1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sài gòn năm xưa

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 26/05/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vương Hồng Sến
    SÀI GÒN NĂM XƯA​
    PHẦN THỨ NHỨT
    NHẮC LẠI CUỘC NAM TIẾN
    VĨ ĐẠI CỦA DÂN VIỆT



    Năm Đinh Sửu (1757), Nặc Nguyên chết, chú họ là Nặc Nhuận (Neac Ang Nhuan) làm gián đốc, xin hiến đất Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu) để cầu được chúa Võ Vương phong làm Vua. Song không lâu, Nhuận bị rể là Nặc Hinh nổi loạn giết chết cướp ngôi (1758).
    Cháu của Nặc Nhuận là Nặc Tôn, con của Nặc Nguyên, chạy sang Hà Tiên cầu cứu với Mạc Thiên Tứ, Thiên Tứ dâng sớ tâu qua các việc và xin phong Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Võ Vương thuận cho, sai tướng Ngũ dinh tại Gia Định hợp với Thiên Tứ lo việc ấy. Trương Phúc Du đem binh đánh dẹp, Nặc Hinh thua chạy, bị kẻ thuộc hạ giết. Hoàng tử Nặc Non cùng hoàng gia chạy trốn bên Xiêm.
    Nặc Tôn được Mạc Thiên Tứ đưa về nước lập làm vua, và được Võ Vương sắc phong chức Phiên Vương.
    Để tạ ơn Võ Vương, Nặc Tôn hiến đất Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc) (1759). Rồi cắt năm phủ: Hương Úc (Kompong Som), Cần Bột (Kampot), Sài Mạt (Cheal Meas), Chưng Rừm, Linh Quỳnh (vùng duyên hải từ Sré Ambel đến Peam) để riêng tạ ơn Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ đều dâng cả cho chúa Nguyễn. Võ Vương bèn dạy sát nhập vào trấn Hà Tiên.
    Thế là vừa trọn một thế kỷ (1658 - 1759), Thuỷ Chân Lạp hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
    (Tài liệu mượn trong quyển "Nguyễn Cư Trinh" với quyển "Sãi Vãi" của hai ông Lê Ngọc Trụ và Phạm Văn Luật, trang 45-49).
    Đoạn trên kể lại công ngiệp khai mở bờ cõi của một vị tướng văn võ toàn tài là ông Nguyễn Cư Trinh. Cư Trinh lại rất có công về cuộc phòng thủ lâu dài.
    Ông giỏi phương pháp "dĩ địch chế địch” nên đặt người Côn Man thủ Tây Ninh và Hồng Ngự (Châu Đốc), nay hai chỗ này còn di tích người Chàm. Chính ông Cư Trinh xin dời dinh Long Hồ lên xứ Tầm Bào, cũng thuộc tỉnh lỵ Vĩnh Long.
    Về mặt thuỷ đạo, ông sai lập đồn hai bên sông Cửu Long gần biên giới:
    - Tân Châu đạo (Cù Lao Giêng) ở Tiền Giang.
    - Châu Đốc đạo ở Hậu Giang.
    - Thêm lậpĐông Khẩu đạo , ở xứ Sa Đéc, để làm hậu thuẫn.
    Các đạo ấy dùng binh ở Long Hồ dinh để trấn áp, giữ mặt vịnh Xiêm La, phòng Xiêm làm hỗn, Cư Trinh và Thiên Tứ đặt raKiên Giang đạo ở Rạch Giá và Long Xuyên đạo ở vùng Cà Mau.
    Ông Cư Trinh lại rất giàu sáng kiến. Ông lo tổ chức sự an ninh vùng đất mới, đảm bảo sự thông thương buôn bán trên vùng rạch hồ. Như thuở ấy, khúc sông Gia Định còn nhiều chỗ xưng bá, thuyền cướp tụ tập phá khuấy ghe thương hồ (ngày trước còn để lại tàn tích "bối Ba Cụm" thuộc vùng Bình Điền, Tân Bửu, v.v…), Cư Trinh bày ra lệ bắt thuyền các Hạt, bất luận lớn nhỏ, trước mũi phải khắc tên họ, quê quán, chủ thuyền và ghi bộ quan sở tại để tiện tra xét.
    Nguyễn Cư Trinh còn là một văn nhơn tài tử, ông thường ngâm vịnh, sang Phương Thành (Hà Tiên) nhập Chiêu Anh Các xướng hoạ cùng Mạc Thiên Tứ. Hai người rất là tương đắc, Thiên Tứ có ra mười bài"Hà Tiên thập cảnh vịnh " (nay còn truyền tụng). Cư Trinh có hoạ đủ mười bài.
    Kể lại trong Nam, đời ấy công nghiệp lớn nhất có hai ông:Nguyễn Cư Trinh vàMạc Thiên Tứ. Ông trước cầm binh ra trận, thi phú tài tình; Ông sau giỏi ngón ngoại giao và văn chương tao nhã. Cả hai mở rộng bờ cõi Miền Nam cho chúng ta được hưởng ngày rày.
    Đồng thời tại Gia Định, trong nhóm người Minh Hương, có ba ông:Trịnh Hoài Đức ,Ngô Nhơn Tịnh vàLê Quang Định đều là những bực công thần có công xây dựng cõi Nam, đua nhau nâng cao nền văn hiến Việt và tận tâm giúp chúa Nguyễn thâu lại cơ nghiệp tổ tiên thống nhất giang san. Hà Tiên có Chiêu Anh Các , Gia Định cóThi hữu tam gia không kém.
    Năm 1780, Mạc Thiên Tứ từ trần, không con nối hậu. Đất Hà Tiên từ đây sát nhập cơ đồ Nguyễn Chúa:
    CUỘC MỞ MANG BỜ CÕI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM ĐẾN ĐÂY, KỂ NHƯ ĐÃ HOÀN THÀNH.
  2. HSD2010

    HSD2010 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/04/2012
    Bài viết:
    1.734
    Đã được thích:
    4
    Sài Gòn qua một đoạn phim tư liệu trước năm 1945
    Đoạn phim có các chủ đề: Nhà thờ Đức bà, Nhà hát tạp kỹ, đời sống trên đường phố, Thảo cầm viên, khai thác gỗ… Lúc đó Sài Gòn là thủ phủ của Liên bang Đông Dương năm 1887 - 1901, nằm trong đất thuộc địa của thực dân Pháp. Những đường phố cơ bản vẫn được giữ đến ngày nay và vài công trình kiến trúc thay đổi rất ít, như nhà thờ Đức Bà, Nhà hát tạp kỹ và vài công sở, khách sạn...
    Thoáng trên đường phố có một số xe ô tô phương Tây, kiểu sản xuất từ những năm 1930 đến 1940, trước Đại chiến Thế giới II. Còn lại chủ yếu là xe tay, xe ba gác do người kéo, xe ngựa và xe bò.
    [YOUTUBE]eR1OIgftNvU[/YOUTUBE]
  3. HSD2010

    HSD2010 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/04/2012
    Bài viết:
    1.734
    Đã được thích:
    4
    Sài Gòn những năm 90
    [​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG]
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nguyễn Cư Trinh

    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


    Nguyễn Cư Trinh (chữ Hán: 阮居貞, Bính Tuất [1716] - Đinh Hợi [1767]), tên chữ: Nghi, hiệu: Đạm Am, là danh tướng và là một danh sĩ thời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát và Định vương Nguyễn Phúc Thuần, Đại Việt. Ngoài tài văn võ, ông còn nổi tiếng là người liêm chính, giỏi việc chính trị, doanh điền, ngoại giao và có phong độ của một trạnh thần (bầy tôi dám can ngăn).[1]

    Thân thế

    Nguyễn Cư Trinh, quê ở xã An Hòa tổng An Hòa huyện Hương Trà phủ Triệu Phong xứ Thuận Hóa[2], nay là phường An Hòa thành phố Huế tỉnh Thừa Thiên-Huế.
    Tổ tiên xa là người họ Trịnh tên là Trịnh Cam, gốc người phường Phù Lưu, huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang xứ Nghệ An (nay là huyện Can Lộc, Hà Tĩnh), từng làm quan dưới triều Lê đến chức Binh bộ Thượng thư. Khi họ Nhà Mạc lên ngôi thay nhà Lê, Trịnh Cam lánh vào Thanh Hóa chiêu mộ quân giúp nhà Hậu Lê, nhưng việc chưa thành thì mất.
    Cha Nguyễn Cư Trinh là ông Nguyễn Đăng Đệ thuộc đời thứ bảy, vốn nổi tiếng về tài văn chương, thi đỗ sinh đồ, làm Tri huyện Minh Linh phủ Quảng Bình xứ Thuận Hóa (nay thuộc Quảng Trị), được chúa Nguyễn Phúc Chu mến tài ban cho quốc tính (được mang họ Nguyễn).
    Là con út trong gia đình có truyền thống văn học, ngay từ nhỏ Nguyễn Cư Trinh cùng anh họ là Nguyễn Đăng Trình, đều đã nổi tiếng hay chữ. (Sau này, khi Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi chúa, những luật lệ đều do Nguyễn Đăng Thịnh đặt ra mà văn từ thì do Nguyễn Cư Trinh thảo [3]).
    Năm Canh Thân (1740), ông thi đỗ Hương cống, được bổ làm Tri phủ Triệu Phong xứ Thuận Hóa (vùng đất thuộc cả Quảng TrịThừa Thiên-Huế), rồi trải qua các chức Tuần phủ Quảng Ngãi (Canh Ngọ [1750]), Ký lục dinh Bố Chánh (Quảng Bình), sau đến Lại bộ Kiêm Tào vận sứ, tước Nghi Biểu hầu.
    Năm Quý Dậu (1753), Nguyễn Cư Trinh sang Chân Lạp (tức Cao Miên) đánh Nặc Nguyên (Chey Chettha V). Thu đất đai cho chúa Nguyễn nhập vào châu Định Viễn[4] (các vùng đất nằm ven 2 bờ sông Tiền Giang) và giữa sông Tiền và sông Hậu, với lỵ sở là dinh Long Hồ, là vùng phên dậu phía Nam phủ Gia Định lúc đó (đến đầu thời nhà Nguyễn thành trấn Vĩnh Thanh). Sau khoảng 11 năm trấn giữ biên cương phía Nam, năm Ất Dậu (1765), Nguyễn Cư Trinh được chúa Nguyễn Phúc Thuần gọi về kinh nắm bộ Lại.[5]
    Năm Ất Dậu (1765) Nguyễn Phúc Thuần lên nối ngôi chúa, quyền thần Trương Phúc Loan ỷ thế lộng quyền. Sách Đại Nam thực lục chép:
    Nguyễn Cư Trinh nói: "Chốn triều đình bàn việc đã có định chế, Phúc Loan sau dám vô lễ như thế, sắp muốn chuyên quyền chăng? trong nước sinh loạn tất là người ấy". Phúc Loan giận lắm nhưng e sợ , không dám làm gì.[6] Năm Đinh Hợi (1767) ông bệnh và mất, hưởng dương 51 tuổi, được truy tặng Tá lý công thần, Vinh lộc đại phu, thụy Văn Định.
    Đến đời Minh Mạng, ông được truy tặng là Khai quốc công thần, Hiệp biên đại học sĩ, đổi tên thụy thành Văn Cách, truy phong tước Tân Minh hầu, cho tòng tự [7]Thái miếu (Huế).
    Sự nghiệp

    Nghiệp võ

    [​IMG] [​IMG]
    Sông Tiền, đoạn chạy qua Tân Châu & Hồng Ngự[8]


    Khi làm Tuần phủ Quảng Ngãi, ông có công đánh dẹp cuộc nổi dậy của bộ lạc người Hré ở Đá Vách [9] vào năm Canh Ngọ (1750), nhưng võ công đáng kể hơn cả chính là khi ông được điều động Miền Nam từ năm Quý Dậu (1753) cho đến năm Kỷ Mão (1759. Nhờ kế sách “dĩ man công man”[10] và “tàm thực”[11], ông đã khéo léo thu cả miền đồng bằng sông Cửu Long về cho Đại việt.
    Sách Việt Nam sử lược chép:
    Nặc Nguyên về làm vua Chân Lạp thường hay hà hiếp rợ Côn Man[12] và lại thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết tình ý ấy, đến năm Quý Dậu (1753), sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm Ất Hợi (1755) Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ.Năm sau Mạc Thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công) để chuộc tội, và xin cho về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn Cư Trinh dâng sớ bày tỏ cách khai thác nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá, thì mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân Lạp.[13] Nghiệp văn

    Tác phẩm

    Bài chi tiết: Sãi vãi
    Sáng tác bằng chữ Nôm của ông có vè Sãi vãiQuảng Ngãi thập nhị cảnh. Thơ chữ Hán của ông có Đạm Am thi tập (chưa tìm thấy) và mười bài họa Hà Tiên thập cảnh vịnh của Mạc Thiên Tứ. Ngoài ra ông còn để lại một số thư điều trần gửi chúa Nguyễn và thư đáp lại thư của cha con họ Mạc.
    Từ điển văn học (bộ mới) cho biết: Tác phẩm của Nguyễn Cư Trinh một phần được Lê Quí Đôn dẫn ra trong Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục và được Phạm Nguyễn Du chép trong Nam hành ký đắc tập. Có lẽ số thơ văn chữ Hán được ghi lại trong các sách trên là một phần của Đạm am thi tập hiện chưa tìm thấy.
    Và cũng trong sách trên có nhận xét:
    Toàn bộ sự nghiệp văn học của ông gắn với tâm sự và chí khí kinh bang tế thế, gắn với cuộc đời hoạt động của ông. Một số bài thơ có khí vị lối thơ biên tái, vừa phấn phát sôi nổi, hùng tráng; vừa lắng động, trầm tĩnh, bi hoài. Một số bài khác thì lại phản ánh tâm sự cô đơn, phiền muộn của một người đầy lòng ưu ái, thấy rõ tình hình thối nát của tập đoàn phong kiến Đàng Trong, thấu hiểu cảnh sống cơ cực, đau khổ của người dân, muốn “bàn nói mưu ngay, lẽ phải, nhưng đều không được theo” (Lê Quí Đôn)..[14] Lời tâm huyết

    Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 10) chép sự việc này như sau:
    "Mùa đông, tháng 10 năm Tân Mùi (1751), Nguyễn Cư Trinh (khi ấy đang giữ chức Tuần phủ Quảng Ngãi) có dâng một bức thư nói về tình trạng khốn đốn của dân gian. Ông cho rằng:
    Dân là gốc của nước, gốc không bền vững thì nước chẳng thể yên, cho nên nếu ngày thường không chăm dùng ân huệ để cốt kết lòng người, thì đến khi có việc xảy ra, còn mong chờ vào đâu? Trộm nghĩ, thói tệ bạc chất chứa trong dân gian đã nhiều, nếu cứ thủ thường như cũ, không biết tùy thời thêm bớt và thiết lập kỷ cương, thì một ấp cũng khó giữ được, huống chi một nước. Nay, có ba việc gây tệ hại cho dân là nuôi lính, nuôi voi và nộp tiền án kiện, chưa kể những sự nhũng nhiễu khác không sao kể xiết...
    Ông (Nguyễn Cư Trinh) lại trình thêm bốn thói tệ khác:

    • Một là: Chức quan đặt ra ở các phủ và các huyện là chức lo việc trị dân, thế mà gần đây không được giao trách nhiệm gì, chỉ sai khám hỏi, kiện tụng. Vậy, xin từ nay trở đi, các thứ thuế, hết thảy đều giao cho quan tri huyện biên thu rồi chuyển nạp cho quan ở Quảng Nam, cốt để tránh phiền nhiễu cho dân.
    • Hai là: Xưa nay, các quan ở phủ và huyện chỉ trông cậy vào sự tra hỏi, bắt bớ mà kiếm lộc. Nay, xin định lệ cấp bổng lộc thường xuyên cho họ, đồng thời, căn cứ vào sự thanh liêm hay tham lam, sự siêng năng hay lười biếng của họ để tiến hành thăng giáng hoặc truất bỏ quan chức.
    • Ba là: Dân lậu có hai hạng. Một hạng trốn thuế mà đi lang thang, một hạng ví quá cơ hàn mà phải phiêu bạt. Nay, nếu không chia đẳng hạng, hết thảy đều bắt ghi tên vào sổ để thu thuế, thì tất nhiên chúng sẽ sợ hãi rồi chạy trốn vào rừng rú, xã dân ở lại mà phải đóng thay thì họ chịu sao nổi. Vậy, xin xét cho kĩ, dân lậu nào còn có cái sinh nhai thì thu thuế như lệ thường, còn những ai đói rét khốn cùng thì cho miễn và tùy cách mà vỗ về nuôi nấng để cứu lấy dân nghèo.
    • Bốn là: Nên để cho dân được yên, không nên khuấy động họ, vì yên thì dễ trị, khuấy động thì dễ sinh loạn. Nay, nếu cứ sai người đi săn bắn ở núi rừng, hết đòi gà lại đòi ngựa, bọn chúng không hề theo ý tốt của bề trên mà chỉ lo quấy rối nhân dân các địa phương, bọn giả mạo ấy đi đến đâu là ở đó náo loạn, thì người ta oán hận là điều không sao tránh khỏi. Vậy, từ nay nếu có sai người đi thì cấp giấy tờ để họ trình quan địa phương xét, kẻ nào nhiễu dân thì phải trị, có thế may ra dân mới được yên.
    Thư ấy dâng lên nhưng không được Chúa trả lời.”[15]
    Ghi công

    Học giả Vương Hồng Sển sau kể chuyện Nguyễn Cư Trinh, một vị tướng văn võ toàn tài, đã có công mở cõi, ông còn viết:
    Nguyễn Cư Trinh lại rất có công về cuộc phòng thủ lâu dài.Ông giỏi phương pháp “dĩ địch chế địch” nên đặt người Côn Man thủ Tây NinhHồng Ngự...Về mặt thủy đạo, ông sai lập đồn hai bên sông Cửu Long gần biên giới...để làm hậu thuẫn.Ông Cư Trinh lại rất giàu sáng kiến. Ông lo tổ chức sự an ninh vùng đất mới, đảm bảo sự thông thương buôn bán trên vùng rạch hồ...Nguyễn Cư Trinh còn là một văn nhơn tài tử, ông thường ngâm vịnh, sang Phương Thành (Hà Tiên) nhập Chiêu Anh Các xướng họa cùng Mạc Thiên Tứ. Hai người rất là tương đắc, Thiên Tứ có ra mười bài “Hà Tiên thập cảnh vịnh” (nay còn truyền tụng). Cư Trinh có họa đủ mười bài.Kể lại trong Nam, đời ấy công nghiệp lớn nhất có hai ông: Nguyễn Cư Trinh và Mạc Thiên Tứ. Ông trước cầm binh ra trận, thi phú tài tình; Ông sau giỏi ngón ngoại giao và văn chương tao nhã. Cả hai mở rộng bờ cõi Miền Nam cho chúng ta được hưởng ngày rày.[16] Sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam có đoạn:
    Nguyễn Cư Trinh có công trong việc ổn định bờ cõi nước nhà...Ông dùng binh cương quyết, nhưng khi đạt được mục đích quân sự thì dùng chính sách khoan hồng nhân đạo, đồng thời chăm lo mở mang sinh kế cho nhân dân, nên đạt kết quả chắn chắn và lâu dài. Ông bênh vực kỷ cương Nho giáo chống lại các thứ mê tín thịnh hành lúc bấy giờ. Vào cuối đời, ông dâng sớ tố cáo tệ quan trường nhũng nhiễu do sự chấp chính của quyền thần Trương Phúc Loan...[17] Thông tin thêm

    Khu mộ Nguyễn Cư Trinh ở xã Lộc Sơn, Phú Lộc, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế và đã được Bộ Văn hóa và Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia theo quyết định số 05/1999/QĐ/BVHTT ngày 12 tháng 1 năm 1998. [18]
    Tên của ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Việt Nam.
    Chú thích


    1. ^ Theo Nguyễn Q.Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nxb KHXH, 1992, tr.506) và Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên quyển 2 (Sài Gòn, 1963, tr. 213).
    2. ^ Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn, trang 79.
    3. ^ Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Quyển 2, tr. 213.
    4. ^ Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú, tập 1, dư địa chí, trang 171-172.
    5. ^ Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn, trang 243.
    6. ^ Tiền biên, Quyển 5. Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Quyển 2, tr.214.
    7. ^Thái miếu (Hoàng thành Huế), bên phía trái gọi là Tả tòng tự, nơi thờ các vị công thần thuộc dòng dõi tôn thất. Bên phía phải gôi là Hữu tòng tự, nơi thờ các vị công thần xuất thân từ hàng dân giả. Ở Hữu tòng tự có bảy bài vị, bài vị của Nguyễn Cư Trinh là cái thứ sáu, sắp liền kề bài vị tướng Nguyễn Hữu Dật. Như vậy, thời Võ vương chỉ có một mình Nguyễn Cư Trinh là được thờ ở Thái Miếu.
    8. ^ Đây chính là thủy lộ mà tướng lãnh thời phong kiến, trong số đó có Nguyễn Cư Trinh, đã dẫn quân lên Chân Lạp.
    9. ^ Xem thêm trang Nổi dậy ở Đá Vách thời Nguyễn.
    10. ^ Dĩ man công man hay "dĩ địch chế địch" ý nói lấy người man (Côn Man) chống lại người man (Chân Lạp).
    11. ^ Tàm thực: Lối xâm lấn dần dần như tằm ăn lá dâu.
    12. ^ Côn Man là chỗ những người Chiêm Thành, vì nhiều nguyên nhân sang tụ họp ở tại xứ Chân Lạp. Từ đó, các bộ sử của triều Nguyễn gọi người Chăm ở Chân Lạp là người Côn Man. Và người Chăm ở An Giang, Hồng Ngự (Đồng Tháp), Bà Đen (Tây Ninh) hiện nay chính là di duệ của những người Côn Man này. Đợt chuyển cư người Côn Man đầu tiên xảy ra vào năm 1755 do Nguyễn Cư Trinh đưa về. Rồi theo kế sách của mình là “dĩ man công man”, ông cho xây đồn đắp lũy ở Tây Ninh và Hồng Ngự cho người Côn Man đến đồn trú để chống ngăn Chân Lạp. (theo Lê Ngọc Trụ & Phạm văn Luật, Sãi vãi - Sao lục & chú thích, Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1962, tr. 50 và Địa chí An Giang (Tập 2), do UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn & ấn hành, 2007, tr. 205).
    13. ^ Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (Tập 2), Trung tâm học liệu, Sài Gòn, 1971, tr. 83
    14. ^ Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, 2004, tr. 1118-1119.
    15. ^ Chép theo Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại (Tập 7), Nxb Giáo dục, 1998, tr. 74
    16. ^ Trích Sài Gòn năm xưa
    17. ^ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập 3, Huỳnh Lý chủ biên, Nxb Văn học, 1978, tr. 111
    18. ^ Lăng mộ Nguyễn Cư Trinh
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Những Địa Danh Mang Tên ‘Ông’, ‘Bà’ Ở Sài Gòn



    http://t*******igon.com/wp-content/uploads/2010/05/saigon_cau_ong_lanh1-300x181.jpg

    Đầu tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi trước của con rạch Thị Nghè quận 1 sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia Định phú do Phan Văn Thị sáng tác có câu ví ngộ nghĩnh.
    Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải,
    Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.

    Nội ô Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh còn có một bà cũng nổi tiếng đó là Bà Chiểu, nằm trên địa bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình Thạnh. Khu vực này có cái chợ cùng tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm, chủ yếu là bán lẻ. Có câu ca dao, nghe cũng vui tai:
    Xe mui chiều thả chung quanh
    Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.

    Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm. Tương truyền bà Điểm là một chủ quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc Môn, có 18 thôn vườn trầu, nơi đây Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định từng hoạt động (khoảng năm 1861).
    Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh,một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng; thứ nữa nhìn hình vóc của khu vực đó mà đặt.
    Thí dụ: Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường 13, 14 quận Tân Bình. Ai đi trên đường Cách mạng Tháng Tám nối liền đường Trường-Chinh lên Tây Ninh, vọt thẳng biên giới với Cam-pu-chia, có một ngã ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 thì quẹo trái (rẽ) vào.
    Hay Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận 5, thông từ các ao, đầm ra rạch Bến Nghé, nay bị lấp rồi. Bà Đô còn là tên chiếc cầu ở đầu đường Hàm Tử bắc qua rạch Bà Đô (còn gọi là Thị Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi trước, qua đây hay hát:
    Kể từ chợ Sỏi trở vô
    Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.

    Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh Tàu Hũ, từ đầu đường Tản Đà đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định phú có câu ví rất hay: Giếng Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái nhảy thỏa tình khát vọng Cầu Bà Thuông đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai.
    Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạch Bà **** có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh giới với Tây Ninh đến sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp ranh với Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà Tàng, vừa là các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua rạch Lào trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp… cũng là cầu, là rạch, là tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu khỏi trơn trợt.

    Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
    Trên cây Da Còm, nỡ để ông già gùi đội
    Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.

    Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn nữa.
    Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay.
    Bà Ký là đường trên địa bàn phường 9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ đường Phạm Văn Chí với Lò Gốm, nay tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà Lê Chân ở Tân Định. Năm 1906 có tên là Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại thành đường Bà Lê Chân. Bà Triệu nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp có tên là Merlande. Năm 1955 mới đổi thành Bà Triệu… Chắc là còn nhiều “bà” nữa mà người viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người tìm thêm nữa.
    Cũng lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con sông, chiếc cầu, hay địa danh một vùng đất gắn với một bà nào đó, thì có cả ca dao, câu hát, câu ví dí dỏm. Nhưng, với cánh đàn ông thì thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè, câu đố nào. Dù sao, có bà thì phải có ông, bởi thiếu ông nghe như trống trải trong lòng vậy.
    Ở Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh, địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ nhắc tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
    Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này hồi trước bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có cầu, có chợ, có phường 100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng ngắc ngứ lắm!Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 – 1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác. Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng chuyện này không thuyết phục mấy.

    Hai là Ông Thượng.
    Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông Thượng thì biết ngay là Công viên văn hóa Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi bọn trẻ,chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát bội.
    Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố là vùng đất thuộc quận 2, thành phố Hồ Chí Minh, hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
    Coi cọp, xuống Thị Nghè
    Ăn ve, lên Ông Tố.

    Ve mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào, châu chấu vậy. Không rõ ông Trương Vĩnh Tố có làm quan chức gì, chỉ biết ông ở gần đấy và khu đất cao (gọi là giồng)có lẽ là của ông chăng?
    Bốn là Ông Tạ. Là chợ mang tên một thầy thuốc nam nổi tiếng Trần Văn Bỉ (còn gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ còn là vùng đất thuộc các phường 3, 4, 5, 7 của quận Tân Bình. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe đến chợ Ông Tạ là gợi ngay đến các hàng thịt chó nằm trên đường Cách mạng Tháng Tám treo lủng lẳng cả chục con thui vàng rực, coi bắt mắt lắm.
    Năm là Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai xã Đa Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng Ông Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã chiến năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.
    Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là Lăng Ông (dân thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được xây trên khuôn viên khá rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này về sau xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11-1988,Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Lăng Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch.
    Ở Sài Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
    Tên đường chỉ duy nhất có Ông ích Khiêm. Gắn với tên ông còn có rạch, cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba rạch bến Trâu và Tân Hóa tới rạch Lò Gốm);rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch Ông Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông Nghĩa ở xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu. Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông Nhiêu, cầu Ông Thìn, cầu Ông Tiều…Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình Hưng dài đến ba cây số.
    Quả tình, gắn với tên ông thì còn nhiều lắm, nhưng xin tạm dừng ở đây.
    Nguyễn Trí Đức
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nguồn Gốc Một Số Địa Danh Miền Nam (phần 1)

    Hồ Đình Vũ


    Có nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó. Riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc. Nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy?
    Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình.
    Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác – để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn.
    Đất Nam Việt mà trước đây người ta còn gọi là Nam Kỳ, người tây phương khi đặt chân lên xứ mình hồi thế kỷ 16, 17 đã gọi bằng tên Cochinchine hay Đằng Trong.
    Người ta cũng gọi xứ này là Đồng Nai (đồng có nhiều nai), Lộc Dã, Lộc Đồng (cùng một nghĩa) hoặc Nông Nại, là nơi mà người Việt mình đặt chân lần đầu tiên năm 1623. Sử chép rằng Chúa Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), đã gả Công Chúa Ngọc Vạn, lệnh ái thứ hai, cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618-1626) từ Xiêm trở về lên ngôi báu và đóng đô tại Oulong. Nhờ sự giao hiếu ấy vua Cao Miên mới cho phép người Việt di dân vào Nam Bộ. Chúng ta đã đặt đầu cầu tại Mô Xoài (gò trồng xoài), gần Bà Rịa đúng vào năm 1623 (dựa theo Claude Madrolle, Indochine du Sud, Paris 1926).
    [​IMG]
    Saigon và xe điện trên đường Hàm Nghi (Boulevard de la Somme). Bên hông xe điện có sơn quảng cáo thuốc lá Melia. Trên nóc tòa nhà phía sau gắn hệ thống đèn neon quảng cáo thuốc Aspirin. (HÌNH ẢNH: sưu tầm) Cũng trong năm này một phái đoàn ngoại giao đã được cử sang Oulong để thương thuyết sự nhượng lại Sở Quan Thuế Sài Gòn. Về sau đến đời vua Réam Thip Dei Chan(1642-1659), em vua trước, vị hòang hậu Việt Nam nói trên đã xin vua Cao Miên cho phép người Việt được quyền khai thác xứ Biên Hòa năm 1638.
    Sở dĩ vua Cao Miên đã giao hảo với nước ta và tự ý nhân nhượng một phần nào, là vì muốn cậy thế lực của triều đình Huế để chế ngự ảnh hưởng của người Xiêm. Như vậy chúng ta đã đến sinh cơ, lập nghiệp, khai khẩn đất đai Nam Bộ là do sự thỏa thuận hòan Tòan của đôi bên, chứ tuyệt nhiên không phải là một sự xâm nhập. Lại nữa nhờ uy thế của chúng ta mà Cao Miên đã đối phó hiệu quả với những tham vọng của nước Xiêm và bảo Tòan được nền độc lập của mình.
    Nói tóm lại sự hiện diện của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất là hợp tình, hợp lý và hợp pháp. Nói một cách khác công cuộc Nam tiến của tổ tiên ta là một sự kiện lịch sử bất di bất dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc tây tiến của người Âu Châu tại Mỹ Quốc và cuộc đông tiến của người Anh tai Úc Châu.
    Con sông Đồng Nai đã đưa ta đến tỉnh Biên Hòa (hòa bình ở biên cương), một trấn đã được sáp nhập vào nước ta năm 1653. Khoảng đất này xưa được gọi là Đông Phố, đúng ra là Giãn Phố vì hai chữ Đông và Giãn viết theo chữ Hán hơi giống nhau. Về sau nơi này đã được triều đình Huế giao cho người Trung Hoa gốc Quảng Tây di cư theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình đến khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại Cù Lao Phố, sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ.
    Miền trên Biên Hòa thì có Hố Nai (hố sập nai), Trảng Bom (trảng là một đồi bằng phẳng và rộng rải có trồng nhiều cây chum-bao-hom đọc trạnh thành bom, sinh ra một thứ dầu gọi là chaulmougra, dùng để trị phong hủi.
    Phía dưới là nhà Thương Điên Nguyễn Văn Hoài, một nhà bác học đã quả quyết với chúng tôi rằng trong một đời người, số giờ mà chúng ta điên cuồng cộng lại ít nhất cũng được vài năm!
    Biên Hòa là quê hương của Đỗ Thành Nhân, một trong Gia Định Tam Hùng. Hai người kia là Võ Tánh quê ở Gò Công và Nguyễn Huỳnh Đức quê ở Tân An.
    Biên Hòa là xứ bưởi bòng ngon ngọt có tiếng nên mới có câu ca dao:
    Thủy để ngư, thiên biên nhạn
    Cao khả xạ hề, đê khả điếu,
    Chỉ kích nhơn tâm bất khả phòng
    E sau lòng lại đổi lòng,
    Nhiều tay tham bưởi chê bòng lắm anh

    Chúng ta đi ngang qua trước ngọn núi Châu Thới, cao 65 m trên có ngôi chùa Hội Sơn, được trùng tu vào đầu thế kỷ thứ 19, nhờ công đức sư Khải Long:
    Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
    Nghiêng chùa Châu Thới mới sai lời nguyền!

