1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

SHADOW FLIGHTS - Cuộc đối đầu giữa các phi công trinh sát và Vòm Sắt Liên Xô

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi anheoinwater, 23/09/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Những chuyến bay xâm nhập đầu tiên

    Không quân Viễn Đông Hoa Kỳ (FEAF) là đơn vị đầu tiên thực hiện bay xâm nhập bí mật để đáp trả việc Liên Xô phong tỏa Berlin . Họ bắt đầu vào mùa xuân năm 1949, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của tư lệnh FEAF. Hai trung úy thuộc Phi đội trinh sát chiến thuật 8 đóng quân tại Yokota Nhật Bản đã được lựa chọn để thực hiện "một cách cẩn thận có kiểm soát những chuyến bay trinh sát đặc biệt " theo dõi không quân Liên Xô tại Viễn Đông. Một trong những phi công đó là Trung úy Bryce Poe II. Những chiếc RF-80A sử dụng cho các chuyến bay đã được cải tiến mang theo thùng xăng phụ đặc biệt để tăng tầm bay, nhưng thứ này làm cũng làm tăng trọng lượng và giảm tính cơ động của máy bay. Các nhiệm vụ ban đầu chỉ là bay vào các quần đảo Kurile và Sakhalin, sau đó họ tổ chức bay thẳng vào lục địa Liên Xô.


    Vladivostok.[/COLOR][/SIZE][/FONT]



    Poe nhớ lại: "Tất cả các khu vực có những mục tiêu quan trọng của Liên Xô đều có nhiều sân bay quân sự với rất nhiều máy bay." Một vài sân bay đậu kín mít những chiếc P-39 và P-63, xếp hàng dọc mũi chiếc này sau đuôi chiếc kia, những chiếc máy bay này đã được Hoa Kỳ cung cấp cho Liên Xô theo chương trình Lend Lease trong Thế chiến II. Tuy nhiên, Poe lưu ý, cũng có rất nhiều máy bay chiến đấu loại mới hơn của Liên Xô, La-9 và La-11.



    Mặc dù những chiếc RF-80A có lợi thế là bất ngờ, họ thỉnh thoảng cũng bị săn đuổi bởi những máy bay chiến đấu của Liên Xô. Poe nhớ lại: "Mặc dù sử dụng động cơ piston cánh quạt, La-11 có đủ tính năng để chúng tôi phải hết sức cảnh giác mỗi khi họ bay lên nghênh cản, bởi chúng tôi khá nặng nề với những thùng xăng phụ DP dài ngoằng gắn trên chiếc RF-80A." Kết quả của các chuyến bay đôi khi khá bất ngờ. Trong một trường hợp, nguồn tin tình báo cho biết họ thấy một tên lửa dựng thẳng đứng trên một bệ phóng. Một phi vụ RF-80A đã cấp tốc cất cánh đi chụp ảnh nơi nghi ngờ có bệ phóng tên lửa. Khi ảnh chụp được rửa, quả "tên lửa" đáng sợ hiện ra, đó là một bức tượng lớn tạc ông Lenin.



    Những chuyến bay xâm nhập đã được thực hiện trong khi vẫn phải đối mặt với những thiếu sót lớn về kỹ thuật và hậu cần. Các máy ảnh ban đầu được thiết kế để sử dụng cho máy bay trinh sát động cơ cánh quạt, chúng không thể cung cấp đủ tốc độ chụp cần thiết để lập hình ảnh nổi vì tốc độ của RF-80A cao hơn. Phụ tùng được cung cấp ngắn hạn, trong khi sự hao mòn kinh khủng của các thiết bị mặt đất và trên không được ghi nhận. Đã xảy ra tình trạng “nhận nhầm” giữa các đơn vị. Sự thiếu hụt và gián đoạn tiếp liệu đã gây khó khăn cho việc lên lịch trình công tác của các đơn vị. Đối với nhân viên quân sự và gia đình họ, cuộc đình công của công nhân cảng biển Mỹ đồng nghĩa với việc thực phẩm chỉ được cung cấp nhỏ giọt. Họ phải cố gắng bổ sung bằng thịt bò muối đóng hộp Úc, cá thịt trắng Nhật Bản, và "những hộp khẩu phần khô của lính tác chiến."



    Thời gian này, quan hệ Mỹ-Liên Xô, cũng như tình hình chính trị quân sự ở châu Âu và Viễn Đông vẫn tiếp tục một vòng xoáy đi xuống. Những nỗ lực của Liên Xô để buộc các nước Phương Tây chấp nhận những điều kiện của họ về vấn đề nước Đức đã không thành công. Việc phong tỏa Berlin đã được dỡ bỏ vào ngày 11 tháng 5 năm 1949 khi những nỗ lực của Liên Xô kết thúc trong thất bại hoàn toàn. Tổ chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) được thành lập, và Cộng hòa Liên bang Đức cũng được chính thức thành lập. Liên Xô phản ứng bằng cách tạo ra Cộng hòa Dân chủ Đức trong vùng chiếm đóng của họ. Việc phân chia Berlin, phân chia nước Đức, và phân chia chính Châu Âu bây giờ đã chính thức hóa.



