1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sân chơi dịch thuật - Tuần báo The Economist -Phần thưởng tuần này: Effective Writing Skills for Pub

Chủ đề trong 'Anh (English Club)' bởi americanaccent, 29/07/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. quynhyh

    quynhyh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Birth certificates
    Giấy khai sinh
    Misconceived
    Quan điểm sai lầm
    Theo The Economist ngày 2 tháng 8 năm 2007
    Mẹ ơi, hãy nói cho con biết nguồn gốc của con?
    AS ANYONE who adopts a child can tell you, the word ?oparent? is as much a job description as a biological fact. Still, many adopted children are curious about their origins. In recent years testimony from some who only discovered the truth of their adoption as adults, and resented having been lied to all their lives, has led to a change in attitudes. Almost all parents who adopt now tell their children about it right from the start, and once those children reach 18 they can, if they wish, view their original birth records.
    Bất kì ai nhận con nuôi có thể nói với bạn rằng hai chữ ?ocha mẹ? là một sự miêu tả nỗi khổ đau cũng nhiều như là sự thật về mặt sinh học. Những đứa trẻ được nhận nuôi vẫn rất tò mò về nguồn gốc của chúng.Trong những năm gần đây thi theo những bắng chứng từ những người đã khám phá ra sự thực về việc nhận được nhận làm con nuôi của họ khi họ trường thành và họ đã phẫn nộ khi mà bị lừa dối trong suốt thời gian vừa qua, điều này đã dẫn đến sự thay đổi trong thái độ của họ. Hầu hết tất cả các bậc cha mẹ khi nhận con nuôi bây giờ thì thường nói cho chúng sự thực ngay từ đầu và một khi mà chúng đủ 18 tuổi nếu chúng muốn thì có thể xem những gì còn để lại về nguồn gốc nơi sinh của chúng.
    Should parents who conceive using donated eggs or sperm be equally open about their children''s genetic origins? A committee of MPs and peers, set up in May to examine planned changes to the law governing fertility treatment, thinks so. On August 1st it recommended that, if a child is conceived using donated eggs or sperm, that fact should be stated on the child''s birth certificate.
    Liệu các bậc cha mẹ những người mà có ý định nhận trứng hoặc là tinh trùng có nên được quyền tìm hiểu về nguồn gốc gen của những đứa trẻ của họ? Hội đồng thành viên chính phủ và những người trong thượng viện, được thành lập trong tháng 5 tiến hành kiểm tra những về những thay đổi đã được lên kế hoạch trong luật điều chỉnh về điều trị khả năng sinh sản cũng nghĩ như vậy. Vào mùng một tháng tám người ta cho rằng nếu một đứa trẻ được thụ tinh mà được cho trứng hoặc là tinh trùng thì sự thật về đứa trẻ nên được ghi lại trong giấy khai sinh của đứa trẻ.
    In 2005 it became illegal to donate eggs or sperm anonymously, and a register of donors was set up for children to consult once they turn 18. It seems unlikely that it will be as effective as the adoption register, because covering up the initial truth is easier. Anecdotal evidence from fertility clinics suggests that many would-be parents have reacted to the bar on anonymity by deciding never to tell their offspring that a donor was involved in their conception. So the committee thinks that the fact of donation should be stated on the birth certificate.
    Trong năm 2005 thì việc cho trứng hoặc là tinh trùng dấu tên là vi phạm pháp luật và người ta tiến hành ghi lại danh sách những người hiến tặng để cho những đứa trẻ có thể tìm đến khi mà chúng đủ 18 tuổi. Dường như công việc này không hiệu quả bằng cuốn sổ ghi nhận con nuôi bởi vì việc xem xét bao quát sự thật ngay từ đầu thì dễ dàng hơn. Bằng chứng không chính thức cho thấy ở các bệnh viện mà tiến hành thụ tinh nhân tạo khuyên các những người sắp làm cha làm mẹ để đối phó với rào cản là việc giấu tên thì không bao giờ nên kể cho những đứa trẻ đó biết về những người mà đã cho trứng hoặc là tinh trùng để tạo ra chúng.
    To some, what is at issue is the same as in adoption: a fundamental right to know one''s genetic origins. To others, giving sperm or eggs is more analogous to giving blood than to bearing and handing over a baby. Many feel that a mere donor has no meaningful connection with the child who results.
    Đối với một vài người, thì cái gì thì tương đương với việc nhận con nuôi đang là vấn đề tranh cãi: quyền cơ bản được biết nguồn gốc của một ai đó. Đối với những người khác, việc cho tinh trùng hoặc là trứng thì tương tự với việc cho máu hơn là việc sinh ra và nuôi nấng đứa trẻ. Nhiều người cho rằng một người chỉ cho như vậy thì không có mối liên kết nào có ý nghĩa cả với đứa trẻ mà họ đã góp phần tạo ra.
    Now that anonymity is no longer possible, there has been a huge decline in the number willing to donate. So more patients travel for treatment to countries where anonymity is still legal. If this new proposal is implemented, it may give such ?ofertility tourism? a further boost. It may even compound the problem that it purports to solve and encourage parents to reveal still less. But then, when mothers do what some have always done with regard to paternity?"conceal the truth when registering the birth?"it will be a sin of commission
    Bây giờ khi mà việc cho trứng hoặc là tinh trùng dấu tên là điều không thể thì số lượng người tình nguyện cho đã suy giảm mạnh. Vì vậy số những người cha người mẹ đã tìm đến các quốc gia điều trị mà cho phép dấu tên khi cho ngày càng nhiều hơn. Nếu như chính sách này được thực thi thì nó sẽ khiến? việc tiến hành thụ tinh ở nước ngoài? sẽ tăng mạnh. Điều này thậm chí có thể làm phực tạp vấn đề là làm thế nào để có thế giải quyết và khuyến khích cha mẹ đưa ra các thông tin vẫn còn rất hạn chế. Nhưng sau đó, khi mà những người mẹ đã làm cái việc mà một vài người đã luôn làm có liên quan đến những người làm cha-che đậy sự thật khi mà đăng kí khai sinh- điều đó sẽ là tội ác xấu xa
  2. _l_