    Rồi đến Thủ Đức với những hồ bơi nước suối, và những gói nem ngon lành. Thủ nhắc lại ngày xưa có những chức quan văn như Thủ Bạ, Thủ Hô lo về việc thuế má và nhơn thế bộ. Do đó mà có những địa danh như Thủ Thiêm, Thủ Thừa, Thủ Ngữ… để nhắc lại tên mấy ông Thủ Bạ và Thủ Hộ ngày trước. Miền Thủ Đức lại nhắc cho ta hai câu đối “tréo dò:”
    Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ
    Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ

    Có lẽ vì năm canh thức đủ mà có kẻ than thân trách phận tự mình sánh với cái nem Thủ Đức lột trần:
    Người ta năm chị bảy em
    Tôi đây như thể chiếc nem lột trần

    Phía tay mặt là Gò Vấp, xưa kia là một ngọn đồi trồng cây vấp. Thứ cây này xưa kia được coi như thần mộc, yểm hộ cho dân tộc Chàm. Dã sử thuật lại rằng vào đời vua Chiêm cuối cùng là Pô Romé (1627-1651), vua này muốn vừa ý một ái phi người Việt đã ra lệnh đốn cây Kraik (vấp) cổ thụ rợp bóng nơi vườn ngự uyển. Hơn một trăm thị vệ lực lưỡng không sao hạ nổi vì vết rìu mỗi lần bổ xong thì khép lại ngay. Nhà vua tức giận cầm lấy rìu hạ xuống một nhát, tức thời một tiếng rên rỉ vang lên và cây gục xuống giữa một vũng máu. Và cũng từ đó vận khí nước Chiêm suy dần cho đến ngày tàn tạ.
    Bây giờ ta vào thành phố Sài Gòn, nơi mà 300 năm về trước (1674) tiền đạo quân ta lần đầu tiên đã đặt chân tới, mang theo khẩu hiệu: “Tĩnh vi nông, động vi binh.” Quân ta không phải tự động mà đến, chính là do lời yêu cầu khẩn thiết của nhà đương cuộc hồi bấy giờ.
    Họ khai khẩn đất đai với sức dẻo dai sẵn có, đào sông ngòi trong vùng đất thấp và đây đó khắp nơi, xây dựng thành trì kiên cố.
    Một trong những công tác quân sự ấy do tướng Nguyễn Đức Đàm xây năm 1772, rồi đến thành trì Phan An xây năm 1790, kế đến là thành Gia Định xây năm 1836. Những thành ấy xây đắp với mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài trí như đã ghi trong câu ngạn ngữ:
    Dân đất Bắc
    Đắp thành Nam:
    Đông đã là đông!
    Sầu Tây vòi vọi!

    Chúng ta đang ở trung tâm thành phố Sài Gòn (sài là củi, gòn là bông gòn) chuyển sang chữ nho thành Sài-Côn là củi gòn, vì chữ nôm gòn viết là Côn, như ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đã ghi trong tác phẩn Gia Định Thống Chí mà hiện nay chúng còn một bản dịch ra pháp văn của ông Gabriel Aubaret.
    Theo một số người khác thì Sài Gòn có lẽ do chữ Đê Ngạn đọc thành Tai Ngon hay Thay Gon theo giọng Quảng Đông hay Tingan theo giọng Triều Châu, dùng để chỉ thành phố do người Tàu lập nên năm 1778 sau khi họ phải rời bỏ Biên Hòa vì chiến sự giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, để nhờ sự bảo hộ của quân đội chúa Nguyễn đóng tại Bến Nghé.
    Nguyên ủy xa hơn cả có lẽ là sự chuyển âm của một danh xưng tối cổ Preikor, có nghĩa là rừng gòn, một loại cây hiện nay còn trồng ở thủ đô Saigon.
    [​IMG]
    Hình chụp trên đại lộ Nguyễn Huệ, 1967. (HÌNH ẢNH: sưu tầm)​
    Theo Ông Verdeille thì Sài Gòn có thể là hai chữ nho: Tây Cống đọc chạnh ra, tên này ám chỉ rằng thành phố là phần đất xưa kia đã được các vị vua phía Tây cống hiến cho ta. Ta nên lưu ý rằng tên Saigon chỉ được dùng trong các văn kiện của Pháp kể từ 1784 trở đi mà thôi.
    Còn danh xưng của Chợ Lớn mà người Tây đọc liền lại là Cholon, nó chỉ ngôi chợ xưa kia nằm trên địa điểm hiện tại của Sở Bưu điện Chợ Lớn kéo dài tới tận Đại Thế Giới cũ. Chợ này lập song song với chợ nhỏ hiện nay còn tồn tại với tên Chợ Thiếc ở phía trường đua Phú Thọ. Về sau Chợ Lớn được dời tới Chợ Lớn mới do nhà đại phú Quách Đàm xây tặng, tượng họ Quách vẫn còn ở giữa đỉnh chợ Bình Tây.
    Sự biến đổi địa âm dạng của địa danh Sài Gòn đã tuỳ sự hiện diện liên tiếp của những người quốc tịch khác nhau như Preikor (rừng gòn), Tai- Ngon hay Thầy Gòn của người Trung Hoa mà ta đọc là Đê Ngan, người phương tây dùng chữ la mã ghi là Sài Gòn từ năm 1784.
    Hồi xưa tên Sài Gòn chỉ áp dụng cho khu vực Chợ Lớn hiện thời, còn chính Sài Gòn bây giờ thì khi ấy là Bến Nghé (theo Trịnh Hoài Đức, theo các nhà hàng hải Âu Mỹ, theo bản đồ do ông Trần Văn Học vẽ ngày mùng 4 tháng Chạp năm Gia Long thứ 14 (1815) ghi trên vùng Chợ Lớn hiện tại chỗ nhà thương Chợ Rẫy 3 chữ Sài Gòn Xứ, khoảng gần Cây Mai và Phước Lâm. Khu Sài Gòn cao, nằm phía Đồn Đất tức là cái đồn thâu hẹp năm 1836 sau khi Lê Văn Khôi nổi loạn, chắc đã có người ở từ thời thượng cổ, chứng cớ là những khí giới và đồ dùng bằng đá mài tìm thấy khi đào móng nhà thờ Đức Bà. Khu thấp thường gọi là Bến Nghé hay Bến Thành.
    Bến Thành là cái tên ở gần hào thành Gia Định, nguyên trước có cái rạch nối liền hào thành với sông Bến Nghé và có cái chợ gọi là chợ Bến Thành. Cái rạch ấy về sau lấp đi thành Đại Lộ Nguyễn Huệ và đến bây giờ có câu ca dao như sau:
    Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ,
    Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu
    Lấy em anh đâu kể sang giàu
    Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em

    Bến Nghé, theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con, do một tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đã được Việt hoá. Nhưng ông Đốc Phủ Trần Quang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu, chúng thường kêu nghé nên gọi là Bến Nghé. Trịnh Hoài Đức dịch là “Ngưu Tân” Bến Nghé là cái bến sông Sài Gòn có tên là sông Bến Nghé, cũng có tên là Tân Bình Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót (theo Gia Định Thống Chí).
    Còn cái rạch Bến Nghé nối dài bởi kinh Tàu Hủ (Arroyo chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé. Bến Nghé tức là Sài Gòn và khi ta nói Đồng Nai – Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy.
    Phía đông Sài Gòn có một cái kênh gọi là rạch Thị Nghè hay là rạch Bà Nghè. Bà tên là Nguyễn Thị Canh, con gái Thống Suất Nguyễn Cửu Văn tức Văn Trường Hầu, đẹp duyên với một ông Nghè. Để cho chồng bà tiện đường qua rạch hàng ngày vào làm trong thành, bà cho dựng một chiếc cầu mà dân sự có thể dùng được. Để tỏ lòng nhớ ơn một bậc nữ lưu, họ đã gọi cầu ấy là cầu Bà Nghè. Đến khi Tây đến đánh thành Sài Gòn, pháo hạm Avalanche tiến vào rạch này đầu tiên nên họ mới gọi là Arroyo de l’Avalanche.
    Trên rạch Bến Nghé hồi xưa có nhiều chiếc cầu ván dựng tạm cho người qua lại. Chiếc cầu nổi tiếng hơn cả là cầu Ông Lãnh, được xây nhờ công ông Lãnh Binh, thời Tả Quân Lê Văn Duyệt. Còn những chiếc cầu khác là Cầu Muối, Cầu Khóm (thơm), Cầu Kho và Cầu Học (giếng học). Về các công sự thì có:
    Chợ Bến Thành (mới) xây năm 1914 trùng tu năm 1950
    Nhà Thờ Đức Bà khởi công năm 1877 hòan thành năm 1883
    Sở Bưu Điện và Tòa Án cất năm 1883 Dinh Norodom khởi công ngày Chủ Nhật 23/02/1868 với sự tham dự đông đảo của dân chúng. Thủy Sư Đô Đốc De La Grandìère với sự hiện diện của kiến trúc sư Hermitte từ Hong Kong tới, đã đặt viên đá đầu tiên vuông vức mỗi bề nửa mét, trong đó đựng một hộp chì chứa nhũng đồng tiền vàng và bạc dập hình vua Napoléon III.
    Đức Giám Mục Miche, cai quản địa phận, với một số đông con chiên, đã ban phép lành và đọc một diễn văn lời lẽ cao quý đã làm cử toạ đặc biệt chú ý. Công cuộc xây cất trên một khoảng đất rộng 14 mẫu tây đã phải dùng tới hai triệu viên gạch,và cái móng dày tới 3,5 m tốn mất 2,436 thước khối đá xanh Biên Hòa. Công tác đã hoàn thành năm 1875 và người đầu tiên đến ở trong dinh đó là Thủy Sư Đô Đốc Roze. Sau 84 năm Pháp thuộc, ngày 07/09/1954 Đại Tướng Ely, Cao ủy Pháp đã trả dinh thự này cho Chính Phủ Việt Nam thời bấy giờ.
    Tòa Đô Sảnh (1901-1908) trên có một gác chuông do hoạ sĩ Ruffier trang trí mặt tiền.
    Viện Bảo Tàng Quốc Gia xây năm 1927, khánh thành ngày 01/01/1929, bị vụ nổ nhà thuốc súng làm hư hại ngày 08/03/1946 và được hoàn lại chính phủ Việt Nam ngày 19/09/1951 thu thập tới 4,000 cổ vật đã kê thành mục lục và trình bày trong 14 gian phòng.
    Thảo Cầm Viên (Sở Thú) tương tự với rừng Vincennes ở Pháp, được lập năm 1864. Sau khi đã san bằng, việc đưa thú tới nhốt nơi đó hòan tất năm 1865. Ngày 28/03/1865 nhà thực vật học Pierre đảm nhiệm việc điều khiển vườn Cầm Thảo Sài Gòn và ngày nay nhiều giống cây ở xứ ta còn mang tên nhà bác học ấy.
    [​IMG]
    Saigon ngày tháng cũ và cô gái ngóng đợi ai trên đường phố. (HÌNH ẢNH: sưu tầm)​
    Đây đó ta còn gặp một số địa danh nguồn gốc tây phương như: Ba-Son (Arsenal) trong có một bến sửa tàu (bassin de radoub) xây bằng xi măng cốt sắt từ năm 1858, và bến tàu nổi được hạ thủy tháng 01/1866. Chữ Ba-Son do chữ Bassin mà ra.
    Vườn Bờ Rô (do chữ Jardin des Beaux Jeux) hay là vườn Ông Thượng, xưa kia là hoa viên của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, nay là vườn Tao Đàn.
    Đa Kao là biến danh của Đất Mộ (đất của lăng)
    Lăng Tô là biến danh của Tân Thuận, tên một làng mà dân Sài Gòn thường đến hóng mát (pointe des flaneurs).
    Bây giờ chúng ta rời Sài Gòn xuống đò Thủ Thiêm qua bên kia sông xem địa phận mà chính phủ đang trù định một chương trình kiến thiết rộng lớn,để biến nơi này thành một khu vực nguy nga tráng lệ.
    Con đò Thủ Thiêm ngày xưa đã hấp dẫn một số đông những chàng trai trẻ:
    Bắp non mà nướng lửa lò
    Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm

    Nhưng một ngày kia chàng trai phải ra đi trong khói lửa chiến tranh, đến khi trở về thì than ôi:
    Ngày đi trăm hoa hẹn hò
    Ngày về vắng bóng con đò Thủ Thiêm

    Từ Thủ Thiêm chúng ta thẳng tiến đến một nơi gọi là Nhà Bè hay là Ngã Ba Sông Nhà Bè, nơi mà con sông Đồng Nai gặp con sông Sài Gòn cũng gọi là sông Bến Nghé. Ngày xưa ở chỗ ấy ông Thủ Khoa Hườn có lập nhà bè để bố thí lúa gạo cho những kẻ lỡ đường và ngày nay còn vọng lại mấy câu hò tình tứ của cô lái miền quê:
    Nhà Bè nước chảy chia hai
    Ai về Gia Định Đồng Nai thì về

    Rời Nhà Bè, chúng ta trở lại Sài Gòn để đi về miền Bà Chiểu, một vùng ngoại ô trù mật ở phía Đông, chúng ta phải đi qua một cái cầu gọi là Cầu Bông, vì xưa kia ở gần đó Tả Quân Lê Văn Duyệt có lập vườn hoa rất ngoạn mục. Bà Chiểu tỉnh lỵ Gia Định, nổi tiếng về lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt (1764-1832), một vĩ nhân được người Việt và người Tàu tôn thờ như một vị thần thánh.
    Theo Trương Vĩnh Ký thì Bà Chiểu là một trong 5 bà vợ của ông Lãnh Binh đã xây cái cầu Ông Lãnh. Theo phương pháp kinh tế tự túc mà các cụ ngày xưa thường áp dụng, ông đã lập ra 5 cái chợ, giao cho mỗi bà cai quản một cái: Bà Rịa (Phước Lễ), Bà Chiểu (Gia-Định), Bà Hom (Phước Lâm), Bà Quẹo (phía Quán Tre) và Bà Điểm (phía Thuận Kiều).
    Riêng chợ Bà Điểm gần làng Tân Thới quê hương của Cụ Đồ Chiểu, tác giả Lục Vân Tiên, thi phẩm đầu giường của đồng bào Nam Bộ là nơi bán trầu ngon có tiếng ở Miền Nam. Món trầu là đầu câu chuyện, cho nên bao nhiêu chuyện, hay dở gì cũng do miếng trầu trao cho nhau mà sinh ra cả:
    Trồng trầu trồng lộn dây tiêu
    Con theo hát bội mẹ liều con hư
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nguồn Gốc Một Số Địa Danh Miền Nam (phần 2)

    Hồ Đình Vũ

    Từ Bà Chiểu chúng ta trở lại Sài Gòn để rẽ về Phú Nhuận, qua Cầu Kiệu hay là Cầu Xóm Kiệu là nơi xưa kia trồng rất nhiều hành kiệu. Phú Nhuận (giàu sang và thuần nhã) là nơi còn nhiều cổ tích như: Lăng Đô Đốc Võ Di Nguy, mất tại cửa bể Thị Nại năm 1801. Lăng Trương Tấn Bửu và lăng Võ Quốc Công tức là hậu quân Vũ Tính, nơi đây vua Gia Long có cho trồng 4 cây thông đưa từ Huế vào để tỏ lòng mến tiếc. Võ Tánh là một trong Gia Định tam hùng mà dân chúng nhắc tới trong những điệu hò giao duyên. Theo thường lệ, người con gái lên tiếng trước:
    Nghe anh làu thông lịch sử
    Em xin hỏi thử đất Nam-Trung:
    Hỏi ai Gia Định tam hùng
    Mà ai trọn nghĩa thủy chung một lòng?

