1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Semiotics for Beginners - Daniel Chandler.

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Tran_Thang, 09/02/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Các nhà dấu hiệu học không phải lúc nào cũng làm rõ những giới hạn kĩ thuật của họ, và dấu hiệu học đôi khi được trình bày một cách thiếu tính phê phán như là công cụ dùng cho mục đích tổng quát. Dấu hiệu học phái Saussure dựa trên mô hình ngôn ngữ học nhưng không phải mọi người đều đồng ý rằng nó hữu ích khi ta xem phim ảnh, chẳng hạn, như “những ngôn ngữ”. Paul Messaris lí sự rằng chúng ta cần học để “đọc”mật mã hình thức của nhiếp ảnh và các phương tiện âm thanh-hình ảnh, ông biện hộ rằng sự tương đồng về hình ảnh của chúng đối với hiện thực được quan sát không đơn thuần là vấn đề qui ước văn hóa: “đối với một mức độ thật thì những qui ước hình thức ta bắt gặp trong hình ảnh tĩnh hoặc động sẽ gợi nhiều ý thức hơn, thậm chí đối với người gặp nó lần đầu” (Messaris 1994, 7). John Corner đã phê phán cách cư xử như với mật mã với hầu hết mọi thứ của một số nhà dấu hiệu học, trong khi họ mặc những chi tiết mơ hồ về những mật mã như thế (đặc biệt trong trường hợp mật mã ý thức hệ) (Corner 1980).

    Đôi khi các nhà dấu hiệu học trình bày phân tích của họ như thể chúng là các điều khoản “khoa học”thuần túy khách quan hơn là những diễn giải chủ quan. Tuy nhiên một vài nhà dấu hiệu học cảm thấy cần phải cung cấp bằng chứng kinh nghiệm cho những diễn giải riêng biệt, và phần lớn phân tích dấu hiệu học đều thuộc trường phái ấn tượng hết sức phi hệ thống và lỏng lẻo (hoặc tùy chọn lựa, chúng sản sinh các phép phân loại phức tạp với một ít ứng dụng thực tế). Một vài nhà dấu hiệu học có lẽ chọn những ví dụ để minh họa những điểm mà họ muốn áp dụng phân tích dấu hiệu học hơn là vào một ví dụ tùy ý rộng hơn (Leiss et al. 1990, 214). William Leiss và sinh viên của ông lí luận rằng điểm bất lợi chính của dấu hiệu học là “nó phụ thuộc năng nề vào kĩ năng phân tích của cá nhân”. Những nhà thực hành ít kĩ năng hơn “có thể làm được ít hơn lời tuyên bố mạch lạc theo một cung cách phức hợp và thường là tự phụ”(Leiss et al. 1990, 214). Chắc chắn, trong vài trường hợp, phân tích dấu hiệu học không hơn một lời bào chữa cho những người diễn giải nhằm phô bày diện mạo quyền làm chủ thông qua việc sử dụng biệt ngữ vốn ngăn chặn hầu hết mọi người tham dự. Trong thực tế, việc phân tích dấu hiệu học luôn gồm việc đọc hiểu của cá nhân. Chúng ta ít khi được tặng những lời bình luận của những nhà phân tích trong cùng một văn bản, khi không nói gì về bằng chứng của bất cứ sự nhất trí nào giữa những nhà dấu hiệu học. Một số nhà dấu hiệu học thực hiện chiến lược phân tích đủ rõ ràng cho người khác nhằm áp đặt nó hoặc là vào những mẫu được sử dụng hoặc đối với người khác. Các nhà dấu hiệu học cấu trúc có xu hướng không xét đến các cách đọc khác, họ thừa nhận hoặc diễn giải của riêng họ phản ảnh sự đồng thuận hoặc “diễn giải văn bản của họ là nội tại của cấu trúc dấu hiệu và không cần phê-chuẩn-chéo (cross-validation)”(McQuarrie & Mick 1992, 194). Các nhà dấu hiệu học, những người bác bỏ những đầu tư diễn giải của người khác lại ưu tiên cái gọi là “nhà diễn giải tinh hoa”- dù các nhà dấu hiệu học theo định hướng xã hội thường khăng khăng rằng việc thám sát những thực hành diễn giải của người khác là cơ bản đối với dấu hiệu học.

    Một vài phân tích dấu hiệu học đã bị phê phán là không hơn gì “chủ nghĩa hình thức vô vị” và trừu tượng đã bị chiếm hữu trước bởi việc phân loại. Susan Hayward tuyên bố rằng dấu hiệu học cấu trúc có thể dẫn đến “đòn trí mạng của phản ứng thẩm mỹ qua sức nặng của cơ cấu lí thuyết”(Hayward 1996, 352). Phân tích dấu hiệu học thường phô trương một xu hướng nhằm giảm thiểu phạm vi tác động – mặc dù việc nghiên cứu nghĩa-khéo (connotation) phải bao gồm việc thám sát tế nhị các sắc thái có tính biến thiên cao và dễ xúc cảm theo chủ quan.

    Dấu hiệu học cấu trúc tập trung vào ngôn ngữ (langue) hơn là lời nói (parole – thuật ngữ của Saussure), vào hệ thống hình thức hơn là ở quá trình sử dụng và sản xuất. Những nghiên cứu của những nhà cấu trúc có xu hướng trở thành những phân tích nguyên bản thuần túy, và nó gợi ý rằng thậm chí khi những nhà dấu hiệu học vượt xa khỏi việc phân tích nguyên bản thì “họ có những khoảnh khắc phụ thuộc vào việc phân tích này”(Johnson 1996, 98). Dấu hiệu học có vẻ gợi ý rằng nghĩa có thể giải thích một cách thuần túy về mặt cấu trúc quyết định của nguyên bản. Quan điểm như thế dễ bị phê phán là thuyết tiền định ngôn ngữ học. Trong việc ưu tiên cho quyền lực quyết định của hệ thống, nó có thể được hiểu cơ bản là bảo thủ. Dấu hiệu học cấu trúc một cách thuần túy không nói về các quá trình sản xuất, diễn giải của khán giả hoặc thậm chí ý đồ của tác giả. Nó phớt lờ những thực tế riêng biệt, những cơ cấu kiến tạo và ngữ cảnh văn hóa, xã hội, kinh tế hay chính trị. Thậm chí Roland Barthes, người lí luận rằng văn bản được mã hóa nhằm khuyến khích việc đọc nào thiên vị mối quan tâm của tầng lớp thống trị, đã hạn chế chú ý của ông vào tổ chức nội nguyên bản và không tuyên chiến với văn cảnh diễn giải xã hội (Gardiner 1992, 149-50). Người ta không thể thừa nhận việc đọc ưu tiên sẽ diễn ra mà không bị phản đối (Hall 1980). Nhà xã hội học Don Slater đã phê phán thuyết chức năng của dấu hiệu học cấu trúc, biện luận rằng những thực hành xác đáng như việc “đọc văn bản” phải liên quan đến những quan hệ xã hội vốn gây nên “những chính kiến về thực hành văn hóa”. Thuyết chức năng, ông bình luận, “thừa nhận những nội giải pháp một cách thấu đáo đối với những vấn đề quyết định”(Slater 1983, 259). David Buxton cũng lí luận rằng những tiếp cận của những nhà cấu trúc “phủ nhận…thuyết tiền định xã hội” và ông khăng khăng rằng “văn bản phải liên quan đền một điều gì đó khác hơn cấu trúc của chính nó: nói cách khác, chúng ta phải giải thích làm thế nào mà nó được cấu trúc”(Buxton 1990, 13). Chúng ta phải xem xét không những làm thế nào dấu hiệu được biểu thị (một cách có cấu trúc) mà còn tại sao (về mặt xã hội); các cấu trúc không phải là nguyên nhân. Quan hệ giữa những kí-hiệu và được-kí-hiệu của chúng có lẽ là độc đoán một cách bản thể học nhưng chúng không độc đoán về mặt xã hội. Chúng ta nên thận trọng trong việc cho phép xem ý niệm dấu hiệu là độc đoán nhằm thúc đẩy thần thoại về tính trung lập của trung gian.

