1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sài gòn năm xưa

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 26/05/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Năm 1860, cảng Sài Gòn chính thức mở cửa. Ngày 25-8-182, quy chế của thương cảng được ban hành. "Tất cả tàu biển, trừ tàu Pháp và Y Pha Nho, đều phải nộp thuế bỏ neo, tính 50 xu trên 1 tonneau hàng". Sài Gòn được mở cửa, tàu bè các nước ra vào buôn bán, thương vụ mỗi ngày một tăng.
    [​IMG]Năm 1860, Sài Gòn tiếp nhận 246 tàu, trong đó có 111 tàu từ châu Âu mang đến nửa triệu quan thuốc phiện và một triệu quan các loại hàng hóa khác cùng chở đi 535.939 tấn gạo trị giá hơn 5 triệu quan và 1 triệu quan các loại hàng hóa khác. Doanh số mậu dịch năm 1860 của cảng Sài Gòn là 7,7 triệu franc (frs)
    Năm 1862, có 117 tàu châu Âu (có 11 tàu của Pháp) đến Sài Gòn với tổng trọng tải là 53.200 tấn, 129 tàu châu Âu rời cảng Sài Gòn (trong đó có 51 tàu của Pháp) chở đi 42.470 tấn gạo, 1.023 kiện bông, 1.746 kiện vải và 357 tấn lúa.
    Năm 1866, trọng tải hàng hóa qua cảng Sài Gòn là 600.000 tấn, xuất khẩu 100.000 tấn gạo, 2.687 tấn bông, 42 tấn tơ lụa, 150 tấn muối. Qua năm sau, 1867, Sài Gòn đã xuất khẩu 193.000 tấn gạo.
    [​IMG]Nhiều tàu buôn châu Âu thường xuyên thực hiện những chuyến đi về Sài Gòn với các thương cảng khác trong vùng như Singapore, Amoy, Quảng Đông, Macao, Hong Kong... Vào thời gian có gió mùa Đông Bắc trong năm, thuyền bè từ miền Bắc Trung Quốc chở những chuyến hàng đầu tiên đến Sài Gòn để từ đó đưa đi Singapore và khi gió mùa Tây Nam bắt đầu thổi, họ đưa hàng từ Singapore đến Sài Gòn rồi về lại Trung Quốc.
    Để tiện cho tàu bè ra vào cảng Sài Gòn, hải đăng Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu) cũng được xây dựng xong và hoạt động kể từ ngày 15-8-1862. Hải đăng cao 8m, xây trên một vùng đất cao 139m và có một tầm trông thấy khoảng 28 dặm. Cảng Sài Gòn trên đường phát triển đòi hỏi phải có dịch vụ sửa chữa tàu. Năm 1864, xưởng Bason - một công binh xưởng do hải quân Pháp quản lý - được thiếp lập. Đây là xưởng cơ khí đầu tiên của thành phố Sài Gòn, quy tụ nhiều thợ lành nghề của nhiều ngành khác nhau, ngoài việc sửa chữa, xưởng Bason còn đóng mới các tàu có trọng tải nhỏ.
    [​IMG]Các nhà máy xay lúa được xây dựng phục vụ cho việc xuất cảng gạo mỗi năm một tăng. Nhà máy Xóm Chiếu, thành lập năm 1869, do công ty Alphonse Cahusac quản lý. Đây là nhà máy xay lúa đầu tiên của Sài Gòn. Công ty Speidel của Đức có hai nhà máy xay lớn là Riserie de l'Union và Riserie de l'Orient.
    Đến năm 1895, Nam Kỳ có 200 xưởng thủ công và nhà máy xay thì phần nhiều tập trung ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Riêng nhà máy xay chạy bằng hơi nước thì Sài Gòn có 2, Chợ Lớn có 7. Ước tính đến năm 1906, số công nhân ở Sài Gòn đã lên đến 25.000 người.
    Để đáp ứng nhu cầu thợ lành nghề, Pháp mở trường Bá Công Kỹ Nghệ năm 1897, đào tạo thợ vừa lành nghề vừa có ít nhiều văn hóa phương Tây. Đây là trường kỹ thuật dạy nghề đầu tiên ở Nam Kỳ đã đào tạo các công nhân kỹ thuật đầu tiên của nước ta.
    [​IMG]Giao thông là huyết mạch của kinh tế. Năm 1881 Pháp bắt đầu làm đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, bắc hai cầu lớn qua sông Vàm Cỏ.
    Năm 1902, cầu Bình Lợi được xây dựng. Năm sau, đường tàu điện Sài Gòn - Gò Vấp, Sài Gòn -- Chợ Lớn, Gò Vấp - Hóc Môn được thiết lập và vào năm 1910 Sài Gòn được nối với Nha Trang bằng đường xe lửa.
    Những kiến trúc tiêu biểu
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]





    • Dinh Thống đốc Nam Kỳ (nay là Bảo tàng Cách mạng) xây dựng xong vào năm 1864, phỏng theo kiến trúc của Bảo tàng hội họa Munich do kiến trúc sư Foulhou thiết kế. Trước năm 1879, Nam Kỳ đặt dưới quyền cai trị của các đô đốc hải quân nên dinh Thống đốc được gọi là dinh Đề đốc hay dinh Phó soái.
    • Dinh Toàn quyền (nay là Hội trường Thống Nhất): Lễ đặt viên đá đầu tiên cho công trình kiến trúc đồ sộ này được cử hành vào ngày 23-2-1868. Viên đá đầu tiên hình lập phương, mỗi cạnh 50cm, bên trong có chứa các đồng tiền vàng, bạc, đồng. Công trình hoàn tất vào năm 1873. Đồ án do kiến trúc sư Hermitte vẽ.
      Đầu thế kỷ XX, Nguyễn Liên Phong đã mô tả dinh:

      Toàn quyền tổng thống đại dinh
      Tứ vi song sắt, tiền đình nghiêm trang
      Ngoài thời có cửa tam quan
      Trong thời lầu các dọc ngang nhiều từng
    • Dinh Xã Tây (nay là Uủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh), còn gọi là Sở Xã Tây. Lễ đặt viên đá đầu tiên vào năm 1873 nhưng vì thiếu ngân sách nên mãi đến năm 1898 mới thực sự được xây dựng. Năm 1909, nhân kỷ niệm 50 năm (1859-1909) chính quyền thực dân được thiết lập, dinh Xã Tây được tổ chức lễ khánh thành. Họa đồ kiến trúc do kiến trúc sư P.Gardès vẽ.
    • Nhà hát Tây (Nhà hát thành phố bây giờ) xây dựng năm 1898 theo đồ án của kiến trúc sư Berger và được khánh thành vào ngày 1-1-1900. Đầu thế kỷ XX, các đoàn hát Tây thường từ chính quốc sang Sài Gòn biểu diễn vào tháng 5 đến tháng 1 và vào các ngày thứ ba, thứ năm, thứ bảy và tối chủ nhật.
    • Bưu điện Sài Gòn: Dân chúng đương thời quen gọi là Nhà dây thép, Sở dây thép. Khởi công xây dựng năm 1886 và hoàn thành vào năm 1891. Dịch vụ bưu điện là dịch vụ mới lạ đối với dân chúng và rất gây ấn tượng.
    • Nhà thờ Thiên chúa (Nhà thờ Đức Bà hay Vương cung Thánh đường) được khởi công xây dựng ngày 1-10-1877 và khánh thành vào ngày 11-4-1880 với tổng kinh phí 2,5 triệu franc theo thời giá lúc bấy giờ. Hai tháp chuông nhọn, cao 57m được xây thêm vào năm 1895.
    • Chợ Bến Thành (cũ): Chợ Bến Thành ở vị trí ngày nay, mới được xây dựng vào năm 1911. Trước đó chợ Bến Thành nằm ở mé sông, đầu các con đường lớn, ghe thuyền có thể cập bến, thuận tiện bốc hành lên chợ. Chung quanh chợ có nhiều cửa hiệu của người Việt, Hoa, Âởn, Pháp... Hàng hóa phong phú. Các cửa hàng ăn lúc nào cũng tấp nập đông đúc. Các đường phố như Catinat (Đồng Khởi), Bonard (Lê Lợi), Charner (Nguyễn Huệ), De La Somme (Hàm Nghi)... là các đường phố lớn ở khu trung tâm tiêu biểu cho thành phố Sài Gòn. Đầu thế kỷ XX, Catinat là trung tâm sinh hoạt, mua bán của giới thượng lưu thuộc địa, nổi tiếng thanh lịch.
    Nguyễn Liên Phong đã mô tả:
    Nhứt là đường Catinat
    Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
    Bực thềm lót đá sạch tinh
    Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đều
    Máy may mấy chỗ quá nhiều
    Các tiệm tủ ghế dập dìu phô trương
    Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương
    Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
    Những đồ Đại Pháp, Huê Kỳ
    Ăng-lê, Nhựt Bổn món gì cũng sang
    Hàng Tây các sấp nhẩy tràn
    Xiêm, Miên, Bắc thảo đồ đoàn bố vi

    [​IMG] Biến đổi Văn hóa - Xã hội
    Văn hóa - Giáo dục
    [​IMG]Do hoàn cảnh lịch sử, chữ quốc ngữ được phổ biến sớm nhất ở nước ta trước hết là tại Sài Gòn. Trước khi Pháp xâm lược, chữ quốc ngữ chỉ dùng trong phạm vi truyền bá đạo Thiên Chúa.
    Chiếm Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ, người Pháp không muốn duy trì nền giáo dục Hán học vì họ xem là nguồn đào tạo những sĩ phu yêu nước. Lấy chữ quốc ngữ thay chữ Hán, người Pháp muốn cắt đứt truyền thống yêu nước, xem chữ quốc ngữ như là một vũ khí xâm lược về tinh thần. Cũng chính vì thế lúc đầu nhân dân Sài Gòn và lục tỉnh tẩy chay không chịu học chữ quốc ngữ. Nhưng trái với mục đích của thực dân Pháp, chữ quốc ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc phổ cập kiến thức cho đông đảo quần chúng, làm cho báo chí có điều kiện phát triển và vào đầu thế kỷ, chữ quốc ngữ đã làm công việc chuyển tải tư tưởng yêu nước đến với đồng bào qua báo chí và văn thơ. Chữ quốc ngữ trong tay những sĩ phu yêu nước trở thành một vũ khí đấu tranh như Trần Quý Cáp nhận định: "Chữ quốc ngữ là hồn trong nước".
    [​IMG]Mười bốn năm sau khi đánh chiếm Gia Định, người Pháp mới mở ngôi trường đầu tiên lại là trường Hậu bổ (Collège des Stagiaires) để đào tạo những viên chức trong bộ máy hành chính thuộc địa.
    [​IMG]Sở Học chính Nam Kỳ chỉ được thành lập vào năm 1879, năm chính quyền Nam Kỳ được chuyển giao cho các thống đốc dân sự, cùng với một chương trình giáo dục Pháp - Việt.
    Vào đầu thế kỷ XX, 5 quận của thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ đều có một trường sơ cấp cho nam học sinh và một tường sơ cấp cho nữ học sinh.
    Theo Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca được viết vào năm 1902, Sài Gòn có các trường:

    • Trường "Bổn Quốc" Chasseloup Laubat (nay là trường Lê Quý Đôn): dành cho học sinh Pháp. Đây là trường trung học công lập đầu tiên của Sài Gòn.
    • Trường Taberd (nay là trường Trung học Sư phạm): do linh mục Henri de Kerlan thành lập năm 1874, do các linh mục giảng dạy. Đến năm 1889, các sư huynh được mời dạy.
    • Trường nam tiểu học Sở Cọp: gọi như vậy vì trường ở sát vườn bách thảo, dành cho trẻ em bản xứ thành lập năm 1862.
    • Trường nữ tiểu học: ở gần trường nam
    • Trường nữ trung học, trường Áo Tím: đến năm 1915 mới thành lập.
    • Trường đào tạo linh mục mà Nguyễn Liên Phong gọi theo thời bấy giờ là trường Latinh.
    [​IMG]Xem như thế, hệ thống giáo dục ở Sài Gòn sau hơn 60 năm còn rất nhỏ nhoi nhằm phục vụ quan chức và binh lính viễn chinh, đồng thời lôi kéo thanh thiếu niên, thực dân Pháp bước đầu cũng tổ thức nhà hát, các loại hình thể thao như bóng đá, quần vợt, đua ngựa....
    Và... đầu độc
    [​IMG]Sự phát triển của Sài Gòn dưới chế độ thuộc địa là để phục vụ cho thực dân. Có hiểu các mục đích cuối cùng đó mới giải thích được sự kinh doanh thuốc phiện, một thứ ma túy độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe và tiền đồ của cả một dân tộc. Thuế thuốc phiện là một nguồn tài chính quan trọng mà ngay từ năm 1860 Pháp đã thu được hơn 13.000 đồng bạc, chiếm gần một phần mười tổng số thu nhập. Sang năm 1861, thuế thuốc phiện thu được đã tăng gấp đôi. Tóm lại, trong hai năm đầu, nguồn thuế này đã đem lại cho ngân sách một số tiền khổng lồ.
    Ngày 28-12-1861, Đô đốc Bonard đã ký nghị định thiết lập cho trưng thầu độc quyền khai thác thuốc phiện. Gần mười năm sau, 5-10-1871 Đô đốc Ohier ký nghị định thiết lập chế độ độc quyền rượu và cho đấu thầu khai thác từ ngày 1-1-1872.
    Vậy là từ năm 1874, chính quyền thuộc địa đã mở đấu thầu buôn bán rượu và thuốc phiện vào một mối.
    [​IMG]Số thuốc phiện mà Sài Gòn nhập mỗi năm một tăng. Năm 1871 là 359 thùng (tương đương 22 tấn), năm 1875 con số đó là 549 thùng và năm 1879 đã tăng lên 861 thùng (52 tấn). Đến cuối năm 1881, chính quyền thành lập ngành thuế gián thu khai thác độc quyền rượu và thuốc phiện, khởi công xây dựng xưởng nấu thuốc phiện.
    Xưởng nấu thuốc phiện tọa lạc trên diện tích một mẫu tây ở đầu đường Hai Bà Trưng hiện nay, là "niềm hãnh diện" của chính quyền thuộc địa, là một trong những "kỳ quan" của Sài Gòn:
    "Trong không khí thanh bình của những buổi mai rạng rỡ, du khách, ngự trên những chiếc xe có cu ly kéo, đi du ngoạn từ phía châu thành ra mé bờ sông, dưới những rặng cây xanh màu cẩm thạch, khi đến gần những cầu tàu của Hải quân thì bỗng dưng mũi bị kích thích bởi một mùi vị lạ lùng, vừa ẩm ướt vừa độc địa, vừa êm dịu vừa say mê. Đối với những người đã nhập đạo, thì mùi vị đó mách bảo rằng du khách đang ở cạnh công xưởng yên tĩnh nấu thuốc phiện của Đông Dương, một cơ quan nhà nước duy nhất vào loại này..." (Dr.A.Hesnard - La Fabrication de l'Opium à Saigon).
    Số thuốc phiện sản xuất ở đây được bán khắp Đông Dương và số tiền thu được do việc đầu độc người bản xứ này thật là lớn lao: 6,8 triệu đồng năm 1902, tăng lên 13 triệu đồng năm 1914, chiếm từ 25% (1902) đến 36,9% (1914) tổng số thu nhập chính của ngân sách Đông Dương !
    Năm 1894, Pháp khai trương nhà máy rượu.
    Báo chí - xuất bản
    Về báo chí, báo tiếng Pháp xuất hiện khá sớm trên đất Sài Gòn, ngay cả khi Pháp chưa chiếm trọn Nam Kỳ. Đó là các tờ Le bulletin officiel de l'expé***ion de la Cochinchine (1861 - 1888), Le bullentin des Communes (1862). Tờ báo tiếng Việt đầu tiên là tờ Gia Định báo (1865) tiếp đến là các tờ Phan Yên báo (1868), Thông loại khóa trình (1888). Đến đầu thế kỷ XX, báo chí mới thật sự có vai trò vận động quần chúng như tờ Nông Cố Mín Đàm (1901 - 1924) và tờ Lục Tỉnh Tân Văn (1907 - 1943)
    [​IMG]Trước hết là tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Sài Gòn mà cũng là của Việt Nam. Gia Định báo lúc đầu ra mỗi tháng một kỳ, 4 trang, khổ 25x32. Mục đích của tờ báo được Đề đốc G.Roxe trình bày rõ trong văn thư gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ngày 9-5-1865:
    "Tờ báo này nhằm phổ biến trong các giới dân bản xứ tất cả những tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức về những vấn đề mới có liên quan đến văn hóa và những tiến bộ về canh nông... Nó sẽ góp phần vào việc thay thế chữ của chúng ta vào chữ Hán, một thứ chữ mà chỉ có một thiểu số quan lại hiểu biết mà thôi".
    Từ khi Trương Vĩnh Ký được giao làm giám đốc Gia Định báo (1869) và Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút thì Gia Định báo đã cổ động cho lối học mới, phát triển chữ quốc ngữ và khuyến khích dân chúng học chữ quốc ngữ:
    "Nông Cố Mín Đàm đã đăng nhiều bài tiến bộ, có ít nhiều ý thức về vai trò văn hóa và tư tưởng của một cơ quan ngôn luận. Chính nó đăng những bài đầu tiên về Duy Tân, Minh Tân..."
    [​IMG]Báo Lục Tỉnh Tân Văntừ khi Trần Chánh Chiếu làm chủ bút đã kêu gọi cuộc Minh Tân, góp phần trong phong trào Duy Tân của cả nước đầu thế kỷ XX. Cùng với sự ra đời rất sớm của các tờ báo Việt ngữ, các sách Nôm và sách Hán được phiên âm và dịch ra quốc ngữ khá nhiều: Đại Nam quốc sử diễn ca (1871), Gia huấn ca (1882), Phan Trần (1889), Lục Vân Tiên (1889), Tam Tự Kinh (1887), Đại học, Trung Dung (1889), Minh Tâm bửu giám (1891). Và cũng trong thời gian đó, nhiều tác phẩm, nhiều công trình biên soạn đã được xuất bản, đáng chú ý là cuốn Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của.


    [​IMG] Hoạt động kinh tế Sài Gòn từ sau 1859
    Sài Gòn nằm trên khúc uốn thuộc hữu ngạn sông Sài Gòn, một phụ lưu của sông Đồng Nai, cách biển 100km thủy trình. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng đất cao Đông Nam Bộ, độ dốc sông nhỏ, sức xâm thực kém, nước sông chứa ít phù sa. Vùng cửa sông có rừng sác giữ vai trò siết dòng, hạn chế việc lắng tụ phù sa ở cửa sông. Lòng sông sâu 8m lúc triều cường, cho phép các tàu trọng tải lớn ra vào Sài Gòn dễ dàng. Hơn nữa, vùng biển Nam Bộ thuộc chế độ thủy triệu bán nhật, nên các tàu lớn có mực nước lòng tàu sâu chỉ mất tối đa 12 giờ để có thể vào cảng. Nghĩa là không phải mất nhiều thời gian neo tàu ở tiền cảng Vũng Tàu.
    Từ những thuận lợi trên đây, Sài Gòn dần dần trở thành một thương cảng quan trọng trên hải trình châu Âu - Viễn Đông.
    Hoạt động kinh tế của Sài Gòn trong những năm đầu Pháp thuộc chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu.
    [​IMG]Ngay năm 1860, đã có 246 tàu phương Tây và thuyền buồm của Trung Hoa chuyển vận hàng đến Sài Gòn và bốc dỡ hàng đi. Tổng số hàng chuyển đi lên tới 63.299 tô-nô, trong đó có 53.939 tô-nô gạo trị giá 5.184.000 quan Pháp. Trị giá hàng nhập khẩu cùng năm là 1,5 triệu quan Pháp (thuốc phiện chiếm 0,5 tấn). Việc bốc xếp hàng tại cảng Sài Gòn do các "chánh" người Hoa đảm nhận.
    Các mặt xuất khẩu gồm lúa gạo, cá khô (chở từ biển hồ ở Cao Miên về) dầu thực vật, đường mía, rau sấy khô, gòn.
    Từ 1863, hàng xuất khẩu có thêm một số mặt hàng truyền thống như tơ tằm, muối, đay. Các sản phẩm này phục hồi và phát triển nhanh, sản lượng đã vượt nhu cầu nội địa, còn thừa để xuất khẩu.
    [​IMG]Một mặt hàng xuất khẩu mới cũng phát triển rất nhanh từ 1863 là gỗ chất đốt và gỗ xây dựng. Thực tế nhu cầu gỗ để xây dựng đã có từ khi Pháp chiếm Sài Gòn. Do chiến sự tiếp diễn người Pháp chưa khai thác gỗ ở rừng Nam Kỳ nên phải nhập từ Singapore.
    Năm 1863, tình hình ở ba tỉnh miền Đông ổn định, người Pháp mới xúc tiến việc khai thác gỗ rừng vừa đổ cung cấp cho nhu cầu tại chỗ vừa để xuất khẩu. Trị giá gỗ xuất khẩu vào 1864 lên đến 11 triệu quan Pháp.
    [​IMG]Hàng nhập khẩu vào Sài Gòn gồm ba nhóm:

    • Nhóm 1: Thực phẩm và hàng hóa nhập từ Trung Hoa do Trung Hoa sản xuất, cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của người Hoa tại Chợ Lớn, người Việt ở Sài Gòn và vùng phụ cận.
    • Nhóm 2: Thực phẩm và các sản phẩm phục vụ cho yêu cầu xây dựng thành phố Sài Gòn.
    • Nhóm 3: Thực phẩm và các sản phẩm do chính quyền thuộc địa cho nhập để nuôi quân, cung cấp cho các cửa hàng, cung cấp chất đốt cho các tàu hơi nước.
    Tổng tải trọng hàng nhập và cảng Sài Gòn 1862 là 53.201 tônô. Trong số ba nhóm hàng nhập khẩu, nhóm hai là nhóm có nhiều mặt hàng phong phú với khối lượng lớn.
    Danh mục hàng nhập khẩu năm 1862:
    Tên hàng
    Số lượng

    Ngói lợp
    1.994.985 viên

    Gạch nung
    1.326.550 viên

    Đá hoa cương
    15.000 phiến

    Vôi xây dựng
    90.738 bao

    Đinh sắt
    700 thùng

    Cuốc xẻng
    4.725 cái

    Kèo, dầm
    14.745 cây

    Ván
    123.677 tấm

    Tà vẹt
    22.374 cây

    Gỗ dài
    650 thanh

    Rui, mè
    3.190 cây

    Nước sơn
    6.954 thùng

    Thanh sắt
    9.620 thanh

    Thanh đồng
    1656 thanh

    Thanh thép
    57 thanh

    Dây thừng
    40.995 sợi
    Thống kê nhịp độ lui tới của tàu buôn các nước với Sài Gòn trong năm 1862
    Tên gọi
    Cập bến
    Rời bến


    Tàu sắt
    Thuyền Trung Hoa
    Tàu sắt
    Thuyền Trung Hoa

    Số lượng
    114
    72
    129
    65

    Trọng tải (tônô)
    45.645
    7.556
    51.847
    7.346

    Thủy thủ đoàn (người)
    2.600
    2.196
    2.821
    2.251

    Hành khách (người)
    1.395
    1.460
    1.027
    777
    Tổng hợp tàu thường cập và rời bến Sài Gòn 1862(theo quốc tịch tàu)

    • Cập Bến
    Quốc tịch
    Tổng số (chiếc)
    Trọng tải (tônô)
    Thủy thủy đoàn (người)
    Hành khách (người)

    Pháp
    44
    22472
    1314
    330

    Anh
    43
    12496
    1039
    652

    Đức (Hamburg)
    7
    2465
    97
    132

    Mỹ
    6
    3348
    92
    30

    Đan Mạch
    6
    1444
    78
    157

    Pérou
    1
    895
    40
    3

    Bỉ
    1
    890
    20
    18

    Đức (Brême)
    1
    299
    14
    21

    Hà Lan
    114
    45645
    260
    1395

    Thuyền Trung Hoa
    72
    7556
    2196
    1460

    Tổng cộng
    186
    53201
    4796
    2855

    • Rời bến
    Quốc tịch
    Tổng số (chiếc)
    Trọng tải (tônô)
    Thủy thủy đoàn (người)
    Hành khách (người)

    Pháp
    51
    24895
    1153
    464

    Anh
    49
    15013
    1120
    330

    Đức (Hamburg)
    7
    2465
    214
    31

    Mỹ
    6
    3330
    84
    19

    Đan Mạch
    7
    1733
    112
    4

    Pérou
    2
    1790
    54
    50

    Bỉ
    1
    890
    20
    63

    Đức (Brême)
    1
    299
    14
    5

    Hà Lan
    5
    1432
    70
    51

    Thuyền Trung Hoa
    64
    7271
    2237
    777

    Tổng cộng
    194
    59193
    5072
    1804
    Theo dõi lượng hàng hóa trao đổi giữa Nam Kỳ và bên ngoài, nhìn chung là tăng, nhưng do biến động chiến sự từ việc quân Pháp dẹp các nguồn khánh cự của nghĩa quân Nam Kỳ đã ảnh hưởng nhất định đến sản xuất. Do đó dẫn đến sự giảm sút lượng hàng xuất khẩu. Khi tình hình ổn định trở lại sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng, lượng hàng xuất khẩu do đó cũng tăng vọt. Theo dõi lượng gạo xuất khẩu ta thấy:
    Năm 1860 xuất ....... 53.939 tônô
    Năm 1862 xuất ....... 42.000 tônô
    Năm 1863 xuất ....... 16.853 tônô
    6 tháng đầu năm 1864 xuất ....... 50.220 tônô

    [​IMG]Việc phát triển mậu dịch giữa Sài Gòn với bên ngoài dần dần kéo theo sự phát triển nhiều ngành sản xuất mới. Trường hợp người Hoa ở Chợ Lớn nhập đường kết tinh để tái xuất sang Trung Quốc dẫn đến việc người Pháp cho thành lập nhà máy lọc đường tại Sài Gòn là một ví dụ. Trước đây việc đan bao đệm chủ yếu dùng để đựng hàng xuất khẩu, đến nă, 1862 bao đệm thành một mặt hàng xuất khẩu: năm 1862 xuất 417.998 chiếc; năm 1863 xuất 2.305.190 chiếc. Tương tự đối với muối ăn, tơ tằm, gỗ xây dựng....
    Có thể nói thời điểm quân Pháp doàn tất việc chiếm đóng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, hoạt động xuất nhập khẩu tại Sài Gòn càng lúc càng tấp nập. Hoạt động này là một trong số ít nguồn thu chính yếu của thuộc địa. Tính từ 1-7-1866 đến 30-6-1867 số tàu cập và rời bến Sài Gòn là 887 chiếc, với tổng giá trị hàng xuất nhập khẩu lên đến 53 triệu quan Pháp.
    [​IMG]Như vậy cho đến giữa thập niên 60 của thế kỷ XIX Sài Gòn thực sự là một thành phố thương mại phồn thịnh, một thương cảng có sức thu hút mạnh, có đủ điều kiện bước vào cuộc đua tranh với các đô thị lớn ở khu vực Đông Nam Aá thời bấy giờ như Singapore, Batavia (Djakarta), Manile.