    Người con trai liền đáp lại:
    Ông Tánh, ông Nhân cùng ông Huỳnh Đức,
    Ba ông hết sức phò nước một lòng
    Nổi danh Gia Định tam hùng
    Trọn nghĩa thủy chung có Ông Võ Tánh
    Tài cao sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh
    Bước lên lầu bát giác thiêu mình như không

    Về phía Tân Sơn hòa có Lăng Cha Cả là một cổ tích kiến trúc Việt Nam xưa nhất ở vùng Sài Gòn. Nơi đây mai táng Đức Giám Mục Bá Đa Lộc, mất tại cửa Thị Nại năm 1799.
    Rời khỏi ngoại ô Sài Gòn chúng ta thuê một chiếc thuyền con về vùng Lái Thiêu (tức là ông Lái gốm họ Huỳnh đã thiêu nhà vì say rượu) để thăm vườn trái:
    Ghe anh nhỏ mũi tráng lường
    Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.

    Nơi đây quy tụ rất nhiều trái ngon đặc biệt như: dâu da, thơm, bòn bon, mít tố nữ, măng cụt và nhất là sầu riêng là giống cây từ Mã Lai đưa vào. Cây Sầu riêng thân cao lá ít, trái có gai bén nhọn kinh khủng, cho nên trời chỉ cho phép nó rụng khi đêm khuya thanh vắng mà thôi! Đồng bào Nam Bộ liệt nó vào hàng đầu trong các loài trái, vì nó có đủ năm mùi hương vị đặc biệt như quả lê Trung Hoa. Những người xa lạ phải chịu nhẫn nại một thời gian mới thông cảm, và khi đã thông cảm rồi thì thèm muốn như mê say, chỉ trừ anh học trò thi rớt:
    Có anh thi rớt trở về
    Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn
    Sầu riêng anh chẳng buồn ăn
    Bòn bon, tố nữ anh quăng cùng đường

    [​IMG]
    Đủ các loại xe cộ tấp nập ngược xuôi gần Ngã Tư Phú Nhuận. (HÌNH ẢNH: sưu tầm)​
    Tại vùng Lái Thiêu, có một ngôi nhà thờ cổ kính xây từ thế kỷ 18 trên ngọn đồi xinh tươi, chung quanh có nhiều lò gốm, lò sành và một trường dạy học cho trẻ em câm điếc với một phương pháp riêng biệt.
    Đến Búng chúng ta không quên đi thăm chùa Phước Long ở vùng An Sơn, có ông huề thượng thâm nho, thường ra nhiều câu đối bí hiểm cho những khách nhàn du: Rượu áp sanh (absinthe) say chí tử. Có người đã đối lại như sau: Bóng măng cụt mát nằm dài.
    Trong chùa ông huề thượng có ghi hai câu:
    Cúng bình hoa, tụng pháp hoa, hoa khai kiến Phật
    Dâng nải quả, tu chánh quả, quả mãn thông thần

    (sưu tầm bài viết của ông Tân Việt Điêu trong Văn Hoá Nguyệt San số 33 năm 1958)
    TÊN GỌI SÀI GÒN TỪ ĐÂU?
    Đây là một đề tài được các nhà nghiên cứu, học giả, Tây lẫn Ta, tốn rất nhiều thì giờ và công sức. Cho đến nay thì có khoảng 5 giả thuyết về xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có 3 thuộc loại quan trọng hơn. Xin ghi lại 3 thuyết quan trọng hơn dưới đây:
    Sài Gòn từ Thầy Ngòn (Đề Ngạn), Xi-Coón (Tây Cống)
    Đây là thuyết được đưa ra bởi hai tay thực dân Pháp là Aubaret và Francis Garnier (người bị giặc Cờ Đen phục kích chết). Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse Cochinchine và Garnier, Cholen, thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị Tây Sơn tàn sát, đã lập nên thành phố Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành phố đó là Tai Ngon hay Ti Ngan. Sau dó, người Việt bắt chước gọi theo và phát âm thành Sài Gòn.
    Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì Thầy Ngòn, Xi Coón, rất giống Sài Gòn! Tuy nhiên, theo lịch sử thì không phải.
    Tại sao? Vì lịch sử chứng minh rằng Sài Gòn có trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc trại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coón.
    Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vở “Lũy Sài Gòn” (theo Hán-Việt viết là “Sài Côn”). Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện trong tài liệu sử sách Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán “Côn” được dùng thế cho “Gòn.” Nếu đọc theo Nôm là “Gòn,” còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là “Côn.”
    Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Sài Gòn! Thì làm gì phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng.
    Sài Gòn từ Củi Gòn, Cây Gòn, Prey Kor
    Thuyết này được Petrus Trương Vĩnh Ký đưa ra dựa theo sự “nghe nói” như sau:
    “Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ. Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn. Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận” (Pétrus Trương Vĩnh Ký, Souvenirs historiques sur Sài Gòn et ses environs, trong Excursions et Reconnaissance X. Sài Gòn, Imprimerie Coloniale 1885).
    Không biết tại sao mà sau này Louis Malleret và Vương Hồng Sển lại quả quyết thuyết này là “của” Trương Vĩnh Ký, mặc dù ngay sau đoạn này, Trương Vĩnh Ký lại viết tiếp “Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó.”
    Tương tự, có nhiều thuyết phụ theo nói rằng Sài Gòn từ “Cây Gòn” (Kai Gon) hay “Rừng Gòn” (Prey Kor) mà ra.
    Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông gòn.
    Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được dấu tích của một thứ “rừng gòn” ở vùng Sài Gòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả nhà bác học Trương Vĩnh Ký. Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó Sài Gòn không có phát triển hay thay đổi gì cho lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sài Gòn.
    Sài Gòn từ Prei Nokor
    Đây là thuyết mà thoạt đầu khó có thể chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện nay được coi như là “most likely.”
    Chính Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này Trong Tiểu Giáo Trình Địa Lý Nam Kỳ, ông đã công bố một danh sách đôi chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuoc và Sài Gòn là Prei Nokor.
    Trước nhất, theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor (Sài Gòn) và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế.
    Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi Rai Gon Thong (Sài Gòn Thượng) và Rai Gon Hạ (Sài Gòn Hạ).
    Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là “thị trấn ở trong rừng,” Prei hay Brai là rừng, Nokor hay Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế như đã nói ở trên.
    Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành RAI, thành “Sài,” Nokor bị bỏ “no” thành “kor,” và từ “kor” thành “Gòn.”
    Từ Prei Nokor… mà thành Sài Gòn thì thật là… dễ sợ!
    Còn sở dĩ có chữ Sài Gòn viết dính nhau là do các giáo sĩ tây phương đã bỏ mất dấu và gắn liền nhau khi in. Sau khi chiếm nước ta, để khỏi đọc “sai” ra “sê” theo giọng Pháp nên Sài Gòn được viết với hai dấu chấm trên chữ i.
    CA DAO TỤC NGỮ SÀI GÒN
    Sài Gòn là Hòn ngọc Viễn Đông, là một thành phố lớn nhất Việt Nam. Những nơi như Sài Gòn được mệnh danh là Kẻ Chợ, đã là Kẻ Chợ ắt có chợ, mà phải là ngôi chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Sài Gòn, ra vào chợ Sài Gòn hẳn không quên. Chợ Sài Gòn được đồng bào Hậu Giang so sánh với ngôi chợ tỉnh nhà:
    Chợ Sài Gòn cẩn đá,
    Chợ Rạch Giá cẩn xi măng
    Giã em xứ sở vuông tròn
    Anh về xứ sở không còn ra vô

    Người con gái ở đô thành tiêm nhiễm nếp sống tây phương, chàng trai xa nàng khỏi sao thắc mắc, lo nàng ở lại chẳng vuông tròn nên phải ra vô, nàng vuông tròn chàng yên tâm về xứ sở.
    Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy
    Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa
    Viết thư thăm hết mọi nhà
    Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em

    Sài Gòn và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên sáu chục cây số, nay tuy thật gần những xưa thật xa, vì phương tiện di chuyển đâu có dồi dào như nay, chàng và nàng dù đã yêu nhau, nhưng mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi bên cùng bận làm ăn buôn bán, nàng ở chợ Sài Gòn, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau, chỉ biết tin thư thăm hỏi, lấy giấy thay lời. Chàng yêu nàng vì duyên, vì tình, tình yêu chân thật, đâu thấy nàng giàu mà ham hoặc thấy nàng nghèo mà chê.
    Chợ Sài Gòn đèn xanh, đèn đỏ,
    Anh coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu
    Lấy anh em đâu kể sang giàu
    Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em

    Chợ Sài Gòn với những hàng quảng cáo đèn màu xanh đỏ, chàng trai quê lên nhầm lẫn đó là đèn tàu. Sự lầm lẫn thị giác này có thể có được, nhưng lầm về yêu đương, chàng đâu có lầm. Chàng lấy nàng đâu có kể sang giàu, vì tiền tài bao nhiêu cũng có thể hết, duy tình nghĩa mới bền lâu, như người xưa đã nói:
    Theo vàng bỏ ngãi ai hơi
    Vàng thời đã hết, ngãi tôi vẫn còn

    Chính vì nghĩa mới bền lâu, nên khi xa người nghĩa, người con trai đứng ngồi không yên:
    Chim quyên xuống đất tha mồi
    Tôi xa người nghĩa đứng ngồi không yên
    Giấy tây bán mấy
    Mua lấy tờ nguyên
    Làm thơ hỏi ******** duyên chuyện gì

    Mến thương nàng, đem nàng so sánh với các nàng lục tỉnh, cô gái Sài Gòn thật hơn:
    Nội trong lục tỉnh Nam Kỳ
    Mấy ai được nết nhu mì như em
    Hai hàng luỵ ngọc ướt nhèm
    Làm sao cho đặng anh với em giao hòa

    Sự ước vọng, lòng mong mỏi của chàng là được cùng nàng giao hòa!
    Chợ Sài Gòn ngày nay ta vẫn gọi là chợ Bến Thành, nhưng Bến Thành trước đây là bến tàu và hàng ngày thường 10 giờ thì tàu đến bến này:
    Mười giờ tàu lại Bến Thành
    Súp lê còi thổi bộ hành lao xao

    Sao lại mệnh danh Bến Thành? Phải chăng đây là bến của đô thành Sài Gòn hay của Gia Định thành? Còn khách bộ hành lao xao vì muốn ngắm tàu Tây.
    Anh ngồi quạt quán Bến Thành
    Nghe em có chốn anh đành quăng om
    Anh ngồi quạt quán Bà Hom
    Hành khách chẳng có, đá om quăng lò

    [​IMG]
    Dinh Độc Lập trong thời kỳ đang xây cất, 1964. (HÌNH ẢNH: Russel Vesco)
    Chàng trai ngồi quạt quán ở Bến Thành với bình trà Huế, được tin người mình thương đã có nơi chốn, chàng tỏ buồn rầu quẳng cả bình trà đi. Kể cũng đáng buồn, tưởng được cùng người thương thưởng thức bình trà (om) ngon, ngờ đâu nàng là hoa có chủ, chàng đành ôm hận, trút mối giận vào om, cái bình trà vô tội.
    Nhắc đến Bến Thành, quên sao được thành Tây:
    Dân đất Bắc
    Đắp thành Tây
    Đông thật là đông
    Sầu Nam vời vợi

    Câu này gồm đủ đông, tây, nam, bắc! Dân đất Bắc phải chăng những người dân miền Bắc bị đưa vào Nam làm dân phu, đắp thành cho người Tây? Số dân phu ắt nhiều lắm, Đông thật là đông. Sự đông đúc này quả là một mối sầu vời vợi cho nước Nam, cho dân Nam! Nước mất nhà tan, thân làm nô lệ, phải đi đắp thành cực khổ cho Tây để chúng dựa vào thành trì đô hộ đồng bào mình. Người miền Bắc bị đi dân phu hằng than thở:
    Nhà tan nước mất ai ơi
    Cái thân nô lệ sống đời cu ly

    Người dân than thân như vậy, nhưng vẫn có bọn mũ cao áo dài hà hiếp dân để nịnh bợ quân thù! Thật đau đớn nhưng những kẻ mãi quốc cầu vinh, cõng rắn cắn gà nhà, có bao giờ chúng nghĩ đến Sầu Nam vời vợi. Và trong khi sống đời cu ly đi đắp thành Tây, đã biết bao nhiêu người bỏ thây cùng công việc, ngày xưa đâu đã có máy móc, kỹ thuật xây dựng đắp hòan Tòan công ở sức người.
    Đắp thành Tây rồi xây soái phủ cho Tây, người dân Nam trong cảnh căm hờn muốn nói không ra, đành gởi tâm tình vào ca dao tục ngữ:
    Trên thượng thơ bán giấy
    Dưới Thủ Ngữ treo cờ
    Kìa Ba còn đứng trơ vơ
    Nào khi núp bụi, núp bờ
    Mũi Di đánh dạo bây giờ bỏ em

    Thượng thơ, xưa chính là soái phủ miền Nam ở góc đường Tự Do và Gia Long ngày nay. Nơi ấy có bán ấn chỉ cho dân, trong Nam quen gọi là bán giấy. Thủ Ngữ là nơi thủy quân Pháp đóng, có dựng cột cờ. Con người ái quốc trông hai nơi này căm gan sôi ruột! Ai đã khéo đặt ra câu ca dao trên để kích thích lòng căm hờn của người dân Việt, đã nhắc đến tượng Gambetta ở vườn Tao Đàn, gọi một cách nhục nhã là Ba Tượng một người Pháp gọi là Ba, ai là dân Việt ắt thấy nhục vong quốc này. Nếu câu ca dao chỉ có 3 dòng đầu có thể gợi sự nghi ngờ của người Pháp, bởi vậy phải thêm hai hàng sau gắn vào, mượn lời tình nhân oán trách tình nhân che dấu ý kín của câu hát.
    Tuy đây là lời tình nhân oán trách tình nhân, nhưng cũng là lời đồng chí oán trách đồng chí, đã cùng nhau núp bụi ngồi bờ, đã cùng nhau đánh dạo ở Mũi Di, vậy mà quên nhau, về đầu thú người Pháp để cầu công danh phú quý.
    Pháp chiếm Việt Nam, một mặt dân Việt Nam căm hờn, một mặt một số cô gái Việt Nam kém ý thức, vì hòan cảnh đã sánh duyên với Pháp trở thành me Tây. Lính Pháp lấy me trong thời gian ở đất Việt, rồi anh lính trở về Pháp, cô me Tây ở lại nước Việt lại lấy chồng, đặng một anh lính khác, chẳng khác chi các nàng Giao Chỉ sau này trong thập niên 60 cho đến năm 1975 sánh duyên cùng các chú lính Mẽo.
    Sài Gòn mũi đỏ
    Gia Định súp lê
    Giã hiền thê ở lại lấy chồng
    Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây

    Thuyền, tàu Sài Gòn hồi đó sơn mũi đỏ để phân biệt với thuyền tàu lục tỉnh, như vậy thực dân tiện bề kiểm soát.
    Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây, câu này muốn nói khi anh lính Tây đã ra cửa bể rồi, anh tha hồ được tự do, đến bến mới anh tha hồ kết duyên cùng người mới.
    Về các cuộc hôn nhân Việt Pháp, lúc tiễn đưa, chúng tôi đã từng nhắc tới một câu trong ca dao hôn nhân dị chủng, xin phép được nhắc lại như sau:
    Còi súp lê một anh còn than thở
    Còi súp lê hai anh nức nở vắn dài
    Còi súp lê ba, tàu ra biển Bắc
    Nước mắt anh nhỏ ra, anh rút mù xoa anh chậm
    Tình nghĩa vợ chồng ngàn dặm không quên

    Cuộc tiễn đưa ắt phải xảy ra tại bến tàu Sài Gòn, và có anh chàng Tây đã thút thít vì phải xa vợ, anh bảo rằng ngàn dặm không quên, có thật hay chăng anh ra cửa bể như rồng lên mây? Sao có sự mâu thuẫn giữa hai câu thơ trên, hay ý tại ngôn ngoại, chỉ có sự mâu thuẫn trên hình thức, còn thực ra thì ngàn dặm có đời nào mà không quên đối với những lứa đôi dị chủng, nhất là trong cuộc chắp nối giang hồ.
    Sài Gòn nơi có đô hội lớn, phố xá rộng rãi, cây cao và rậm mát:
    Đường Sài Gòn cây to bóng mát
    Đường Chợ Lớn hạt cát nhỏ dễ đi

