1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sấm sét Thái Bình Dương

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 20/04/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. mitanomini

    mitanomini Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2006
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0
    ??Mong ptlinh đều đặn post cuốn sách này nhé. Lần đầu tiên được biết là có tới 80.000 lính Anh đầu hàng ở Singapore. Liệu có bị đánh nhầm từ 8.000 thành 80.000 ko nhỉ?
  2. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Không nhầm được. Ku Linh nó scan từ bản hard copy của NXB Sông Kiên mà.
    Nhắc Linh: scan cho anh cái bài trong 3 cuốn kia mà có liên quan tới từ Quan Lang/Mị Nương đi.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Phía bên kia chiến tuyến, say sưa chiến thắng vì đã chiếm đóng pháo đài được phòng vệ vững chắc nhất của Đồng minh một cách dễ dàng không ngờ, bộ tư lệnh Nhật không hề tưởng tượng rằng sẽ gặp một sự kháng cự mãnh liệt tại Java. Sau các cuộc oanh tạc mà chiến hạm Đồng minh phải chịu đựng trên biển cả cũng như trong hải cảng, giới chỉ huy Nhật đã ước tính rằng chúng đã bị đánh chìm hết, hoặc là bị hư hỏng nặng nề hết. Các phi công tấn công chúng đã trở về ca khúc khải hoàn. Cứ như lời họ thì vùng biển Java đã trở thành một ?ocái hồ của Nhật Bản?.
    Kinh nghiệm quá mới mẻ. Chưa ai biết rằng các phi công oanh tạc đã ước lượng quá đáng hiệu quả của bom đến mức nào, trong cảnh lửa đạn mù mịt và khói do các vụ nổ gây ra và rằng thật khó cho họ biết bao nhiêu khi phân biệt giữa một trái bom ?otrúng đích? luôn luôn tàn phá kinh khủng và một quả bom ?orơi gần? mục tiêu chỉ tạo ra vài hư hỏng nhẹ. Bằng cách giảm xuống một nửa thành tích của các phi công, Đô đốc Kondo tiến tới kết luận là chỉ còn lại hai tuần dương hạm và vài khu trục hạm của Đồng minh là còn sử dụng được. Do đó ông quyết định chiếm các đảo cuối cùng của hàng rào chặn Mã Lai mà không chờ đợi thêm và tung các đoàn công voa của ông về phía Java mà không cần một sự che chở nào khác hơn một nhóm tuần dương hạm như ông đã làm tại Célèbes, tại Bornéo và tai Timor.
    Mối đe doạ của tàu ngầm có vẻ đáng sợ nhất đối với ông, vì thế một hải đội khu trục hạm được tăng cường cho đoàn công voa phía đông, đoàn tàu phải di chuyển một hải trình dài ngoài biển khơi. Ngoài ra, ông hoàn toàn tin tưởng vào sự khéo léo của các hạm trưởng tuần dương hạm, vốn là những người rất thuần thục trong kỹ thuật dạ chiến, và các quân sĩ canh phòng trên cầu tàu, vốn được lựa chọn rất kỹ trong số những binh sĩ sống trong bóng tối và rình bóng đêm tinh nhuệ không khác gì mèo.
    Để ngăn không cho tăng viện từ Colombo hay từ Úc đến, ông nhổ neo cùng hai thiết giáp hạm và bốn hàng không mẫu hạm của Nagumo đến dàn phía nam hàng rào chặn Mã Lai trong thời gian tiến hành cuộc đổ bộ.
    Áp dụng các chỉ thị của ông, 56 tàu chở quân đổ bộ thuộc đoàn công voa phía tây được các tuần dương hạm của Phó Đô đốc Ozawa che chở, ngày 25 tập họp trong eo biển Banka, từ đó, chúng chỉ có một lóng tay phải vượt qua là đến bờ biển Batavia kế cận và eo biển Sonde. 41 tàu đổ bộ thuộc đoàn công voa phía đông, một số từ Balikpapan đến, một số từ Bandjermasin đến, nhổ neo sáng sớm ngày 26 tháng 2 để đến các điểm tập hợp lựa chọn để đổ bộ chung quanh Sourabaya. Lực lượng hộ vệ đoàn công voa này mạnh hơn cả, gồm có hai tuần dương hạm nặng của Phó Đô đốc Takeo Takagi-chiếc Nashi và chiếc Haguro-hai đoà khu trục hạm mỗi đoàn do một tuần dương hạm nhẹ hướng dẫn và ba phi đội thuỷ phi cơ để đảm bảo che chở chống tàu ngầm cho đoàn công voa.