    Dominic Strinati lưu ý:

    Làm thế nào chúng ta biết được rằng một bó hoa hồng biểu đạt đam mê trừ khi chúng ta cũng biết ý định của người gửi và phản ứng của người nhận, và loại quan hệ mà chúng được hàm ý trong đó? Nếu họ đều là những người yêu nhau và chấp nhận qui ước cho nhận hoa là một khía cạnh lãng mạn, tình yêu khác giới, thì chúng ta có thể chấp nhận…diễn giải này. Nhưng nếu chúng ta làm thế, chúng ta sẽ làm trên cơ sở không phải của dấu hiệu mà của các quan hệ xã hội mà chúng ta có thể định vị dấu hiệu…Những hoa hồng cũng có thể được gửi như là một trò đùa, một sự lăng mạ, một dấu hiệu biết ơn, vân vân. Chúng có thể chỉ niềm đam mê về phần người gửi nhưng lại là sự ghê tởm về phần người nhận, chúng có thể biểu đạt các quan hệ gia đình giữa ông bà và cháu chắt hơn là quan hệ yêu đương, vân vân. Chúng thậm chí có thể bao hàm cả việc quấy rối ******** (Strinati 1995, 125).

    Những nhà lí thuyết nữ quyền gợi ý rằng bất chấp sự hữu ích của nó đối những nhà nữ quyền ở vài khía cạnh, dấu hiệu học cấu trúc “thường che đậy ý nghĩa các quan hệ quyền lực trong việc kiến tạo nên khác biệt, như các hình thức thống trị và lệ thuộc gia trưởng”(Franklin et al. 1996, 263).

    Phân tích đồng đại nghiên cứu một hiện tượng như thể nó đã đóng băng tại thời khắc đó; phân tích lịch đại lại tập trung vào sự thay đổi theo thời gian. Vì dấu hiệu học có xu hướng tập trung vào phân tích đồng đại hơn lịch đại (như trong dấu hiệu học Saussure) nên nó sẽ xem nhẹ bản chất động lực của những qui ước trung gian (chẳng hạn, qui ước truyền hình thay đổi nhanh chóng và rõ rệt so với qui ước về viết tiếng Anh). Nó cũng xem nhẹ những thay đổi động lực trong những thần thoại văn hóa mà ý nghĩa vừa ám chỉ vừa giúp định hình. Dấu hiệu học cấu trúc một cách thuần túy phớt lờ quá trình và tính chất lịch sử - không như các lí thuyết lịch sử như chủ nghĩa Marx.

    Như Hodge và Tripp lưu ý, khó có thể có “một phân tích dấu hiệu học thấu đáo…vì một phân tích “hoàn toàn”…vẫn được định vị trong những hoàn cảnh xã hội và lịch sử”(Hodge & Tripp 1986, 27). Điều này được gia cố bởi quan điểm hậu cấu trúc, rằng chúng ta không thể bước ra khỏi các hệ thống biểu đạt của mình. Các nhà dấu hiệu học cố gằng tách biệt chính họ khỏi những mật mã thống trị bằng các chiến lược nhằm vào việc giải bản chất (denaturalization). Ý niệm về việc “làm cho điều quen thuộc trở nên xa lạ, và làm điều xa lạ trở nên quen thuộc” giờ là đặc tính hồi qui của những tuyên ngôn nghệ thuật và nhiếp ảnh, của những phiên họp “động não”sáng tạo trong nhiều lĩnh vực. Thành ngữ này đã được qui cho nhà thơ Đức Novalis (1772-1801, aka Friedrich von Hardenberg), người đã tuyên ngôn rằng bản chất của chủ nghĩa lãng mạn là “làm cho điều quen thuộc trở nên xa lạ, và làm cho điều xa lạ trở nên quen thuộc”. Khái niệm này được tìm thấy ở những nhà lí thuyết Lãng mạn khác như Wordworth và Coleridge. Nó cũng được kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa siêu thực và với sự “xa lánh” Brecht (còn gọi là “hiệu ứng gián cách” - nd). Tuy nhiên, việc các nhà dấu hiệu học thừa nhận ý niệm này hẳn có công lớn nhất của trường phái Phê phán Hình thức Nga (Lemon & Reis 1965).

    Victor Shklovsky lí luận năm 1916 rằng chức năng then chốt của nghệ thuật là sự ghẻ lạnh, khử quen (defamiliarization) hay “làm cho xa lạ” (ostranenie)-nghĩa là làm mới nhận thức về sự vật và sự kiện hàng ngày mà chúng đã quá quen thuộc đến nỗi nhận thức về chúng đã trở thành hủ tục (Hawkes 1977, 62-67). Chủ nghĩa hình thức Nga có ảnh hưởng then chốt vào sự phát triển của dấu hiệu học ở Đông Âu, và di sản “làm cho điều quen thuộc trở nên xa lạ” là một di sản quan trọng đối với dấu hiệu học. Tuy nhiên, như Simon Watney lưu ý, chiến lược khử quen chính nó, dĩ nhiên, mang tính ý thức hệ và được kết hợp với ý niệm cho rằng chiến thuật gây ngạc nhiên có thể nhằm trục xuất “những méo mó”để chúng ta có thể “một cách khách quan” nhận thức “hiện thực”(Watney 1982, 173-4). Rõ ràng chiến lược về “làm cho điều quen thuộc trở nên xa lạ” cần được kết hợp với việc biết rõ rằng khi chúng ta có thể tránh một tập hợp các qui ước chúng ta cũng có thể không bao giờ thoát khỏi cơ cấu trải nghiệm bởi qui ước.

    Phan Biên dịch.

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
    (ảnh từ nét)
    Lần cập nhật cuối: 26/11/2013
  2. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    John Sturrock lưu ý rằng một vài nhà bình luận, như Mikhail Bakhtin - một nhà lí thuyết văn chương - đã sử dụng dấu hiệu học để “phát giác”mục đích chính trị trong xã hội “minh bạch”, và những tiếp cận như thế có thể dẫn đến “những đón nhận nặng nề”về xã hội, xem xã hội là âm mưu có tính ý thức hệ của một tầng lớp chống lại phần còn lại (Sturrock 1986, 91). Sturrock ủng hộ một cách tiếp cận “có tính trung lập nhiều hoặc ít hơn”, nhưng một số nhà lí thuyết có vẻ chấp nhận khả năng trung lập như thế. Các nhà lí thuyết Marxist nói riêng nhấn mạnh “tính chính trị của việc biểu đạt” – biểu đạt không thể nào trung lập được (“giá trị-tự do”). John Tagg bình luận rằng ông “không đề cập đến việc phơi bày sự lôi kéo về một “sự thực” nguyên sơ, hoặc vạch trần một số âm mưu, mà đúng hơn đến việc phân tích “kinh tế chính trị” cụ thể mà trong phạm vi đó “phương thức sản xuất sự thực” đang hoạt động” (Tagg 1988, 174-5). Các nhà lí thuyết cấu trúc có xu hướng thừa nhận rằng chúng ta có thể sử dụng phân tích dấu hiệu học để nhìn vượt ra ngoài dấu hiệu, đến một hiện thực tiền-định “cơ sở”, nhưng những nhà hậu cấu trúc lại lí luận điều này là không thể - chúng ta không thể đứng bên ngoài các hệ thống dấu hiệu của mình.