    Đường Sài Gòn có đúng cây to bóng mát, còn đường Chợ Lớn có lẽ trước đây với đất phù sa của đồng bằng Cửu Long, cát nhỏ dễ đi chăng! Dưới thời Pháp thuộc, đường Sài Gòn cũng như đường Chợ Lớn đều đã rải đá và sau này tráng nhựa… Ngày nay, với thời gian đường đã hư hỏng dù rải đá hay tráng nhựa, mà chính quyền có ít chú ý tới sửa chữa, nên có thể có người than:
    Đường Sài Gòn ổ gà đi xóc
    Đường Chợ Lớn đi xóc ổ gà

    Ca dao Sài Gòn có những câu rất ngộ nghĩnh, nhắc tới địa danh một cách khéo léo:
    Chị Hươu đi chợ Đồng Nai
    Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò

    Trong bài này chúng ta bắt gặp bốn con vật ăn cỏ là Hươu, Nai, Nghé, Bò với hai địa danh là Đồng Nai, Bến Nghé.
    Dưới đây là câu ca dao nhắc tới các chợ khác ngoài chợ Bến Thành:
    Mẹ đi chợ Quán, chợ Cầu
    Mua cau chợ Vải, mua trầu chợ Dinh
    Sáng mai đi chợ Gò Vấp
    Anh mua một xấp vải đem về
    Cho con hai nó cắt, con ba nó may
    Con tư nó đột, con năm nó viền
    Con sáu đơm nút, con bảy vắt khuy
    Anh bước ra đi
    Con tám núi, con chín trì
    Ớ em mười ơi
    Sao em để vậy còn gì áo anh

    Ca dao Sài Gòn hẳn phải còn nhiều, biết tới đâu xin tỏ tường tới đó, những điều chưa biết xin nhờ sự chỉ giáo của người biết (trích tác phẩm Hương Nước Hồn Quê của Toan Ánh).
    Đầu tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi trước của con rạch Thị Nghè quận 1 sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia Định phú do Phan Văn Thị sáng tác có câu ví ngộ nghĩnh.
    Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải
    Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai

    Tôi chịu thua, tìm cả trong tự điển cây “chàm rai” là cây gì, mà lá nó xanh dữ vậy.
    Nội ô Sài Gòn còn có một bà cũng nổi tiếng đó là Bà Chiểu, nằm trên địa bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình Thạnh. Khu vực này có cái chợ cùng tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm, chủ yếu là bán lẻ. Có câu ca dao, nghe cũng vui tai:
    Xe mui chiều thả chung quanh
    Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi

    Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm. Tương truyền bà Điểm là một chủ quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc Môn, có 18 thôn vườn trầu, nơi đây Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định từng hoạt động (khoảng năm 1861).
    Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh, một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng. Thứ nữa nhìn hình vóc của khu vực đó mà đặt.
    Thí dụ: Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường 13, 14 quận Tân Bình. Ai đi trên đường lên Tây Ninh, vọt thẳng biên giới với Cam-pu-chia, có một ngã ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 thì quẹo trái rẽ vào.
    Hay Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận 5, thông từ các ao, đầm ra rạch Bến Nghé, nay bị lấp rồi. Bà Đô còn là tên chiếc cầu ở đầu đường Hàm Tử bắc qua rạch Bà Đô (còn gọi là Thị Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi trước, qua đây hay hát:
    Kể từ chợ Sỏi trở vô
    Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu

    Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh Tàu Hũ, từ đầu đường Tản Đà đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định phú có câu ví rất hay:
    Giếng Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái nhảy thỏa tình khát vọng
    Cầu Bà Thuông đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai

    Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạch Bà **** có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh giới với Tây Ninh đến sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp ranh với Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà Tàng, vừa là các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua rạch Lào trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp… cũng là cầu, là rạch, là tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu khỏi trơn trợt.
    Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
    Trên cây Da Còm, nỡ để ông già gùi đội
    Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài

    Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn nữa. Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay. Bà Ký là đường trên địa bàn phường 9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ đường Phạm Văn Chí với Lò Gốm, nay tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà Lê Chân ở Tân Định. Năm 1906 có tên là Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại thành đường Bà Lê Chân. Bà Triệu nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp có tên là Merlande. Năm 1955 mới đổi thành Bà Triệu… Chắc là còn nhiều “bà” nữa mà người viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người tìm thêm nữa.
    [​IMG]
    Hình chụp trên đại lộ Thống Nhất, 1970. Building to lớn phía bên phải là Trường Tiểu Học Văn Hóa Quân Đội.
    (HÌNH ẢNH: sưu tầm)​
    Cũng lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con sông, chiếc cầu, hay địa danh một vùng đất gắn với một bà nào đó, thì có cả ca dao, câu hát, câu ví dí dỏm. Nhưng, với cánh đàn ông thì thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè, câu đố nào. Dù sao, có bà thì phải có ông, bởi thiếu ông nghe như trống trải trong lòng vậy.
    Ở Sài Gòn địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ nhắc tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
    Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh. Đúng là có cầu, có chợ, có phường 100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng ngắc ngứ lắm! Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 – 1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn hòa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác. Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng chuyện này không thuyết phục mấy.
    Hai là Ông Thượng. Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông Thượng thì biết ngay là Công viên Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi bọn trẻ, chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát bội.
    Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố, hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
    Coi cọp, xuống Thị Nghè
    Ăn ve, lên Ông Tố

    Ve mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào, châu chấu vậy. Không rõ ông Trương Vĩnh Tố có làm quan chức gì, chỉ biết ông ở gần đấy và khu đất cao (gọi là giồng) có lẽ là của ông chăng?
    Bốn là Ông Tạ. Là chợ mang tên một thầy thuốc nam nổi tiếng Trần Văn Bỉ (còn gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ còn là vùng đất thuộc các phường 3, 4, 5, 7 của quận Tân Bình. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe đến chợ Ông Tạ là gợi ngay đến các hàng thịt chó treo lủng lẳng cả chục con thui vàng rực, coi bắt mắt lắm.
    Năm là Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai xã Đa Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng Ông Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã chiến năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.
    Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là Lăng Ông (dân thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả Quân Lê Văn Duyệt, được xây trên khuôn viên khá rộng 18,500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này về sau xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11/1988, Bộ Văn hoá – Thông tin công nhận Lăng Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. Ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch.
    Ở Sài Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
    Tên đường chỉ duy nhất có Ông Ích Khiêm. Gắn với tên ông còn có rạch, cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2,800 m từ ngã ba rạch bến Trâu và Tân Hoá tới rạch Lò Gốm). Rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch Ông Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh. Rạch Ông Nghĩa ở xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu.
    Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ. cầu Ông Nhiêu, cầu Ông Thìn, cầu Ông Tiều… Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình Hưng dài đến 3 cây số.​
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Biên niên sử 300 năm Sài Gòn