    Ý tưởng điều quân của Phó Đô đốc Takagi rất đơn giản: giữ cho tiểu hạm đôi của ông cách đoàn tàu đổ bộ hai dặm về phía trước, bằng cách sử dụng các khu trục hạm sao cho có thể ngăn chặn hải lực địch trong trường hợp lực lượng này có thể toan tính vượt thoát ra khỏi hải cảng.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 25 tháng 2, một số các phóng ngư lôi hạm đổ bộ lên đảo Bawean, nằm cách Sourabaya 100 cây số về phía bắc, một toán cảm tử thủy quân lục chiến để thiết lập tại đấy một đài phát tin.
    Nhờ một phi cơ thám thính báo cho biết cuộc điều quân này, Đô đốc Helfrich ra lệnh cho Doorman tập họp tất cả các tuần dương hạm và lập một hàng rào phía Bắc đảo Madoera kéo dài về phía Đông cho đến bờ phía Bắc của Java nơi che chở hải cảng Sourabaya. Vì không thấy một bóng chiến hạm nào của địch, toàn thể hạm đội trở về Sourabaya để tiếp tế nhiên liệu.
    Tối ngày 26, Helfrich họp Đô đốc Doorman và tất cả các hạm trưởng để ra chỉ thị liên quan đến trận chiến quyết định không thể nào không xảy ra vào hôm sau. Một vài sự sắp xếp đơn giản được quyết định để tránh việc trao đổi tín hiệu càng nhiều càng hay. Các khu trục hạm thì vẫn được tập họp theo nhóm quốc gia, trong khi đó các tuần dương hạm thì xếp nối nhau theo hàng dọc trong thứ tự De Ruyter (soái hạm), Exeter, Houston, Perth và Java. Vì không được huấn luyện kỹ để bay đêm, người ta đã quyết định để các phi cơ thám thính của các tuần dương hạm lại đất liền để tránh các đám cháy vì xăng trong khi đang chiến đấu.
    Helfrich chấm dứt hội nghị bằng cách tuyên bố rằng các thuỷ thủ đoàn Hà Lan nhất quyết chiến thắng hay là chết, và cám ơn các hạm trưởng Anh, Úc và Mỹ đã nhận lời theo hạm đội Hà Lan trong sứ mạng chủ yếu này. Ông nói thêm rằng giá trị mà họ đã chứng tỏ trong mấy tuần qua là một đảm bảo chắc chắn cho quyết tâm mà họ sẽ mang theo khi chiến đấu, rồi ông cáo biệt họ mà không hề giấu vẻ xúc động. Đô đốc Doorman và các hạm trưởng còn ở lại với nhau một lát trước khi chia tay. Họ sẽ không bao giờ còn gặp lại nhau, vì tất cả, ngoại trừ một người, (Hạm trưởng chiếc Perth được quân Nhật vớt lên khi tàu chìm. Chính nhờ các bằng cớ mà ông đã viết khi bị bắt, diễn tiến trận đánh mới được dựng lại) đều bị mất tích trong cuộc tàn sát rùng rợn.
    Ngay khi trở về tàu De Ruyter, Doorman ra lệnh nhổ neo. Một cuộc dò xét mới được tổ chức tận ngoài khơi đảo Badoera ngay trong đêm, nhưng không gặp gì. Sáng ngày 27 tháng hai, Đô đốc quyết định gửi về Sourabaya để bổ túc việc tiếp tế các chiến hạm hầu có thể ra khơi lại khi đêm về.
    Đoạn đường về không xảy ra gì khác hơn là bị vài phi cơ Nhật từ Bali bay đến thả bom, nhưng đến 14 giờ 30, trong lúc hạm đội sắp vào hải cảng, một điện văn tối khẩn được gửi đến cho Soái hạm De Ruyter: một đoàn công voa địch được hộ tống rất mạnh mẽ đã bị phát giác từ hơn một giờ cách đảo Bawean hai mươi hải lý về phía Tây. Sau cùng Doorman định được vị trí của địch. Ông ra lệnh cho hạm đội quay mũi để đến đối diện với địch quân.