    _l_ Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/05/2006
    Bài viết:
    1.498
    Đã được thích:
    0
    em xin càm ơn nhưfng lơ?i nhẶn xèt chĂn thà?nh cù?a bàc cinderella
    cĂng nhẶn là? em dìch chưa thoàt ỳ 'ược, phà?i thư?a nhẶn 'Ăy chình là? 'iĂ?m yẮu nhẮt cù?a em. cẮ mà? màfi chf?ng sư?a 'ược bàc à.. khĂ? quà.
    chf́c phà?ikiẮm 1 cĂ gia sư vĂ? kè?m mới 'ược
  3. DekAiSoEm

    DekAiSoEm Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2007
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    @ lovelycinderella
    TA còi mà comment thế này thì hết chỗ bới lông tìm vết của super còi này rùi.
    @ _l_
    Lần này đành làm bà giá khó tính comment theo phong cách mẹ chồng xoi nàng dâu. Ngoài các chỗ đã nói ở trên, super còi tôi còn bổ sung các chỗ sau
    1/ Cross-border shopping - Mua sắm ở bên kia biên giới
    ----> Đi sắm đồ biên mậu. (Đọc cho nó có vẻ ký sự Tiền Phong Online)
    2/ The strong Canadian dollar means bargain prices south of the border - Đồng đô la tăng giá đồng nghĩa với một mức giá béo bở ở phía nam biên giới ---> Đồng đô la Canada tăng giá đồng nghĩa với cơ hội mua hàng giá rẻ tại nước Mỹ láng giềng.

    - Bargain price - Mức giá béo bở : Tiếng việt chỗ này không sát ý. Dưới góc độ người mua, bargain price thực chất là giá rẻ hoặc giá hời.
    - South of border - phía nam biên giới : ở đây ám chỉ phần lãnh thổ nước Mỹ giáp Canada vì phía nam qua biên giới Canada là đất Mỹ (trừ bang Alaska hẻo lánh nằm ở biên giới phía Tây).
    3/ The loonie?"a nickname derived from the northern bird depicted on the one-dollar coin?"has appreciated in value against the greenback by more than 10% since January. This is due to a combination of .......
    - ---> Đồng đô la Canada (Loonie- là tên thông tục của đồng đô la Canada, bắt nguồn từ tên một loài chim phương bắc đúc trên đồng bạc mệnh giá 1 đô) ?" đã tăng giá hơn 10 % so với đồng đô Mỹ (green back) kể từ tháng giêng do tác động tổng hợp của các yếu tố .... .
    4/ In May, when the Canadian dollar was trading at $0.92 : Tháng năm, khi đồng dollar Canada giao thương vào khoảng 0,92$.
    Câu này dịch nghe quá trúc trắc. Diễn đạt đơn giản hóa nó đi, chẳng hạn
    --- > Hồi tháng năm, khi một dollar Canada đổi được 0,92 đô Mỹ.