    [​IMG]

    Guy Cook lí luận rằng có một xu hướng mà vài nhà dấu hiệu học dùng biểu đạt truyền thông như là một quá trình “giải mã” đơn giản:

    Thành ngữ phổ biến “giải mã quảng cáo” được Ju***h Williamson sử dụng lần đầu tiên là tiêu đề một quyển sách xuất bản năm 1978, và nó đã được lặp lại rộng rãi trong nhiều giáo trình và ấn phẩm kể từ đó (Umiker-Sebeok 1987: 249-335). Tiếp cận chính của Williamson là tuyên bố công khai qua phân tích điều mà bà gọi là nghĩa “thực” của từ và hình ảnh của một quảng cáo, và “thế giới thực”mà những hình ảnh “không thực”chỉ đến (Williamson 1978: 47). Trong đó có việc thừa nhận toàn bộ rằng “hiện thực”không chỉ hoàn toàn khác với “hư cấu”mà còn thượng tôn về mặt đạo đức…Cho dù tiếp cận giải mã đôi khi phải chịu thua những kết quả đáng chú ý (trong thực tế thường có kết quả hiển nhiên hơn); một hạn chế của tiếp cận này là sự thỏa mãn vội vàng của nó mà những tương ứng như thế kiến tạo nên một cách phân tích trọn vẹn. Điều này dẫn nó đến việc trút bớt mọi cân nhắc những gì là cá biệt đối với bề ngoài của diễn ngôn, hoặc của một kí-hiệu cá biệt, và vì thế bỏ lỡ nhiều phức tính, kĩ xảo và tâm trạng (Cook 1992, 63-4).

    Cook thêm rằng “một hạn chế của tiếp cận dấu hiệu học là sự tận tâm có tính chất chọn lọc của nó đối với những khía cạnh giống nhau, và rồi một khi những khía cạnh giống nhau này được quan sát và quyết định, thì sự quyết định đó làm lu mờ nó đối với những gì là duy nhất”(ibid., 70). Rosalind Coward và John Ellis cũng bình luận rằng “việc phân tích cấu trúc chứng minh tính chất không đầy đủ khi giải thích những khác biệt giữa các văn bản”(Coward & Ellis 1977, 5). Việc tập trung vào “những cấu trúc cơ sở” là đặc trưng của chủ nghĩa cấu trúc hình thức của những nhà lí thuyết như Propp, Greimas và Lévi-Strauss không chú ý đến “hình thức bề mặt”có thể có tầm quan trọng với chính chúng (Cook 1992, 71). Điều này đặc biệt phiền phức đối với những nhà phê bình văn học, vì nó có vẻ phớt lờ những điều khoản về khác biệt phong cách.

    Chính Varda Langholz Leymore, người đã sử dụng lối tiếp cận cấu trúc, lí luận:

    Những nghiên cứu dấu hiệu học tìm được nguồn cảm hứng lớn lao từ ngôn ngữ học, tuy trong hầu hết trường hợp chúng hầu như không đạt được việc tuân theo khía cạnh cách mạng nhất cũng như tính sáng tạo vô tận của những qui tắc cơ bản. Trong hầu hết những nghiên cứu dấu hiệu học thì việc nhận dạng cấu trúc không khác với việc sáng tạo giản đồ hình thức mà mọi cá thể thành viên đều có thể, theo một số qui tắc, được qui về. Tuy nhiên, điều ngược lại không thật. Các hệ thống đều không đủ khả năng sản sinh một mẫu giản đơn thuộc về vạn vật hàm ngôn của chúng, nghĩa là lí thuyết Chomsky có khả năng sản sinh câu cú. Nói cách khác, những qui tắc cho phép ta “biến đổi ngược” từ cấu trúc bề sâu thành cấu trúc bề mặt, đều không được định rõ. Theo ý thức này thì đa số những nghiên cứu dấu hiệu học đều không có khả năng sản sinh mà chỉ tĩnh tại (Langholz Leymore 1975, 15).

    Vài nhà lí thuyết đương đại đã loại bỏ hoàn toàn dấu hiệu học cấu trúc. Nhưng việc loại bỏ như thế không nhất thiết là toàn bộ về dấu hiệu học. Phép phân tích của chủ nghĩa cấu trúc chỉ là một cách tiếp cận dấu hiệu học. Nhiều phê phán về dấu hiệu học hướng đến một hình thức dấu hiệu học mà một số nhà dấu hiệu học đương đại gắn bó. Trong khi một số khác vẫn giữ mối quan tâm của chủ nghĩa cấu trúc với các hệ thống hình thức (tập trung chủ yếu vào những nghiên cứu chi tiết về tường thuật, biên tập phim và truyền hình, vân vân), nhiều người quan đề cập nhiều hơn đến “dấu hiệu học xã hội”(Hodge & Kress 1988). Mối bận tâm chính của những nhà dấu hiệu học xã hội là về những gì Stephen Heath gọi là “những thực tế biểu đạt cụ thể”(seeLapsley & Westlake 1988, 55). Những nhà dấu hiệu học “cải cách” đó thực hành dấu hiệu học “hậu chủ nghĩa cấu trúc”, tập trung vào điều mà một trong số họ gọi là “dấu hiệu học xã hội tình thế”(Jensen 1995, 57). It nhất đây cũng là tu từ của những nhà dấu hiệu học xã hội, nhưng việc mở rộng đến một mức độ nhất định mà tại đó dấu hiệu học xã hội đáp ứng được mối quan tâm của những nhà xã hội học thì vẫn còn bàn cãi. Tuy nhiên, trong những ngày đầu: “dấu hiệu học xã hội” vẫn đang được xây dựng. Các nhà lí thuyết đương đại đã kết hợp chính họ với việc phát triển này, gồm Gunther Kress, Robert Hodge, Theo van Leeuwen, Klaus Bruhn Jensen, Paul J Thibault và Jay Lemke (Hodge & Kress 1988; Jensen 1995; Lemke 1995; Kress & van Leeuwen 1996; Thibault 1997).

    Victor Burgin lưu ý trong vài diễn ngôn: “Chủ nghĩa Marx và phân tích tâm lí học (đặc biệt cái sau có nguồn gốc từ công trình của Jacques Lacan) đã thấm nhuần hầu hết dấu hiệu học (hậu cấu trúc) trong bước chuyển dịch của nó nhằm nắm lấy những quyết định lịch sử và chủ thể trong việc sản sinh nghĩa”(Burgin 1982b, 144-5). Strinati lí luận rằng dấu hiệu học đã được sử dụng “nhằm làm cho lí thuyết Marxist về ý thức hệ ít tính quyết định và công cụ hơn. Tuy nhiên, điều này vẫn nhằm đánh giá thấp những cách mà chính những gì được trình bày dễ dẫn đến xung đột và dàn xếp, và nghĩa được trình bày không như nhau, nhất quán, không mơ hồ hay có thể rút gọn về một hệ ý thức thống trị chặt chẽ như thế nào”(Strinati 1995, 127; see also Tagg 1988, 23ff, 153-83). Một biến tố nữa của dấu hiệu học là trường phái Foucault – nhấn mạnh “hiệu ứng quyền lực của thực tiễn diễn ngôn”(Tagg 1988, 22).