    Kể từ lúc các oanh tạc cơ Nhật thấy hạm đội Đồng minh, các thuỷ phi cơ thám thính Nhật không ngừng bí mật bay theo dõi trên không. Nhờ vậy Đô đốc Takagi mau lẹ đoán trước một cuộc điều động các tuần dương hạm của Doorman. Ông lập tức di chuyển hạm đội để cắt đường về của nó tại phía Nam đảo Bawean và ra lệnh cho các tàu đổ bộ chạy trốn về phía Tây.
    Không biết gì về vị trí của hạm đội địch, Doorman tiếp tục chạy nhanh để kịp tấn công các đoàn công voa lúc chập tối. Trong hai giờ tiếp theo đó, các hạm trưởng Đồng minh hối tiếc một cách cay đắng sự vắng mặt của các phi cơ quan sát. Để báo tin hạm đội địch đến gần, Đô đốc chỉ có chiếc khu trục hạm Anh Electra vốn được phái đi đầu hạm đội để làm hướng đạo. Trên các cầu tàu ai nấy lo âu rình xem hiệu lệnh của chiếc tàu nhỏ đang mở hết tốc độ chạy trong tầm trông thấy của các bạn đằng sau.
    Đến 16 giờ, một chiếc đèn rọi bật cháy trên chiếc Electra. Đó là dấu hiệu cho biết ?oThấy tàu địch?? 16 giờ 10, sau khi giảm tốc độ, Electra báo hiệu ?ohai tuần dương hạm, 12 phóng ngư lôi phía bắc-đông bắc?. Vài phút sau hai tuần dương hạm nặng Exter và Houston khai hoả khi còn cách địch 27.000 thước. Các tuần dương hạm nhẹ chỉ có pháo đội 150 ly không thể bắn xa như thế, chạy theo mục tiêu mà không thể bắn được. Lập tức chung quanh chúng những cột nước khổng lồ tung lên cao trong lúc đó các khẩu đại bác điên cuồng của chúng lại không trả đũa được. Đấy là các đại bác 203 ly của chiếc Nashi và chiếc Haguro đang khạc đạn theo một nhịp độ ngày càng mau.
    May thay, với khoảng cách như thế, tác xạ của Nhật cũng bị phân tán xa mục tiêu và cuộc chiến đấu tay dôi này kéo dài trong suốt 20 phút dưới hình thức một cuộc trao đổi tác xạ tầm xa không kết quả gì cả.
    Hai đối thủ không ai tìm cách tiến gần đối phương-Doorman, bởi vì ông muốn tránh cho đoàn tuần dương hạm của mình bị hoả lực địch vây kín, Takagi, bởi vì không muốn rơi vào một hạm đội đông hơn và không bao giờ tính chuyện để rơi vào tầm hoả lực của tuần dương hạm nhẹ của đối phương. Ông còn nổi khùng vì lúc đó đã cho lệnh tấn công bằng thuỷ lôi, với khoảng cách như thế-không có cơ may thành công nào.
    Một trong các khu trục hạm Nhật bị trúng một trái phá 150 ly của chiếc Perth và tất cả hạm đội Nhật đều quay mũi sau một màn khói. Thành quả nấy kích thích lòng can đảm của binh sĩ Đồng minh và Doorman nghiêng đường tiến của hạm đội để tiến gần các tuần dương hạm địch.
    Nhưng đối phương của ông, với sự chính xác đáng ngạc nhiên của hệ thống tác xạ trên các tuần dương hạm nhẹ, điều động để giữ khoảng cách và chờ cho các khu trục hạm đến đủ gần địch để ra lệnh một đợt tấn công mới bằng thuỷ lôi.
    Không chờ đợi kết quả, hạm đội Nhật trở hướng mạnh để chặn hạm đội Đồng minh theo hình chữ T và khai hoả tất cả các đại bác 203 ly.