    5/ a lawyer in Toronto who wanted a top-end Mercedes S63 AMG was quoted a price of C$171,000 by Mercedes Canada
    --- > Một luật sư tại Toronto cần mua một chiếc Mercedes S63 AMG hạng sang đã nhận được báo giá của hãng Mercedes Canada là C$171,000 .
    6/ In once-booming shopping towns on the Canadian side, meanwhile, shops are closing
    --> Trong khi đó, tại các thị trấn mua sắm vốn một thời sầm uất ở Canada, các cửa hiệu đều đã đóng cửa.
    7/ Sales tax : thuế mua hàng.
    Sorry, không có loại thuế mua hàng (tức là thuế trực thu vào người mua) nhá. Chỉ có thuế bán hàng hoặc thuế doanh thu thôi (tức là dạng trực thu người bán và gián thu người mua).
    8/ Quebeckers, the biggest wine drinkers in Canada : Quebeckers, những kẻ nghiền rượu bậc nhất tại Canađa .
    (Nói xấu dân Quebec thế này nó kiện chết, hehe. Họ uống nhiều chứ chưa chắc đã nghiền (nát) rượu đâu)
    ----> Người Quebec, nổi tiếng là dân có tửu lượng ?okhủng? nhất Canada.
    9/ The biggest sellers are the wine-boxes that he sells for $16?"half the price in Canada : Những thứ bán lớn nhất mà anh ta bán được là các chai rượu có giá 16$- Mức giá chỉ bằng 1 nửa tại Canada
    ( Chỗ này diễn đạt tiếng Việt có vẻ hơi rườm rà.com )
    --- > Hàng bán chạy nhất là loại rượu chai giá $16, chỉ bằng một nửa so với ở Canada.
  4. chienback

    chienback Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2007
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    To Qtrang 86: Cam on ay nhe!
  5. DekAiSoEm

    DekAiSoEm Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2007
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    @ quynhyh
    Cách xử lý văn bản nguồn của bạn nhìn chung là được, tuy một vài chỗ khó dịch, chắc là bí quá dịch word-by-word khiến người đọc "luôn luôn cố xem mà lâu lâu chẳng hiểu". Chẳng hạn như chỗ này
    AS ANYONE who adopts a child can tell you, the word ?oparent? is as much a job description as a biological fact.
    Nếu chỉ nhìn vào yếu tố ngôn ngữ thôi thì quả là khó dịch trôi chảy chỗ này. Người Việt ta có câu cha sinh không bằng mẹ dưỡng, nếu áp khái niệm đó vào đây, có thể hiểu cái biological fact gần với công sinh thành, còn job description na ná như công dưỡng dục. Như vậy, có thể hiểu ý tác giả là khi đã nhận con nuôi, thì "cha mẹ" ít mang hàm ý là người sinh thành mà nặng về nghĩa người nuôi dạy nhiều hơn.   
    Ngoài ra, không biết các bạn khác thế nào nhưng cá nhân tôi, có cảm giác cách hành văn tiếng Việt của bạn vài chỗ còn khá trúc trắc, chưa thực sự trôi chảy. Hiện tượng lạm phát "Rằng thì là mà" không đúng chỗ còn xuất hiện trong khá nhiều câu dịch. Đặc biệt chưa thoát khỏi lệ thuộc vào cấu trúc ngôn ngữ văn bản nguồn, nên bản dịch đọc có cứ Tây tây thế nào ý, chưa hoàn toàn là Việt . Có lẽ do phong cách dịch just-in-time chăng ?
     Trên cơ sở bài dịch của bạn, tớ rephrase lại một phiên bản khác như thế này, với một vài chỗ chỉnh sửa nho nhỏ để dễ đọc hơn. Copyright by quynhyh. 
     
    Birth certificates
     
    Giấy khai sinh
     
    Misconceived
     
    Quan điểm sai lầm
     
    Theo The Economist ngày 2 tháng 8 năm 2007
     
    Mẹ ơi, hãy nói cho con biết nguồn gốc của con?
     
    AS ANYONE who adopts a child can tell you, the word ?oparent? is as much a job description as a biological fact. Still, many adopted children are curious about their origins. In recent years testimony from some who only discovered the truth of their adoption as adults, and resented having been lied to all their lives, has led to a change in attitudes. Almost all parents who adopt now tell their children about it right from the start, and once those children reach 18 they can, if they wish, view their original birth records.
     
    Với những ai đã từng nhận con nuôi, hai chữ ?ocha mẹ? thường mang ý nghĩa công dưỡng dục hơn là đấng sinh thành. Dầu vậy, những đứa con nuôi vẫn rất tò mò về nguồn gốc của chúng. Một vài năm trở lại đây, trước những phản ứng của những đứa trẻ vô tình phát hiện thân phận con nuôi của mình lúc trưởng thành, bất bình vì bị dối lừa trong suốt thời niên thiếu, thì nhận thức xã hội đã có sự thay đổi. Hầu hết các bậc cha mẹ nhận con nuối đều cho trẻ biết nguồn gốc xuất thân ngay từ đầu, và khi đủ 18 tuổi, chúng có thể xem hồ sơ chứng sinh gốc của mình nếu muốn.
      
    Should parents who conceive using donated eggs or sperm be equally open about their children''''s genetic origins? A committee of MPs and peers, set up in May to examine planned changes to the law governing fertility treatment, thinks so. On August 1st it recommended that, if a child is conceived using donated eggs or sperm, that fact should be stated on the child''''s birth certificate.
     
