuyên lãnh y chức cũ, phong thêm quan tước mới, khiến vào ở đất Đông Phổ để mở mang đất ấy. [/FONT]
    [FONT=&quot]Theo đó, binh thuyền của tướng Long Môn Dương Ngạn Địch tiến vào cửa Lồi Lạp, theo cửa Đại, cửa Tiểu, đến đính cư ở Mỹ Tho; binh thuyền của tướng sĩ Cao, Lôi, Liêm Trần Thượng Xuyên vào cửa biển Cần Giờ lên định cư ở Bàn Lân, xứ Đồng Nai.[/FONT]
    [FONT=&quot]Như vậy, Trần Thượng Xuyên cũng như nhóm người Minh Hương đồng cảnh ngộ với ông có mặt trên đất Đồng Nai theo sắp xếp của chúa Nguyễn có thể xem là một nhóm cư dân bị phá sản ở một dạng thức đặc biệt. Cục diện chính trị thay đổi ở Trung Quốc đã đẩy họ phải lưu vong trên vùng đất của chúa Nguyễn. Rồi cũng chính cục diện chính trị phức tạp mà chúa Nguyễn đang phải trảl qua đã đưa đẩy nhóm người Trần Thượng Xuyên có mặt trên vùng đất mới, để các chúa Nguyễn lợi dụng ''cậy sức của họ để mở mang đất đai”.[/FONT]
    [FONT=&quot]2.[/FONT][FONT=&quot] Đối với lịch sử vùng, Trần Thượng Xuyên và nhóm người Minh Hương của ông tuy không phải tiền hiền khai khẩn, nhưng họ xứng đáng là hậu hiền khai cơ.[/FONT]
    [FONT=&quot]Theo sử liệu, trước khi nhóm Trần Thượng Xuyên đến dựng đại đồn trú ở Lộc Dã (Trấn Biên dinh) và Bàn Lân (thôn Tân Lân) ''Khi ấy địa đầu Gia Định là Mỗi Xuy (hay Mô Xoài) và Đồng Nai đã có lưu dân của nước ta đến ở chung lộn với người Cao Miên. Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đình, đem nhượng hết cả đất ấy, rồi tránh ở chỗ khác, không trăn trở chuyện gì”. [/FONT]
    [FONT=&quot]Như vậy, khi nhóm Trần Thượng Xuyên vào cửa Cần Giờ, rồi được đưa đến đồn trú ở Lộc Dã, Bàn Lân, thì lưu dân người Việt đã có mặt từ trước và những vùng xung quanh ''thổ dân lấy băi Tân Chánh làm tổn”. Chính những lưu dân người Việt và thổ dân có mặt từ trước đã hình thành nên hệ thống làng xóm với những tên gọi được nhắc đến trong sử cũ và trong đời sống dân gian như Lộc Dã, Bàn Lân, Đồng Môn... [/FONT]
    [FONT=&quot]Đây là nguồn nhân lực quan trọng giúp nhóm người Trần Thượng Xuyên dựa vào để đẩy nhanh tốc độ khai phá, biến Bàn Lân thành Nông Nại Đại Phố sau này. Nhờ,vào điều kiện tự nhiên và xã hội khá thuận lợi, chẳng bao lâu Trần Thượng Xuyên đã giành đất Đông Phố, lập nên xã Thanh Hà (trải dài từ bàn Lân tới Bến Gỗ), lo mở mang nông nghiệp, đem phong tục lễ nghi ra truyền bá cho dân địa phương. Sau vài chục năm khai phá, vùng đất Bàn Lân ngày càng trù phú, đông đúc, nhiều nghề thủ công được mở mang ở đây như nghề làm đường, nuôi tằm, dệt vải, nghề làm gốm, nghề đúc đồng... [/FONT]
    [FONT=&quot]Công lao của Trần Thượng Xuyên là đã phát hiện ra tiềm năng lớn trong hoạt động kinh tế của vùng, khéo léo kích hoạt những tiềm năng đó và tổ chức khai thác hiệu quả tiềm năng. Họ mở đường sá, lập chợ, xây dựng phố phường phồn thịnh. Nông Nại loại Phố / Cù lao Phố đã thành hình và sớm trở thành trung tâm thương mại lớn nhất xứ Đồng Nai từ cuối thế kỷ XVll đến năm 1788 là nhờ đó. [/FONT]