    Đến 17 giờ, một tạc đạn trúng vào một nồi xúp de của chiếc Exeter, bắt nó phải tránh qua một bên để cho chiếc Houston chạy theo sau khỏi bị chạm vào.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chính đây là một đòn tiền định. Chiến hạm này có cả một huyền thoại. Chính nó, hai năm trước đã bắt buộc chiếc thiết giáp hạm bỏ túi của Đức, chiếc Graal Spee phải tự đâm vào mình tại Montevideo. Sau thử thách kinh khủng này, hình như không còn gì trên thế giới có thể ngăn chặn nó được. Khi chiếc Houston thấy Exeter nghiêng về bên trái, nó theo ngay chẳng ngần ngại gì. Nhưng một khối hơi nước khổng lồ đã che ngay tầm quan sát của nó và hiểu ngay là đã phạm phải sai lầm to lớn. Than ôi, quá chậm! Hai chiếc Perth và Java theo sau phải giảm tốc độ đột ngột. Để cho sự rủi ro thêm toàn vẹn, một thuỷ lôi phóng tử xa đến thế lại trúng một khu trục hạm Hà Lan, chiếc Kortenaer khiến nó chìm lỉm trong một đám lửa vĩ đại. Tất cả hạm đội của Doorman tán loạn ngay giữa khói lửa trong lúc các tuần dương hạm của ông đến gần địch và sẵn sàng khai hoả.
    Một quang cảnh hỗn loạn xảy ra sau đó giữa các khu trục hạm đôi bên trong các cuộc bắn trực xạ sát bên nhau mỗi khi gặp khoảng trời sáng bất ngờ. Các chiến hạm lớn không thấy tàu của Đô đốc đâu trong khi soái hạm vẫn lặp lại không ngừng bằng quang hiệu mệnh lệnh trứ danh ?oAll ship, follow me!? (Tất cả, hãy theo tôi?).
    Bên phía Nhật, tình thế cũng rối loạn nhưng ít trầm trọng hơn. Takagi biết rằng ông chỉ bị mất có các khu trục hạm và các phi cơ quan sát đã cho ông biết quang cảnh hỗn loạn của đối phương. Ông cho hạm đội lùi xa về phía bắc để ?osuy nghĩ tiếp?.
    Khí gió mùa thổi đến làm bầu trời sáng dần, sau cùng Doorman cũng tập họp được các chiến hạm thuộc quyền, và vì địch quân đã biến mất, ông lại dẫn chúng tiến lên phía bắc để cô bọc vòng các tuần dương hạm Nhật và sau đó đợi đoàn tàu đổ bộ mà giờ đây theo ông đã đến rất gần?
    Không bao giờ người ta biết được tại sao ông bỏ ngang dự tính này sau vài giờ vì ông không trở về để giải thích, nhưng ta chỉ biết rằng đột nhiên ông trở hướng xuống về Nam. Tiếng đại bác đã im bặt. Trên chiến trường hoang vắng, chỉ có vài thuỷ thủ tuyệt vọng trên mặt biển ngập đầy dầu mazut. Chiếc chiến hạm dũng cảm Exeter vốn đã sống một cuộc đời đầy thử thách nay còn chạy chầm chậm về Sourabaya, có một khu trục hạm đi kèm. Các tuần dương hạm sắp thành đội hình hàng dọc chạy theo soái hạm De Ruyter.
    Đêm đến, gió mùa kéo mây che phủ bầu trời. Không khí ẩm ướt len lỏi khắp nơi khiến cho không khí nóng bức bên trong tàu trở thành khó thở.
    Ai nấy đều đặt ra câu hỏi: Người ta sẽ làm gì?... ?oNgười ta?, đấy là Đô đốc, vị chủ nhân của định mệnh. Trên các chiến hạm Hà Lan thì không có vấn đề gì. Nhưng trên các chiến hạm Úc, Mỹ, Anh?
    Mặt trăng mọc lúc 21 giờ. Hạm đội luôn luôn tiến về phía Nam. Liệu có phải trở về hải cảng tay không để rồi bị phi cơ địch ngày mai bắn như vịt không?
    Đến 21 giờ, Doorman kiểm điểm lại tổn thất và thấy rằng dầu sao chúng cũng tương đối nhỏ và tính rằng chắc ông còn cơ may gặp đoàn tàu đổ bộ địch. Mặc dầu đang ở cách Sourabaya không đến một giờ, ông ra lệnh cho hạm đội quay về phía tây, nhưng để cho bốn khu trục hạm Mỹ vào hải cảng vì đã phóng hết thuỷ lôi rồi.
    Đêm tối tuyệt đối yên tĩnh. Các thuỷ thủ đoàn được nghỉ ngơi đã lấy lại sức. Quyết định của Đô đốc tiếp tục ra đi tấn công được đón tiếp với sự vui mừng trên khắp chiến hạm.
    Nửa giờ nữa trôi qua mà không có biến cố nào. Thế rồi sự im lặng đè nặng của đêm tối vùng nhiệt đối bị xé toang dữ dội bởi một tiếng nổ. Một ngọn lửa bừng bừng loé ra bên phải đoàn tàu, đấy là chiếc khu trục hạm Anh Jupiter vừa bị nổ tung.