  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vương Hồng Sến
    Sài Gòn năm xưa
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vương Hồng Sến
    Sài Gòn năm xưa
    Trước hết, từ giống người Phù Nam
    Thời cổ đại, theo sử Trung Quốc ghi lại, thì có giống người Phù Nam chiếm cứ sơ khởi vùng gọi Phù Nam. Đất Phù Nam sau đổi lại là "Thuỷ Chân Lạp" (le Chan-la des eaux ou Basse Cochinchine) để phân biệt với đất Lục Chân Lạp (le Chan-la des montagnes ou Cambodge).
    THỜI ĐẠI NÀY, ĐẤT THỦY CHÂN LẠP CÒN LÀ RỪNG RẬM SÌNH LẦY, THÀNH SÀI GÒN CHƯA CÓ.
    Khoảng năm 1943 - 1944, nhà học giả Pháp, ông Louis Malleret nhân danh là hội viên trường Viễn Đông Bác cổ và Giám đốc viện Bảo tàng Sài Gòn có thân hành đến chặng giữa đường Long Xuyên đi Rạch Giá, noi dấu bọn thổ dân đã đến chỗ này nhiều tháng trước để bòn vàng… Nơi đây, ông tìm ra di tích một nền cổ Phù Nam bị chôn vùi dưới đất từ ngàn xưa. Ông có đem về Viện Bảo tàng rất nhiều món đồ nữ trang, cổ vật, trang sức phẩm và rất nhiều tài liệu cổ có chơn giá trị về lịch sử (đồ đất nung, dót nấu kim khí, miểng bát chén, phao lưới, trái trì lưới (poids de filet), cục đá căng nặng xe chỉ sợi (fusaiolus), v.v…), hiện các vật này trưng bày làm một gian phòng riêng biệt trong Viện Bảo tàng Sài Gòn. Nhờ đó, ta biết được cội đất nước ta và biết tại đây xưa kia vào thế kỷ thứ hai, người dân La Mã đã tìm theo con đường biển thả tàu buồm đến đây và đã từng đặt chân trên đát này cũng như họ đã từng giao thiệp chặt chẽ cùng thổ dân bản xứ. Họ (người La Mã, Ấn Độ di cư, Mã Lai, Phù Nam, v.v…) qua lại đổi chác với nhau, tỷ như vàng khối xứ Chiêm Thành (l’or du Cathay), lụa Trung Quốc (soie de Chine), hoặc hương liệu (épices): sa nhân, đậu khấu vùng Khmer (núi Cardamomes rất gần). Đặc biệt nhất là có một đồng vàng tìm được tại chỗ và đó là một tài liệu quý hoá nhất chứng minh cho thuyết nói trên. Đồng vàng ấy mang dấu hiệu của vua Antonin le Pieux, sinh năm 86 và trị vì tại La Mã từ năm 138 đến năm 161 Tây lịch kỷ nguyên. Hiện thời, các nhà thông thái tạm lấy chỗ tìm được cổ vật mà đặt tên cho các vật tìm thấy, gọi đồ thuộcvăn minh Óc-Eo. (theo chính tả Việt Ngữ. Nếu viết theo Phạn tự và theo giọng Khmer thì là ÂK EV). Nay Óc-Eo thuộc về làng Mỹ Lâm, tổng Kiên Hảo, giáp ranh hai tỉnh Long xuyên và Rạch Giá. Từ năm 1945 có chiến tranh, sự giao thông bất tiện, thêm thiếu điều kiện bảo thủ canh gác nên người tại chỗ đã đào đã hôi rất nhiều… Khó mà tiếp tục sưu tầm, tiếc thay!
    2. Nối chân Phù Nam trên vùng Thuỷ Chân Lạp là người Cam Bốt.
    Không nói đâu xa, từ đầu thế kỷ thứ XVII, người Cam Bốt đã có mặt tại vùng Sài Gòn lâu rồị Nhưng họ không khai thác chi cả. Họ chỉ ăn hoa lợi tự nhiên: thú rừng, lâm sản; lá lợp nhà, cây làm củi, v.v… Bằng cớ hiển hiện là khi lọt về tay người Việt, Sài Gòn vẫn là một thôn quê rừng, ruộng, vô danh.
    Nghiệm ra rằng người Khmer sanh đẻ tại Nam Việt, phát âm không giống y giọng Khmer trên Nam Vang. Tình trạng này có thể so sánh lại với tình trạng người Việt vùng Cà Mau Bạc Liêu giọng nói vẫn khác giọng Sài Gòn hoặc giọng Hà Nộị Đối với tiếng Khmer, trên Nam Vang, dùng nhiều chữ "r" có thể nói mỗi tiếng nói, gần như mỗi có đánh lưỡị Trái lại miền Nam Lục Tỉnh, dân Khmer nuốt gần mất chữ “r”. Tỷ dụ trên kia nói "Préam riet" (là 5 đồng bạc) thì dưới này họ nói "Péam yiel", v.v… chưa quen tai, không hiểu họ muốn nói gì.
    Bởi rứa, về danh từ "Sài Gòn" đối với người Cam Bốt, khi họ gọi:
    a) Prei Kor
    (nếu họ là người Nam Vang)
    b)Prei Nokor
    hoặc
    c) Pẹi - ừ - Ko
    (nếu họ là người Khmer Lục Tỉnh)
    d) Pẹi - ằng - ko
    Khiến người Việt ta điếc con ráy và… khó phân biệt được.
    Vả trong bốn cách phát âm trên, tưởng cần ghi lại hai cách Nam Vang, có phần khoa học, đáng tin cậy hơn, nhưng trong hai cách ấy cũng chưa phân biệt cách nào đúng nghĩa của người xưa.
    Prei, prey: rừng, không còn ai chối cãi.
    Kor: Kô, Ku: có hai nghĩa khác hẳn nhau:
    Khi "kor" làgòn , Prei-kor là "Rừng gòn".
    Khi khác thì"Kor":"Kũ": boeuf, Prei-Kor tức là "Rừng bò"?
    Có một tỷ dụ: Bockor: bâuk kũ: boeuf à bosse: bò u. Cố Tandart, sành về Miên ngữ, lại cắt nghĩa: Nokor do "Nagaram" tiếng Nam Phạn (Pâli), đồng nghĩa với chữ “thành" Việt Hán tự trong các danh từ: thành thị, đô thị (cité); thành phố (ville).
    Một tự vị Miên Pháp nữa dịch: Nokor: royaume: quốc. Vậy thì: Prei-Nokor là lâm quốc.
    Các thuyết trên cho phép ta định chừng“Nokor” là giọng kinh chợ, giọng các nhà hay chữ thông thái trên Nam Vang, chớ người Khmer… miền lục tỉnh, nước phèn cứng lưỡi, quen nói trại bẹ, thuở nay, để ám chỉ Sài Gòn, họ dùng một danh từ lơ lớ nghe tương tự "Pei-ừ-ko" hay "Pẹằng-ko" không rõ chắc được.
    Bằng như có ai hỏi họ sát đề quá, để tránh cái khó, họ dùng một danh từ khác, rõ rệt không còn chối cãi và lầm lộn nữa, ấy là danh từ "srock yuong" ta âm ra "Sốc Duồng" để chỉ xứ Sài Gòn. Lấy theo điểm này và căn cứ hai chữ nên thơ "Srock yuong", thì người Cam Bốt tự ngàn xưa đã ngấm ngầm nhìn nhận đất Sài Gòn là lãnh thổ Việt Nam không chối được. Dân Khmer Lục Tỉnh là người trí óc mộc mạc chất phác, người củi lục làm ăn, không biết nói láo và không biết nguỵ biện!
    Do các thuyết Lang sa kể trên, ta có thể kết luận:
    Dưới thời đại cam-bốt-diên, Sài Gòn là nước, xứ ở giữa rừng (Prei Mokor). Vịn theo thuyết này danh từ "Sài Gòn", trước định do “Prei Nokor” là "rừng gòn" không vững. Nay nên dịch "lâm quốc" đúng hơn. Tóm lại. danh từ “Sài Gòn" không ắt do điển “Prei Nokor” mà có.
    3. Theo dấu người Tàu, năm 1680 đến miền Nam, năm 1778 lập Đề Ngạn.
    Từ 1680, đã có dấu chân Hán tử trên dãy đất miền Nam nhưng họ lui tới đông đảo trên vùng Sài Gòn nhất là từ năm 1778.
    Tài liệu này thấy rõ ràng trong bộ sách "Annuaire de la Cochinchine Francaise pour l’année 1866". Nơi trang 83 và 84 của quyển sách hiếm có này, mục nói về thành phố "CHỢ LỚN", tác giả là hải quân Trung uý Francis GARNIER, thanh tra chính trị bản xứ, viết nguyên văn bằng tiếng Pháp, tôi xin sao lục ra đầy đủ sau:
    "CHOLEN. Vers la fin du XVIIe siècle, plusuieurs milliers dr Chinois préférant l’exil à la domination tartare, partirent de Canton, pour demander des terres à l’empereur d’Annam. Celui-ci leur désigna la Basse Cochinchine: il se débarassait de la sorte d’une multitude trop hardie pour ne pas devenir bientôt dangereuse, et en faisait, en même temps, l’avantcoureur de ses projets de conquête sur le Cambodge. Les émegrés se dirigèrent donc vers le pays de Gia Dinh, et s’établirent à Mitho et à Bien Hoa. Ce dernier point se développa rapidement sous leur influence, et l’ile Cou-lao-pho devint le pôint fréquenté où chaque année de nombreuses jonques vỉnent entreposer leurs marchandises.
    "A partir de ce moment, on voit les Chinois jouer un grand rôle dans toutes les guerres qui eurent une partie de l’Indochine pur théâtre, et, aussi redoutés comme adversaires, imposer parfois des con***ions aux diverses parties belligérantes. Ce fut ainsi que, à peu près à la même époque, le Chinois MAC CUU s’empara de Hatien, sur le Cambodge, pour le compte de la cour de Húe, et recut de celle-ci, pour lui et ses descendants, l’investiture de la province dont cette ville est la capitale. Hatien devint bientôt peuplée et florissante et garde encore, aux yeux des Annamites, cette réputation d’élégance et de civilisation dont la colonisation chinoise a toujours eu le prestige pour eux.
    "Un siècle plus tard (1773), la révolte des TÁYON qui’ectala tout, d’abord dans les montagnes de la province de Qui-Nhon, et s’éten*** repidement dans le sud, chassa de Bien-Hoa le mouvement commercial qu’y avaient attiré les Chinois. Ceux-ci abandonnèrent Cou-lao-pho, remontèrent de fleuve de Tan-Binh, et vinrent choisir la position actuele de CHOLEN. Cette création date d’envinron 1778. Ils appelèrent leur nouvelle résidence TAI-NGON ou TIN-GAN. Le nom transformé par les Annamites en celui de SAIGON fut depuis appliqué à tort, par l’expé***ion francaise, au SAIGON actuel dont la dénomination locale est BEN-NGHE ou BEN-THANH.
    "Mais la rébellion ne s’arrêta pas à la conquête de la province de Bien-Hoa: le chef des TAY-SON Nguyen Van Nhac pénétra peu après dans la province de PHAN-YEN (Gia-Dinh), battit les troupes impériales, et passa au fil de l’épée tous les Chinois établis à Saigon (1782).
    "Il en périt plus de dix mille, *** l’auteur du "Gia Dinh Thanh thung chi", à qui nous empruntons tous ces détails; la terre fut couverte de cadavres depuis Ben-Nghe jusqu’à Saigon, et comme on les jetait dans la rivière, elle en fut réellement arrêtée dans son cours; personne ne voulut manger du poisson pendant un escape de temps qui ne dura pas moins de trois mois. Les marchandises de toutes sortes appartenant aux Chinois telles que thé, étoffes de soie, remèdes, parfums, parpiers, joinchèrent la route pendant longtemps, sans que personne osât y toucher. L’année d’après (année Qui-Meo - 1873), le prix du thé s’élevait jusqu’à 8 ligatures la livre, une aiguille coutait jusqu’à 1 tayen; toutes les marchandises augmentèrent de prix à proportion (Traduction AUBARET).
    "On peut juger par ces lignes de l"historien officiel de Gia-Dinh, de l’importance qu’avait déjà à cette époque a colonie chinoise de CHOLEN, et dans quelle dépendance du commerce chinois était tombée la contrée entirère.
    "Quand GIA-LONG, maitre enfin de ces états, eut rétabli la paix dans les provinces de la Basse Cochinchine, Cholen recouvra bientôt toute son activité et toute sa richesse, et la persévérance chinoise, triomphant des restrictions commerciales et des vexations de tout genre, en fit bientôt la marché le plus important des six provinces. La défense d’exportation étendue à presque toutes les denrées autres que le riz, l’é*** qui limitait le nombre des Chinois, les lois somptuaires qui leur étaient appliquées, ne lassèrent ni leur habileté, ni leur génie commercial. Toutes mesures qui n’etaient, d’ailleur, pour les mandarins que des occasions de corruption de plus, n’empêchèrent pas les Chinois de construire à leurs frais à Cholen des quais en pierre sur une étendue de plusieurs kilomètres, et de contribuer pour une part considérable au creusement de canal destiné à relier le Binh-Duong ou Vam-Ben-Nghe (arroyo Chinois) au Ruot-Ngua qui aboutit au Rach-Cat (1819). Le-Ruot-Ngua avait été lui même canalisé en 1772. En même temps, on acheva les travaux de l’arroyo de la Poste, dont le creusement avait été ébauché des 1755. En 1820, la route commerciale du Cambogde à Saigon par Mitho se trouva complètement terminée, et à partir de ce moment, Cholen redevint l’entrepôt nécessaire de toutes les denrées de cette riche zone" (Annuaire de la cochinchine Francaise pour l’année 1886, pages 83-84).
    Cứ theo thuyết này, người Tàu dùng thuyền buồm chuyên chở hàng hoá, tơ lụa, trái cây khô và tươi v.v… của xứ họ qua dự trữ tại Cù lao Phố (Biên Hoà). Vào thời ấy, người Tàu vẫn là những tay lợi hại và đắc lực ám trợ mọi cách và cả hai bên vào các cuộc nội loạn miền Nam. Có thể nói hễ họ dựa vào bên nào là bên ấy có phần chắc thắng địch thủ dễ dàng. Dân chúng nể uy danh họ và kiêng sợ võ lực bạo tàn của họ, thậm chí các tay lãnh tụ đương thời: Nhạc, Huệ, Nguyễn Ánh cũng lợi dụng họ để mượn thế “lấy giáo Tàu đâm Chệc” cho họ sát hại lẫn nhau bớt. Xét ra đời nào cũng có họ ám trợ ta chống lại Trung Quốc với danh nghĩa "di thần Minh Mạt", họ là người gốc Hán tộc lại "tả" rất sướng tay lính để đuôi sam Mãn Thanh và biết đâu chừng, trong trận Đống Đa, há chẳng có quân sĩ Tàu hươi mã tấu ám trợ vua Quang Trung đánh giặc Chệc!
    Cũng như dưới danh từ hội kín, như gần đây có “Thiên Địa Hội”, nào "Nghĩa Hoà Đoàn", nào "Nghĩa Hưng Đoàn", từ ngàn xưa họ đã từng làm mưa làm gió một thời và đánh giặc mướn cho cả hai phe, khi theo chúa Nguyễn Ánh, khi theo Tây Sơn Nhạc Huệ và về sau cùng, thì có họ núp dưới bóng cờ Đen, trợ giúp triều đình Huế chống quân đội Pháp thời Tự Đức, và núp dưới hiệu lịnh "Tư Mắt, Phan Xích Long" phá khám cũ Sài Gòn và làm phản chống chánh phủ Đô hộ Pháp lối 1914-1915. Anh hùng bất đắc chí, sẵn tánh phiêu lưu, họ cư xử không khác các nhân vật, các "đại ca” trong truyện Tàu bất hủ, khi làm tướng cướp khi lại tế khổn phò nguy! Nhưng cũng bởi tánh ăn ở không minh bạch, nên khi Tây Sơn nổi dậy (1773), kéo cờ bách thắng vào Nam, thuận tay, họ bèn quét đuổi quân Tàu ra khỏi Cù lao Phố (Biên Hoà) là nơi tàn quân Minh đến lập cơ sở từ năm 1680. Khi ấy, những khách thương Tàu mất chỗ bèn rút lui theo con sông Tân Bình (Bến Nghé), họ nhắm xem địa thế, cân nhắc kỹ càng thiên thời địa lợi và sau rốt họ lựa vùng đất ở giữa chẹn đường Mỹ Tho đi Cù lao Phố mà xây dựng tân sở, tân sở này sau trở nên thành phố Chợ Lớn ngày nay vậy. Tác giả Grancis Garnier, quả quyết: thị trấn Chợ Lớn do người Tàu tạo lập vào năm 1778 đây thôi. Thị trấn này vừa phát đạt chưa được bốn năm năm đến 1782, thì ngộ nạn lớn: năm ấy, chúa Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc đánh lấy được thành Phan Yên (Gia Định), thừa cơ làm cỏ sạch người Tàu một phen nữa (Sở dĩ Tây Sơn giận dai như thế, theo một giả thuyết tôi được nghe gia nghiêm kể lại, có lẽ một phần do hậu quả những cờ gian bạc lận giữa các tay tổ Tàu và Biện Nhạc năm xưa, một phần khác quan trọng hơn, là lại đã không tiếp tay chống Nguyễn Ánh mà còn tiếp tế lương phạn, v.v…). Sau trận giặc 1782, theo Trịnh Hoài Đức thuật lại, thì hàng hoá các tiệm buôn Tàu như trà, vải lụa, thuốc men, hương liệu, giấy má đủ loại bị tuôn ra bỏ bừa bãi lềnh khên ngập đường sá, hèn lâu như vậy mà không ai dám rớ dám mót lượm về xài. Qua năm 1783, giá hàng hoá vụt lên mà ngợp: kim may mỗi cây một lượng bạc, trà Tàu tám quan tiền một cân,… Còn nói chi số binh sĩ và thường dân Tàu bị chết đâm chết lụi kể trên số muôn, thậm chí thây ma lớp nằm chật đất, ngổn ngang từ vàm Bến Nghé đến tận kinh Chợ Lớn, lớp khác bị chuồi xuống nước, xác ma da, thằng chỗng kẹo lềnh một khúc sông, làm cho ngót ba bốn tháng trường, dân nghe nhắc mà ớn xương sống không dám rớ đến miếng thịt xương thịt cá! Nhưng người Tàu quả là giống dân giàu tính nhẫn nại nhất thế giới: tính coi họ thất bại to tát làm vậy mà họ không bỏ cơ sở làm ăn. Ít lâu sau họ gầy dựng lại cơ sở Chợ Lớn, có mòi sung túc thịnh vượng hơn trước bá bội. Họ lấy đất đắp thêm bờ kinh chỗ mới tạo lập, cẩn đá thêm cao ráo và kiên cố. Và có lẽ để ghi nhớ công trạng này họ đặt tên chỗ mới là "Tai-Ngon", hoặc "Tin-Gan", mà phát âm theo giọng Quảng Đông thì nghe ra "Thầy Ngồnn" hay "Thì Ngòn". Xét theo mặt chữ, thì "Tai-Ngon", "Tin-Gan", "Thầy Ngồnn", "Thì Ngòn" đọc theo giọng Việt là "Đề Ngạn”:
    Đề, Đê: là cái bờ, cái đê ngăn nước.
    Đề:cũng có nghĩa là nắm lấy (Đề cương khiết lãnhlà nắm lấy cái dây lớn của cái lưới, tức nhiên cả cái lưới sẽ trương ra; kéo cái cổ áo thì cả chiếc áo nhấc lên. Nghĩa bóng:nắm lấy chỗ chủ yếu. Kể ra khi đi lựa địa thế, đã là đặt cả một hy vọng lớn rồi).
    Ngạn:bờ sông cao dốc.
    Đề Ngạn là vùng Chợ Lớn cũ ngày nay vậy (truy ra là xóm Quảng Đông Nhai chỗ miếu Quan Đế, miếu Tam Hội).
    Còn khi khác nữa, họ dùng danh từ "Tây Cống" mà họ phát âm nghe "Xi-cóon" hoặc "Xây-cóon" (theo giọng Quảng). Theo ý tôi đây là cách phát âm giữa người Tàu với nhau để ám chỉ vùng đất mà người Pháp hiểu là "Sài Gòn" ngày nay, vùng ghi theo tiếng "Sài Gòn" do giọng Tàu, vùng của người Việt ăn và ở, vùng ấy tức là vùng chợ cũ Sài Gòn, ngót trăm năm về trước, xưa kia thuở Nam Triều gọi là "Chợ Vải", thuộc khu phố lầu chung quanh Tổng Ngân khố ngày nay: đường Nguyễn Huệ, Ngô Đức Kế, Võ Di Nguy, Phủ Kiệt, ăn lan ra phố Kinh lấp (Hàm Nghi), v.v… và đây là cách nhái giọng nói, nhại tiếng "Sài Gòn" của ta, chớ không đúng theo chữ viết sẵn _________. “Xi-cóon” giọng Quảng viết ra Hán tự thành "Tây Cống" như vậy là chắc chắn rồi! Xin đừng hiểu theo một văn sĩ trẻ, giàu óc tưởng tượng nhưng túng đề, ghi trên tạp chí "Phổ thông" độ nọ cắt nghĩa “Tây Cống” là thành trì của vua Tự Đức ngày xưa cống hiến cho Tây!Tôi không theo phái bảo hoàng nhưng tưởng viết làm vậy, nhơ ngòi bút, nhục quốc thể, người nước ngoài cười; thêm đắc tội với tiền nhân.
    Tóm lại: Tây Cống, Xi-cóon, là xóm Việt, Sài Gòn của người Nam, không phải xóm Tàu trong Chợ Lớn, tức Thầy-Ngồnn, chữ viết đọc là Đề Ngạn.
    Có ý nghe người Tàu khi nói chuyện với nhau, khi rủ đi chơi vùng "Sài Gòn"; họ nói gọn lỏn "hui Cái Xị", mà "Cái Xị" ở dây là "nhai thị" tức "chợ", hoặc giả họ nói "xánh cái xị" là "tân nhai thị", tức là "chợ mới"(chợ Việt mới). Khi nào muốn ám chỉ Chợ Lớn Tàu, họ lại dùng danh từ "Thầy Ngồnn", là Đề Ngạn vậy.
    Việt - ta nói: SÀI GÒN.
    Tàu - họ nói: THẦY NGỒỒN, XÌ CỤN.
    Ai muốn hiểu thế nào thì hiểu!
    Gần đây hơn hết, khi hai đô thị sát nhập làm một "Tây Cống dồn với Đề Ngạn làm một khối duy nhất", Tàu họ dùng một danh từ hết sức gọn và sáng, ấy là Tây Đề.
    Trở lại dấu vết tổ tiên Việt.
    Cái lộn xộn rắc rối làm cho ngày nay chúng ta điên đầu khó biết địa điểm đâu là Sài Gòn chính thức, truy ra, cũng tại Lang sa mà có!
    1. Thành Sài Gòn do Minh Mạng dạy xây năm 1836, vị trí ở gần Ba Son.
    2. Chợ Bến Thành (ở gần bến và thành) phân ra hai chợ:
    a. Chợ Cũ ở chỗ Tổng Ngân Khố ngày nay, do Chợ Vải ngày xưa Tây cất lại bằng gạch và sườn kèo sắt, phá bỏ năm 1913.
    b. Chợ Mới là chợ ngày nay quen gọi Chợ Mới Bến Thành, Tàu gọi "Tân Nhai thị" hay vỏn vẹn "Cái Xị", khởi công năm 1912, đến tháng 3 năm 1941, chợ cất rồi, ăn lễ lạc thành, tiếng đồn rùm beng có cộ đèn, chưng cộ bảy bang, xe bông, hát ngoài trời v.v…; các bài báo viết mừng bài "mừng lễ khai tân thị" xướng hoạ không dứt.
    3. Hai vùng này gộp lại có tên là Bến Nghé.
    Trong lúc ấy thì người Tàu dùng danh từ "Thầy Ngồnn" (Đề Ngạn) để gọi vùng buôn bán "Chợ Lớn" và danh từ "Xi-Cóon" (Tây Cống) để ám chỉ xóm Việt tức chợ Bến Thành (từ xưa đến 1919 sự buôn bán vẫn nằm trong tay Hoa kiều, người Việt bắt đầu qua nghề thương mãi chỉ từ 1920 về sau).
    Kịp đến buổi Tây qua, đứng trước danh từ “Bến Nghé” và "Sài Gòn" thì hai chữ "Bến Nghé" đối với Tây líu lưỡi khó nói quá, nên chỉ sẵn uy lực kẻ chiến thắng trong tay, Tây bèn ép các sắc dân Nam, Chà, Chệc đều phải bỏ danh từ “Bến Nghé”, và để thay vào đó, Tây ép dùng hai tiếng "Sài Gòn", vừa kêu giòn, vừa dễ đọc (cũng như họ đã đọc và nói "Cholen" thay vì "Chợ Lớn", rồi đọc và nói "Da Kao" thay vì "Đất Hộ”. Dân ta bắt chứơc theo mà còn ăn nói mạnh dạn hơn nữa, cho đến ngày nay họ đi rồi mà các danh từ ngoại lai này chưa hết hẳn). Một lúc, để chọn tên dặt cho kinh đô Nam Việt, Tây đã nghĩ đến danh từ “Gia Định” nhưng họ lại chê là di tích cựu trào, khêu gợi chuyện xưa nên họ không dùng. Kế đó, họ muốn chọn danh từ “Bà Chiểu", nhưng họ cũng không thâu nhận vì "Bà Chiểu" như "Gia Định” là tên cũ của trào xưa, họ cố tránh, lại nữa "khi viết lại viết tháu, hoặc dùng gởi điện tín, sợ e có khi đọc hiểu lầm là "Bạc Liêu"thì khốn".
    Tóm lại, danh từ "Sài Gòn" trở nên bất tử vì người Việt, người Tàu trong lúc đàm thoại với Lang sa hoặc viết thơ hay ký giao kèo với họ; một nửa chiều ý người mới, một nửa "nịnh Tây", bèn dùng luôn danh từ "Sài Gòn" thay thế danh từ "Bến Nghé", lâu ngày quen tai quen mắt và càng phổ biến rộng thêm mãi, khiến nên "Sài Gòn" đã soán ngôi "Bến Nghé" và "Bến Nghé" thỉnh thoảng chỉ còn nghe nói trong giới người cố cựu đất Gia Định chính cống mà thôi.
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Sài Gòn trên bản đồ xưa