    1623
    Chúa Nguyễn mở các trạm thu thuế ở Bến Nghé và Sài Gòn (ở quận 1 và quận 5 ngày nay).
    1679
    Chúa Nguyễn lập đồn dinh ở Tân Mỹ gần ngã tư Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi ngày nay.
    1698
    Chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, cho lập phủ Gia Định, gồm hai huyện Phước Long và Tân Bình. (Sài Gòn thuộc huyện Tân Bình)
    1731
    Chúa Nguyễn cử Trương Phước Vĩnh giữ chức Điều khiển để điều hành tất cả các dinh trấn, cho xây dinh Điều Khiển tại Sài Gòn. Thống binh Trần Đại Định xây lũy Hoa Phong để bảo vệ Sài Gòn.
    1748
    Lập chợ Tân Kiểng.
    1772
    Điều khiển Nguyễn Cửu Đàm đào kinh Ruột Ngựa nối Sài Gòn với miền Tây. Nguyễn Cửu Đàm xây lũy Bán Bích (dài 15 dặm) để bảo vệ Sài Gòn.
    1774
    Xây chùa Giác Lâm.
    1776 - 1801
    Nhà Tây Sơn 5 lần vào Sài Gòn. Đáng kể nhất là tháng 6-1784, Nguyễn Huệ đem binh vào và lập nên chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút lưu truyền sử xanh, đánh tan 300 chiến thuyền và 20.000 thủy quân xâm lược Xiêm và quân Nguyễn Ánh.
    1778
    Lập làng Minh Hương. Mở Chợ Lớn. 1788: Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn.
    1790
    Xây thành Bát Quái làm trụ sở chính quyền. Đổi Gia Định thành thành Gia Định kinh.
    1802
    Nguyễn Ánh lên ngôi ở Huế, niên hiệu là Gia Long, chia đất phía Nam làm 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên.
    1808
    Đổi Gia Định trấn thành Gia Định thành.
    1832
    Lê Văn Duyệt chết; đổi Gia Định thành và 5 trấn phía Nam thành 6 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
    1833 - 1835
    Lê Văn Khôi khởi binh.
    1835
    Vua Minh Mạng phá thành Bát Quái xây thành Phụng.
    1859
    15-2: Pháp tấn công thành Gia Định.
    17-2: Thành Gia Định thất thủ.
    1860
    Thành lập thương cảng Sài Gòn và Sở Thương chính.
    2-2: Le Page tuyên bố mở cửa Sài Gòn cho nước ngoài vào buôn bán. Thống đốc Nguyễn Tri Phương cùng Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở phía Nam. Xây đại đồn Chí Hòa (Kỳ Hòa) chống Pháp.
    1861
    24-2: Pháp đánh đồn Chí Hòa - 2 ngày sau đồn thất thủ.
    28-2: Pháp hoàn toàn chiếm Sài Gòn.
    11-4: Thống đốc Charner ban hành Nghị định quy định giới hạn Sài Gòn.
    1862
    5-6 Hòa ước Nhâm Tuất. Ký giữa Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp với Bonard. Triều đình Huế nhường cho Pháp 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường.
    1864
    Xây xong Dinh Thống đốc Nam Kỳ (nay là Bảo tàng Cách mạng). Tách Sài Gòn và Chợ Lớn.
    1865
    Gia Định Báo - tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời.
    1867
    4-4: Tổ chức thành phố Sài Gòn.
    8-7: Sửa nghị định 4-4- 1867 và tổ chức thành phố Sài Gòn.
    1868
    23-2: Khởi công xây dinh Toàn quyền.
    1869
    27-9: Bổ nhiệm ủy viên Hội đồng thành phố Sài Gòn (có Pétrus Trương Vĩnh Ký).
    1874
    15-3: Tổng thống Cộng hòa Pháp ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn. Hòa ước Giáp Tuất: nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam Kỳ. Ký tại Sài Gòn giữa Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường và Thống đốc Nam Kỳ Dupré.
    1877
    7-10: Xây Nhà thờ Đức Bà (11-4-1880 khánh thành)
    1885
    21-1: Khởi nghĩa Nguyễn Văn Bường.
    4-2: Khởi nghĩa 18 Thôn Vườn Trầu do Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Quá lãnh đạo. Khởi nghĩa thất bại, hai ông bị Pháp hành hình tại chợ Hóc Môn.
    1886
    11-4: Xây dựng tòa Bưu chính.
    1902
    Xây cầu Bình Lợi.
    1903
    Mở đường tàu điện Sài Gòn - Gò Vấp, Sài Gòn - Chợ Lớn, Gò Vấp - Hóc Môn.
    1909
    Khánh thành dinh Xã Tây (Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ngày nay)
    1911
    Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) rời Sài Gòn sang Pháp .
    1913
    24-3: Nghĩa quân Phan Xích Long ném bom và tạc đạn vào Sài Gòn - Chợ Lớn.
    1916
    16-2: Vụ phá Khám lớn Sài Gòn cứu Phan Xích Long và các đồng chí không thành.
    22-2: Phan Xích Long cùng 37 đồng chí của ông bị xử tử tại đồng Tập trận.
    1920
    Tôn Đức Thắng thành lập Công hội đỏ đầu tiên của Sài Gòn.
    1925
    Tháng 6 Phan Châu Trinh từ Pháp về Sài Gòn.
    Tháng 8 Bãi công của hơn 1.000 công nhân Ba Son. Thành lập Đảng Thanh niên - Hội kín Nguyễn An Ninh.
    1926
    24-3: Phan Châu Trinh đột ngột tạ thế.
    4-4: Đám tang Phan Châu Trinh.
    1940
    23-11: Khởi nghĩa Nam Kỳ. Các lãnh tụ của Đảng: Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập bị giặc Pháp bắt và xử bắn ở Hóc Môn.
    1945
    15-8: Thành lập Ủy ban khởi nghĩa. Đêm 24 rạng 25 Sài Gòn khởi nghĩa thắng lợi.
    2-9: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình Hà Nội. Cùng ngày ở Sài Gòn, đoàn biểu tình hoan nghênh bản Tuyên ngôn Độc lập, bị lính Pháp bắn lén.
    6-9: Quân đội Anh, Ấn đến Sài Gòn để tước vũ khí quân đội Nhật.
    23-9: Pháp chiếm Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Quốc gia tự vệ cuộc, Đài phát thanh Sài Gòn... gây hấn ở Nam Bộ. Nhân dân Sài Gòn, nhân dân miền Nam lại bước vào cuộc kháng chiến.
    1948
    29-3: Phá nổ 300 quả mìn ở kho đạn Bảy Hiền.
    13-9: Kho xăng Tân Sơn Nhất bị đốt cháy (18.000 lít xăng).
    1949
    13-6: Bảo Đại về đến Sài Gòn sau 3 năm lưu vong.
    24-12: Học sinh nhiều trường bãi khóa chống ngụy quyền Bảo Đại.
    1950
    9-1: Hàng nghìn học sinh biểu tình đòi mở cửa trường, đòi tự do cho những người bị bắt.
    12-1: Đám tang Trần Văn Ơn.
    7-2: Chính phủ Truman công nhận ngụy quyền Bảo Đại.
    19-2: Tổng lãnh sự quán Mỹ ở Sài Gòn nâng lên cấp Công sứ quán.
    16-3: Tàu chở máy bay Bốc-xa và 2 tuần dương hạm đội thuộc hạm đội 7 Mỹ cập bến Sài Gòn.
    19-3: Nhân dân Sài Gòn biểu tình phản đối chiến hạm Mỹ vào cảng dưới sự lãnh đạo của luật sư Nguyễn Hữu Thọ - "Ngày toàn quốc chống Mỹ".
    24-5: Đại diện công sứ Mỹ - Ghờ ri on thông báo bắt đầu viện trợ kinh tế cho Việt Nam, Lào, Campuchia. Đặt phái đoàn kinh tế đặc biệt ở Sài Gòn.
    29-6: Tám máy bay vận tải, viện trợ quân sự đầu tiên của Mỹ cho quân đội Pháp đến Sài Gòn.
    15-7: Phái đoàn Mỹ - Men phi (Bộ trưởng Ngoại giao) và tướng A kin, Tư lệnh Sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ đến Sài Gòn.
    2-8: Mỹ thiết lập phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự ở Sài Gòn (MAAG).
    17-9: Tát xi nhi, Cao ủy mới, kiêm Tư lệnh quân viễn chinh Pháp, đến Sài Gòn.
    1951
    18-11 Ngô Đình Diệm sang Mỹ được chính phủ Mỹ nuôi dưỡng trong trường thần học tiểu bang Niu da di.
    1952
    Tháng 7 Công sứ quán Mỹ ở Sài Gòn nâng lên thành Đại sứ quán.
    23-09: đặc công đánh câu lạc bộ sĩ quan Pháp
    1953
    24-2: Hội đàm Pháp và chính quyền Sài Gòn ở Đà Lạt, quyết định thành lập Việt Nam quốc quân.
    20-6: Phái đoàn quân sự Mỹ đến Sài Gòn.
    1954
    Nhân sĩ, trí thức Sài Gòn công bố Tuyên ngôn Hòa Bình.
    31-5: Đội biệt động 950 tiến công kho bom Phú Thọ Hòa. 1 triệu lít xăng và 9.345 tấn bom đạn cháy nổ suốt hai ngày đêm.
    11-6: Phái đoàn quân sự Mỹ ở Sài Gòn bắt đầu hoạt động triển khai những âm mưu chiến tranh tâm lý chính trị.
    25-6: Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về Việt Nam.
    6-7: Thành lập chính phủ Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn.
    1-8: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ thành lập Ủy ban hòa bình khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kêu gọi đấu tranh để thống nhất Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do.
    1955
    12-2: Đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ bắt đầu huấn luyện quân đội của chính quyền Sài Gòn.
    8-5: Chính quyền Diệm cự tuyệt đề án tổ chức hội nghị hiệp thương bàn về tổng tuyển cử toàn quốc của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
    26-10: Bảo Đại thoái vị, Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nước "Việt Nam Cộng hòa" và lên làm Tổng thống.
    1956
    28-4: Tư lệnh quân viễn chinh Pháp rút khỏi Sài Gòn.
    4-6: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố "sẵn sàng dự hội nghị hiệp thương vào ngày mà nhà đương cục miền Nam Việt Nam đã lựa chọn nửa đầu tháng 6". Mỹ thiết lập "cơ quan huấn luyện tác chiến" (CATO) cho quân đội của chính quyền Diệm.
    6-7: Phó Tổng thống Mỹ Ních xơn đến Sài Gòn.
    1957
    5-5: Ngô Đình Diệm sang thăm Mỹ và tuyên bố: "Biên giới của Mỹ kéo dài tới vĩ tuyến 17".
    1-8: Chính quyền Sài Gòn thi hành chế độ bắt lính.
    22-10: Diệm đổi "Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn" thành "Đô thành Sài Gòn".
    1958
    7-3: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại đề nghị tổ chức hội nghị hiệp thương để bàn về tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
    1959
    29-5: Bằng việc công bố luật "ngăn chặn hoạt động phá hoại" (luật 10/59), Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp nhân dân.
    1960
    11-11: Đại tá lục quân của quân đội Sài Gòn Nguyễn Chánh Thi làm đảo chính chống Diệm bị thất bại.
    20-12: Thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
    1961
    9-3: Thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.
    19-5: Kế hoạch Xtalây Taylo "lập 17.000 ấp chiến lược" dùng chiến lược trực thăng vận, thiết xa vận hòng bình định miền Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng.
    11-8: Mỹ quyết định cho thêm tiền để tăng quân đội của chính quyền Sài Gòn từ 17 vạn lên 20 vạn.
    11-8: Mỹ đưa sang Sài Gòn một trung đội máy bay trực thăng.
    14-8: Trong bức thư gửi Diệm, Tổng thống Kennơđi hứa sẽ tăng thêm viện trợ.
    1962
    27-2: Hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc ném bom dinh Độc Lập.
    Năm 1962, viện trợ của Mỹ lên tới 600 triệu đôla, gấp hai lần năm 1961, bốn lần năm 1960.
    1963
    11-6: Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sài Gòn phản đối chính sách đàn áp tín đồ Phật giáo của chính quyền Diệm.
    15-8: Chính quyền Diệm tấn công vào chùa, sinh viên biểu tình ở Sài Gòn chống lệnh giới nghiêm, hơn 2.000 học sinh và 6.000 dân thường bị bắt.
    20-8: Diệm tuyên bố thiết quân luật toàn miền Nam.
    22-8: Đại sứ Mỹ - Henry Cabot Lodge đến Sài Gòn.
    29-8: Bộ Ngoại giao Mỹ trao quyền cho Tư lệnh Ha-kin hứa hẹn với những người chỉ huy quân đội Sài Gòn là sẽ ủng hộ cuộc đảo chính lật Diệm, với điều kiện không đưa quân đội Mỹ vào.
    14-9: Mỹ thông báo kéo dài thời gian quyết định cấp viện trợ của kế hoạch nhập hàng hóa cho Nam Việt Nam (18 triệu 50 vạn đôla).
    24-9: Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - Mác Namara đến Sài Gòn.
    1-10: Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ Tay-lo đến Sài Gòn.
    5-10: Đại đức Thích Quảng Hương tự thiêu.
    8-10: Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc quyết định cử đoàn điều tra về việc đàn áp Phật giáo (ngày 24 đến Sài Gòn).
    27-10: Đại đức Thích Thiện Mỹ tự thiêu.
    1-11: Đảo chính quân sự lật Diệm.
    2-11: Anh em Diệm, Nhu bị giết. Thành lập chính phủ lâm thời do cựu Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ cầm đầu.
    1964
    8-2: Thành lập chính phủ mới ở miền Nam Việt Nam do Nguyễn Khánh làm Thủ tướng (tướng Dương Văn Minh làm Quốc trưởng).
    2-5: Đặc công đánh chìm chiến hạm Card cùng 24 máy bay các loại.
    18-5: Tổng thống Mỹ Giôn-xơn gửi thông điệp đặc biệt cho Quốc hội, yêu cầu cấp thêm 125 triệu đôla viện trợ cho Nam Việt Nam.
    16-8: Hội đồng quân lực của chính quyền Sài Gòn bầu tướng Nguyễn Khánh làm Tổng thống, soạn thảo hiến pháp mới.
    25-8: Đặc công đánh khách sạn Caravelle.
    3-9: Đảo chính chống Nguyễn Khánh thất bại. 20.000 công nhân đình công ở Sài Gòn.
    15-10: Chính quyền Nguyễn Khánh xử tử người thanh niên yêu nước Nguyễn Văn Trỗi.
    31-10: Trần Văn Hương lên thay Nguyễn Khánh.
    19-12: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố đã giải phóng 8 triệu người, kiểm soát 3/4 lãnh thổ.
    20-12: Phái quân sự giải tán Hội đồng quốc gia miền Nam Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ nhẩy lên nắm quyền hành.
    1965
    22-1: Tín đồ Phật giáo Sài Gòn biểu tình tấn công cơ quan USIS Mỹ.
    28-1: Phan Huy Quát lên làm Thủ tướng.
    21-2: Nguyễn Khánh bị cách chức Tổng tư lệnh ba quân chủng. Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch Hội đồng quân lực.
    30-3: Tòa Đại sứ Mỹ (39 Hàm Nghi) bị đặc công biệt động đánh bom làm hư hỏng nặng.
    10-6: Phan Huy Quát từ chức Thủ tướng. Sài Gòn chuyển sang quân quản.
    11-6: Đảo chính của Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ.
    29-7: 30 máy bay B52 cất cánh từ Ô-ki-na-oa sang ném bom phía Nam Sài Gòn.
    2-8: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố phản đối Liên Hợp Quốc can thiệp vào vấn đề Việt Nam.
    31-10: 650 giáo sư thuộc 21 trường đại học đăng bức thư công khai phản đối chiến tranh Việt Nam trên tờ: Thời báo New York. Lần đầu tiên bộ đội cơ giới của quân đội nhân dân theo đường Hồ Chí Minh tiến quân vào Nam.
    1966
    17-7: Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lời kêu gọi gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước, nêu rõ: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, nhưng nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày chiến thắng, nhân dân sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
    3-7: Quân Mỹ ở Nam Việt Nam tăng lên 325.000 người.
    1967
    9-1967: Khánh thành Tòa Đại sứ mới của Mỹ ở Sài Gòn.
    21-9: Thủ tướng Nhật Bản - Sa tô sang thăm Sài Gòn.
    31-9: Khánh thành Dinh Độc Lập mới.
    1968
    29-1: Tổng thống Mỹ Giôn xơn công bố bản thông điệp về dự toán ngân sách (dự chi về Việt Nam 25 tỷ 800 triệu USD).
    30-1: Mở đầu cuộc tấn công Tết Mậu Thân (đến ngày 15-4).
    31-1: Quân Giải phóng đánh chiếm một phần Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn và đồng loạt tấn công Dinh Độc Lập, Bộ tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh Sài Gòn...
    5-5: Nhiều nơi ở Sài Gòn thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng.
    19-6: Nguyễn Văn Thiệu công bố lệnh tổng động viên.
    17-8: Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắt đầu cuộc tổng công kích cùng với quần chúng nổi dậy.
    31-10: Mỹ buộc phải chấp thuận sự có mặt của đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Hội nghị Paris.
    12-11: Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - Cờ líp phớt tuyên bố sẵn sàng tham gia hội đàm mở rộng Paris, dù chính quyền Sài Gòn không tham dự.
    27-11: Chính quyền Sài Gòn tuyên bố tham gia vào hội đàm mở rộng Paris.
    1969
    6-6: Thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Đại hội đại biểu nhân dân miền Nam Việt Nam bầu ra.
    21-8: Vụ thảm sát tù chính trị ở nhà lao Thủ Đức của chính quyền Sài Gòn.
    2-9: Chủ tịch Hồ Chí Minh mất (79 tuổi). Trong di chúc đề ngày 10-5, Người viết: "Còn non, còn nước, còn người, thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay. Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định phải cút khỏi nước ta. Đế quốc Mỹ nhất định sẽ thống nhất, đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà".
    23-9: Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu cụ Tôn Đức Thắng làm *************.
    1970
    17-7 Đoàn Sinh viên quốc tế đến Sài Gòn tham dự "Năm Châu đấu tranh cho hòa bình ở Việt Nam".
    1971
    22-6 Thượng nghị viện Mỹ thông qua nghị án rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam trong vòng 9 tháng.
    1972
    Sinh viên yêu nước Nguyễn Thái Bình từ Mỹ về, bị hạ sát trên máy bay ở sân bay Tân Sơn Nhất.
    1973
    27-1: Sau 4 năm 9 tháng trên bàn hội nghị, Mỹ đã phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết "tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam...".
    2-2: Ủy ban hỗn hợp 4 bên Mỹ, Việt Nam, Chính phủ Cách mạng Lâm thời, chính quyền Sài Gòn bắt đầu hoạt động.
    29-3: Bộ Tư lệnh quân Mỹ viễn chinh ở miền Nam Việt Nam làm lễ cuốn cờ về nước.
    1974
    18-6: 301 linh mục của Giáo hội Sài Gòn ra tuyên bố lên án nạn tham nhũng trong chính quyền Sài Gòn.
    22-9: Thành lập Mặt trận nhân dân cứu đói ở Sài Gòn.
    1975
    14-1: Cảnh sát Sài Gòn bắn chết Pôn Lê-ăng-đờ-ri, phóng viên Thông tấn xã Pháp AFP tại trụ sở cảnh sát ở Sài Gòn.
    25-1: Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam quyết định phát triển hơn nữa kế hoạch hai năm, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa. Quyết định thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn.
    1-4: Máy bay vận tải khổng lồ C5A - Ghờ-rắc-xi tăng cường chở gấp vũ khí, đạn dược từ Mỹ sang Sài Gòn. Chính phủ Cách mạng Lâm thời công bố chính sách 10 điểm về vùng mới giải phóng.
    7-4: Phi công Nguyễn Thành Trung ném bom "Dinh Độc lập".
    14-4: Chiến dịch giải phóng Sài Gòn được mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
    21-4: Tại Quốc hội Mỹ, Kít-sinh-giơ, Uây-ăng tuyên bố "không còn khả năng bảo vệ được Sài Gòn", Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Trần Văn Hương lên thay.
    26-4: Trần Văn Hương từ chức Tổng thống, Tướng Dương Văn Minh lên thay. Nguyễn Văn Thiệu trốn sang Đài Loan. Chính phủ Cách mạng Lâm thời đòi hỏi Mỹ ngừng can thiệp, giải tán chính quyền Sài Gòn. Cùng ngày, 17 giờ, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu.
    30-4: Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn. Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
    Đến ngày 1-5, miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng.
    15-5: Lễ mừng chiến thắng.
    Tháng 9 Đổi tiền.
    1976
    Tháng 1 Đại hội Đảng toàn quốc lần IV xác định đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần I.
    21-1: Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu hoạt động.
    28-3: Thành lập lực lượng Thanh niên xung phong thành phố Hồ Chí Minh.
    Tháng 4 Bầu Quốc hội thống nhất toàn quốc đầu tiên và Hội đồng nhân dân các cấp.
    2-7: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Sài Gòn chính thức mang tên thành phố Hồ Chí Minh.
    1978
    Tháng 3, cải tạo tư sản thương nghiệp toàn miền Nam.
    1979
    Tháng 8 Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh ra Nghị quyết 9.
    1980
    Nghị quyết 10 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Nghị quyết 17 và 19 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh về tăng cường quản lý thị trường.
    1986
    Tháng 10 Đại hội Đảng bộ thành phố lần IV: Xác định mục tiêu chủ yếu trong 5 năm (1986-1990).
    Tháng 12 Đại hội Đảng toàn quốc lần VI xác định đường lối đổi mới, "Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật".
    1991
    Tháng 6 Đại hội Đảng toàn quốc lần VII thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đại hội Đảng bộ thành phố lần V. Cương quyết vận dụng Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.
    1996
    Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Tháng 5 Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VI, tổng kết 10 năm đổi mới của thành phố.
    1998
    Kỷ niệm 300 Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh.
    Theo "300 năm SG-TP.HCM" - NXB CTQG​
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vương Hồng Sến
    Sài Gòn năm xưa​

    Phần 2
    Thử tìm hiểu bởi đâu mà có danh từ Sài gòn
    Cuộc mở mang bờ cõi giải quyết xong, nay bắt qua tìm hiểu về lai lịch đất Sài Gòn.
    Về danh từ "SÀI GÒN"
    Đại Nam Quốc Âm Tự vịcủa Huỳnh Tịnh Của viết:
    __:Sài tức là củi thổi.
    __:Gòn tên loại cây có bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong Nam hay dùng để dồn gối, dồn nệm, ngoài Bắc gọi làcây bông gạo (kapok, kapokier).
    Điều nên nhớ là thuở cựu trào, mỗi lần chạy sớ tấu ra kinh, mỗi moxi lấy Hán tự làm gốc. Các quan trong Nam thuở ấy, để gọi thành"Sài Gòn" đều viết hai chữ nôm như vầy. Viết làm vậy, nhưng đến khi đọc thì luôn luôn đọc là "Sài Gòn". Về sau, có nhiều người, đọc "Sài Côn", tưởng rằng đúng. Ngờ đâu, đọc như thế là phản ý người xưa, tôi muốn nói những người cố cựu miền Nam của đất Gia Định cũ. Cũng như có một ông tướng tên làVõ Tánh , vốn người Gò Công, nay rất nhiều người đọc tên ông làVũ Tính. Lại như tên một trái núi trên Biên Hoà, thuở nào đến nay, quen gọi là"núi Châu Thới". Nay thường nghe nhiều học giả đọc và viết "núi Chu Thái", chúng tôi không dám nói gì, nhưng thiết tưởng đến ông Trời cũng phải chịu! Còn đến như nguyên do làm sao cổ nhân khi trước ghép chữ Hán "Sài" với một chữ Nôm "Gòn" làm vậy thì thú thật tôi xin chịu bí! Nói nhỏ mà nghe, dốt nát như tôi, tôi hiểu rằng khi ông bà ta thiếu chữ"gòn" không biết phải viết làm sao, thì ông bà cứ mượn chữ"côn" thế tạm, có hại gì đâu, hại chăng là ngày nay con cháu không muốn đọc y như ông bà lại dám chê xưa kia ông bà ta quá dốt!
    Cũng trong Tự Vị ông Huỳnh Tịnh Của, còn thấy ghi hai chỗ khác nhau về danh từ Sài Gòn:
    Sài Gòn:tên riêng đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé (trang 280 quyển II).
    Sài Gòn:tên xứ ở về tỉnh Gia Định (trang 390 quyển I).
    Tôi xin hẹn sau sẽ giải nghĩa việc này. Điều nên chú ý liền đây là bộ Tự vị Huỳnh Tịnh Của in vào năm 1895-1896 cho ta thấy rõ đời ấy đã có sự lẫn lộn về danh từ "Sài Gòn" rồi.
    Để tìm hiểu sâu rộng và muốn biết rành rẽ về nguồn gốc tích "SÀI GÒN", phải dày công phăng từ ngọn ngành, căn cội và chịu khó tra cứu từng các dân tộc một, đã sống qua các thời đại trải không biết mấy ngàn năm và thay nhau khai thác cõi Nam này:
    1) người Phù Nam,
    2) người Cam Bốt,
    3) người Tàu,
    4) người Việt.
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Sài Gòn biến đổi và hình thành một thành phố theo kiểu phương Tây



    Ngay sau chiếm được thành Gia Định, trên nền binh đao khói lửa vừa tàn phá "của tiền tan bọt nước""tranh ngói nhuốm màu mây", thực dân Pháp đã tính ngay kế sách cắm chốt lâu dài ở đây, muốn lấy đây là bàn đạp, thôn tính Nam Bộ, cướp nước ta. Chúng bắt tay ngay vào xây dựng Sài Gòn như một trung tâm của ba tỉnh miền Đông. Và chừng năm năm sau đó là thủ phủ của cả Nam Kỳ lục tỉnh.
    Sài Gòn đổi thay mau chóng trở thành "Hòn ngọc Viễn Đông", cũng mau chóng trở thành cái vòi bạch tuộc của thực dân Pháp vơ vét tài nguyên, sản vật của Việt Nam. Và cũng sớm trở thành một trung tâm bị bóc lột, đầu độc và sa đọa.