    Mặc dầu Doorman không hiểu tí gì về nguyên nhân của thảm cảnh này, ông nghiêng đội hình về phía bắc sợ gặp phải một hàng rào tàu ngầm và cuộc hải hành tiếp tục với sự đều đặn đáng lo ngại.
    Đến 22 giờ, các binh sĩ canh đêm của chiếc De Ruyter báo hiệu thấy vô số mảnh tàu vỡ nổi trên mặt biển. Người ta phân biệt được ngay đó là các bè cấp cứu chở ngập xác người và những cái đầu đen đủi. Những gì còn lại gớm ghiếc của số người bị đắm tàu.
    Mặc dầu có lệnh khắt khe do chính ông ban hành là không được cứu ai cả trong khi chiến đấu. Doorman cho tách rời chiếc khu trục hạm cuối cùng của hạm đội để đến giúp đỡ những người bị nạn. Con người sắt đá ấy, người không ngần ngại đưa cả hạm đội đến chỗ hy sinh, đột nhiên nhường bước cho một hành động đầy tình thương. Có lẽ lúc đó ông đã mất hết tất cả hy vọng chiến thắng và muốn trình bày với Thượng đế một bằng chứng về lòng nhân đạo sâu xa của ông.
    Không đầy một giờ sau, hai bóng tàu hiện ra dưới ánh trăng. Tất cả các tuần dương hạm Đồng minh đều khai hoả một lượt. Cùng lúc đó mặt biển phía trước được hoả châu chiếu sáng rực. Đấy là ánh sáng phát ra từ các phao cháy sáng do phi cơ thám thính Nhật rải dọc theo đường bay để giúp cho chiến hạm Nhật tác xạ dễ dàng.
    Kể từ lúc đó, các biến cố đến dồn dập theo nhịp độ điên cuồng. Nhiều cột nước vọt lên cao chung quanh đoàn tàu Đồng minh và chiếc De Ruyter bị trúng đạn. Chiếc Houston và Perth lạng ra một bên để tránh đụng chạm. Ngay cả trước khi chúng kịp chạy ngang hàng với chiếc Soái hạm, hai tiếng nổ dữ dội chế ngự tất cả tiếng súng chát chúa. Cách nhau vài giây, chiếc De Ruyter đi đầu và chiếc Java đi sau chúng nổ tung chiếu sáng cả bầu trời. Cả hai chiến hạm lần lượt bị trúng thủy lôi do kẻ thù vô hình phóng đến.
    Hai tuần dương hạm còn sống sót gần như hết đạn và nhiên liệu. Thuỷ thủ đoàn kiệt sức. Hạm trưởng chiếc Perth, một người Úc lực lưỡng, do thâm niên đã trở thành tư lệnh hạm đội, ra lệnh cho chiếc Houston theo mình và quay lui hết tốc độ về Batavia. Như nhờ phép lạ, hai chiến hạm thoát ra khỏi vùng pháo cháy sáng nơi hai xác tàu Hà Lan đang hấp hối. Trận chiến danh dự đã kết thúc.
    Cuộc gặp gỡ lãng mạn đã chấm dứt như thế, một cuộc gặp gỡ diễn tiến mà không có một oanh tác cơ nào, không có một phi cơ phóng thuỷ lôi nào can thiệp vào để làm cho quang cảnh hỗn độn thêm. Do bởi sự tình cờ của hoàn cảnh, hai đối thủ đều theo đúng các nghi thức xưa cũ do chính người Nhật thiết lập 40 năm về trước trong trận hải chiến lừng danh tại eo Tsoushima.
    Kinh nghiệm đắt giá xảy ra quá bất ngờ cũng như quá xưa cũ này sẽ không còn tái diễn. Mất tích cùng với chiếc soái hạm, Karel Doorman đã lật qua một trang lịch sử.