    Liệu các bậc cha mẹ có sử dụng phương pháp thụ thai bằng trứng hoặc tinh trùng của người khác có nên công khai nguồn gốc gen của trẻ như với trường hợp con nuôi. Một ủy ban gồm các nghị sỹ thuộc thượng và hạ viện Anh, thành lập hồi tháng năm nhằm xem xét dự kiến sửa đổi quy định pháp luật liên quan đến điều trị vô sinh, đã có chung quan điểm trên. Hôm 1/8, ủy ban này đã khuyến nghị nếu đứa trẻ được thụ thai bằng trứng hoặc tinh trùng hiến tặng, thì sự thật đó phải được ghi lại trên giấy khai sinh của bé.
         
    In 2005 it became illegal to donate eggs or sperm anonymously, and a register of donors was set up for children to consult once they turn 18. It seems unlikely that it will be as effective as the adoption register, because covering up the initial truth is easier. Anecdotal evidence from fertility clinics suggests that many would-be parents have reacted to the bar on anonymity by deciding never to tell their offspring that a donor was involved in their conception. So the committee thinks that the fact of donation should be stated on the birth certificate.
     
    Kể từ năm 2005, việc cho trứng hoặc tinh trùng dấu tên là vi phạm pháp luật và người ta tiến hành lập danh bạ những người hiến tặng để những đứa trẻ có thể tham khảo khi đủ 18 tuổi. Dường như công việc này không hiệu quả như đăng ký con nuôi bởi lẽ việc giấu giếm sự thật dùng trứng, tinh trùng hiến tặng dầu sao cũng dễ dàng hơn. Theo ghi nhận không chính thức từ các cơ sở điều trị vô sinh, các ông bố bà mẹ tương lai đã đối phó với quy định cấm giấu tên này trên bằng cách không tiết lộ cho trẻ biết sự thật về việc thụ thai từ trứng, tinh trùng của người thứ ba. Vì vậy, nhóm nghị sỹ (ủy ban) cho rằng trong giấy khai sinh nên ghi rõ sự thật trên.
     
    To some, what is at issue is the same as in adoption: a fundamental right to know one''''s genetic origins. To others, giving sperm or eggs is more analogous to giving blood than to bearing and handing over a baby. Many feel that a mere donor has no meaningful connection with the child who results.
     
    Với một số người, vấn đề đáng bàn ở đây không khác gì trường hợp nhận con nuôi: đó là quyền cơ bản được biết nguồn gốc thân thế. Song với một số khác, việc đem cho tinh trùng hoặc trứng có phần tương đồng với hành động hiến máu hơn là sinh con rồi cho trẻ làm con nuôi. Người ta cảm thấy một người đem cho trứng, tinh trùng đơn thuần như thế sẽ chẳng có mối liên hệ ý nghĩa nào với đứa trẻ mà họ đã góp phần tạo ra.
     
    Now that anonymity is no longer possible, there has been a huge decline in the number willing to donate. So more patients travel for treatment to countries where anonymity is still legal. If this new proposal is implemented, it may give such ?ofertility tourism? a further boost. It may even compound the problem that it purports to solve and encourage parents to reveal still less. But then, when mothers do what some have always done with regard to paternity?"conceal the truth when registering the birth?"it will be a sin of commission
     
    Bây giờ khi mà việc cho trứng hoặc là tinh trùng dấu tên là điều không thể thì số lượng người tình nguyện cho đã suy giảm mạnh. Vì vậy số những người cha người mẹ đã tìm đến các quốc gia điều trị mà cho phép dấu tên khi cho ngày càng nhiều hơn. Nếu như chính sách này được thực thi thì nó sẽ khiến? việc tiến hành thụ tinh ở nước ngoài? sẽ tăng mạnh. Thậm chí, điều này có lẽ làm phức tạp thêm vấn đề mà nó đang cố tháo gỡ, đồng thời khiến các bậc cha mẹ càng ít tiết lộ thông tin hơn. Nhưng đến lúc đó, nếu người mẹ lại theo vết xe đổ của một số người khi thực hiện trách nhiệm của bậc làm cha làm mẹ-che đậy sự thật lúc đăng kí khai sinh cho con- thì đó sẽ là một hành vi tội lỗi.
     