    Bản đồ này thuộc hàng xưa nhất trong các bản đồ Sài Gòn, với hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn cách biệt nhau.
    [​IMG]

    Map of Saigon - 1795

    Plan de la ville de Saigon, fortifiée en 1790 par le Colonel Victor Olivier. Réduit du grand plan levé par ordre du Roi, en 1795, par Mr Brun, ingénieur de Sa Majesté par Mr Dayot, 1799



    1. Bản đồ Sài Gòn 1795

    2. Giải thích các địa danh trên Bản đồ
      Bản đồ thành phố Sài Gòn, được bố phòng vào năm 1790 bởi Đại tá Victor Olivier. Theo bản đồ lớn do kỹ sư hoàng gia Brun vẽ năm 1795 theo lệnh nhà vua, nay thu nhỏ lại bởi J.M. Dayot, 1799
      A. Palais du Roi = Hoàng cung.
      B. Palais de la Reine = Mẫu hậu cung.
      C. Palais des Princes = Cung các hoàng tử.
      D. Hôpital = Bệnh viện.
      E. Magasin des Troupes = Kho quân đội.
      F. Arsenal et Forges = Kho võ khí và lò rèn.
      G. Charonnerie = Nhà xe.
      H. Magasin à Poudre = Kho thuốc súng.
      I. Corps de Caserne = Trại lính.
      K. Place d'Arme = Võ sảnh.
      L. Remises pour les pièces de Campagne = Trại tân tạo võ khí hành quân.
      M. Mât de Pavillon = Cột cờ.
      N. Maison de l'Evêque = Dinh Tân xá dành cho Bá Đa Lộc (Pierre Foseph Georges Pigneau de Béhaine - Giám mục người Pháp).
      O. La Monnoye = Trường đúc tiền.
      P. Magasin aux Vivres = Kho lương thực (Kho Quản Thảo).
      Q. Bazard = Phố chợ (Đa Kao).
      R. Chantiers de Construction = Xưởng Chu sư.
      S. Bassin = Bể sửa chữa tàu thuyền.
      T. Briqueterie = Lò gạch ngói.
      U. Pagode = Chùa (Cây Mai).
      V. Bazard chinois = Chợ người Hoa (Chợ Lớn).
      Bản đồ này do Le Brun, một sĩ quan người Pháp của Nguyễn Ánh vẽ năm 1795. Theo bản đồ này ta thấy một hệ thống đường bộ có hình bàn cờ và nhiều cơ sở hành chính, sản xuất, tín ngưỡng nằm bao quanh thành Bát Quái. Đó là kho hàng thực phẩm (P), xưởng gạch (T), xưởng đúc tiền (O), xưởng đóng thuyền (R), chùa Cây Mai (U), Chợ Lớn (V). Ngoài khu dân cư ở Sài Gòn còn có khu dân cư khá quan trọng ở Chợ Lớn hiện nay. Quận 4 đông đúc hiện nay vẫn còn là vùng đất hoang sơ, có một đoạn đường đất nối rạch Bến Nghé đến đồn Vàm Cỏ.
      Ngôi thành Bát Quái được xây dựng năm 1790, bản đồ Le Brun cho thấy một con kênh khá dài nối liền thành Gia Định với sông Sài Gòn, tạo sự thuận lợi cho giao thông và vận tải bằng đường thủy vào trong thành
      Nguồn:
      Sài Gòn xưa và nay, NXB Trẻ, 2006
      100 câu hỏi đáp về GĐ - SG - TP.HCM (Nguyễn Đình Đầu.
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Sài Gòn trên bản đồ xưa

    Một phiên bản khác không có số đo trên sông Sài gòn (thời đó ghi chú là sông Đồng nai)

    [​IMG]
    Chú thích của vaputin:
    Tỷ lệ của Brun chỉ là tương đối
    Đường Nguyễn Trãi không thay đổi từ xưa đến nay bên cạnh những con đường xưa nhất Sài gòn Chợ Lớn như CMT8, NKKN, Lế Thánh Tôn, Hai Bà Trưng.