    Sài Gòn với những biến đổi
    [​IMG]Sài Gòn là một thành phố nhỏ tọa lạc tại khu vực giới hạn bởi sông Sài Gòn (phía Đông), rạch Thị Nghè (phía Bắc), rạch Bến Nghé (phía Nam). Cư dân sinh sống ở đây ước tính khoảng 100.000 người, phần lớn tập trung tại Sài Gòn và Chợ Lớn. Cho đến năm 1859, Sài Gòn vẫn còn là một trung tâm hành chính quân sự. Các công trình xây dựng lớn chủ yếu phục vụ cho chức năng cai trị và phòng thủ, hoàn toàn chưa có những tiện nghi công cộng, các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho một thành phố thương mại, thành phố cảng.
    Nhằm thực hiện mưu đồ chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ nước ta, tiến tới việc xác lập khu vực ảnh hưởng của đế quốc Pháp tại Viễn Đông, triều đình Paris, đặc biệt là các Đô đốc trực tiếp cai trị tại Nam Kỳ, đã gấp rút xúc tiến việc qui hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chính, quân sự, kinh tế, cảng v.v...) với dân số dự kiến lên đến trên nửa triệu người. Mục đích chính của những nổ lực nhằm sớm biến Sài Gòn thành một thành phố sầm uất, ngoài những yêu cầu về lãnh thổ, yêu cầu cạnh tranh ảnh hưởng với các thế lực đế quốc khác ở Viễn Đông, người Pháp còn muốn nhanh chóng khai thác Nam Kỳ, mà các chuyên gia Pháp đã nhìn thấy ở đó tiềm lực kinh tế to lớn. Nguồn lợi kinh tế do Nam Kỳ mang lại sẽ gánh bớt một phần chi phí chiếm đóng Việt Nam, mối băn khoăn của triều đình Napoléon III ngay từ những toan tính ban đầu.
    Năm 1862 dự án thiết kế thành phố Sài Gòn của Coffyn được phê duyệt bao gồm cả vùng Chợ Lớn. Đến năm 1864, do diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, đặc biệt tình hình trị an đòi hỏi phải thu hẹp phạm vi thành phố, người Pháp cho tách khu Chợ Lớn ra khỏi thành phố Sài Gòn. Đây là một thay đổi cơ bản và thuận lợi nhất để tập trung đầu tư xây dựng khu trung tâm Sài Gòn.
    Vùng Chợ Lớn trước khi người Pháp tới là điểm trung tâm cư dân người gốc Hoa. Họ là các thương nhân năng nổ, chăm chỉ làm ăn tạo cho Chợ Lớn thành một khu vực phát triển rất nhanh, nhất là sau khi người Pháp đến và xúc tiến việc khai thác thuộc địa.
    Việc tách Chợ Lớn ra khỏi dự án thiết kế thành phố Sài Gòn còn giúp tạo điều kiện cho khu vực này phát triển nhanh chóng, việc buôn bán ở đây rất thuận lợi, vì khu vực Chợ Lớn khi đã tách ra, đất đai không bị hạn chế do phải dành mặt bằng cho khu hành chánh, công thự, công trình công cộng... những cơ sở thiết yếu của một thành phố thủ phủ.
    Trước năm 1859, vùng đất nằm giữa Sài Gòn - Chợ Lớn vốn là vùng nông nghiệp trù phú. Chiến cuộc diễn ra, cư dân tại vùng này phải bỏ đi lánh nạn bất hợp tác với người Pháp, nên vùng đất trên bị hoang hóa. Khi người Pháp hoàn tất việc chiếm đóng Sài Gòn và ba tỉnh miền Đông, họ nhanh chóng tiến hành khai thác kinh tế. Hiện trạng hoang hóa một vùng đất rộng lớn giữa Sài Gòn - Chợ Lớn là phí phạm. Để giải quyết vấn đề này, ngoài việc tách Chợ Lớn ra khỏi Sài Gòn giúp Chợ Lớn mở rộng nhanh về phía Sài Gòn, người Pháp còn thực hiện ở đây chế độ tá canh thu tô hoặc bán rẻ đất hoang cho những ai có nhu cầu làm ruộng, lập vườn, sản xuất các loại rau quả nhiệt đới mà người Âu rất ưa chuộng. Một khi vùng đất hoang hóa dần dần có người cư trú, giá đất Sài Gòn cũng sẽ được nâng lên, tốc độ đô thị hóa cũng tăng theo.
    Trước khi người Pháp đến, địa hình phạm vi Sài Gòn gồm một vùng cao ở phía Bắc, trải dài từ vùng lũy thành Sài Gòn đến vùng Mả Ngụy, nơi cư dân hầu hết là các nhà phú hộ đại bộ phận còn gọi là đồng ruộng, ao đìa. Cư dân nghèo sống chen chúc dọc theo rạch Bến Nghé trong các căn nhà nhỏ nửa đất nửa sàn. Giao thông trên bộ thời bấy giờ chủ yếu một số lô đất nhỏ được đắp cao lên vừa quá mức nước lúc triều cường.
    Cho nên, khi người Pháp đưa ra dự án thiết kế thành phố, khó khăn đặt ra là làm thế nào cải tạo mặt bằng phục vụ cho việc thiết lập các cơ sở hạ tầng, xây dựng công thự, các công trình công cộng khác. Nói chung là những yêu cầu tối thiểu phải có trước mắt của một thành phố khả dĩ thích nghi với hoạt động thương mại phương Tây.
    Giải quyết vấn đề này, người Pháp cho thực hiện một giải pháp tương đối đơn giản. Trước tiên cho đào nhiều kinh ở các chỗ trũng thuộc vùng thấp của thành phố vừa để tạo điều kiện cho ghe thuyền lưu thông thuận lợi, vừa có tác dụng tháo nước làm trong sạch các vùng đầm lầy đồng thời lấy đất lấp các vùng trũng khác. Khi các công trình đầu tiên được xây dựng trên những khu vực vừa được san lấp, người Pháp cho san bằng vùng đồi phía Bắc Sài Gòn, lấy đất lấp các con kinh đào (đường Nguyễn Huệ, đường Lê Lợi, đường vào cổng chính ở Ba Son hiện nay là những kinh đào được lấp lại).
    Sau hai năm cải tạo và xây dựng bộ mặt Sài Gòn đã thay đổi hẵn. Các vùng trũng đầm lầy, những đường mòn gồ ghề được thay đằng những công trình mới được xây trên một không gian thoáng đãng, ở đó người ta mở những quãng lộ, những con đường ngang, dọc có trải nhựa phẳng phiu, hai bên vỉa hè rộng rãi được trồng cây xanh thẳng tắp.
    [​IMG]Bến cảng, kho bãi được xây dựng gấp rút đúng qui củ để sẵn sàng đón tàu cập bến bốc dỡ hàng.
    Từ những thay đổi ban đầu, Sài Gòn đã tự thể hiện là một thành phố đẹp với một hệ thống giao thông thủy bộ hết sức tiện lợi. Ngoài ra nhờ những điều kiện tự nhiên thuận lợi và một hậu phương trù phú đầy tiềm năng, Sài Gòn sớm trở thành một trong những thương cảng quan trọng ở khu vực Viễn Đông.
    Sài Gòn trong cuộc sống
    Trần Ngọc Thanh và Nguyễn Đức Tánh (không rõ chức vụ) đã gửi về cho triều đình Huế một bản tường trình đề ngày 9-12-1863 (ngày 18 tháng 10 Quý Hợi, Tự Đức năm 16) được lưu lại trong châu bản (Tự Đức, tập 155 trang 114a). Tình hình Gia Định, Bến Nghé được mô tả khá tỉ mỉ:
    [​IMG]"Nhà văn miếu đã dỡ đem về thôn Tân Khai để dựng phủ nha Tân Bình. Phía hữu tỉnh thành cũ có dựng một nhà lầu rất cao rộng đặt danh là lầu xem lễ, bốn mặt có xây đạo đường, đạo quán, nhà phước. Dân đạo thì ở bao bọc phía ngoài, già trẻ, trai gái theo đạo khá đông.
    Trường Thi cũ, phía ngoài bốn mặt tường gạch được bồi đắp thêm. Quân xá cũng đều cải tạo. Quan binh Tây ở phía trước Trường Thi, còn nơi phủ Tân Bình cũ có dựng một tòa lầu cho Phủ Soái ở. Bốn bên có nhiều nhà cửa, trại binh, chuồng ngựa. Quan binh lớn nhỏ chia ở chung quanh.
    Từ thôn Tân Khai Bến Thành cho tới Điếm Lá, họ xây nhà mới hoặc sửa sang lại để trữ hàng hóa.
    Đối diện chợ hội là thôn Khánh Hội thì giáo dân ở. Đối diện với chợ Bến Thành là thôn Nhai Quới... có lập một phố lầu xanh. Nơi đây gái điếm và giáo dân cùng lẫn lộn. Từ xóm Điếm Lá đến Cầu Kênh Chợ Lớn thì nhà dân và các tiệm mua bán. Ơở khu chợ hội đối diện với thôn Khánh Hội mới bắc một chiếc cầu. Chợ Kênh đối diện với Xóm Than cũng có một chiếc cầu. Sang Thị Nghè thông đến sông Xóm Kiều, khúc sông trước bị lấp nay đã cho đào tại, từ cầu Nhiêu Lộc đến chùa Mai Sơn, nối liền hai thôn Bình Tiên và Bình Tây, thông thẳng đến kênh Ruột Ngựa.
    Đại đồn ngày trước chỉ còn lại một tiền đồn do quan binh Tây đóng ước độ 100. Đồn Tây Thới trước nay vẫn còn và lại xây thêm một đồn rất kiên cố có độ 100 lính Tây đồn trú".
    Cùng với sự thay đổi về mặt quang cảnh, đường sá, phố phường là sự áp đặt một guồng máy hành chính mới với thuế má, phu dịch.
    Tại các phủ huyện, chính quyền thực dân tuyển dụng trong giáo dân hay những cử nhân tú tài hiếm hoi cam tâm theo chúng. Bên cạnh viên tri phủ hay tri huyện người Việt chúng đặt một tham biện huyện vụ. Chúng định lại thuế thân, thuế điền thổ, thuế ghe tàu, thuế thuốc phiện, thuế sòng bạc.
    "Nhân dân thì bất luận già trẻ tàn tật mỗi người phải nộp 1 quan 5 tiền và phải phụ thêm 1 quan. Dân xã Minh Hương mỗi năm phải nộp 2 lạng bạc, người Thanh phải nạp thêm 2 quan. Gái điếm mỗi thị phải nộp 10 quan mỗi tháng. Người Thanh lập phố để nấu a phiến, mở sòng bạc thì phải nộp từ 2.000 đến 5.000
    [​IMG]Thuyền buôn các tỉnh cập bến, hạng dài 30 trượng thì bề ngang cứ mỗi thước thu thuế 3 quan, dài 40 trượng, bề ngang mỗi thước 5 quan. Hạng thuyền lớn sau khi dỡ hàng phải lấy đất đổ xuống khoang thì đánh thuế 70 quan, hạng trung 50 quan, hạng nhỏ 30 quan. Thuyền ván độc mộc muốn đi lại phải làm tờ khai, hạng lớn nạp 5 quan, hạng nhỏ 3 quan. Hết hạn 3 tháng phải đổi giấy thông hành, quá hạn phải phạt 5 quan".
    Tháng 8 âm lịch năm Quý Dậu (1863) giá gạo tăng vọt, mỗi phương hơn 9 quan, dân chúng đói kém, bọn Tây đem bánh mì cũ trong kho đi phát tận các thôn xã. Nhân dân không nhận không được, nhưng khi phái viên của Tây về rồi thì ai cũng vất bánh đó xuống sông hay là cho heo cho chó chứ không thèm ăn.
    [​IMG]Tổ chức bộ máy cai trị
    Phân bố mới về chính trị và hành chính việc cai trị
    [​IMG]

    1. Lục Tỉnh Nam Kỳ, nay là thuộc địa Pháp, được cai trị bởi một thống đốc, với sự trợ tá của một hội đồng tư vấn.
    2. Trụ sở chính quyền đặt tại Sài Gòn trong tỉnh Gia Định, đây là đô thành thiết kế theo kiểu Âu Châu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám độc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục, hải quân công xưởng, sở quản trị hải quân và tài chính, sở chỉ huy bộ binh, phòng thương mại, sở điện tín trung ương v.v...
    3. Thói quen vẫn giữ cho Nam Kỳ thuộc Pháp cách phân chia các tỉnh như dưới thời quan ta. Nhưng danh xưng đó không bao hàm một nền hành chính riêng hay đặc biệt cho mỗi tỉnh như trong quá khứ. Nay sự cai trị (các tỉnh) hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền ở Sài Gòn.
      Việc cai trị bản xứ được trao cho các viên thanh tra hay tham biện, và địa bàn thuộc quyền cai trị của họ gọi là hạt thanh tra (hay là hạt). Giúp việc cho các quan Tây, còn có các quan lại bản xứ, trong đó có những tên tay sai hết sức đắc lực.
      [​IMG]Còn việc nội trị tổng quát trong xứ thì tập trung cả ở Sài Gòn, trong các văn phòng của Nha Giám đốc Nội vụ. Tham biện các địa hạt trực tiếp thuộc quyền giám độc nội vụ; giám đốc nội vụ chuyển cho họ mọi chỉ thị và mệnh lệnh hành chính; tham biện phải báo cáo cho giám đốc nội vụ mọi sự việc và tình hình có can hệ đến việc điều hành công tác thuộc địa.
    4. Năm 1875, tất cả có 20 địa hạt, do các viên tham biện cai trị - chia ra như sau:
      Ba địa hạt ở miền Đông, tức là:
      1. Biên Hòa
      2. Bà Rịa
      3. Thủ Dầu Một
      Sáu địa hạt ở trung tâm:
      1. Tây Ninh
      2. Sài Gòn
      3. Chợ Lớn
      4. Gò Công
      5. Tân An
      6. Mỹ Tho
      Ba địa hạt ở miền Nam:
      1. Bến Tre
      2. Trà Vinh
      3. Sóc Trăng
      Tám địa hạt ở miền Tây:
      1. Vĩnh Long
      2. Sa Đéc
      3. Long Xuyên
      4. Trà Ôn
      5. Châu Đốc
      6. Hà Tiên
      7. Rạch Giá
      8. Phú Quốc, sau bãi bỏ và sáp nhập vào Hà Tiên như xưa, theo nghị định ngày 16-6-1875.
      [​IMG]Những địa hạt đó gọi theo tên lị sở chia ra tổng, tổng chia ra xã thôn.
    5. Sau đây là bảng kê lục tỉnh và các địa hạt thống thuộc:
      1. Gia Định - 5: Sài Gòn, Chợ Lớn, Tây Ninh, Tân An, Gò Công
      2. Định Tường -1: Mỹ Tho
      3. Biên Hòa -3: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một
      4. Vĩnh Long -3: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre
      5. An Giang -5: Châu Đốc, Long Xuyên, Trà Ôn, Sa Đéc, Sóc Trăng.
      6. Hà Tiên - 3: Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc (giải thể ngày 1-7-1875)
    6. Những địa hạt trên liên lạc với nhau:
      1. Bằng các trạm với Sài Gòn làm đầu tuyến và dịch vụ này do lính trạm đảm đương.
      2. Bằng các trạm điện tín bắt đầu tư Sài Gòn đến Nam Vang.
    Tất cả có 26 trạm điện tín, đó là:
    Sài Gòn
    Cái Bè

    Thủ Dầu Một
    Vĩnh Long

    Biên Hòa
    Bến Tre

    Long Thành
    Sóc Trăng

    Bà Rịa
    Sa Đéc

    Vũng Tàu
    Trà Vinh

    Trảng Bàng
    Long Xuyên

    Tây Ninh
    Rạch Giá

    Chợ Lớn
    Châu Đốc

    Bến Lức
    Hà Tiên

    Gò Công
    Nam Vang

    Tân An
    U Đông

    Mỹ Tho
    Cần Vọt
    Nhiều tuyến điện tín nữa sẽ được đặt liên lạc với đô thành. Chỉ còn địa hạt Cần Thơ là chưa có liên lạc điện tín.