     
  6. stupidreamer

    stupidreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/08/2007
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
    Evolutionary psychology
    Blatant benevolence and conspicuous consumption
    Lòng từ thiện bề ngoài và sự tiêu xài lãng phí
    Aug 2nd 2007
    From The Economist print e***ion

    Charity is just as ?oselfish? as self-indulgence
    Lòng từ thiện cũng chỉ "ích kỷ" như thú chơi bời
    GEOFFREY MILLER is a man with a theory that, if true, will change the way people think about themselves. His idea is that the human brain is the anthropoid equivalent of the pea****''s tail. In other words, it is an organ designed to attract the opposite ***. Of course, brains have many other functions, and the human brain shares those with the brains of other animals. But Dr Miller, who works at the University of New Mexico, thinks that mental processes which are uniquely human, such as language and the ability to make complicated artefacts, evolved originally for ***ual display.
    GEOFFREY MILLER là người đưa ra 1 giả thuyết, nếu đúng, sẽ làm thay đổi cách nghĩ của con người về bản thân. Theo ông, bộ não con người chỉ giống như cái đuôi của 1 con công đực. Hay nói cách khác, nó chỉ là một bộ phận được tạo ra nhằm hấp dẫn kẻ khác giới. Tất nhiên, bộ não của con người còn có nhiều chức năng khác nhau và những chức năng này cũng tương tự như bộ não của các loài khác. Nhưng tiến sĩ Miller - ĐH New Mexico lại nghĩ rằng các quá trình có liên quan đến thần kinh chỉ có duy nhất ở con người, ví dụ như: ngôn ngữ và khả năng để tạo ra các tác phẩm phức tạp, những quá trình này đã được tiến hoá phát triển hết sức độc đáo để thể hiện giới tính của con người.
    One important difference between pea****s'' tails and human minds, of course, is that the peahen''s accoutrement is a drab affair. No one could say the same of the human female psyche. That, Dr Miller believes, is because people, unlike peafowl, bring up their offspring in families where both ***es are involved in parenting. It thus behoves a man to be as careful about choosing his wife as a woman is about choosing her husband.
    Một điểm khác biệt quan trọng giữa cái đuôi của con công đực và trí tuệ của con người, tất nhiên, chính là bộ lông của con công mái - một mầu nâu xám tẻ nhạt cho chuyện tình yêu. Không ai có thể nói như vậy về tâm hồn của người phụ nữ. Tiến sĩ Miller tin rằng đó là do con người không giống như loài công, biết nuôi dậy con cái của họ trong cùng một gia đình, là nơi cả hai giới đều phải đóng vai trò làm cha làm mẹ. Do đó, khi chọn vợ cho mình người đàn ông cần phải lựa chọn thật cẩn thận cũng như khi người phụ nữ chọn chồng.

    Both ***es, therefore, have reason to show off. But men and women will have different criteria for making their choices, and so the ***ual-display sides of their minds may differ in detail.
    Do vậy, cả hai giới đều có lý do để phô trương bản thân. Nhưng đàn ông và đàn bà sẽ có những tiêu chuẩn khác nhau để đưa ra lựa chọn của mình, và vì thế việc thể hiện giới tính của mình cũng có thể khác nhau.
    Testing this hypothesis will be a long haul. But in a paper he has just published in the Journal of Personality and Social Psychology, in collaboration with Vladas Griskevicius of Arizona State University, Dr Miller goes some way towards it. He, Dr Griskevicius and their colleagues look into two activities?"conspicuous consumption and altruism towards strangers?"to see if these support the ?omating mind? hypothesis, as Dr Miller has dubbed his idea. Their conclusion is that they do.
    Việc thử nghiệm giả thuyết này sẽ còn kéo dài. Nhưng trong một bài viết ông vừa cho đăng trên tờ "Tập san Con người và tâm lý xã hội", với sự cộng tác của Vladas Griskevicius - ĐH Arizona, tiến sĩ Miller thực hiện một số cách đều hướng về giả thuyết đó. Ông, tiến sĩ Griskevicius và các công sự nghiên cứu 2 hoạt động - Việc tiêu xài lãng phí và hành động vị tha đối với những người lạ - để thấy được liệu chúng có chứng minh cho giả thuyết "tâm hồn hoà hợp"(1) hay không. Kết luận của họ sẽ là những gì họ làm.
  7. stupidreamer