    Công bằng nhất khi lưu ý rằng nhiều phê phán về dấu hiệu học đã dùng hình thức tự-phê phán bằng những gì có trong phạm vi lĩnh vực đó. Văn chương lí thuyết của dấu hiệu học phản ảnh nổ lực kiên định của nhiều nhà dấu hiệu học nhằm bám víu những hàm ý về lí thuyết mới cho cơ cấu sự nghiệp dấu hiệu học của họ. Hơn nữa, những nhà biện hộ đương đại đã lưu ý rằng chẳng có gì mới trong việc nhấn mạnh đến chiều kích xã hội của dấu hiệu học. Cội rễ của dấu hiệu học xã hội có thể được truy nguyên đến những nhà lí thuyết trước đó. Không phải Saussure, cũng không phải Peirce nghiên cứu việc sử dụng mang tính xã hội của dấu hiệu. Tuy nhiên, Saussure đã dự tính dấu hiệu học sẽ là “một khoa học mà việc nghiên cứu vai trò của dấu hiệu trở thành một phần của đời sống xã hội”. Đối với Peirce, ý niệm dấu hiệu học như một quá trình đối thoại là trung tâm tư tưởng của ông. Dấu hiệu không tồn tại mà không có người diễn giải, và mật mã dấu hiệu học dĩ nhiên là những qui ước xã hội. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng tầm quan trọng về chiều kích xã hội của dấu hiệu học trong các hình thức nghiên cứu những thực tế tạo nghĩa cụ thể là tương đối mới, ngoài những biên bản hàn lâm chuyên dụng và nó vẫn chưa nổi bật lắm ở trung tâm những hoạt động của nhiều nhà nghiên cứu dấu hiệu học.

    Dấu hiệu học không, chưa bao giờ, và dường như không thể từng, tự nó là môn học hàn lâm. Giờ đây, nó được xem một cách rộng rãi và cơ bản là một phương thức phân tích giữa những phương thức khác, hơn là một “khoa học” về các hình thức văn hóa.

    SỨC MẠNH CỦA PHÂN TÍCH DẤU HIỆU HỌC

    Dấu hiệu học có thể giúp giải bản chất (denaturalize) những giả định lí thuyết trong giới học viện đúng như trong đời thực; vì thế nó có thể đưa ra những điều khoản lí thuyết mới (Culler 1985, 102; Douglas 1982, 199). Khi điều này có nghĩa là nhiều học giả đương đầu với dấu hiệu học nhận thấy nó đảo lộn, thì những người khác lại thấy nó lí thú. Các kĩ thuật dấu hiệu học mà “trong đó tính chất tương tự của ngôn ngữ là một hệ thống được mở rộng đến văn hóa thành cái toàn thể” có thể được hiểu là biểu đạt về “một vết rạn nứt đáng kể bởi nhà thực chứng và truyền thống kinh nghiệm đã giới hạn phần lớn lí thuyết văn hóa trước đó”(Franklin et al. 1996, 263). Robert Hodge và Gunther Kress lí luận rằng không giống như nhiều môn hàn lâm, “dấu hiệu học đưa ra những hứa hẹn nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện và mạch lạc về các hiện tượng liên lạc một cách toàn thể, không chỉ cho những trường hợp của nó”(Hodge & Kress 1988, 1). Dấu hiệu học cung cấp cho chúng ta khái niệm cơ cấu hợp nhất một cách đầy tiềm năng và một tập hợp phương pháp và thuật ngữ cho việc sử dụng xuyên suốt phạm vi lớn nhất của thực hành biểu đạt, bao gồm cử chỉ, thái độ, ăn mặc, viết lách, nói năng, nhiếp ảnh, phim, truyền hình và radio. Chính dấu hiệu học, có thể không là môn học, nhưng ít nhất nó tập trung vào việc thẩm tra, với mối quan tâm chính là thực tế tạo nghĩa mà các môn hàn lâm qui ước cư xử như ngoại vi. Như lưu ý của David Sless, “chúng ta tham khảo các nhà ngôn ngữ học để tìm hiểu về ngôn ngữ, các nhà lịch sử nghệ thuật hoặc nhà phê bình để tìm hiểu về hội họa, và các nhà nhân loại học về làm thế nào con người trong những xã hội khác nhau gửi tín hiệu cho nhau qua cử chỉ, cách ăn mặc hay trang trí. Nhưng nếu chúng ta muốn biết cái mà mọi sự vật khác biệt này có chung thì chúng ta cần tìm một người nào đó với quan điểm dấu hiệu học, một vị trí thuận lợi để từ đó quan sát thế giới”(Sless 1986, 1). David Mick gợi ý, chẳng hạn, rằng “không có môn học nào quan tâm đến việc biểu đạt như dấu hiệu học”(Mick 1988, 20; my emphasis). Dấu hiệu học đề cao và đặt vấn đề về các quá trình biểu đạt.

    Dấu hiệu học cấu trúc truyền thống được áp dụng một cách cơ bản vào phân tích nguyên bản nhưng nó đang dẫn đến việc đồng nhất sai lạc dấu hiệu học đương đại với chủ nghĩa cấu trúc.Việc đổi hướng sang dấu hiệu học xã hội đã được phản ảnh trong mối quan tâm ngày càng tăng về vai trò của người đọc. Trong hình thức này nọ, dấu hiệu học là vô giá nếu chúng ta muốn nhìn xa hơn khỏi nội dung hiển nhiên của văn bản. Dấu hiệu học của chủ nghĩa cấu trúc cố gắng nhìn về phía sau hay phía dưới bề mặt được quan sát nhằm khám phá những tổ chức ngầm của hiện tượng. Tổ chức cấu trúc của một văn bản hoặc mật mã càng rõ, càng khó nhìn xa khỏi những đặc tính bề mặt đó (Langholz Leymore 1975, 9). Việc tìm kiếm những gì được “giấu” bên dưới cái vẻ “hiển nhiên” có thể dẫn đến những thấu hiểu đầy kết quả. Dấu hiệu học cũng được thích nghi tốt với việc thám sát những nghĩa-khéo (connotation). Dấu hiệu học xã hội báo chúng ta biết làm thế nào cùng một văn bản có thể sản sinh những nghĩa khác nhau đối với người đọc khác nhau.

    Phan Biên dịch.

    ...
    Lần cập nhật cuối: 26/11/2013
  3. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Dấu hiệu học cũng có thể giúp chúng ta nhận ra rằng bất cứ xác quyết “rõ ràng”, “tự nhiên”, phổ quát, tiền định, vĩnh cửu và hiển nhiên nào cũng đều được sinh ra từ những hoạt động của hệ thống dấu hiệu trong cộng đồng diễn ngôn của chúng ta. Nhà lịch sử nghệ thuật Keith Mosley bình luận:

    Dấu hiệu học khiến chúng ta ý thức rằng các giá trị văn hóa mà cùng với nó chúng ta tri nhận thế giới là một chuỗi qui ước được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác bởi các thành viên của nền văn hóa mà chúng ta là một phần của nó. Nó nhắc nhở chúng ta rằng không có tính chất “tự nhiên”trong các giá trị của mình; chúng là những cấu trúc xã hội không những hết sức khác biệt qua dòng chảy thời gian mà còn khác biệt một cách triệt để từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác (cited in Schroeder 1998, 225).