    Ngày 27 tháng 2 năm 1942 tiền định ấy lại được đánh dấu bằng một tai biến khác. Chiếc hàng không mẫu hạm Langley và chiếc tàu hàng Seawitch mà Wavell cho trở hướng chạy về Tjilatjap chạy về gần đến đích thì gặp đoàn oanh tạc cơ của Đô đốc Nagumo đang canh giữ ngoài khơi. Sàn tàu chiếc Langley-một tàu chở hàng cũ được biến cải từ thời chiến tranh 1914-phủ đầy khu trục cơ P-40. Nó không có máy phóng phi cơ và không một phi cơ nào có thể cất cánh. Bị đánh ngất ngư bởi hai thuỷ lôi, nó chìm xuống biển mang theo số hàng quí báu. Riêng chiếc Seawitch mà các oanh tạc cơ Nhật để cho chạy trốn thì cũng chẳng còn gì để chờ đợi. Ngay khi vừa đến Tjilatjap, một đợt oanh tạc mới cực kỳ dữ dội đã nhấn chìm nó xuống đáy trước khi các phi cơ đóng thùng được bốc dỡ lên bờ.
    Thống đốc Van Starkenborgh nay không còn phi cơ lẫn chiến hạm nữa-đến lượt chiếc Houston và chiếc Perth bị gục ngã trước hạm đội của Ozawa trong khi chạy trốn về eo biển Sonde (Chiếc Tromp bị nằm ụ từ 20 tháng 2 tại Sourabaya đã chạy trốn được qua ngõ eo biển Bali dưới một lớp nguỵ trạng thần tình bằng cây leo vĩ đại. Bốn khu trục hạm Mỹ sống sót cũng làm được như thế)-chỉ có thể chống lại quân xâm lăng chiến thắng bằng một cuộc kháng cự tượng trưng. Cuộc kháng chiến này rồi cũng chấm dứt ngày 8 tháng 3 năm 1942 bằng cuộc đầu hàng vô điều kiện.
    Làm chủ được hàng rào ngăn chặn Mã Lai, quân Nhật đã đạt tất cả các mục tiêu. Trận chiến phi thường này đã kết thúc sau khi chỉ kéo dài chín mươi ngày.
  6. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Rất xin lỗi bác ptlinh, nhưng mà chưa hình dung được...tàu chiến ''tự đâm vào mình'' bằng cách nào nhỉ?
  7. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Có thể hiểu là chiếc này (A) bắt Graal Spee phải tự đâm vào nó (vào A). Kiểu đường cùng thì lao vào cùng chết chùm
  8. kemetmoi

    kemetmoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/09/2003
    Bài viết:
    648
    Đã được thích:
    393
    Em nghĩ là tự đánh đắm thì đúng hơn. Bác xem lại topic "Tầu GRAFSPEE và cuộc đối đầu trên biển đầu tiên giữa Anh và Đức trong WWII " bên Mô hình VN xem.
    Được kemetmoi sửa chữa / chuyển vào 08:42 ngày 24/06/2007
  9. ltgbau

    ltgbau Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/05/2006
    Bài viết:
    2.127
    Đã được thích:
    93
    bác chủ ơi
    chưa có fần tiếp theo à
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Corregidor
    Corregidor là một đảo nhỏ có hình dáng con nòng nọc hoàn toàn nằm trong con lạch dẫn vào vịnh Manille. Thật ra không hoàn toàn nằm ngay giữa, mà gần bên bờ phía bắc con lạch hơn: mũi Mariveles cực điểm của bán đảo Bataan. Đầu con nòng nọc là một chỏm núi đá cao 200 thước và đường kính 1800 thước. quân Mỹ xây dựng ở đấy bốn pháo đài chế ngự biển khơi và đồn trú tại đấy. Đuôi con nòng nọc trải dài về phía đông và chìm xuống vịnh Maniile. Nó cũng là một dãy núi đá hiểm trở, ít ra cũng là phần nằm về phía tây. Cổ con nòng nọc là một cánh đồng nhỏ phân cách hai núi đá bên này và bên kia. Phía đuôi có nhiều triền đồi cực kỳ cheo leo đến nỗi quân đội phải cho đào đường hầm dài 200 thước vốn sẽ trở nên vô cùng quí giá trong các cuộc oanh tạc sau này.
    Khi rời bỏ Manille, Mac Arthur đến đặt văn phòng trong các kiến trúc của quân trú phòng tại cực điểm của chiếc đuôi, kế bên một phi trường nhỏ. Ông chọn một biệt thự thật xinh cất trên một chỏm đá dưới các pháo đài để làm nơi cư ngụ. Một cánh nhà ngang được dùng làm bản doanh, cánh kia dành cho người vợ trẻ và đứa con trai bốn tuổi của ông.