    stupidreamer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/08/2007
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
    (tiếp)
    Things are seldom what they seem
    Mọi việc đều hiếm khi được như vẻ bề ngoài
    Altruism, according to the text books, has two forms. One is known technically as kin selection, and familiarly as nepotism. This spreads an individual''s genes collaterally, rather than directly, but is otherwise similar to his helping his own offspring. The second form is reciprocal altruism, or ?oyou scratch my back and I''ll scratch yours?. It relies on trust, and a good memory for favours given and received, but is otherwise not much different from simultaneous collaboration (such as a wolf pack hunting) in that the benefit exceeds the cost for all parties involved.
    Theo các sách giáo khoa thì hành động vị tha có hai dạng. Một, theo chuyên môn, được biết đến như sự chọn lọc về dòng giống, và 1 cách gần gũi hơn đó là dạng gia đình trị. This spreads an individual''s genes collaterally, rather than directly (2), mặt khác nó cũng tương tự như việc anh giúp đỡ con cái của mình. Dạng thứ 2 là hành động vị tha từ cả hai phía , hay đơn giản "có đi có lại". Việc này dựa trên lòng tin, và một trí nhớ tốt để nhớ được những ân huệ mình đã cho đi và đã nhận được, mặt khác dạng này cũng không khác lắm với việc đồng hợp tác (ví dụ như kiểu cùng nhau săn mồi của bầy sói), trong đó lợi ích của các bên liên quan đều cao hơn chi phí họ phải bỏ ra.
    Humans, however, show a third sort of altruism?"one that has no obvious pay-off. This is altruism towards strangers, for example, charity. That may enhance reputation. But how does an enhanced reputation weigh in the Darwinian balance?
    Tuy nhiên, con người lại thể hiện một dạng thứ 3 của cái gọi là hành động vị tha - một dạng có sự thanh toán hết sức rõ ràng. Dạng này chính là hành động vị tha dành cho người xa lạ, tỉ như: lòng từ thiện. Dạng này có thể làm tăng danh tiếng của bạn. Nhưng bằng cách nào mà việc làm tăng danh tiếng lại có ảnh hưởng đến sự cân bằng của học thuyết Darwin?
    To investigate this question, the researchers made an interesting link. At first sight, helping charities looks to be at the opposite end of the selfishness spectrum from conspicuous consumption. Yet they have something in common: both involve the profligate deployment of resources.
    Để nghiên cứu câu hỏi này, các nhà nghiên cứ đã đưa ra một mắt xích thú vị. Đầu tiên, việc đem cho đồ cứu trợ có vẻ như ở phía đối nghịch với hình ảnh của sự ích kỷ bắt nguồn từ việc tiêu xài lãng phí. Nhưng cả hai đều có vài điểm chung: cả hai đều liên quan đến việc tiêu phí tiền của!
    That is characteristic of the consequences of ***ual selection. An individual shows he (or she) has resources to burn?"whether those are biochemical reserves, time or, in the human instance, money?"by using them to make costly signals. That demonstrates underlying fitness of the sort favoured by evolution. Viewed this way, both conspicuous consumption and what the researchers call ?oblatant benevolence? are costly signals. And since they are behaviours rather than structures, and thus controlled by the brain, they may be part of the mating mind.
    Đó là đặc tính của kết quả việc lựa chọn giới tính. Một cá thể thể hiện anh ta (hoặc cô ta) có nguồn lực để chứng tỏ bản thân - dù đó là nguồn dự trữ sinh hóa, thời gian hay, trong trường hợp của loài ngoài là tiền - bằng cách sử dụng chúng để tạo ra những hình ảnh có giá trị cho bản thân. Điều đó chứng tỏ sự phù hợp cơ bản của dạng thể hiện đã được tiến hoá - chính là dạng thứ 3 (đã nói ở trên). Hiểu theo cách này thì cả việc tiêu xài lãng phí và cái mà các nhà nghiên cứu gọi là "Lòng từ thiện bề ngoài" đều là những hình ảnh có giá trị. Và khi đó chúng chủ yếu trở thành hành vi hơn là các dạng cấu trúc, và do đó sẽ được bộ não điều khiển, những hành động này có thể trở thành một phần của cái gọi là "tâm hồn hoà hợp"
    There is, of course, a lot of evidence for the first part of this conjecture. Everybody knows that fast cars attract fast women. The second, though, may come as a surprise. So the team did an experiment to compare them.
    Tất nhiên cũng có rất nhiều bằng chúng cho phần đầu tiên của phỏng đoán này. Tất cả mọi người đều biết rằng xe ô tô tốc độ cao luôn hấp dẫn những phụ nữ thích ăn chơi. Thứ hai, có thể sẽ là một bất ngờ. Vì vậy nhóm đã làm một thí nghiệm để so sánh.
    They divided a bunch of volunteers into two groups. Those in one were put into what the researchers hoped would be a ?oromantic mindset? by being shown pictures of attractive members of the opposite ***. They were each asked to write a description of a perfect date with one of these people. The unlucky members of the other group were shown pictures of buildings and told to write about the weather.
    Họ chia những người tình nguyện thành 2 nhóm. Những người trong một nhóm được đặt vào tình huống mà những người nghiên cứu hy vọng sẽ là "khả năng tưởng tượng"(3) (nhóm lãng mạn) bằng cách cho họ xem những bức hình hấp dẫn của các thành viên khác giới. Mỗi người đều được yêu cầu viết một bản mô tả về một cuộc hẹn hoàn hảo với một trong số những người mà họ đã được xem qua hình. Những thành viên không may mắn bằng ở một nhóm khác được cho xem những bức hình về các toà nhà cao tầng và được yêu cầu viết về thời tiết.
    The participants were then asked two things. The first was to imagine they had $5,000 in the bank. They could spend part or all of it on various luxury items such as a new car, a dinner party at a restaurant or a holiday in Europe. They were also asked what fraction of a hypothetical 60 hours of leisure time during the course of a month they would devote to volunteer work.
    Những người tham gia sau đó được hỏi về 2 điều. Thứ nhất: tưởng tượng họ có 5.000 USD trong ngân hàng. Họ có thể tiêu một phần hoặc toàn bộ số tiền đó cho những thứ xa xỉ như 1 cái ô tô mới, một bữa tiệc tại một nhà hàng hoặc một kỳ nghỉ ở Châu Âu. Họ cũng được hỏi: phần nào trong 60 giờ giả thuyết của khoảng thời gian rảnh rỗi trong suốt khoá kiểm tra kéo dài 1 tháng đó họ luôn sẵn sàng làm.