    Ngược với “thường-thức” và chủ nghĩa hiện thực của nhà thực chứng, khăng khăng rằng hiện thực không phụ thuộc vào dấu hiệu mà nó qui về, dấu hiệu học nhấn mạnh vai trò của hệ thống dấu hiệu trong việc cấu trúc hiện thực. Mặc dù các sự-việc có thể tồn tại một cách độc lập với dấu hiệu, song chúng ta chỉ biết chúng qua trung gian dấu hiệu. Chúng ta chỉ thấy những gì mà hệ thống dấu hiệu cho phép chúng ta thấy.

    Những nhà dấu hiệu học phái Saussure đôi khi bị phê phán vì muốn biến ngôn ngữ nói thành mô hình truyền thông phi-lời hoặc không chỉ có lời nói, hay cơ bản là lời nói; ưu điểm của việc chấp nhận một mô hình ngôn ngữ học là ở việc xem mọi dấu hiệu phải ít nhiều độc đoán và qui ước nhất định – vì thế thúc đẩy nhận thức về những lực lượng ý thức hệ đang cố gắng làm hợp thủy thổ các dấu hiệu (Culler 1985, 92). Các nhà dấu hiệu học lí luận rằng dấu hiệu có liên quan đến những cái-được-kí-hiệu qua những qui ước xã hội mà chúng ta đã học. Chúng ta đã trở nên quá quen thuộc với những qui ước như thế qua việc sử dụng những phương tiện truyền thông khác nhau, xem chúng là “tự nhiên”và có thể khó nhận ra bản chất qui ước của những quan hệ như thế. Khi xem những quan hệ này là hiển nhiên chúng ta sẽ xử lí cái-được-kí-hiệu như là phi trung gian hoặc “hiển nhiên”, như khi chúng ta đã diễn giải truyền hình và nhiếp ảnh là “cửa sổ thế giới”. Dấu hiệu học chứng minh rằng sự “hiển nhiên” của “trung gian” là không thực tế.

    [​IMG]
    Dấu hiệu học có thể giúp chúng ta ý thức được về những gì chúng ta xem là hiển nhiên trong việc biểu đạt thế giới, nhắc nhở rằng chúng ta luôn xử lí dấu hiệu, không phải với hiện thực khách quan phi trung gian, và rằng hệ thống dấu hiệu được gộp trong cấu trúc của nghĩa. Đây là điều khoản ý thức hệ, vì, như Victor Burgin lưu ý, “ý hệ thức là tổng của những hiện thực được cho là hiển nhiên của cuộc sống hàng ngày”(Burgin 1982a, 46). Valentin Voloshinov tuyên bố: “bất cứ lúc nào một dấu hiệu hiện diện, ý thức hệ cũng hiện diện”(Voloshinov 1973, 10). Không có hệ thống dấu hiệu “trung lập” về mặt ý thức hệ: các dấu hiệu hoạt động nhằm thuyết phục cũng như ám chỉ. Hệ thống dấu hiệu giúp hợp thủy thổ và tăng cường các cơ cấu “diễn biến cách của sự-vật”riêng biệt, mặc dù hoạt động ý thức hệ này trong thực tế biểu đạt có đặc tính là được che dấu. Cho nên, phân tích dấu hiệu học luôn bao gồm phân tích ý thức hệ. Nếu dấu hiệu không đơn thuần phản ảnh hiện thực mà được gộp vào trong cấu trúc của nó thì những gì điều khiển hệ thống dấu hiệu sẽ điều khiển cấu trúc hiện thực. Tuy nhiên, “thường-thức” có tính chất “rời rạc”, mơ hồ, bất nhất, mâu thuẫn, sai sót, thiếu hụt cùng những khoảng lặng sẽ cung cấp những vị trí đòn bảy cho những tiềm năng thay đổi xã hội. Vai trò của ý thức hệ là đàn áp chúng vì lợi ích của các nhóm thống trị. Do đó, cấu trúc hiện thực xuất hiện ở “những nơi có tranh đấu”. Như John Harley bình luận, “các lực lượng tranh đấu xã hội tìm cách “gắn” tiềm năng nghĩa của mỗi dấu hiệu với trọng tâm lợi ích có tính chất ước lượng đối với những quan tâm riêng biệt của họ”, và đồng thời cố gắng trình bày những khác biệt về giá trị như là những khác biệt trong thực tế (Hartley 1982, 23, 24). Với Roland Barthes thì những mật mã khác nhau đóng góp vào việc tái sinh ý thức hệ giai cấp tư sản, làm cho nó có vẻ tự nhiên, thích đáng và quen thuộc. Người ta không cần phải là một người Marxist mới đánh giá rằng nó đang phóng thích để trở nên ý thức hơn về quan điểm hiện thực của những ai được ưu tiên trong quá trình. Nhiều nhà dấu hiệu học xem nhiệm vụ cơ bản của họ là phải giải bản chất dấu hiệu, văn bản và mật mã. Dấu hiệu học vì thế có thể thể thể hiện ý thức hệ trong công việc và chứng minh rằng “hiện thực” có thể bị thách thức.

    Trong khi các quá trình trung gian có xu hướng thoái lui về điều hiển nhiên trong thói quen thực tế hàng ngày thì việc chấp nhận một cách tiếp cận dấu hiệu học có thể hỗ trợ chúng ta chú tâm đến điều mà Catherine Belsey gọi là “cấu trúc của quá trình biểu đạt” trong phân tích các văn bản cụ thể (Belsey 1980, 47). Điều này khiến nó trở thành cách tiếp cận đặc biệt hấp dẫn đối với những nhà giáo dục qua truyền thông. Trong việc nghiên cứu các phương tiện truyền thông đại chúng này, tiếp cận dấu hiệu học có thể thu hút sự chú ý của chúng ta vào thực tế được cho là hiển nhiên đó, tương tự như qui ước cổ điển của Hollywood về “biên tập vô hình” mà nó vẫn còn là phong cách biên tập thống trị trong điện ảnh và truyền hình phổ biến. Xử lí dấu hiệu học giúp chúng ta ý thức rằng đấy là một qui ước hấp dẫn đã được học và chấp nhận chúng là “tự nhiên” trong phim và truyền hình. Mở rộng hơn, Pierre Guiraud lí luận rằng “không nghi ngờ rằng một trong những nhiệm vụ chính của dấu hiệu học là củng cố sự tồn tại của các hệ thống trong những phương thức biểu đạt có vẻ có hệ thống”(Guiraud 1975, 30). Trong tương quan với truyền thông đại chúng, dấu hiệu học đã đặc điểm hóa những đóng góp lí thuyết. Kết hợp với phân tích tâm lí, dấu hiệu học cũng giới thiệu lí thuyết về “bố cục chủ thể” (người xem) tương quan với văn bản phim. Trong khi lập trường này của chủ nghĩa cấu trúc củng cố thần thoại về sự hấp dẫn khó cưỡng lại của ảnh hưởng truyền thông, thì việc nhấn mạnh của những nhà dấu hiệu học xã hội vào tính đa dạng diễn giải (trong phạm vi các thông số xã hội) lại chống lại những xu hướng trước đó nhằm đánh đồng “nội dung” với ý nghĩa và nhằm chuyển trực tiếp điều này thành các “hiệu ứng truyền thông”.