    [FONT=&quot]Sách Đại Nam nhất thống chí mô tả về Đại Phố như sau ''nhà ngói, vách vôi, lầu quả đôi tầng, rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạt làm ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố, lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến neo đậu, có những xà lan liên tiếp nhau. Ấy thật là một chỗ đại đô hội, nhà buôn bán to lớn duy ở đây là nhiều hơn. Do địa thế thuận lợi “Trên bến dưới thuyền'', Cù lao Phố đã thu hút người châu Âu, người Nhật, người Mã Lai, người Tàu... tới lui buôn bán nhộn nhịp.[/FONT]
    [FONT=&quot]Sách Gia Đinh thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cho biết: ''Từ xưa, các thuyền ngoại quốc tới nơi này (châu Đại Phô) bỏ neo, mướn nhà ở, rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên đất líền biết. Các hiệu buôn định giá hàng, tốt lẫn xấu rỗi bao mua tất cả, không để một món hàng nào ứ đọng. Đến ngày trở buồm về gọi là ''hồi đường', chủ thuyền cần mua món hàng gì cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước mua giùm. Như thế, khách chủ được tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đờn hát vui chơi, đã có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn». [/FONT]
    [FONT=&quot]Những mô tả trên đây đã cho thấy dưới sự sắp xếp, tổ chức của Trần Thượng Xuyên, đất Bàn Lân đã trở thành một Nông Nại Đại Phố, một trung tâm thương mại lớn nhất đất Đồng Nai khi ấy. Việc phát triển thương mại vừa giúp lưu dân sớm ổn định cuộc sống, vừa kích thích họ sản xuất có dư để bán ra bên ngoài.Tẩm ảnh hưởng của Cù lao Phố trong hoạt động thương mại không bó hẹp trong phạm vi Biên Hòa mà lan rộng khắp vùng Gia Định khi ấy và với cả các vùng ngoại vi. Mối quan hệ giữa thương mại với công cuộc khai khẩn vùng Biên Hòa - Đồng Nai là một mối quan hệ độc đáo mà họ Trần đã tạo nên ở nơi đây. Không chỉ xây phố, lập chợ, họ Trần còn cho lập đình, chùa, mở mang phong tục, lễ nghi... ''phong hóa Trung Quốc từ đấy bồng bột lan khắp vùng Giãn Phố vậy. Điều này giúp sớm tạo nên sự giao lưu, tiếp biến văn hóa độc đáo trong vùng giữa các nền văn hóa Việt, Hoa, văn hóa của những cộng đồng cư dân có mặt từ trước ở đây như Khơmer, Châu Mạ... [/FONT]
    [FONT=&quot]Như vậy là, đối với công cuộc ''Nam tiến'' của các chúa Nguyên, Trần Thượng Xuyên và nhóm người của ông đã góp phần tổ chức công cuộc định cư, khai khẩn, mở rộng vùng đất Trấn Biên. Từ trung tâm Cù lao Phổ, ngoài xã Thanh Hà của người Hoa được lập, lưu dân tập trung đến ngày càng đông, nhiều thôn xã mới được khẩn hoang như xóm Chùa, xóm Chiếu, xóm Rạch lò Gốm... lập nên trên dưới 10 xã thôn. Từ đây, công cuộc khai phá không ngừng được mở rộng ra khắp vùng Phước Long - Biên Trấn, nối liền với vùng Sài Gòn - Gia Định và với vùng Định Tường - Long Hồ (3). [/FONT]