    The results were just what the researchers hoped for. In the romantically primed group, the men went wild with the Monopoly money. Conversely, the women volunteered their lives away. Those women continued, however, to be skinflints, and the men remained callously indifferent to those less fortunate than themselves. Meanwhile, in the other group there was little inclination either to profligate spending or to good works. Based on this result, it looks as though the ***es do, indeed, have different strategies for showing off. Moreover, they do not waste their resources by behaving like that all the time. Only when it counts ***ually are men profligate and women helpful.
    Kết quả đạt được chính là những gì các nhà nghiên cứu đã hy vọng. Trong nhóm lãng mạn, người đàn ông trở nên điên cuồng với số tiền họ được sử dụng. Ngược lại, người phụ nữ lại tình nguyện hiến dâng cuộc sống của mình . Tuy nhiên những người phụ nữ này vẫn keo kiệt, và những người đàn ông thì tiếp tục thờ ơ một cách nhẫn tâm đối với những người ít may mắn hơn họ. Trong khi đó, ở nhóm kia chỉ có một ít thay đổi cả về việc tiêu xài lãng phí cũng như những hành động tốt. Dựa trên kết quả này, quả thực là mặc dù nó có vẻ như là hai giới cùng làm có những chiến lược khác nhau để thể hiện bản thân. Hơn nữa họ không phí phạm phí phạm tiền của của mình cho những hành động như vậy trong toàn bộ thời gian. Chỉ khi tính đến giới tính thì mới thấy đàn ông là những kẻ lãng phí và phụ nữ thì có ích.
    That result was confirmed by the second experiment which, instead of looking at the amount of spending and volunteering, looked at how conspicuous it was. After all, there is little point in producing a costly signal if no one sees it.
    Kết quả trên đã được thí nghiệm thứ 2 chứng thực. Trong thí nghiệm thứ 2, thay vì quan tâm đến lượng tiêu phí hay tình nguyện, mà quan tâm đến việc những hành động đó đáng chú ý như thế nào. Sau tất cả, chỉ có vài điểm tạo ra được một hình ảnh có giá trị mà không biết có ai thấy được điều này hay không.
    As predicted, romantically primed men wanted to buy items that they could wear or drive, rather than things to be kept at home. Their motive, therefore, was not mere acquisitiveness. Similarly, romantically primed women volunteered for activities such as working in a shelter for the homeless, rather than spending an afternoon alone picking up rubbish in a park. For both ***es, however, those in an unromantic mood were indifferent to the public visibility of their choices.
    Như dự đoán, những người đàn ông được khuyến khích tính lãng mạn muốn mua nhưng thứ họ có thể mặc hay lái được hơn là nhưng thứ chỉ có thể giữ ở nhà. Do đó động cơ của họ chỉ là tính hám lợi mà thôi. Tương tự như thế, những phụ nữ trong nhóm này sẵn sàng tham gia những hoạt động như làm việc trong một khu nhà dành cho người vô gia cư hơn là dành hẳn 1 buổi chiều một mình nhặt rác trong công viên. Tuy nhiên cả hai giới trong nhóm được thí nghiệm theo cách không lãng mạn ở trên lại lựa chọn thờ ơ trước tình trạng của cộng đồng.
    These two studies support the idea, familiar from everyday life, that what women want in a partner is material support while men require self-sacrifice. Conspicuous consumption allows men to demonstrate the former. Blatant benevolence allows women to demonstrate the latter. There is, however, a confounding observation. The most blatant benevolence of all, that of billionaires giving away their fortunes and heroes giving away (or at least risking) their lives, is almost entirely a male phenomenon.
    Hai nhóm nghiên cứu này đã đã chứng thực cho ý kiến, gần gũi với cuộc sống hàng ngày, rằng những gì phụ nữ muốn ở đối phương là khả năng cung cấp về mặt vật chất trong khi đó người đàn ông lại yêu cầu sự hy sinh. Việc tiêu xài cho phép người đàn ông chứng minh là người đứng đầu. Lòng từ thiện lại cho phép người phụ nữ chứng minh mình là người đứng sau. Tuy nhiên, đây là một thất bại. Hầu hết hành động từ thiện rõ ràng của tất cả, từ việc các tỷ phú đem tặng tiền của của mình đến việc các anh hùng hy sinh (hoặc ít ra là mạo hiểm) mạng sống của họ, hầu như là các hành động của nam giới.
    To examine this, the team did another experiment. They found that when requests for benevolence were financial, rather than time-consuming, romantically primed men were happy to chip in extravagantly. Giving money to charity is thus more akin to conspicuous consumption than it is to blatant benevolence. The primed men were also willing (or at least said they were willing) to act heroically as well as spend?"but only if the action suggested was life-threatening. Women, romantically primed or not, weren''t.
    Để thử nghiệm điều này, nhóm nghiên cứu lại thực hiện một thí nghiệm nữa. Họ phát hiện ra rằng khi những yêu cầu để thể hiện lòng từ thiện là vấn đề tài chính hơn là vấn đề sử dụng thời gian thì nhóm những người được khuyến khích hành động lãng mạn đã rất vui vẻ thực hiện theo cách rất ngông cuồng. Những người này cũng sẵn sàng (hay ít nhất họ nói là họ sẵn lòng) hành động một cách anh hùng như việc họ tiêu xài - nhưng chỉ khi những hành động đó được gợi ý là không đe doạ đến mạng sồng. Những người phụ nữ, dù trong nhóm lãng mạn hay không, đều không làm như thế.
    Heroism, of course, is a pretty high-risk strategy. But if you survive, you really have proved the quality of your genes. As the old saw has it, faint heart never won fair lady. On the other hand a soft heart, it appears, wins a gentleman.
    Hành động anh hùng tất nhiên cũng là một chiến lược có nguy có cao. Nhưng nếu bạn sống sót, bạn đã thực sự chứng minh được phẩm chất gen của mình. Như tục ngữ đã nói, một trái tim hèn yếu không bao giờ dành được cảm tình từ phía người phụ nữ ngay thẳng. Ngược lại, một trái tim nhẹ nhàng luôn chiếm được cảm tình của một quý ông.
    (1): mating mind --> stu dịch là tâm hồn hoà hợp, không biết có đúng k nữa.
    (2): This spreads an individual''s genes collaterally, rather than directly --> câu này thì stu bí, chịu chết k bik dịch thế nào cho phải ^ ^
    (3) romantic mindset ---> khả năng tưởng tưởng --> cái này chắc dịch sai ý nhưng ...........
  8. fan_fan0102