    Là một cách tiếp cận truyền thông vốn tập trung vào nghĩa và diễn giải, dấu hiệu học thách thức mô hình truyền thông thu nhỏ đánh đồng nghĩa với “thông điệp” (hay nội dung). Dấu hiệu không chỉ “chuyên chở” nghĩa mà còn kiến tạo một trung gian mà ý nghĩa được cấu trúc. Dấu hiệu học giúp chúng ta nhận thức rằng nghĩa không bị lối cuốn một cách thụ động mà chỉ phát sinh trong quá trình diễn giải chủ động. Liên quan đến việc in ấn quảng cáo, William Leiss và sinh viên của ông lưu ý rằng:

    Tiếp cận dấu hiệu học…gợi ý rằng nghĩa của một quảng cáo không trôi nổi trên bề mặt mà chỉ chờ tiếp thu của người quan sát, nhưng nó được tập hợp lại bên ngoài các cách mà các dấu hiệu khác nhau được tổ chức và được liên kết với nhau, cả hai đều nằm trong phạm vi quảng cáo, và qua những tham chiếu bên ngoài để đến những hệ thống tín ngưỡng rộng hơn. Cụ thể hơn, đối với quảng cáo sáng tạo nghĩa, người đọc hay quan sát phải làm một số “việc”. Vì nghĩa không nằm ở trên trang sách đó, ta phải nỗ lực nắm bắt nó (Leiss et al. 1990, 201-2).

    Người ta có thể nói nhiều điều tương tự về văn bản trong những thể loại và truyền thông khác. Nghĩa được sản sinh nhiều nghĩa từ một dấu hiệu đơn . Dấu hiệu học nêu bật “sự phong phú vô tận về diễn giải mà…các dấu hiệu đã mở đến”(Sturrock 1986, 101). Voloshinov qui về tính chất đa-trọng âm của dấu hiệu – là tiềm năng của những diễn giải khác nhau của cùng một dấu hiệu, dựa vào ngữ cảnh xã hội và lịch sử riêng biệt (Voloshinov 1973, 23).

    Thần thoại lãng mạn của sáng tạo cá nhân và của “tính độc đáo tác giả” (vd: thuyết tác giả phim) đã bị xói mòn bởi nhiều vùng tiếp giáp trong dấu hiệu học: bởi sự nhấn mạnh của chủ nghĩa cấu trúc về tính ưu việt của hệ thống dấu hiệu và của chính chúng ta, như thể nó đã được sản sinh từ ngôn ngữ, bởi sự nhấn mạnh của dấu hiệu học xã hội lên vai trò người diễn giải văn bản; và bởi ý niệm về trung gian nguyên bản của dấu hiệu học hậu-cấu trúc (nêu bật những gì văn bản nợ những văn bản khác). Các cá nhân không phải không bị gò bó trong cấu trúc nghĩa của họ. Như Stuart Hall diễn tả: “hệ thống dấu hiệu của chúng ta …chứng tỏ chúng ta cũng nhiều như chúng ta nói bằng và qua chúng” (Hall 1977, 328). “Thường-thức” gợi ý rằng “tôi” là một cá thể duy nhất với nhân dạng và ý tưởng ổn định và hợp nhất của riêng tôi. Dấu hiệu học có thể giúp chúng ta nhận thức rằng những ý niệm như thế được sáng tạo và duy trì bởi cam kết của chúng ta với hệ thống dấu hiệu: ý thức về nhân dạng của chúng ta được thiết lập qua những dấu hiệu. Chúng ta ý thức về “bản ngã”xuất phát từ vốn tiết mục tiền-tồn, từ qui ước của dấu hiệu và mật mã mà không phải do chính chúng ta sáng tạo. Vì thế chúng ta là chủ thể của hệ thống dấu hiệu của mình hơn là “người sử dụng”công cụ đơn giản và hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của chúng. Mặc dù chúng ta không được quyết định bởi các quá trình dấu hiệu, chúng ta vẫn được định hình bởi chúng hơn là chúng ta nhận thức chúng. Pierre Guiraud đi xa hơn: “Con người (đúng như nguyên văn) là phương tiện và bản chất của dấu hiệu, anh ta vừa là kí-hiệu vừa là cái-được-kí-hiệu; quả thật, anh ta là một kí-hiệu và vì thế là một qui ước” (Guiraud 1975, 83). Ý niệm của chủ nghĩa hậu cấu trúc về những nhân dạng rời rạc và thay đổi có thể cung cấp một sự hiệu chỉnh hữu ích cho thần thoại về bản ngã hợp nhất đó. Nhưng không như quan điểm của những nhà hậu cấu trúc đơn giản chỉ tán dương chủ nghĩa tương đối triệt để, dấu hiệu học có thể giúp chúng ta tập trung vào việc làm thế nào chúng ta ý thức được chính mình, trong khi dấu hiệu học xã hội níu chặt chúng ta vào việc nghiên cứu những thực tế xác định trong cấu trúc của nhân dạng và vai trò mà cam kết của chúng ta với hệ thống dấu hiệu đóng trong quá trình như thế. Justin Lewis lưu ý rằng “chúng ta là một phần của một thế giới dấu hiệu học được sắp đặt trước. Từ chiếc nôi cho đến nấm mồ, chúng ta được khuyến khích bởi thù hình của môi trường nhằm khớp nối với thế giới của những kí-hiệu bằng nhiều cách riêng biệt” (Lewis 1991, 30).

    Guy Cook lí luận rằng “bốn mươi năm trước, phương pháp này mang tính cách mạng, và rõ là thu hút được trí tưởng tượng trí thức, không chỉ để thêm phần phức hợp cho việc phân tích mà còn cho những hàm ý chính trị và triết học của nó.Tầm nhìn văn hóa và đồ tạo tác văn hóa của nó, dù bề ngoài khác biệt như thế nào, tương tự về cơ bản, là vũ khí hiệu quả chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa sô-vanh văn hóa, và chìa ra hy vọng khám phá các cấu trúc trừu tượng phổ biến trong văn hóa” (Cook 1992, 70-71). Những nhà lí thuyết nữ quyền lưu ý rằng dấu hiệu học chủ nghĩa cấu trúc có tầm quan trọng đối với những nhà nữ quyền như là một công cụ cho phê phán về giản hóa luận và bản chất luận và đã “tạo điều kiện cho việc phân tích những ý nghĩa và nhân dạng mâu thuẫn”(Franklin et al. 1996, 263). Dấu hiệu học đã cố gắng nghiên cứu những vật tạo tác và thực tế văn hóa của bất cứ thể loại nào trên cơ sở các nguyên tắc hợp nhất, trong điều kiện tốt nhất, nhằm ít nhiều gắn kết các phương tiện truyền thông và nghiên cứu văn hóa. Trong khi phân tích dấu hiệu học được áp dụng rộng rãi vào những tiêu chuẩn văn chương, nghệ thuật và âm nhạc thì nó cũng được áp dụng vào việc “giải mã”tính đa dạng rộng khắp của hiện tượng văn hóa phổ biến. Vì thế nó khuyến khích những nghiên cứu nghiêm túc về văn hóa đại chúng.

    Phan Biên dịch.

    ...