    Chính từ địa điểm quan sát từ trên cao này mà ông tướng đã điều khiển đạo quân Phi Luật Tân rút lui về bán đảo Bataan bằng cách quan sát bằng ống nhòm.
    Từ ngày 29 tháng 2 năm 1941, cuộc oanh tạc của Nhật diễn ra hàng ngày. Địch quân xâm nhập vào khắp chung quanh vịnh Manille. Thực phẩm hiếm hoi, cuộc sống trên đống đá cô quanh ngày càng khắc nghiệt. May thay, quân Nhật tại Phi Luật Tân, vốn không được đông lắm, bằng lòng với cuộc bao vây quân Mỹ trên bán đảo và chờ đợi sự đói khát và mệt mỏi bắt họ đầu hàng.
    Mặt trận 22 cây số phân cách hai bên đối địch được phòng thủ tương đối dễ dàng và không có gì xứng đáng với sự hiện diện của một Trung tướng cả. Nhưng Mac Arthur lại rất thăm thiết với đạo quân Phi Luật Tân và quyết tâm tôn trọng đến cùng những cam kết của ông với Tổng thống Quezon, Quốc trưởng Phi Luật Tân. Ông đã từn tuyên bố urbi ot orbi-và vẫn còn tuyên bố khi có cơ hội-rằng không thể nào Hoa Kỳ, trong khi hàng ngày gửi sang Âu châu hàng trăm chuyến tàu vận tải và cả một làn sóng phi cơ, lại không có phương tiện đến tiếp cứu các chiến sĩ tạ Bataan mà, trong chiều hướng diễn tiến của sự kiện, vốn là những chiến sĩ duy nhất giữ vững được một mặt trận kháng địch.
    Lợi dụng những đường dây liên lạc cuối cùng còn lại, ông nhắc lại với Tổng thống Roosevelt rằng đây là những cam kết danh dự được đưa ra nhân danh cá nhân ông và rằng về phần ông, không bao giờ ông bỏ mặc Phi Luật Tân lại cho số phận hẩm hiu của xứ này.
    Sự xác định lập trường có tính cách vừa chính trị vừa chiến lược này đã vượt quá xa chức chưởng của một Trung tướng cho dầu là một Trung tướng uy danh lừng lẫy đi chăng nữa. Nó gây bối rối rất nhiều cho Roosevelt khiến ông ta không biết làm sao thoát ngõ bí. Đô đốc King cực chẳng đã phải bằng lòng gửi nhiều tàu ngầm và các chiến hạm nhỏ, hai ba lần tránh được các chiến hạm tuần tiễu Nhật, đến tiếp tế cho quân trú phòng. Các khinh tốc đỉnh của Asiatic Fleet còn tại chỗ, thực hiện được vài chuyến đi về giữa Corregidor và các đảo lân cận chưa bị Nhật chiếm đóng. Nhưng đấy chỉ vừa đủ để có những gì giúp binh sĩ khỏi chết đói.
    Vì mọi ưu đều hướng cả về Âu châu, tướng Marshall chống đối việc gửi quân và cả việc tăng cường vài phi cơ cho lực lượng không quân vẫn còn rải rác tại các phi trường trên các đảo.
    Do đó chính trong trạng thái phẫn nộ chất chứa, mà Mac Arthur theo dõi bằng máy thu thanh, qua các làn sóng quấy phá cực mạnh của Nhật, diễn tiến các cuộc hành quân và những nỗ lực vô vọng của Wavell để bảo vệ hàng rào ngăn chặn Mã Lai.
    Tân Gia Ba thất thủ làm ông phẫn uất. Trong các cuộc hội nghị tham mưu, Tân Gia Ba được coi là một ?othành trì không thể bị chiếm được. Mới hai tháng trước đây, Đô đốc Philips của Anh còn lặp lại với ông như thế. Là người đương đầu với quân Nhật tại Bataan với một nhóm người nhỏ bé nhưng quyết tâm, ông chấp nhận được rằng một đạo quân 85.000 người được một không lực mạnh mẽ yểm trợ lại có thể bị đánh đưa đến hoàn cảnh phải đầu hàng mà không chiến đấu gì cả. Bị cô lập hoá quá lâu trong lãnh địa của mình, ông đã tiêm nhiễm tinh thần của dân sống ở đảo luôn luôn có khuynh hướng xem quê hương của mình như trung tâm điểm trái đất.

Chia sẻ trang này