    Chùa trong Chợ lớn trên bản đồ là Phước kiến nghĩa từ, nay nằm trong bệnh viện Nguyễn Trãi. Năm 1790, phố Tàu đã mở rộng ra đến khu chợ Hòa Bình, đường Bùi Hữu Nghĩa ngày nay. Không nhìn thấy cụm quầnthể chùa Kim Chương, miếu Hội Đồng, và miếu Hiển Trung chứng tỏ cả ba đều được xây sau 1790?

    Nhiều con đường trên bản đồ Brun đã biến mất vì nhiều nguyên do tuy nhiên có đường vẫn để lại dấu vết, ví dụ trục đường trong khu Bàn cờ ngày nay là theo một con đường cổ chạy từ khu Bàn cờ cắt qua khu chợ Đũi, Tao Đàn, Dinh Thống Nhất vào cửa Đòai Duyệt. Đường này trên bản đồ Trần Văn Học đi thẳng về phía Tây Nam và đâm ra đường kinh lý Mỹ Tho ở quãng giữa chùa Gò và cầu ông Buông. Phải chăng khu Bàn cờ hình thành từ xóm Thuẫn xưa?

    Thành Quy trong bản đồ không vuông mà hình chữ nhật. Trục TB-ĐN khỏang 800 mét, đường trung tâm là đường Hai Bà Trưng ngày nay, trục TN-ĐB khỏang ngót ngét 1 km, đường trung tâm có lẽ là Hàn Thuyên ngày nay. Trong Gia định thành thông chí, cụ Trịnh có chép:

    "Ngày 4 tháng 2 năm Canh Tuất thứ 13 (1790), tại chỗ gò cao thôn Tân Khai thuộc đất Bình
    Dương, ngài mới cho đắp thành bát quái như hình hoa sen, mở ra 8 cửa, có 8 con đường ngang dọc,
    từ đông đến tây là 131 trượng 2 thước ta (khỏang 630 mét), từ nam đến bắc cũng như thế, bề cao 13 thước ta ([2][2]), chân dày 7 trượng 5 thước ta, đắp làm ba cấp, tọa ngôi Càn, trông hướng Tốn. Trong thành, phía trước bên
    tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho chứa, bên hữu là Cục Chế tạo, xung quanh là
    các dãy nhà cho quân túc vệ ở. Trước sân dựng ([3][3]) cây cột cờ ba tầng, cao 12 trượng 5 thước ta,
    trên có làm chòi canh vọng đẩu bát giác tòa, ở bên treo cái thang dây để thường xuyên lên xuống, trên
    ấy có quân ngồi canh giữ, có điều gì cần cảnh báo thì ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu
    canh gác, các quân cứ trông hiệu đó để tuân theo sự điều động. Hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14
    thước ta, có cầu treo thả ngang qua, bên ngoài đắp lũy đất, chu vi 794 trượng, vừa hiểm trở, vừa kiên
    cố tráng lệ."

    Dinh Tân xá ngày xưa dươc cho là phía Bắc Viện Bảo Tàng nhưng trong bản đồ này có lẽ là phía Bắc đền Hùng. Cầu Bà Nghè ngày xưa có lẽ phía Bắc viện bảo tàng ngày nay mà đầu cầu phía Bắc ở vào lối đầu đường Nguyễu Hữu Thọai bên phía chợ Thị Nghè ngày nay. Đường Nguyễn Văn Lạc, đường Nguyễu Hữu Thọai và Hùynh Mẫn Đạt có thể là vết tích của con đường cổ xưa từ cầu Bà Nghè đi Biên Hòa.

    R. Chantiers de Construction = Xưởng Chu sư. Không biết xưởng Chu sư là gì, nhưng F là xưởng đóng tàu thuyền cho HQ nhà Nguyễn.


    Có một chuyện bất cập trong tài liệu xưa giữa hai địa danh Tân Khai và Mỹ Hội.: thành Gia Định ba hồi được xây ở làng Tân Khai ba hồi được xây ở làng Mỹ Hội.

    Ông Petrus Ký có viết trung tâm thành phố Sài gòn có hai phần cao thấp khác nhau mà ranh là đường Lê Thánh Tốn ngày nay. Theo Pétrus Ký thì phần thấp là vùng gồm một phần của cái gọi là “thành thị nơi buôn bán cũ” của người An Nam, rải rác có nhà ở và phố buôn, bọc theo những con đường nhỏ, ít năng được tu bổ của bốn thôn, tính từ cửa rạch Thị Nghè là : Hoà Mỹ (khu Thủy xưởng). Tân Khai, Long Điền và Trung Hoà, ranh giới đụng sát đường Mac-mahon, còn phần cao của thành thị nói đây vẫn thuộc làng Mỹ Hội, tức vùng có xây thành Sài Gòn gọi “Citadelle de Saigon” (theo sách của Trương Vĩnh Ký). Ông Petrus Ký có nói đến ông xã trưởng "làng" Mỹ hội oai phong. Trong bài này Mỹ Hội được gọi là phường:

    "Đông đảo thay phường Mỹ Hội,
    Sum nghiêm bấy làng Tân Khai.
    Ngói liễn đuôi lân, phố thương khánh toà ngang toà dọc.
    Hiên sè cánh én, nhà quan dân hàng vắn hàng dài.
    Gái nha nhuốc tay vòng tay niểng,
    Trai xênh xang chơn hớn chơn hài…"
    (Cổ Gia Định vịnh, tương truyền do ông Ngô Nhơn Tịnh soạn, bản in Trương Vĩnh Ký, 1882, trang 5).

    Có lẽ vì hai làng cạnh nhau và thành Quy tuy xây chủ yếu ở làng Mỹ Hội nhưng có cả một phần đất làng Tân Khai nên có sự nhầm lẫn. Như vậy làng Tân Khai theo Petrus Ký thì phải ở vào khoảng đường Hai Bà Trưng gần bờ sông Sài gòn ngày nay chứ không phải ở khu vực chợ Sỏi.

    Về chợ Sỏi, Gia định thành thông chí có viết:
    CHỢ PHỐ LỊCH TÂN ([26][26]) (BẾN SẠN - BẾN SỎI)
    Ở bờ tây sông Bình Dương, phố ngói liền nhau, bến ấy toàn là sạn cát, là bến thường xuyên cho voi ngựa tắm. Đầu phía bắc bến ấy, năm Kỷ Dậu (1789), có bắc cái cầu lớn ngang qua sông thông với đường đến đồn Thảo Câu để khi hữu sự dễ bề ứng tiếp, kế đó sau khi nhung công đại định, vì nước xoi nên cầu bị hỏng, nay không sửa lại; đầu bến phía tây có sở đúc tiền. Năm Bính Thìn (1796), phụng sắc của Thế Tổ Cao hoàng đế đúc tiền Gia Hưng Thông bửu, [13a] xây sở đúc ở đây nên mới có tên gọi thế.
    Chợ phố Lịch Tân kéo dài từ cột cờ Thủ ngữ đến khu cầu Ông Lãnh. Đã hình thành hai trung tâm một ở đầu đường NKKN một ở khu chợ ông Lãnh ngày nay. Có tài liệu ghi: Chợ nằm sát vàm Bến Nghé, nay là đầu đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi người Pháp quy hoạch lại thành phố Sài Gòn thì chợ không còn nữa. Vì nơi bến sông có nhiều cát sỏi nên có tên trên. Cũng gọi là chợ Sỏi.

    Vè chèo ghe ở vùng này có câu:

    Kể từ chợ Sỏi trở vô
    Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
    Trong ‘Gia Định thất thủ vịnh’, tác giả có nhắc đến chợ này:
    Từ Bến Thành trải qua chợ Sỏi, loài tanh hôi lang lệ biết bao nhiêu;
    Nơi Chợ Lớn sắp tới cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.



    [​IMG]

    Bến sông nơi chợ Sỏi xưa

    Kênh Lấp và Kênh Cây Cám là hai con kênh đào dẫn nước từ sông Sài gòn vào đến chân thành Gia Định cấp nước cho hào giữa hai lớp thành (chắc thông qua hệ thống cống). Đất từ hai con kênh có lẽ dùng để đắp thành bên cạnh đá ong và các vật liệu khác mang từ cầu Sơn và Biên Hòa về. Ngày nay đất ở hai bên đường Lê Thánh Tôn cao thấp khác nhau tạo thành độ dốc rõ rệt.

    Bên trái kênh Lấp từ phía sông Sài gòn nhìn vào là một cánh đồng được bao bọc ba phía bởi nhà cửa làng Trung Hoà. Trên cánh đồng làng Trung Hoà còn có lò gạch chế tạo các lọai gạch dùng xây cất nhà cửa trong thành Gia Định. Nguyên liệu là đất sét lấy từ cánh đồng này. Có lẽ vì đất ở chổ này thấp nên mãi đến những năm 1850 phía sát bờ sông cũng chỉ có chợ Vải và quảng trường nơi tổ chức lễ hội múa rồng. Chả bù với bên kia kinh Lấp thì trù phú phố chợ Bến Thành.
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Sài Gòn trên bản đồ xưa

    Rạch Thị Đô hay Bà Đô hay rạch cầu Kho?

    Ngày nay ở khỏang đường Trần Đình Xu chạy từ vàm Bến Nghé về phía tây rồi đổi hướng 90 độ cặp kè phía đông đường cái quan đến tận đường Trường Tiền rồi bao bọc bốn phía xưởng đúc tiền. Ngày xưa chắc xưởng đúc tiền được canh phòng cẩn thận như một pháo đài. Trên bản đồ của cụ Lê thì thấy phần ngọn rạch này ghi là rạch Bà Đô nhưng chắc không đúng.

    Rạch mang tên Thị Đô/ Bà Đô có cầu Thị Đô theo cụ Sển thì ở vào khoảng chợ Nancy, ngày nay là chân cầu Nguyễn Văn Cừ. Ta thấy Thị đồng nghĩa với Bà trong ngôn ngữ Nam Bộ xưa cũng giống như trường hợp Thị Nghè/ Bà Nghè. Gọi Thị hay Bà đều được không bao hàm ý nghĩa trân trọng hay coi thường.

    Gần rạch Cầu Kho về phía tây trên bờ vàm Bến Nghé (nay ở vào khoảng Zen Plaza) có một căn cứ quân sự dạng kho lương thảo gọi là kho Gian Thảo.

    Trong Gia định thành thông chí, cụ Trịnh có chép:
    "Kho của bốn trấn ở tại nền cũ kho Gian thảo (Cầu Kho), cách phía nam thành 4 dặm rưỡi. Năm Mậu
    Thân (1788) đầu Trung hưng, mở rộng ra làm kho chung cho cả 4 trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh
    Thanh và Định Tường, để thu chứa thuế khóa, chi cấp lương bổng, còn trấn Hà Tiên trải qua loạn lạc
    hư hao, đang lo chiêu tập, còn được miễn thuế, còn 2 đạo Long Xuyên và Kiên Giang thì phụ nạp thuế
    vào kho của trấn Vĩnh Thanh. Mùa xuân năm Ất Sửu, Gia Long thứ 4 (1805), làm 6 dãy kho ngói [5b],
    ở giữa dựng đền Tư Thương để làm lễ cáo tạ việc trưng thâu, ở mặt trước có 4 cửa, hai bên phải trái
    và mặt sau đều có một cửa, ngoài trồng rào tre, trước mặt giáp sông xây bờ cừ bằng đá ong, hai bên
    phải trái và phía sau có sông nhỏ bao quanh dùng làm hào ao. Năm Gia Long thứ 10 (1811), định rằng
    sản vật biệt nạp và thuế khóa của dân thuộc thành nay ở trấn nào thì nộp ở trấn đó, cứ đến mùa xuân
    hàng năm, chiếu theo số thuyền Tào chính được lịnh kết tập để chở đi, quan viên văn võ bốn trấn thay
    nhau mỗi phiên hai viên chuyên chở về kinh, ngoài ra thì lấy những thuộc lại của các phòng bạ ngồi coi
    việc thâu nạp, còn thuyền bè và biền binh đi theo bảo vệ thì đến phiên của trấn nào thì biền binh trấn
    ấy bổ sung đi theo."

    [​IMG]

    [​IMG]

    Cầu Kho là cây cầu nằm trên đường Quai de Belgique (bến Chương Dương), bắc qua rạch Cầu Kho mà sau này lấp đi làm thành đường Phát Diệm (nay là đường Trần Đình Xu)


    [​IMG]


    [​IMG]

    Phần ngọn của rạch này còn có tên gọi khác là rạch Cầu quan

    [​IMG]
    Rạch Cầu Kho
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vương Hồng Sến
    Sài Gòn năm xưa

    Phần 3 - 1

    Share on facebook Share on twitter Share on email Share on print More Sharing Services 0



    Thật ra, khó mà tóm tắt trong vài câu ngắn gọn và đầy đủ về điển tích chung quanh thành và đất Sài Gòn. Muốn hiểu vấn đề này, phải chịu khó tìm dấu gót vua Gia Long trong những năm người bôn tẩu trong Nam, từ năm 1774, và theo dõi các vì vua chúa nhà Nguyễn đến năm khia chiến cùng binh Pháp là năm 1859.

    Phần này chia ra:

    1. Thời đại Nguyễn Ánh (từ năm 1774 đến năm 1820). (Nguyễn Phúc Ánh xưng chúa từ 1774-1802, tức là vị hoàng đế lấy đế hiệu Gia Long từ 1802-1820).