    1. Riêng thủ phủ Sài Gòn thì liên lạc với chính quốc (Pháp) qua hãng chuyên chở đường biển và bằng một dây cáp điện tín đặt ngầm dưới biển.
    2. Chức năng của thống đốc - Thống đốc đại diện cho thủ tướng chính phủ bên chính quốc (Pháp) và nhận quyền lực từ thủ tướng trao phó. Thống đốc cử nhân viên và công chức; việc cử đặt này không dành cho chính quốc. Thống đốc ban hành nghị định và quyết định, thi hành quyền tối cao về hành pháp và tư pháp đối với dân bản xứ, ấn định các sắc thuế địa phương và qui định các tiêu chuẩn thuế khóa cùng nguyên tắc trong việc thâu thuế công cộng.
      Tóm lại, thống đốc gồm thâu cả quyền dân sự lẫn quân sự, đồng thời là tổng chỉ huy sư đoàn hải quân ở Nam Kì.
    3. Hội đồng tư vấn - Thống đốc được trợ tá bởi một hội đồng riêng chỉ có tính cách tư vấn, hội đồng này gồm:
      1. Chỉ huy trưởng bộ binh
      2. Chánh sự vụ hành chính
      3. Giám đốc nội vụ
      4. Chưởng lý tòa án và hai nhân sĩ người Pháp hiện lưu trú trên đất thuộc địa.
    4. Hành chính tổng quát - Chúng ta thấy có bốn ngành quản trị tổng quát, đó là:
      1. Hành chính nội vụ
      2. Hành chính hải quân
      3. Hành chính tòa án
      4. Hành chính quân sự
      5. Giám sát thuộc địa (qui định do nghị định ngày 15-4-1873; giải thể bằng nghị định ngày 16 tháng 6 cùng năm).
      6. Kho bạc
    5. Giám đốc nội vụ đứng đầu ngành hành chính nội vụ, dưới quyền có các phòng coi về:
      1. Tòa án bản xứ
      2. Học chính
      3. Tài chính sự vụ như bưu chính, trước bạ và công sản, địa chính, điện tín, sở giám đốc thương cảng.
      4. Sở công chính gồm có ban cầu đường và ban xây dựng công thự dân chính.
      5. Các sự vụ liên quan tới nông nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp.
      6. Cảnh sát, các trại giam và nhà thương.
      7. Tại các địa hạt, các sự vụ bản xứ do tham biện điều khiển và có nhân viên dưới quyền làm các việc nhỏ mọn về hành chính và cảnh sát như phủ, huyện, cai tổng và xã trưởng các làng.
    6. Cho tới năm 1874, các tham biện lo các sự vụ bản xứ (sau gọi chủ tỉnh) đầu lựa chọn trong giới sĩ quan thuộc mọi ngành (hải quân). Nhưng từ khi công bố nghị định mới ngày 1 tháng 2 năm 1873, các tham biện hậu bổ phải được chọn trong giới thanh niên có cấp bằng đại học và tuổi từ 28 trờ lên.
    7. Các sự vụ thuộc phạm vi quản trị hải quân, nghĩa là các sự vụ thuộc trách nhiệm riêng của chính quốc, mà đứng đầu là viên chánh sự vụ hành chính thì coi sóc:
      1. Việc điểm binh
      2. Khí giới và đăng ký hải quân
      3. Tài vụ
      4. Kho lẫm và công việc
      5. Binh lương
      6. Bệnh viện
      Tất cả các sự vụ trên được điều khiển bởi các sĩ quan thuộc ngành ủy trị hải quân.
    8. Đứng đầu nền quản trị tòa án của Pháp là vị chưởng lý có thẩm quyền trên các ngành tư pháp là:
      1. Tòa án thương mại
      2. Cảnh sát
      3. Các tham biện giữ nhiệm vụ xét xử mọi vụ kiện bản xứ thuộc tòa sơ thẩm.
      Chưởng khế (hay công chứng viên) cũng thuộc quyền chưởng lý.
    9. Việc quản trị quân đội, do thống đốc là tổng chỉ huy trực tiếp, thì gồm có:
      1. Dịch vụ bộ binh do một thiếu tướng chỉ huy với một tham mưu trưởng phụ tá.
      2. Thủy quân do một sĩ quan thủy sư cầm đầu, ông này coi cả giảm đốc thủy quân công xưởng.
    Địa phận Sài Gòn năm 1861
    [​IMG]Ngày 11-4-1861, Phó Đô đốc Charner, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp, ban hành nghị định quy định ranh giới Sài Gòn nằm trong khu vực giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè (Arroyod' Avalanche) và rạch Bến Nghé (Arroyo Chinois) với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa. Cụ thể nhất là Quyết định số 145 ngày 14-8-1862 của Đề đốc Bonard - Thống đốc quân sự đầu tiên - quy định tổ chức hành chính tỉnh Gia Định, trong đó có Sài Gòn. Đây là quyết định căn bản mở đầu cho việc tổ chức hành chính Sài Gòn thời Pháp thuộc. Bonard đã chia tỉnh Gia Định ra ba phủ, mỗi phủ có ba huyện, dưới huyện có tổng, dưới tổng có xã, thôn, lý, ấp. Sài Gòn lúc bấy giờ vừa là tỉnh l?ủa Gia Định vừa là phủ l của phủ Tân Bình là huyện l?uyện Bình Dương, còn Chợ Lớn là huyện l?ủa huyện Tân Long, cùng phủ Tân Bình.
    [​IMG]Về phương thức cai trị, trong thời gian đầu, thực dân Pháp tạm thời sử dụng các quan phủ, huyện của triều An Nam, cho điều hành công việc tại các phủ, huyện dưới sự chỉ đạo chung của Bố chánh tỉnh Gia Định là một viên chức Pháp ngạch thanh tra các công việc bản xứ (Inspecteur des affaires indigènes). Riêng người Hoa và những người châu Aá khác sống ở Chợ Lớn tuy thuộc huyện Tân Long nhưng được cai trị trực tiếp bởi một thanh tra các công việc của người Hoa (Inspecteur des affaires Chinoises) với sự giúp đỡ của Hội đồng các bang trưởng Hoa Kiều.
    Thành lập Thành phố Sài Gòn
    [​IMG]Năm 1864, Chợ Lớn được tách khỏi Sài Gòn về phương diện quản lý địa bạ, vì một trong những lý do chủ yếu là thành phố người Hoa (Ville Chinoise) đang trên đà thịnh vượng, việc quản lý và mua bán đất đai đòi hỏi phải tách Sài Gòn và Chợ Lớn ra thành hai thương điếm (emporium) riêng biệt. Tuy vậy, trước năm 1867, Sài Gòn chưa được chính thức xem như một thành phố.
    [​IMG]Phải đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn mới được chính thức giao phó cho một tổ chức riêng biệt là Ủy ban thành phố, được thành lập do Nghị định số 53 ngày 4-4-1867 của Thống đốc Pháp De La Grandière. Uủy ban thành phố gồm 1 ủy viên và 12 hội viên. Ủy viên được chọn trong số những cư dân châu Á cũng như châu Âu cư trú tại Sài Gòn, không phân biệt quốc tịch.
    Ủy ban thành phố biểu quyết về các vấn đề: quản lý tài sản công, ngân sách, biểu thuế, những quy định về việc thu thuế, các dự án xây dựng, sửa chữa lớn, bảo trì, mở mang đường sá, v.v. Ngoài ra, Ủy ban còn được hỏi ý kiến về một số vấn đề liên quan đến hoạt động của thành phố. Mọi hoạt động của Ủy ban thành phố đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Đổng lý Nội vụ (Directeur de l'intérieur)- một chức danh quan trọng được thiết lập vào năm 1864, có nhiệm vụ phụ giúp viên Thống đốc trong việc điều khiển chung nền hành chính của những vùng đất đã nằm trong tay thực dân Pháp.
    [​IMG]Đến ngày 8-7-1869, tổ chức thành phố Sài Gòn được sửa đổi bởi Nghị định số 131 của Thống đốc Ohier, theo đó, Ủy ban thành phố được cải danh thành Hội đồng thành phố với một chủ tịch hay ủy viên trưởng và 13 ủy viên. Ủy viên trưởng hội đồng thành phố được gọi là Đốc lý Sài Gòn (Maire de Saigon) do Thống đốc bổ nhiệm trong số những công chức Pháp. Thể thức cử nhiệm các ủy viên Hội đồng cũng thay đổi: 6 ủy viên do Thống đốc Nam Kỳ chỉ định, 7 do bầu cử trực tiếp. Nhiệm kỳ của Hội đồng nâng từ 1 năm lên 2 năm. Pétrus Trương Vĩnh Ký là người Việt Nam đầu tiên tham gia vào Hội đồng thành phố Sài Gòn do Nghị định đề cử số 210 ngày 27-9-1869 của Thống đốc Ohier. 8 năm sau, sắc lệnh ngày 8-1-1877 của Chính phủ Pháp thay đổi thành phần của Hội đồng thành phố gồm 13 hội viên: 7 do dân bầu và 6 do chính quyền đề cử: Viên đốc lý cũng do Thống đốc Nam Kỳ bổ nhiệm, có thể chọn trong số các công chức. Sở dĩ có thay đổi hệ thống cấp ban hành văn kiện sửa đổi tổ chức Hội đồng thành phố (sắc lệnh của Tổng thống Pháp thay vì Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ) vì lần này sắc lệnh dự liệu việc người nước ngoài có thể tham gia vào Hội đồng thành phố lên 15 người gồm 11 hội viên là người Pháp, 4 hội viên là người bản xứ. Viên đốc lý và hai phụ tá do Thống đốc Nam Kỳ bổ nhiệm.
    Trong thập niên 1860 và nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định. Năm 1880, ngoài Hội đồng thành phố Sài Gòn đang hoạt động, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh ngày 8-2-1880 thành lập một Hội đồng quản hạt (Conseilconlonia) trụ sở đặt tại Sài Gòn có chức năng bao trùm toàn thể thuộc địa Nam Kỳ. Và với sắc lệnh ngày 22-4-1880, Chính phủ Pháp đi thêm một bước nữa bằng cách áp dụng hình luật của Pháp trên toàn bộ Nam Kỳ. Hai năm sau (1882) là sự ra đời của các hội đồng hàng huyện (Conseild'arrondissement) do Nghị định ngày 12-6-1882 của Thống đốc Nam Kỳ. Với tổ chức này, thực dân Pháp đã tạm hoàn chỉnh bộ máy cai trị của họ tại Sài Gòn và các địa phương khác để có điều kiện toan tính nốt những phần còn lại của miếng mồi Đông Dương béo bở là Trung và Bắc Kỳ.
    Quy hoạch thành phố.
    [​IMG]Chỉ hai tháng sau khi Chí Hòa thất thủ, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đã ký nghị định ngày 11-4-1861 ấn định phạm vi thành phố Sài Gòn. Song quy hoạch này đã không thể thực hiện vì thiếu ngân sách.
    Lần quy hoạch thứ hai, do nghị định ngày 3-10-1865, trên cơ sở thành thị Bến Nghé và Sài Gòn cũ. Sài Gòn chỉ rộng không quá 3 cây số vuông và Chợ Lớn chỉ hơn một cây số vuông. Sài Gòn bấy giờ nằm gọn trong quận 1 bây giờ, còn Chợ Lớn là quận 5 hiện nay. Giữa hai thành phố là vùng thuộc địa hạt Sài Gòn. Năm 1885 địa hạt được đổi tên là Gia Định và đến năm 1889 được gọi là tỉnh Gia Định.
    [​IMG]Ngày 15-3-1874, Tổng thống Cộng hòa Pháp ký sắc lệnh chính thức thành lập thành phố Sài Gòn. Thành phố được điều hành bởi một viên thống lý, hai viên phó đốc lý và một hội đồng thành phố. Còn Chợ Lớn, chậm hơn hai năm được thành lập do nghị định của thống đốc dân sự đầu tiên là Le Myre de Vilers, ký năm 1879.
    Theo thời gian phát triển, dân số tăng lên. Sài Gòn và Chợ Lớn xích lại gần nhau và thực sứ tiếp giáp ở khoảng đường Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thiện Thuật bây giờ vào năm 1910.
    Trong thời gian nửa thế kỷ, Sài Gòn đã thay đổi, hình thành nên một thành phố Tây Phương. Đường sá được thiếp lập. Dinh thự, phố xá, các khu dân cư cùng với các chợ... được xây dựng. Từ thủ phủ của Gia Định ngũ trấn (Gia Long), Nam Kỳ lục tỉnh (Minh Mạng), Sài Gòn theo thời gian đã trở nên trung tâm của ba tỉnh miền Đông (1862), rồi thủ phủ của Nam Kỳ (1867) và dần trở nên một trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng cho toàn Đông Dương.
    [​IMG]Trong thời gian đầu, Pháp xây dựng một khu hành chính làm trung tâm cho thành phố. Chung quanh có rào, bên trong là các dinh Thống đốc, các cơ quan hành chính, nhà dây thép, nhà thương, nhà thờ... tất cả đều làm bằng gỗ. Khu hành chính này ở gần Đồn Đất, trên gò cao. Phía sau là những trại lính, trước mặt nhìn ra sông Sài Gòn là các nhà kho của hải quân.
    Dọc theo dông Bến Nghé, Pháp cho đào các kinh cũ sâu và rộng hơn lấy đất đắp lên bờ. Sau nữa ban đất trên các đồi cao xuống mé sông, lấp kênh đắp đường. Rồi nhà lá gỗ được thay bằng nhà gạch ngói. Chỉ trong hơn ba thập niên, đa số các kiến trúc tiêu biểu của thành phố Sài Gòn như dinh Toàn quyền, dinh Thống đốc, dinh Xã Tây, Nhà hát lớn, Nhà thờ... đã được xây dựng.
    [​IMG] Xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà máy
    Đẩy mạnh khai thác
    [​IMG]Cùng với sự phát triển đô thị, nền kinh tế cũng biến đổi theo chiều hướng mới. Trước hết, Sài Gòn là một thương cảng.
    Ngay sau khi đặt chân đến Sài Gòn, mặc dù tình hình chưa ổn định, thực dân Pháp đã quyết định thành lập cảng Sài Gòn (22-2-1860)
    Tài nguyên Nam Kỳ đã được liệt kê ngay và một chương trình khai thác cụ thể trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, và thương nghiệp được Phó Đô đốc Bonard vạch ra đã gửi về Pháp và được chấp thuận.
    [​IMG]Vị trí của cảng được xác định: nằm trên sông Sài Gòn. Ăn sâu 80 km vào đất liền, sông Sài Gòn vào năm 1628 là một điểm chính về thương mại, có thể thông thương với tất cả các vùng phía Nam với 2.000 km luồng lạch chảy qua tất cả các đồng bằng lớn. Về vị trí quân sự đây có thể là bàn đạp tấn công mở rộng xuống cả vùng Đông Nam Á. Cảng Sài Gòn từ những ngày đầu dài 4km, tập trung bên phải của sông giới hạn thượng lưu là quân cảng xuống đến Rondpoint (một vị trí trên bản đồ hồi đó) gồm có một bến đậu dài và một ụ để sửa chữa tàu từ Rondpoint đến Canal de dérivation là thương cảng. Đoạn này có Rạch Tàu (Arroyo Chinois) nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn, một trung tâm kinh tế, và lúc bấy giờ, con rạch này là đường giao lưu chính về hàng hóa nối liền hai trung tâm Sài Gòn - Chợ Lớn khi các phương tiện khác chưa thịnh hành. Là cảng sông, cảng thiên nhiên kín đáo, cảng Sài Gòn tránh được những cơn bão mà miền Viễn Đông thường xuyên gặp, lại nằm ăn sâu trong thành phố nên mọi sự vận chuyển hàng đều thuận lợi và ít tốn kém. Lòng sông rộng và sâu (trung bình 300m chiều rộng và từ 9 đến 12m sâu) tàu lớn 180m x 9m tránh nhau dễ dàng.
    [​IMG]

Chia sẻ trang này