    Lần cập nhật cuối: 26/11/2013
  4. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Anthony Wilden quan sát rằng “mọi ngôn ngữ đều là truyền đạt nhưng rất ít truyền đạt là ngôn ngữ”(Wilden 1987, 137). Trong thời đại thị giác phát triển, sự đóng góp quan trọng về dấu hiệu học kể từ Roland Barthes là quan tâm đến chủ nghĩa hình tượng cũng như dấu hiệu ngôn ngữ học, đặc biệt trong ngữ cảnh quảng cáo, nhiếp ảnh và phương tiện nghe-nhìn. Dấu hiệu học khuyến khích chúng ta không giải thể trung gian riêng biệt, là trung gian ít giá trị hơn những trung gian khác, như phê bình văn chương và phim ảnh thường xem truyền hình là kém giá trị hơn hư cấu văn xuôi hay “phim nghệ thuật”. Đối với những nhà phê bình văn học tinh hoa, dĩ nhiên, đây là nhược điểm của dấu hiệu học. Dấu hiệu học có khả năng giúp chúng ta nhận rõ những khác biệt cũng như những tương đồng giữa các phương tiện truyền thông. Nó có thể giúp chúng ta tránh ưu tiên mang tính thủ tục một phương thức dấu hiệu học so với phương thức khác, như thể-nói (spoken) so với thể-viết (written), hoặc lời (verbal) so với phi-lời (non-verbal). Chúng ta cần thừa nhận, như Gunther Kress và theo van Leeuwen lưu ý, rằng “những phương thức dấu hiệu học khác nhau – thị giác, nói, cử chỉ…đều có những tiền năng và giới hạn của chúng” (Kress & van Leeuwen 1996, 31). Việc nhận thức rõ như thế có thể dẫn đến thừa nhận tầm quan trọng của văn học số (new literacies) trong tiến trình sinh thái học dấu hiệu (semiotic ecology). Hiện tại, “với việc quan tâm đến hình ảnh, hầu hết con người trong hầu hết xã hội thường bị giới hạn trong vai trò khán giả của tác phẩm của người khác”(Messaris 1994, 121). Người ta hầu hết đều cảm thấy không thể vẽ hay phác họa, thậm chí những người có video-camera không phải tất thảy đều biết cách sử dụng chúng hiệu quả. Đây là di sản của hệ thống giáo dục mà nó còn tập trung đặc biệt vào khả năng tiếp thu đọc-viết mang tính biểu tượng (ngôn ngữ nói) bằng cái giá của hầu hết các phương thức dấu hiệu học khác (đặc biệt là phương thức hình tượng). Thành kiến có tổ chức này tước quyền người dân không chỉ bằng việc ngăn chặn nhiều người tham gia vào những thực tế biểu đạt không thuần túy ngôn ngữ học đó, mà còn bằng cách cản trở họ trở thành đọc giả phê phán phần lớn văn bản mà qua đó họ thường bị phơi bày trong suốt cuộc đời họ. Việc hiểu tạm thời các khái niệm then chốt về dấu hiệu học – gồm cả những ứng dụng thực tế của chúng – có thể xem là thiết yếu cho mọi người để hiểu hệ sinh thái truyền thông phức tạp năng động này trong phạm vi xã hội họ đang sống. Những người không thể hiểu những môi trường như thế đều ở trong tình trạng nguy hiểm nhất, họ bị thao túng bởi những người có thể hiểu nó. Đối với Peirce, “vạn vật…được rắc đầy dấu hiệu, nếu nó không được biên soạn một cách riêng biệt từ những dấu hiệu”(Peirce 1931-58, 5.449n). Không có lối thoát khỏi dấu hiệu. Như Bill Nichols diễn tả, “Chừng nào mà dấu hiệu còn được sản sinh, chúng ta sẽ còn buộc phải hiểu chúng. Đây hoàn toàn là vấn đề sống còn”(Nichols 1981, 8).

    VIỆC TỰ LÀM: PHÂN TÍCH DẤU HIỆU HỌC: LỜI KHUYÊN CHO NHỮNG SINH VIÊN CỦA TÔI.

    Dấu hiệu học có thể được áp dụng cho mọi thứ và ta hiểu là nó biểu đạt cho một điều gì đó – nói cách khác, đối với mỗi sự-vật có ý nghĩa trong phạm vi một nền văn hóa. Thậm chí trong phạm vi ngữ cảnh truyền thông đại chúng, bạn có thể áp dụng phân tích dấu hiệu học với bất cứ văn bản truyền thông nào (gồm chương trình truyền hình và radio, phim, hoạt hình, bài báo và tạp chí, bưu phẩm và các thể loại quảng cáo khác), và với những thực tế có liên quan đến quá trình sản sinh và diễn giải những văn bản như thế. Trong phạm vi truyền thống Saussure, nhiệm vụ của nhà dấu hiệu học là nhìn vượt lên khỏi những văn bản và thực hành cụ thể nhằm đến những hệ thống khác biệt về chức năng hoạt động trong đó. Mục đích cơ bản là thiết lập những qui ước ưu tiên, nhận biết những khác biệt và đối lập về nghĩa để mô hình hóa hệ thống các phạm trù, quan hệ (ngữ đoạn và hệ biến hóa), nghĩa-khéo, sự độc đáo và các qui tắc kết hợp được sử dụng. Chẳng hạn, “điều gì phân biệt một lời chào hỏi lễ phép với không lễ phép, quần áo hợp thời trang với không hợp thời trang?”(Culler 1985, 93); thám sát những thực tế như thế bao gồm việc cố gắng làm rõ những gì thường chỉ là ngầm ẩn.

    Một “văn bản” (như một trang quảng cáo, phim hoạt hình hoặc bản tin radio) tự nó là một dấu hiệu phức hợp chứa đựng những dấu hiệu khác. Nhiệm vụ phân tích trước tiên của bạn là nhận biết những dấu hiệu trong phạm vi văn bản và những mật mã mà trong phạm vi đó những dấu hiệu này có nghĩa (vd: “mật mã nguyên bản” như xử lí camera hoặc “mật mã xã hội” như ngôn ngữ cử chỉ). Trong phạm vi những mật mã trên, bạn cần nhận biết tập hợp hệ biến hóa (như cỡ cảnh: viễn-cảnh, trung-cảnh, cận-cảnh). Bạn cũng cần nhận biết các quan hệ cấu trúc giữa những kí-hiệu khác nhau (các ngữ đoạn). Cuối cùng bạn cần phải thảo luận về các chức năng ý thức hệ của dấu hiệu trong văn bản và chức năng ý thức hệ của văn bản toàn thể. Loại hiện thực gì mà văn bản cấu trúc và nó cấu trúc như thế nào? Nó làm cách nào để hợp thủy thổ những viễn cảnh của riêng nó? Nó đã tạo nên những giả định gì về độc giả của nó?

    Tôi nhiệt liệt giới thiệu những so sánh và tương phản chi tiết của cặp văn bản cho xử lí những chủ đề tương tự, sẽ dễ hơn nhiều so với việc cố gắng phân tích một văn bản đơn. Nó cũng giúp sử dụng một ví dụ về phân tích dấu hiệu học của một nhà thực hành lão luyện làm mô hình phân tích cho riêng bạn:

    Nhận biết văn bản

    - Ở bất cứ nơi nào có thể, gồm một bản sao văn bản cùng phân tích của bạn, lưu ý những thiếu sót về nghĩa của bản sao. Nếu bản sao không có tính thực tế, hãy cung cấp một bản mô tả rõ ràng để một ai đó nhận ra văn bản dễ dàng hơn nếu chính họ phải xử lí chúng.
    - Mô tả ngắn gọn trung gian được sử dụng, văn bản thuộc thể loại nào và ngữ cảnh mà nó được thiết lập.