    (Xem một đoạn tả về vài nét ăn thói ở dưới triều hai vua Gia Long và Minh Mạng lúc quan Tả quân còn làm Tổng trấn tại Gia Định);

    2. Sau năm biến cố 1859;

    3. Tây đến Tây đi (dứt trước năm ký hiệp định Genève 1954).




    1. Sài Gòn dưới trào Nguyễn Ánh (1774-1820)

    Thử nhắc lại vài nét ăn thói ở thời Quan lớn Thượng

    Cõi Nam, đến năm 1772, Chúa Nguyễn đóng đô ở Huế. Lâm cảnh lưỡng đầu thọ địch, trên thì Chúa Trịnh Sâm sai tướng binh đánh xuống, dưới lại bị quân Tây Sơn nổi dậy, giết lên.

    Qua năm 1774, Nguyễn Duệ Tông cùng hai cháu là Mục Vương và Nguyễn Ánh phải rời Huế đào tỵ vào Đồng Nai.

    Từ năm 1774 đến năm 1789, ngót 15 năm, Chúa Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đánh đuổi, chạy gần khắp nơi, khi thì về nương náu vùng Sài Gòn, mà về như vậy ở cũng không được lâu, khi lê gót lưu vong khắp miền Cà Mau (lúc bấy giờ gọi là Đông Xuyên), khi lại chạy ẩn trốn ngoài hòn Phú Quốc (1782-1786). Mỗi năm cứ đến mùa gió thuận thì binh Tây Sơn trẩy thuyền vào Nam ruồng kiếm, quyết tận diệt dòng Nguyễn Phúc.

    Chúa Nguyễn Ánh ẩn núp miền Nam còn để lại nhiều cảm tình trong dân chúng. Cho đến ngày nay, người lục tỉnh còn cữ đặt tên con đứa đầu lòng luôn luôn là "thứ hai" rồi "thứ ba", "thứ tư", v.v… vì kiêng chữ "cả" riêng dành tưởng niệm ông Hoàng Cả là Đông cung Cảnh.

    Trong thú chơi ấm chén, di tích"Gia Long tẩu quốc" còn ghi lại ở vài bộ chén trà cổ, tôi biết có đến ba kiểu vẽ khác nhau. Cả ba kiểu đều vẽ hình một khách lữ hành đứng độc thân bờ sông bên kia, tựa hồ đang chờ một chiếc thuyền con lững lờ giữa vời ra rước khác nhau chăng là tại hai câu thi:

    Một bộ chén thì:

    "Bình kiều nhơn hoán độ,

    Chuyển lực tiểu thuyền lai".


    (Cầu vững, người kêu đò, ra sức, thuyền lại gần).

    Một bộ chén khác nữa thì:

    "Ngư gia độ hoàng gia,

    Âm tinh ngộ đế tinh".


    (Ông chài độ ông vua, sao âm gặp sao đế).

    Bộ thứ ba vẽ y hai bộ trước duy không có đề thi.

    Nghiệm ra bộ "Bình kiều…" có lẽ cổ hơn bộ "Ngư gia", nhưng cũng không có gì dám quả quyết. Trái lại bộ "Ngư gia…" nói sát đề hơn, tuy phải giọng cao kỳ đế vương khó chịu! Còn bộ ba, khỏi nói, khi hai bộ trước thông dụng rồi, ai ai đều thuộc điển tích nằm lòng, cắt nghĩa nữa là thừa nên chi thợ vẽ bỏ không đề thi, vô ích. Tôi gặp cả thảy có trên vài chục bộ rã rời, còn trơ trọi cái đĩa bàn lẻ loi, không thấy bộ nào men già dặn cổ kính, có lẽ toàn mới ký kiểu vào thời Tự Đức hoặc gần đây: một dĩa đẹp tuyệt, rạn da rắn, nét vẽ thần tình, thì hiện chủ nó, ông bác sĩ H. mua được tại Huế, đã mang luôn về Pháp, mất dạng biệt tích cho mỹ thuật xứ sở. Nay Viện Bảo Tàng Sài Gòn có đủ hai kiểu dĩa vẽ tích này, bày tại phòng triển lãm mỹ thuật Việt. Tháng Ba dương lịch 1960, tình cờ tôi mua được một chén tống và hai chén quân vẽ tích này (thiếu một chén quân và một dĩa bàn). Hiện dưới đáy đề “Tân Sửu” (1841). Theo tôi, đây là bộ chén cổ nhứt kiểu "Gia Long tẩu quốc" do sứ bộ năm đầu Thiệu Trị sang Tàu mang về.

    Năm 1789, Nguyễn Ánh cả thắng Tây Sơn, thâu được Sài Gòn và ra lịnh xây đắp thành trì thêm kiên cố. Tính ra thành này xây năm Canh Tuất (1790) đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835) thì bị hạ, vỏn vẹn dùng chỉ bốn mươi lăm năm, uổng quá! Về sau sử sách gọi đây là "Gia Định phế thành".

    Năm 1784, linh mục Bá Đa Lộc đưa Hoàng tử Cảnh sang Pháp quốc định cầu cứu viện, chuyển về năm 1789 (14-07-1789) Bá Đa Lộc dẫn đường cho một số võ quan và quân nhơn Pháp, nhơn tránh nạn Cách mạng đảo chánh đột khởi một ngày nào đó bên xứ họ, nên tình nguyện đàu quân dưới cờ Nguyễn Chúạ Thành Sài Gòn do Gia Long ra lịnh xây cất là do quan Oliver de Puymanuel (cũng có sách viết de Puymanel) - ông này Việt danh là "Ông Tín", xây theo kiểu Vauban: thành xây tám góc theo Bát Quái, chữ gọi "Quy Thành". Vách cao mười lăm thước mộc, tính ra lối bốn thước tây lẻ tám tấc (4m80), toàn bằng đá ong Biên Hoà kiểu "lục lăng”. Năm 1926, khi thợ đào móng cất nhà chọc trời góc đường Tự Do và Gia Long (building Catinat), thì gặp dưới đất cát lối năm thước sáu tấc tây bề sâu (5m60) một mớ đá ong lục lăng, định chắc đó là chưn cũ vách Thành Sài Gòn đời Gia Long xây năm 1790. (Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, N. Octobre - Decembre 1934, trương 48).

    Một di tích khác cũng của "Quy Thành" lại đào thấy năm 1935 tại nhà thương Đồn Đất, góc đường Lagrandière (Gia Long) và LaFont (Chu Mạnh Trinh). Theo ông Charles Lemire thì đường Lagrandière cũ là con đường đắp trên hào thành xưạ Hiện mớ đá lục lăng tìm được năm 1926 còn lưu trữ tại kho của Viện Bảo Tàng trong vườn Bách Thảo để làm dấu tích.

    Theo ông Trương Vĩnh Ký kể lại thì trung tâm thành 1790 ở đúng trung tâm nhà thờ lớn Đức Bà hiện nay, nơi đây thuở xưa có dựng một cây cờ lịnh to lớn. Theo ông L.Malleret đã nghiên cứu kỹ càng thì cờ lịnh này phải đặt lối trên con đường Hai Bà Trưng mới trúng chỗ, vì thuở đó đường này là trung tâm đạo chia thành Gia Long làm hai phía bằng nhau (B.S.ẸI năm 1935, trang 45). Cũng trong tập B.S.ẸI năm 1935 này, nơi trang 53, tác giả kể khi xưa lúc đào nền móng để xây nhà thờ Đức Bà có gặp một lớp tro, cây, gạch và đá cháy lụn vụn dày trên ba tấc tây (0m30), định chừng đó là di tích kho lương mễ của giặc KHÔI bị binh lính Minh Mạng đốt năm 1835 khi phá Quy Thành. Trong đống tro này, thợ đào đất đã gặp lềnh kềnh ngổn ngang nào xác tiền điếu, tiền kẽm bị lửa cháy ra khối kẹo quánh lại, nào đạn súng to bằng gang sắt, bằng đá khối, nào hài cốt trẻ con còn đựng trong hũ trong vò.

    Cứ theo tài liệu Trương Vĩnh Ký thì bốn vách Quy Thành, ám theo bốn hướng, có thể nói ở lọt vào:

    1. Đông: đường Lê Thánh Tôn (d Espagne cũ).

    2. Tây: đường Phan Đình Phùng (Richaud cũ).

    Cách nay gần bốn chục năm, thưở nhỏ, tôi nhớ lại góc Phan Đình Phùng chạy qua đại lộ Đinh Tiên Hoàng (Albert ler cũ), có một hào thành sâu hóm, trên khoảng Albert ler có đặt hai cây cầu bắc qua hai hào cạn (hào trong và hào ngoài), anh bạn nào xưa từng học trường Chasseloup lối 1920 - 1925, đi la mát nơi đây hồi đó ắt còn nhớ rõ; thêm thưở ấy có một chiếc xe hoả cà xịch cà xạc (le tortillard) chạy ngang đây phun khói phun lửa uốn mình vòng quanh bờ thành cũ coi như con rắn dài, oai nghi khá đại! Về sau hào thành bị lấp dần mất dạng, chỗ thì trồng dâu rồi biến thành Sở Canh Nông và Trại Gia đình Binh Sĩ Hồng Thập Tự, chỗ mới bồi đây dựng lên Viện Quốc Gia khảo về vi trùng và bịnh lý gia súc, chỗ cất dinh thự các nhân viên hãng Hàng Không. Một di tích hào thành khác nữa còn sót lại là lối đường Mạc Đĩnh Chi và Trần Cao Vân (Massiges và Larclauze cũ); ở góc nầy khoảng năm 1924-1925 là nơi đất trống, tụ tập đến nghe Nguyễn An Ninh diễn thuyết và dự tiệc đãi Bùi Quang Chiêu đi Tây trở về, góc nầy sầm uất, trước đây bốn mươi năm là chỗ đất thấp lài lài có cất ba căn nhà ngói trệt, thầy tôi là giáo sư Bernard Bourotte hằng nói thưở ông còn ở đây đêm đêm thường nghe nhiều tiếng hú lạ lùng, ai không tin thử hỏi anh bạn thân ái Đốc phủ P.V.V. đã từng ở đó lì gan chịu ốm rét, chịu bỏ một đứa con vì đau bệnh và từng rởn ốc những đêm mưa dai gió rít, nặng nề những oan hồn ma lạnh hào thành xưạ Cũng xóm nầy, thưở ấy có những trạm xe lửa đặt tên rất kêu: gare Larclause là ga Hàng sao; gare "la Citadelle" là ga Hào thành, nay tên "hào thành" đã nhường lại cho sân cỏ đá banh và dãy nhà nhiều từng mới cất.

    3. Bắc: đường Đinh Tiên Hoàng (Albert ler cũ) nối dài qua Cường Để (Luro cũ).

    4. Nam: đường Công Lý (Mac Mahon sau gọi là Général de Gaulle). Hiện nay, ở giữa khoảng nhà dòng (Presbytère) nguyên vị trí góc thành xưa, còn nhiều dấu vết Quy Thành, nhìn kỹ còn nhận được.

    Nhắc lại, con đường Hai Bà Trưng (đời Napoléon III tên Route Impériale, sau năm 1870 đổi lại Nationale, từ năm 1902 lấy tên Paul Blanchy, rồi đổi từ năm 1952 là Trưng Nữ Vương, đến năm 1955 mới thiệt thọ là đường Hai Bà Trưng) thì vào đời Đàng Cựu, vẫn cắt xẻ Quy Thành ra hai phần bằng nhau và ăn xuyên thấu bên này qua bên kia thành.

    Tám cửa Phan Yên Thành này còn ghi tên để lại rành rẽ. Đây là tài liệu theo ông Trương Vĩnh Ký:

    Đông môn, cũng gọi là Cửa Tiền gồm hai cửa:

    - Gia Định môn, day mặt ra hướng chợ cũ Sài Gòn;

    - Phan Yên môn, trên con đường bọc theo kinh Cây Cám (nay con kinh nầy đã bị lấp mất dạng, nhưng dọ biết trước kia nó ở gần Kho Đạn cũ).

    Tây môn,cũng gọi là Cửa Hậu, gồm hai cửa:

    - Vọng Khuyết môn (ở lối cầu Bông);

    - Cung Thìn môn (ở lối Cầu Kiệu) theo P.Ký)

    Bắc môn,cũng gọi làCửa Tả , gồm có:

    - Hoài Lai môn (trổ về rạch Thị Nghè);

    - Phục Viễn môn (cũng trổ về rạch Thị Nghè);

    Nam môn,cũng gọi là Cửa Hậu, gồm có:

    - Định Biên môn (lối ngã tư Công Lý và Hồng Thập Tự);

    - Tuyên Hoá môn (đường Công Lý, gần đường Fères Louis cũ, nay là đường Võ Tánh).

    Theo Đại Nam Nhứt Thống chí, thì "Quy Thành" có tên khác là Gia Định kinh (sau vì phá bỏ nên lại gọi "Gia Định phế thành") ở về địa phận làng Tân Khai, huyện Bình Dương và xây năm Canh Tuất (1790), vừa giống Bát Quái vừa giống hình hoa sen.

    Theo bộ này thì, tám cửa thành là:

    - Trấn Hanh (Chấn Hanh)

    Đông:

    - Cấn Chỉ

    - Tốn Thuận

    Tây:

    - Đoài Duyệt

    - Khôn Hậu

    Bắc:

    - Khảm Hiểm

    - Kiền Nguyên (Càn Nguyên)

    Nam

    - Ly Minh

    Trong thành đếm được ngang dọc tám con đường cái.

    Thành, chu vi đo được:

    - Từ Đông qua Tây: 130 trượng 2 xích

    - Từ Bắc qua Nam: cũng y như thế.

    Thành xây hướng về Đông Bắc và cao độ 1 trượng 3 xích có ba bậc.

    Bề ngang của chân tường dầy bảy trượng năm xích.

    Trong thành đặt nhà Thái miếu và kho về bên tả, bên hữu là xưởng trại, ở giữa là hành cung.

    Trại lính thì bố liệt chung quanh; trong để quân túc vệ ở, trước sân có trụ cờ ba tầng, cao 12 trượng 5 thước, trên có Vọng đẩu bát giác toạ (tháp canh) ở bên treo thang dây, trên đẩu có quân thủ vọng ngồi gác, có việc gì quan ngại thì ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu, quân đội tuân theo đó làm hiệu lệnh điều khiển.

    Hào thành sâu 14 xích; bề ngang 10 trượng 5 xích; chu vi 794 trượng. Có xây điếu kiều, ngoài kiều có đắp thạch trại.