    fan_fan0102 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    383
    Đã được thích:
    0
    spam bài up topic vậy !
  9. minhtrang86_vn

    minhtrang86_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2006
    Bài viết:
    1.147
    Đã được thích:
    0
    Em thực sự xin lỗi mọi ngưòi vì tuần trước đã không post assignments để mọi người tham gia. Sau một tuần, em nhận thấy rằng số lượng thành viên đăng ký thì nhiều nhưng số lượng người tham gia dịch thì rất ít.
    Nếu anh Americanaccent, anh Fan_fan, hoặc em phân bài cho từng đấy thành viên ( theo đăng ký là khoảng hơn 30 ngưòi) thì sẽ rất mất nhiều thời gian mà chẳng giải quyết được gì. Em xin lỗi vì nói câu này.
    Vấn biết rằng sân chơi dịch thuật là nơi mọi ngưòi có thê giao lưu, trao đổi ý kiến với nhau. Nên em mạo phạm xin phép hai anh trưởng nhóm được rút gọn số thành viên tham gia:
    Dưới đây là những ngưòi đã tham gia dịch lần trước. Rất cảm ơn mọi người
    Quynhyh
    _!_
    DEKAISOEM
    Chienback
    Stupidreamer
    Fan_fan0102 ( có báo trước nghỉ hai ba tuần- điều này được chấp nhân)
    Minhtrang86_vn
    Shinosuke_4ever
    Americanaccent
    Guitarfriend
    Cảm ơn mọi ngưòi tham gia đóng góp ý kiến.
    Tuần sau số lượng thành viên được giới hạn, và phân bài theo list mems như trên.
    Rất hoan nghênh các bạn tham gia sân chơi Economist.
    Liện hệ YIM : ttmt_86vn
    P/S: Nếu số thành viên ngày càng tăng lên, việc lam việc theo sub-group sẽ được tiến hành.
  10. fan_fan0102

    fan_fan0102 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    383
    Đã được thích:
    0
    có j tuần này phân anh 1 bài nhé.
    p/s : anhtu biến đi đâu rồi nhỉ ? ai đổi pass email tui rồi nhỉ ?

Chia sẻ trang này