    [FONT=&quot]Trong mối quan hệ với Chân Lạp, khi đưa nhóm người Trần Thượng Xuyên vào đây chúa Nguyễn đã có chủ ý muốn lợi dụng họ vừa để kiến tạo đất mới vừa có thêm vây cánh nhằm gây sức ép với Chân Lạp, thực hiện ''Nam tiến''. Về phần mình, Trần Thượng Xuyên đã tỏ rõ sự trung thành với các chúa Nguyễn, sát cánh cùng nhân dân và đội quân Long Môn chống lại những mưu toan của Chân Lạp vàn hừng kẻ phản nghịch, bảo đảm cho cuộc sống bình yên của các lưu dân trên vùng đất mới. [/FONT]
    [FONT=&quot]Năm 1688, phó tướng của Dương Ngạn Địch ở Định Tường là Hoàng Tiến làm phản, giết chết chủ tướng. Chúa Nguyễn Phước Trăn phải cử Mai Vạn Long trấn dẹp. Sau khi khôi phục tình hình, chúa gíao cho Trần Thượng Xuyên chiêu tập dư đảng Long Môn, chịu trách nhiệm quản lãnh đội quân này. Trong thời gian thực thi nhiệm vụ, Trần Thượng Xuyên và đội quân Long Môn đã có vai trò quan trọng không chỉ trong việc trấn áp các phe nhóm phản nghịch, mà còn góp phần vào công cuộc đại định biên cương của chúa Nguyễn. [/FONT]
    [FONT=&quot]Tháng 7 - Kỷ Mão (1699), vua Chân Lạp là Nặc Thu đắp lũy ở Bích Đôi, Nam Vang, Cầu Nam, cướp bóc dân buôn, Trần Thượng Xuyên với cương vị chủ tướng đạo quân Long Môn đã báo về triều đình để. Triều đình cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đánh dẹp. [/FONT]
    [FONT=&quot]Tháng 3-1700, Trần Thượng Xuyên đích thân chỉ huy đội quân Long Môn phối hợp với quân triều đình giao chiến với quân Chân Lạp. Nặc Thu buộc phải lui quân khỏi Bích Đôi, Nam Vang, binh lực tan vỡ. Để ổn định tình hình Chân Lạp và vùng biên giới giữa hai nước, Trần Thượng Xuyên tâu xin với chúa Nguyễn cho lập cháu rể của Nặc Thu là Nặc Ông Yêm lên làm vua Chân Lạp. Chúa chuẩn tấu. [/FONT]
    [FONT=&quot]Từ năm 1700 đến 1720, Trần Thượng Xuyên có nhiều đóng góp vào việc ổn định trật tự trên vùng đất Biên Hòa, Định Tường, Long Hồ của chúa Nguyễn. Cũng trong thời gian này, mối quan hệ giữa Trần Thượng Xuyên với họ Mạc ở đất Hà Tiên được củng cố trên nhiều phương diện. Điều này vừa củng cố lợi ích cho cộng đồng người Hoa, vừa tạo thêm thế và lực cho các chúa Nguyễn trong quan hệ với Chân Lạp.[/FONT]
    [FONT=&quot]Năm 1720, Trần Thượng Xuyên qua đời. Con trai ông là Trần Đại Định nối nghiệp cha tiếp tục phục vụ dưới trlều chúa Nguyễn Phước Trú, được phong: tước Tổng binh Định Viễn háu, chỉ huy cả hai đạo binh Phiên Trấn và Long Môn. Công lao này của dòng họ Trần đã được chúa Nguyễn ghi nhận: ''Họ Nguyễn làm vua, họ Trần làm tướng, công khanh đời đời không dút.[/FONT]
    [FONT=&quot]Tài liệu tham khảo chính[/FONT][FONT=&quot]:[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]1. Trinh Hoài Đức - Gia Định thành thông chí, Tập trung, bản dịch Tu Trái Nguyễn Tạo, Sài Gòn, l972.[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]2. Lương Văn Lựu - Biên Hòa lược sử toàn biên, q.2, 1972.[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]3. Quốc sử quán triều Nguyễn – Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tỉnh Biên Hòa, bản dích Tu Trai Nguyễn Tạo, Sài Gòn[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Tiến sĩ Trần Thị Mai[/FONT][FONT=&quot] [/FONT][FONT=&quot](Nguồn: sugia.vn)

    [/FONT]

Chia sẻ trang này