    Năm Tân Dậu (1801), đại binh Nguyễn Ánh thâu được thành Phú Xuân (Huế). Vương sai tháo gỡ sườn nhah Thái miếu ở Sài Gòn chở ra Huế dựng lại. Từ đây thành Sài Gòn lọt xuống hàng ải trấn thủ miền Nam, không còn là kinh đô Nguyễn triều nữa. Nhưng đến năm Quý Dậu (1813), Gia Long sai Nguyễn Văn Nhân và Trịnh Hoài Đức lập hành cung tại Sài Gòn, có xây gác chuông và gác trống hai bên tả hữu, định chừng chưa bỏ ý trở vào Nam và vẫn có lòng thiết lập triều đình tạm trong này ngộ khi hữu sự.

    Sau toà hành cung, có dinh quan tướng suý.

    Tại cửa Ly Minh có xây gác cao đặt tên gác Thân Minh.

    Nơi ba cửa Kiền Nguyên, Ly Minh và Tốn Thuận có đặt trại lính lợp ngói vách sơn đỏ.

    Qua đời Minh Mạng, có lịnh đổi tám cửa thành:

    Trấn Hanh đổi làm Phục Viễn,

    Cấn Chỉ " Hoài Lai

    Tốn Thuận " Tĩnh Biên,

    Đoài Duyệt " Tuyên Hoá,

    Khôn Hậu " Củng Thần,

    Khảm Hiểm " Vọng Khuyết,

    Kiền Nguyên " Gia Định,

    Ly Minh " Phiên An.

    Trong quyển"Souvenirs historiques", ông Trương Vĩnh Ký theo lời truyền khẩu của các cụ già từng biết thành năm 1790, đã ghi tên các cửa thành, nhưng địa điểm lại ghi khác (có lẽ vì không dọ lại với địa đồ). Nay tôi xin tóm tắt các tài liệu làm một bảng như sau:

    Như đã thấy, trên bản phương hướng không y và tên cửa thành cũng có đổi thay, tôi xin giữ đúng để các nhà khảo cứu tự so sánh và tìm hiểu lấy.

    Đời quan Thượng (Lê Văn Duyệt) sai nối vách thành lên cao 1 thước 5 tấc dùng toàn đá ong kiên cố vì vậy sau này bị khép vào tội tự chuyên và có ngoại tâm.

    Năm 1832 (Minh Mạng thứ 13) vua sai đổi tên là Phiên An Thành (Phan Yên).

    Năm 1833, Lê Văn Khôi làm phản, chiếm thành được ba năm.

    Năm 1835 (Minh Mạng thứ 16), binh triều hạ thành Phiên An.

    (Tài liệu trong B.S.E.I. năm 1935, trương 56-57. Những chi tiết thuộc Đại Nam Nhứt Thống Chí là do bản dịch Pháp văn của ông Gaspardone).

    Theo tài liệu của tập san Hội Cổ Học Ấn Hoa (Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, năm 1942, tập số 2), thì vào năm 1819, có một khách Hoa Kỳ mỹ danh là John White, từng châu lưu khắp thiên hạ, năm ấy có để chân đến đất Sài Gòn nầy. Trong quyển sổ tay của J. White, thấy có ghi rằng:

    " Thành luỹ Sài Gòn xây bằng đá ong; ở kế bên một cơ thuỷ trại, gần đó là xóm nhà của dân cư gồm những lều lúp xúp thấp hẹp. Xóm buôn bán ở mém về hướng Đông. Khi đức Gia Long dẹp yên Tây Sơn thì dân chúng tựu về thành rất đông. Họ sửa sang nhà cửa lại mới, một phần lớn các gia đình nầy dồn về hướng Tây của thành luỹ nhà vua.


    John White có ghi thêm rằng: "Thời buổi ấy dọc hai bên bờ sông và bờ kinh rạch, có vài chỗ đã được cẩn đá hay xây gạch kỹ càng, chạy nối dài non ngàn thước tây. Về công lộ có đường đã lát đá nguyên miếng lớn dễ coi, nhưng phần nhiều vẫn quanh co uốn khúc và không được săn sóc tu bổ nên không được sạch.

    "Về nhơn số thì Sài Gòn phỏng độ lối:

    - Một trăm tám chục ngàn (180.000) người dân bổn thổ;

    - Và mười ngàn (10.000) người Trung Quốc. (Đây là nói về Quy Thành 1790 và vùng phụ cận dưới thời Gia Long). "

    Sau đó ít lâu, năm 1822, lại có một bác sĩ thú y quý danh là ông Finlayson, tháp tùng phái đoàn Crawfurd, cũng có đến viếng Sài Gòn. Finlayson viết: "Sài Gòn gồm hai thành phố, mỗi cái đều rộng lớn bằng hai nước Xiêm La. Ấy là:

    1) - Sài Gòn (xin hiểu đây tác giả muốn nói về Đề Ngạn (Thầy Ngồồn) hay Chợ Lớn);

    2) - Và Pingeh (có lẽ đây là Bến Nghé viết theo tác giả phát âm). (Tập san Cổ Học Ấn Hoa nói trên).

    Dựa theo Finlayson, chúng ta có thể hiểu được vì sao xưa ông Huỳnh Tịnh Của đã ghi trong bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của người rằng:

    "Sài Gòn là tên riêng đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé".(Đ. N. Q.A. T. V., trương 280). (Rõ ràng trước kia danh từ "Sài Gòn" dùng để gọi thành phố Chợ Lớn, về sau mới áp dụng qua đất Bến Nghé).

    Một đoạn khác, cũng trong tập san Cổ Học Ấn Hoa kể trên, John Crawfurd viết năm 1828: "Sài Gòn gồm có Pingeh là khu vực của chánh phủ, gồm luôn thành trì bao bọc chung quanh khu vực ấy với một xóm buôn bán của người Tàu.

    Tóm lại, nếu chiếu theo tài liệu của hai người thấy tận mắt thành phố Sài Gòn - Finlayson và Crawfurd - thì vào cuối thế kỷ 18 bước đầu thế kỷ 19, danh từ "Saigon" đích thị dùng để gọi Chợ Lớn hiện nay. Trong bộ "Gia Định thông chí " của Trịnh Hoài Đức, bản dịch Aubaret năm 1863 vẫn ghi: "Sài Gòn là danh từ để gọi thành phố của người Trung Quốc ăn ở, phát âm giọng Tàu là "Tai ngòn" hoặc "Tingan".

    Trước năm 1790, khi trong Nam chưa có thành trì kiên cố thì đại binh chúa Nguyễn "đồn" dinh trại nơi xóm Tân Mỹ, sau đi về "Chợ Điều Khiển" ở xóm Tân Thuận. Năm Gia Long thứ 10 (1811) lại đi về "Đồn Dinh" nền cũ. Gia Long năm thứ 16 (1817) lại dời về Mỹ Hoà, cũng gọi là Nghĩa Hoà. Qua Minh Mạng năm thứ 13 (1832) vua ra lịnh dạy dẹp dinh trại nầy.

    Vua Minh Mạng vì giận giặc Khôi chiếm cứ mấy năm nên dạy phá bỏ Quy Thành của Gia Long xây cất năm 1790. Qua năm thứ 17 (1836), Minh Mạng ra lệnh xây thành khác ở về hướng Đông Bắc Quy Thành.

    Chiếu theo bản dịch Gaspardone của bộ Gia Định thông chí Trịnh Hoài Đức thì thành 1836 có bốn cửa, chu vi 429 trượng, cao 10 trượng 3 thốn, hào thành sâu 7 xích, bề ngang hào 11 trượng 4 xích. Thành 1836 tại làng Nghĩa Hoà - Bình Dương.

    Chính thành 1836, đến năm 1859 thì bị binh Pháp lấy được; Pháp gọi thành 1836 là "Citadelle de Saigon". Đến năm 1859 thành bị hạ bình địa, tính ra xây năm 1836, hạ năm 1859, thành thử chỉ đúng vỏn vẹn hai mươi ba năm, còn vắn số thua Quy Thành của vua Gia Long nữa:

    - Quy Thành, xây năm 1790, phá năm 1835: 45 năm.

    - Thành Sài Gòn do Minh Mạng dạy xây năm 1836, bị phá năm 1859, dùng được 23 năm.

    Nghĩ ra Minh Mạng phòng ngừa hậu hoạn, sợ một trận giặc Khôi tái diễn, nên phá Quy Thành còn có chỗ chế. Tuy vậy, người còn biết mót vật liệu thành cũ dùng vào việc tân tạo thành mới 1836. Đến như binh Tây, đoạt được thành "Citadelle de Saigon" kiên cố, mới ràng ràng, nếu họ có chút óc "tồn cổ" và "thẩm mỹ", họ nên dành cho hậu thế biết lối kiến trúc xưa này mói phải. Té ra họ cũng sợ vu vơ, e cho một ngày kia người bản xứ sẽ dùng thành này chống lại nên họ sai châm lửa đốt tiêu. Ngày 8 tháng 3 dương lịch năm 1859, quân sĩ Pháp đặt 35 ổ cốt mìn phá tan tành Thành 1836 chỉ còn mấy đống gạch đá vụn; đối với lịch sử thật là một lỗi lầm không nhỏ.

    Quân đội Pháp làm thống kê để lại chỉ cho ta biết trận hoả thiêu này đã tiêu huỷ một cách đáng tiếc:

    - Hai mươi ngàn (20.000) cây súng tay đủ cỡ, và một số binh khí như gươm giáo v.v… nhiều không thể đếm.

    - Tám mươi lăm (85) thùng thuốc súng và vô số kể nào bì súng, hoả pháo, diêm sanh, tiêu thạch (salpêtre), chì v.v…

    - Một số lúa trữ trong kho đủ sức nuôi từ sáu đến tám ngàn (6.000 - 8.000) nhân khẩu trong vòng một năm.

    - Lại với một số tiền bản xứ (điếu và kẽm) để trong kho ước định và trị giá bằng 130.000 quan tiền lang sa thời đó.

    Về lúa đốt bỏ, có sách đã trị giá trên ba triệu quan Pháp (3.000.000 francs) và thuật lại rằng có nhóm Hoa kiều trong Chợ Lớn đưa đè nghị xin mua mà tướng Rigault de Genouilly không chấp nhận sợ rằng số lúa này không may lại lọt vào tay binh lính Việt thì khác nào giúp giáo cho giặc. Thà cho họ đốt bỏ số lúa mà bọn Hoa kiều trả giá đến tám triệu quan (8.000.000 francs). Ba năm sau, đến 1862, trận lửa đốt lúa còn ngún ngấm ngầm… Ông Charles Lemire thuật lại rằng: ngày 27 tháng Giêng năm 1862, ông có thí nghiệm, thử thọc cây gậy cầm tay vào đống tro tàn, khi rút gậy ra thì đã cháy thành than (Bulletin de la Société des Etudes Indochinnoises, năm 1935, trang 8). Charles Lemire thuật tiếp rằng về sau chính bên phe Pháp có người tỏ ra hối tiếc hành động huỷ hoại vô ích của Thuỷ sư Đề đốc Rigault de Genouilly nhưng đã muộn (B.S.E.I. 1935 kể trên, trang 96-97). Cho hay làm tướng đi chinh phục nước khác, có hạng còn chút lương tâm, hạng khác chỉ biết giết chóc, tàn phá, sát hại.

    Sau khi triệt hạ thành "Citadelle de Saigon", binh lính Pháp dùng sắt và vôi gạch xây thành lính "Sơn đá” của họ, tục danh “Thành 11è R.I.C" (Caserne du Onzième Régiment de l’Infanterie Coloniale - Trại Bộ Binh Thuộc địa đội thứ 11; trại nầy nằm gần đúng vị trí Citadelle Việt xưa).

    Theo sử sách để lại, thành "citadelle" Việt bắt đầu từ khu Lê Thánh Tôn chạy đến mé sông là dứt, gồm có khu Dưỡng Đường Đồn Đất (Hôpital Grall trước gọi Hôpital Militaire), nay là Bệnh Viện Nhi Đồng I, thành cũ 11 è R.I.C. và một khu vực thương mãi phồn thịnh ở gần thành xưa. Nếu xem địa đồ, ta có thể đóng khung "citadelle" trong bốn con đường hiện tại:

    - Đường Phan Đình Phùng (Richaud cũ) - nay là Nguyễn Đình Chiểu.

    - Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (Rousseau cũ)

    - Đường Mạc Đĩnh Chi (Massiges cũ)

    - Đường Nguyễn Du (Mossard cũ)

    Năm 1859 binh Pháp đổ bộ, do ngả Luro (Cường Để, nay là Đinh Tiên Hoàng) kéo lên công hãm thành Việt. Ngày nay, đi trên khúc đường nầy, trông thấy cửa thành trước mắt, độ chừng xưa cũng day mặt hướng nầy. Dọc theo vách rào các dinh thự của võ quan cao cấp bộ Thuỷ quân Việt (đường Cường Để) thấy cẩn nhiều đá to và gạch thức cỡ lớn, trong vườn, còn nhiều gốc cổ thụ cao ngất trời, hỏi ra di tích cố đô còn lại bao nhiêu đó. Lúc đổ bộ, tàu chiến Pháp thả neo tại công trường Mê Linh. Trào Pháp đặt tên là Place Rigault de Ginouilly, có dựng tượng đồng to lớn để ghi chiến công Thuỷ sư Đề đốc này. Cũng vì thế, chỗ này xưa gọi "Một Hình". Tương truyền những đêm mưa bão có bóng lão hình đồng hiện hình gọi đò qua sông. Trời đánh nhiều lần, lão không hầy hấn, tưởng vậy mà "bền gan cùng tuế nguyệt", không ngờ kịp năm đảo chính 1945-1946, thanh niên lôi lão, hạ bệ lão xuống, nấu chảy ra bì súng bắn trả hận năm xưa.

    TheoGia Định thông chí thì năm 1777 (Đinh Dậu) Gia Long thâu phục được Sài Gòn, năm 1779 (Kỷ Hợi) sai tu định địa đồ lập địa giới dinh Phiên Trấn. Năm 1790 (Canh Tuất) đắp thành bát quái trên gò cao thôn Tân Khai, tổng Bình Dương gọi đó là Gia Định kinh. Niên hiệu Gia Long nguyên niên (1802), cải tên Phủ Gia Định làm Trấn Gia Định, đặt Trấn quan thống trị. Qua năm thứ 7, cải làm Gia Định Thành do một Phó Tổng Trấn thống trị, gọi trấn Phiên An gồm luôn Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên lại kiêm lãnh luôn trấn Bình Thuận.

    Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), đổi Gia Định Thành làm Phiên An Tỉnh Thành, đặt chức An Biên Tổng đốc thống trị hai tỉnh Phiên An và Biên Hoà. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), mang danh Nam Kỳ Lục Tỉnh. Năm thứ 17 (1836), xây thành mới đổi danh là Gia Định Tỉnh. Đổi An Biên Tổng đốc làm Định Biên Tổng đốc.

    Địa thế Sài Gòn

    Nhìn trên địa đồ, ta thấy rõ địa thế Sài Gòn khá gọi là hiểm trở:

    a) Thuở xưa khi chiến tranh còn "hiền", đánh bộ thì lính đi chân không, binh khí thì dùng dao mác, mã tấu, chà gạc, đánh thuỷ thì trông cậy nơi thuyền buồm, cung tên… Súng đồng nếu có thì bắn không xa, đạn đá đạn sắt làm sợ nhiều hơn giết chết. Vì thế, vị trí Sài Gòn đúng là hiểm yếu, kiên cố nhờ ở giữa trung tâm các ngọn "sông sâu nước chảy" và giữa các đường lộ “bủa giăng như lưới nhện”.

    b) Nhờ ở cách biển tám mươi chín cây số ngàn (89km) nếu tàu chiến tàu ô ở ngoài khơi kéo vào thì Sài Gòn có đủ thời gian thủ thế và nghênh chiến.

    c) Nhờ đóng ở trên gò trên nổng, cao hơn mặt biển trên mười thước có hơn, Sài Gòn có sẵn hai hào thiên nhiên che chở là sông Thị Nghè và sông Bến Nghé. Tuy vậy, năm 1859 rạch Thị Nghè không đủ sức ngăn tàu sắt của Đề đốc Rigault de Ginouilly và đã để cho tàu Pháp xáp cận thành…; nhưng bình nhật nếu có phòng bị thả chông, nhận chìm xác ghe xác thuyền chở đá chẹn ở lòng sông cho thật nhiều, thì đủ ngăn sức giặc đường thuỷ một thời gian.

    d) Sài Gòn có sự ủng hộ của nhiều đồn bao bọc xung quanh. Các đồn này nối liền nhau bởi các sông rạch bủa tứ giăng rất là thuận tiện và hiệu nghiệm. Vì bài biên khảo này có tính cách "thường đàm", nên không sao chép tên các đồn, đã được ghi rõ trong quyểnĐại Nam nhất thống chí (Lục tỉnh Nam Việt), bản dịch Nguyễn Tạo, do bộ Quốc gia Giáo dục, Nha Văn hoá xuất bản năm 1959.

    e) Thành Sài Gòn được tiện lợi là kề vựa lúa miền Nam, tức Chợ Lớn. Nếu chẳng may bị địch vây khổn thì ít lo nạn đói. Vả lại, Sài Gòn có chứa rất nhiều nước lọc thiên nhiên dưới đất sâu, hễ đào giếng là có nước ăn nước dùng rất tốt, không sợ nạn thiếu nước.

    Từ Chợ Lớn xuống xa một đỗi thì có chợ Mỹ Tho là giáp mối các con đường thuỷ vận về miền Nam Lục Tỉnh, và lên thẳng Nam Vang (Phnôm-Pênh). (Ngày nào sự chuyên chở còn "ăn chịu" nhờ đường nước, thì chợ Mỹ Tho sung túc phồn thịnh ngày ấy. Ngày nay khách bộ hành và hàng hoá xoay qua dùng nhiều xe hơi chạy ét xăng hơn dùng tàu bè, cho nên chợ Mỹ đã "xuống chưn". Câu thi xưa"Trên Sài Gòn, dưới Mỹ Tho, đâu đâu thiên hạ cũng nhường cho,…" nay không còn đúng sự thật! Trái lại, các chợ búa không nằm trên đường nước nhưng vẫn nằm trên đường lộ cái, như chợ Cai Lậy, bến phà Mỹ Thuận, chợ Cần Thơ, chợ Sốc Trăng, vẫn tấn phát như thường, nhờ xe qua lại hằng bữa. Riêng bến phà Mỹ Thuận, ngày nào cầu bê tông cốt sắt xây cất xong, xe khỏi xuống bắc, thì chợ nhóm nơi đây sẽ mất phồn thịnh. Luật tiến hoá là vậy: cái vui mừng của khách bộ hành được đi mau về lẹ bao nhiêu, lại là nỗi lo buồn của người buôn thúng bán mẹt đò Mỹ Thuận bấy nhiêu vậy!) Con đường thiết lộ của Pháp đặt trước kia, định nối liền mũi Cà Mau lên Nam Vang xuyên ngang Sài Gòn, vừa từ Sài Gòn chạy tới Mỹ Tho kế bị tháo gỡ: nhựa bánh cao su xe ô tô đã chiến thắng con đường sắt và chiếc hoả xa.

    Tóm lại, ngày trước chiến tranh, chiến cụ còn theo lề lối xưa, nên vị trí và địa thế Sài Gòn thật là đắc thế. Ngày nay, tuy chiến lược đã đến thời kỳ nguyên tử, nhưng nhờ đứng giữa ổ nhện đường lộ tứ giăng, thêm có phi cảng rộng lớn, nên sự bành trướng và phồn thịnh của Sài Gòn càng tăng thêm mãi mãi chớ không bớt.

    Thử nhắc lại vài nét ăn thói ở thời Quan Lớn Thượng

    Quan Tả quân Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định Thành trước sau hai kỳ:

    - Lần đầu, từ năm 1813 đến năm 1816, rồi được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi Thái Tử.

    - Lần sau, từ năm 1820 đến năm quy thần, tức năm 1832. Dinh của người ở sau toà Vọng Cung (Hành Cung). Theo ông Malleret thì Hành Cung ở ném về phía trên con đường Paul Blanchy, giáp với đại lộ Norodom, lối nhà Câu Lạc Bộ Võ Quan Pháp (Bộ Tư Pháp hiện nay) lấn qua một phần đất sở Bưu Điện với một phần sở Địa Chánh (B.S.E. I., Oct/ Dẹc 1935, tr. 46).

    Tả quân bao giờ cũng nêu cao chủ quyền nhà vua. Mỗi năm đáo lệ, có hai lễ lớn: lễ triều kiến Vua vào đầu xuân nhựt và lễ hành binh. Tả quân giữ đúng lệ và rất nghiêm về mặt nghi tiết. Ngoài việc đúng năm vua Miên phải nạp lễ cống không được chậm trễ, bổn phận vua Miên phải sang chúc thọ vua Việt tại thành Phan An mỗi dịp Nguyên đán. Cứ đêm ba mươi Tết, vua Miên phải có mặt tại thành để kịp sáng hôm sau đúng canh năm thì cùng Lê Tổng trấn hành lễ chúc thọ tại Vọng cung. Ông Trương Vĩnh Ký kể lại trong ức lục "Souvenirs historiques" rằng có một năm, vua Miên xuống dự lễ, thay vì ở trong thành Phan An, lại vào Chợ Lớn nghỉ đêm, bởi rứa, hôm sau lúc trống canh điểm năm dùi Tả quân và tiểu triều hành lễ tại Vọng cung thì vắng mặt vua Miên. Tả quân nhứt định không chờ, đến khi lễ tất, vua Miên mới đem lễ vật tiến vào, Tả quân chiếu điển lệ, phạt vạ vua Miên phải nộp đủ ba ngàn lượng bạc mới cho về nước.

    Ngoài ra, cứ ngày mồng sáu tháng Giêng, thì Tả quân làm lễ "xuất binh"(muốn gọi "ra binh", "hành binh" đều được). Dịp này, người ta ra lệnh đòi hêt các cơ binh đóng ở “Lục Tỉnh” về để Người (Tả quân) duyệt nơi Đồng Tập trận cũng gọi “Mô Súng” sau này mới gọi là Mã Nguỵ.

    Lễ này diễn ra để thị oai với các nước lân bang (Cao Miên, Xiêm La…) vừa để võ an dân tâm, vì thuở ấy dân tình chất phác vẫn tin tưởng quỷ thần và hiểu rằng đàu năm có diễn oai lực binh quân làm vậy thì trong xứ suốt năm dân sẽ được bình an vô bịnh, bởi tà ma quỷ mỵ đều khiếp sợ oai võ của Tả quân.

    Ngày mồng sáu tháng Giêng, Tả quân tắm gội trai kỳ, ngồi kiệu đến Hành cung làm lễ chúc thọ vua rồi phát ba tiếng súng tiền hô hậu ủng, lên kiệu thẳng Đồng Tập trận, khi binh gia rần rộ kéo ra do ngả Gia Định môn, khi khác lại do cửa Phan Yên, từ đó xuống ngả Chợ Vải (tên xưa của xóm Chợ cũ Sài Gòn ngày nay) để trở lại đường Cửa Hữu (Nam Kỳ Khởi Nghĩa), và trực chỉ lên Mô Súng. Lễ diễn binh hoàn thành, ông Lớn Thượng (tên kính trọng của dân Nam tặng Đức Tả quân) đe liệu một vòng chung quanh Quy Thành, ghé viếng cơ xưởng Thuỷ quân rồi trở về dinh là giải tán. Trong khi ra quân, thì trong thành dân cư vọng bàn hương án đốt pháo, thắp hương, cốt mượn lễ ra quân để bày lễ tống quái trót thể. Thuở ấy, quân lịnh của Tả quân rất nghiêm mỗi khi hành quân thì những người có tang khó, nhứt là người đàn bà bụng mang dạ chửa, đều phải lánh xa. Đi trước đám quân sĩ, có lịnh nạt đường và quân cầm đồ nghi trượng: hai thanh mác trường, hai ngọn cờ tiết mao, hai trái dùi đồng, hai phủ việt (búa hoặc rìu), hai cái biển, một khắc chữ "Tĩnh Túc" (im lặng cung kính), một đề “Hồi Tỵ” (tránh đi) tức để cho thần dân biết trước mà đề phòng tránh mặt và sửa soạn chuẩn bị lễ rước cho oai nghi. (Những binh khí cổ nầy, gọi là "đồ lỗ bộ", hiện có chưng bày trong Viện Bảo Tàng).

    Một kỳ khác nữa, nhơn lễ "Trùng ngũ" (mồng 5 tháng 5), Tả quân xuất thành để hành lễ "tịch điền” (hạ tịch) bên Thị Nghè. Tịch điền ở vào vùng này đã mất dấu vì gần đây dân cư đã xây cất nhà cửa lên trên. (Những chuyện về Tả quân còn nhiều nhưng trong tập này khảo về Sài Gòn, xin miễn kể).

    Chúa Nguyễn Ánh đóng đô tại Sài Gòn trước sau hai mươi năm (1779-1801), và mỗi năm, cứ mùa gió thuận thì kéo binh từ Gia Định ra nghinh địch cùng Tây Sơn vùng Bình Định Quy Nhơn. Năm 1801, chúa Nguyễn thống nhất Bắc Nam, tức vị xưng đế hiệu Gia Long, từ khi định đo tại Huế, mới thôi ở Sài Gòn và thành này từ đó xuống địa vị một trấn biên thành.
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Sài Gòn trên bản đồ xưa



    1815 Plan de Gia-định et des environs, dressé par Trần-văn-Học, le 4e jour de la 12e lune de la 14e année de Gia-Long

    Bản đồ Sài Gòn - Gia Định do Trần Văn Học vẽ năm 1815 - Publisher: Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises (BSEI)

    Sách "La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l'histoire de Saïgon et Cholon" par Midan, Saigon, 1934, có ghi như sau:
    "Le plan de Giadinh et des environs, dressé par Trần-Văn-Học, le 14è jour de la 12è lune de la 14è année de Gia-Long, 1815."
    "Une copie de ce plan qui doit se trouver dans les Archives du Gouvernement Général, à Hanoi, nous a été communiquée au Service de la Voirie à Cholon."
    ______________
    Wikipedia có ghi như sau:
    Vào ngày 23 tháng 4 năm 1998 tại thành phố Hồ Chí Minh, liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật thành phố đã tổ chức buổi báo cáo về "Vai trò khoa học và kỹ thuật của Trần Văn Học trong lịch sử 300 năm thành phố".
    Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu đã giới thiệu và minh họa các công trình về bản đồ của ông Học. Cuối buổi, giáo sư Trần Văn Giàu đã tổng kết và đánh giá cao vai trò của Trần Văn Học trong tiến trình xây dựng các công trình ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là ở Sài Gòn cách đây mấy thế kỷ.
    Sách Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (tập I) ghi nhận:
    Ông được đánh giá là người rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ kỹ thuật. Đem so sánh bản đồ Sài Gòn 1799 của J-M d'Ayot với bản đồ Gia Định 1815 của Trần Văn Học thì, về kỹ thuật đồ bản như trắc địa hay tỉ lệ, bản đồ của ông Học chính xác hơn nhiều...

    [​IMG]

    Bản đồ này giống như bản đồ trên nhưng phần chữ Hán Nôm đã được dịch ra từ Hán Việt

    [​IMG]

    Bản đồ này trong sách "Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (tập I)" đã được chú thích rất nhiều địa danh dựa trên sự hiểu biết của người chú thích. Ai là người chú thích thì không rõ.

    [​IMG]
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Sài Gòn trên bản đồ xưa



    [​IMG]

    Thành Phiên An vẽ lại trên bản đồ Sài Gòn - bản vẽ của Đại Thạch Lê Ước.
    Đại Thạch Lê Ước là ông nào Va tui không rõ nhưng chắc là giáo sư sử học nào đó có bài viết trên tạp chí Sử Địa năm 1968
    Thực ra bản đồ này ông Lê Ước chép lại bản đồ của cụ Trần Văn Học có chua thêm chú thích một số tên đường xá thời VNCH theo nghiên cứu của riêng ông.

    Va tui giới thiệu lên đây để quý vị tham khảo thêm vì ông Lê Ước có một vài nhận định khác với những gì ngày nay ta biết. Như rạch cầu sấu nằm ở gần đường Hai Bà Trưng chứ không phải ở đại lộ Hàm Nghi...


    [​IMG]
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Sài Gòn trong bản đồ xưa

    [​IMG]

    1859 Saigon et ses environs - Saigon and its environs

    Bản đồ Saigon một năm sau ngày Pháp chiếm SG - Plan extrait du B.S.E.I., 1939, Tome XIX, n° 3-4. - Dessiné par De Larclause, 1er mars 1859. Vu par le Chef de Bataillon commandant le Génie

Chia sẻ trang này