    Cân nhắc mục đích của bạn khi phân tích văn bản. Điều này sẽ ảnh hưởng đến vấn đề nào quan trọng đối với bạn giữa những đề nghị dưới đây:

    - Tại sao bạn chọn văn bản này?
    - Mục đích của bạn có thể phản ảnh giá trị của bạn: văn bản liên quan thế nào với những giá trị riêng của bạn?

    Trung-hiệu (sign vehicle) mà bạn đang khảo sát có liên hệ như thế nào với khu biệt loại-phiếu?

    - Nó có phải là một trong nhiều bản sao (vd: một bưu thiếp) hoặc gần như duy nhất (vd: một bức tranh thực)?
    - Điều này ảnh hưởng đến diễn giải của bạn như thế nào?

    Những kí-hiệu gì là quan trọng và chúng biểu đạt điều gì?

    - Hệ thống đó là gì mà trong phạm vi đó những dấu hiệu này có nghĩa?
    Thể thức.

    - Khẳng định được nêu trong văn bản là hiện thực gì?
    - Nó ám chỉ một sự kiện đang tồn tại hay hư cấu?
    - Những tham chiếu nào được nêu đối với thế giới kinh nghiệm hàng ngày?
    - Các dấu hiệu hiện diện trong thể thức gì?
    - Bạn sử dụng những dấu hiệu đó như thế nào để phán xét quan hệ giữa văn bản và thế giới?
    - Văn bản có hoạt động trong phạm vi mật mã biểu đạt hiện thực?
    - Nó có thể hiện thực với ai?
    - “Sự minh bạch che dấu điều gì?” (Butler 1999, xix).

    Phân tích hệ biến hóa.

    - Văn bản tổng thể thuộc về loại hệ biến hóa nào (trung gian, thể loại, chủ đề)?
    - Sự thay đổi trung gian có thể ảnh hưởng đến nghĩa như thế nào?
    - Văn bản có thể giống gì nếu nó thiết lập nên một phần thể loại khác biệt?
    - Mỗi trong số những kí-hiệu được sử dụng thuộc về những tập hợp hệ biến hóa nào? Chẳng hạn, trong những trung gian nhiếp ảnh, truyền hình hay phim, một hệ biến hóa có thể là cận-cảnh.
    - Tại sao bạn nghĩ rằng mỗi kí-hiệu đều được chọn từ những kí-hiệu khả dĩ trong phạm vi cùng một tập hợp hệ biến hóa? Việc chọn lựa mỗi kí-hiệu riêng biệt bao hàm những giá trị gì?
    - Những kí-hiệu gì trong cùng một tập hợp hệ biến hóa vắng mặt một cách đáng lưu ý?
    - Những cặp tương phản gì có liên quan? (vd: tự-nhiên/văn-hóa).
    - Cái nào trong mỗi cặp đó là phạm trù “được đánh dấu”?
    - Có đối lập chính trong văn bản không?
    - Áp dụng phép thử thay thế nhằm nhận biết những ki-hiệu khác biệt và để xác định nghĩa của chúng. Việc này gồm thay thế tưởng tượng một kí-hiệu bằng một kí-hiệu khác của riêng bạn, đánh giá tác động.

    Cấu trúc ngữ đoạn của văn bản là gì?

    - Nhận biết và mô tả cấu trúc ngữ đoạn trong văn bản dạng tường thuật, lí luận và dựng phim.
    - Một kí-hiệu có quan hệ với những kí-hiệu được sử dụng như thế nào? (có ảnh hưởng hơn những kí-hiệu đó).
    - Việc sắp xếp theo không gian và thời gian của những yếu tố ảnh hưởng đến nghĩa như thế nào?
    - Văn bản có được hình thành có đặc điểm của biểu thức không?
    - Nếu bạn so sánh nhiều văn bản trong phạm vi một thể loại, hãy tìm một ngữ đoạn dự phần.
    - Việc nhận biết hệ biến hóa và ngữ đoạn giúp bạn hiểu văn bản bao xa?

    Các phép chuyển nghĩa có tính chất tu từ.

    - Những phép chuyển nghĩa (vd: ẩn dụ và hoán dụ) gì có liên quan?
    - Chúng được sử dụng như thế nào để tác động vào việc đọc ưu tiên?

    Trung gian nguyên bản

    - Nó có ám chỉ đến những thể loại khác không?
    - Nó có ám chỉ hoặc so sánh với những văn bản khác trong phạm vi thể loại đó không?
    - Nó so sánh với việc xử lí những chủ đề tương tự trong phạm vi những thể loại khác như thế nào?
    - Một mật mã trong một văn bản (như chú thích bằng ngôn ngữ một quảng cáo hay tin tức bằng hình ảnh) có “bỏ neo” một văn bản khác (hình ảnh) không? Nếu có thì như thế nào?.

    Những mật mã dấu hiệu học gì được sử dụng?

    - Các mật mã có khớp nối kép, khớp nối đơn hoặc không khớp nối không?
    - Các mật mã là tương tự hay số?
    - Những qui ước nào về thể loại nào của nó là rõ ràng nhất trong văn bản?
    - Mật mã nào là cụ thể đối với trung gian đó?
    - Mật mã nào tham dự vào những trung gian khác?
    - Mật mã được gộp có quan hệ như thế nào với nhau (vd: từ ngữ và hình ảnh).
    - Các mật mã là truyền thông rộng hay hẹp?
    - Những mật mã nào đáng chú ý bởi sự vắng mặt của chúng?
    - Văn bản cố gắng thiết lập quan hệ gì với độc giả?
    - Phương thức bày tỏ có tính chất trực tiếp như thế nào và ý nghĩa của việc này là gì?
    - Bạn sẽ mô tả phương thức bày tỏ như thế nào nữa không ?
    - Những giả định văn hóa gì được đề cập?
    - Những mật mã này thân thuộc đối với ai nhất?
    - Điều gì có thể xem là đọc ưu tiên?
    - Điều này phản ảnh hoặc lệch khỏi những giá trị văn hóa thống trị bao xa?
    - Dấu hiệu có xu hướng “mở” như thế nào đối với diễn giải?

    Dấu hiệu học xã hội

    - Phân tích cấu trúc thuần túy giảm nhẹ hoặc phớt lờ điều gì?
    - Ai đã sáng tạo dấu hiệu? Hãy cố gắng xem xét mọi điều có liên quan trong quá trình đó.
    - Nó biểu đạt hiện thực của ai và nó loại trừ hiện thực của ai?
    - Nó nhằm vào ai? Hãy tìm hiểu những manh mối và cố gắng càng chi tiết càng tốt.
    - Người ta diễn giải dấu hiệu khác nhau như thế nào? Rõ ràng là điều này cần phải điều tra trực tiếp.
    - Những diễn giải của họ dựa vào điều gì?
    - Minh họa, khi có thể, việc đọc thống trị, đọc dàn xếp và đọc đối lập.
    - Thay đổi ngữ cảnh ảnh hường đến việc diễn giải như thế nào?

    Lợi ích của việc phân tích dấu hiệu học.

    - Những đóng góp khác của những nhà dấu hiệu học có thể được áp dụng hiệu quả vào văn bản?
    - Phân tích dấu hiệu học văn bản đem lại những hiểu biết sâu sắc gì?
    - Bạn cần những chiến lược gì khác nhằm cân bằng bất cứ thiếu sót nào trong phân tích của bạn?

    Phan Biên dịch.


    ...
    Lần cập nhật cuối: 26/11/2013

Chia sẻ trang này