    Thời gian này, tình hình quân sự cũng thay đổi. Ngày 23 Tháng 9, một tuyên bố ngắn gọn được phát hành bởi Nhà Trắng: "Chúng tôi có bằng chứng cho thấy trong vòng vài tuần gần đây, một vụ nổ nguyên tử đã xảy ra ở Liên Xô." Cuộc chạy đua vũ trang giờ đây đã bắt đầu. Cuộc thử nghiệm "Joe-1", được ghi nhận bởi Không quân Mỹ và Không quân Hoàng gia Anh (RAF) bằng máy bay thời tiết, cho thấy bom nguyên tử Liên Xô là một bản sao thiết kế của Mỹ. Những sóng xung kích từ các thử nghiệm đã được phát hiện. Dữ liệu này chỉ ra rằng cuộc thử nghiệm đã diễn ra gần Semipalatinsk, vùng Trung Á Liên Xô. Vào ngày 1 tháng 10, 1949, Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập. Trung Quốc đại lục đã rơi vào tay cộng sản, và các lực lượng quốc gia còn lại của Trung Quốc dưới quyền Tưởng Giới Thạch phải bỏ trốn sang Đài Loan. Stalin là bây giờ tự tin hơn về quyền lực của Liên Xô, ông ta cảm thấy ít lo ngại hơn trong bất kỳ phản ứng nào của phương Tây trước các hành động quân sự của Liên Xô. Ông ta quyết định hành động tại Triều Tiên.



    Ngày 25 tháng 6 - 1950, quân đội Bắc Triều Tiên, được hỗ trợ bởi xe tăng do Liên Xô cung cấp, tấn công Hàn Quốc. Cuộc tấn công là một bất ngờ hoàn toàn, buộc quân đội Hàn Quốc trang bị yếu kém và các đơn vị Hoa Kỳ mới đến từ Nhật Bản phải rút lui liên tục. Sau sự bùng phát của Chiến tranh Triều Tiên, các phi công trinh sát Mỹ được cảnh báo cấm tuyệt đối bay vào không phận của Liên Xô hay Trung Quốc. Poe và các phi công khác bỗng dưng thấy mình phải hoạt động theo hai bộ quy tắc. Muốn chụp ảnh cây cầu qua sông Áp Lục, phi công phải bay sát góc theo biên giới Trung Quốc. Để chụp ảnh sân bay Antung, một phi công RF-80A đã phải hạ cánh tà máy bay, bay ở tốc độ chậm, và ngắm máy ảnh vào một góc xiên qua biên giới Trung Quốc.


    RF-80A là phiên bản trinh sát của chiếc tiêm kích phản lực sơ khai Mỹ: F-80 Shooting Star.
    Ảnh một chiếc RF-80A, điểm phân biệt rõ ràng nhất với F-80 là hộp chứa camera màu đen ở mũi máy bay.

    [​IMG]
  2. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Vào tháng Tám năm 1950, Poe được gọi quay về Yokota mười ngày để bay những phi vụ đặc biệt nhằm vào các sân bay của Liên Xô. Ông kể rằng mệnh lệnh đưa xuống cho ông "dường như trái ngược hoàn toàn với những gì tôi đã được huấn luyện để thực hiện”. “Tôi từng bay vào đất họ, phá vỡ sự yên bình tạm thời trong những nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo. Nhưng một phi vụ chiến đấu thời chiến thì sẽ khó khăn hơn để có thể hoàn thành nhiệm vụ và nguy cơ rủi ro cũng tăng cao. " Poe đã bay ra khỏi sân bay Misawa đi trinh sát các mục tiêu ở Kurile, Sakhalin, và khu vực Vladivostok. Ông nhớ lại sau đó: "Trong một trường hợp ngoại lệ, ở một sân bay mới, tôi phát hiện sự thay đổi về cả số lượng và chủng loại máy bay, họ bay lên nghênh cản tôi một cách hung hăng hơn trước, nhưng vẫn không khó để né tránh." Nhiệm vụ vẫn hoàn thành, Poe trở về phi đội của mình và "tiếp tục những nỗ lực khó khăn để bay một cách đúng luật (không được xâm phạm biên giới Trung Quốc-Liên Xô) mà vẫn chụp được những tấm ảnh hữu ích."



    Sự thất bại ban đầu của Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên gây ra lo ngại về một cuộc chiến rộng hơn nên những chuyến bay xâm nhập bí mật được mở rộng. Vào ngày 28,1950, một tháng sau khi Bắc Triều Tiên bắt đầu tấn công, Tham mưu trưởng liên quân (JCS) gửi một bản ghi nhớ tới Bộ trưởng Quốc phòng Louis Johnson yêu cầu cho phép do thám các khu vực bờ biển Trung Quốc. Bản ghi nhớ lưu ý: Điều này rất quan trọng giúp chúng ta biết trước và sẵn sàng ứng phó nếu cộng sản có ý định khởi động một cuộc tấn công đổ bộ chống lại Đài Loan.Những thông tin hiện tại mà chúng tôi có không đủ để đảm bảo đánh bại một cuộc tấn công như vậy nếu nó xảy ra .... Đây chỉ là một mối hoài nghi, tuy nhiên, chúng ta có thể thẩm định thông tin trên bằng việc chụp ảnh trinh sát." Biên bản kết luận: "Chúng tôi đề nghị giải phóngcác rào cản chính trị, cho phép Tham mưu trưởng liên quân ra lệnh trực tiếp cho Tổng tư lệnh Viễn Đông để thực hiện các chuyến bay trinh sát định kỳ, chụp ảnh các vùng ven biển Trung Quốc dưới vĩ độ 32.”

    Tổng thống Truman đã gửi yêu cầu này đến Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) để xem xét. Vào ngày 2 tháng 8, đại diện của các cơ quan quốc phòng và nhà nước đã đạt được thỏa thuận về yêu cầu được bay xâm nhập. Ngoại trưởng Dean Acheson lưu ý JCS phải yêu cầu Tổng tư lệnh Viễn Đông thực hiện các nhiệm vụ trinh sát "xa bên ngoài lãnh thổ nước Trung Quốc đến mức tối đa có thể”, mặc dù Acheson nói ông biết rằng "sự hạn chế này sẽ khó thực hiện. " Ông tiếp tục: "Điều đó rất quan trọngđể tránh cho chính quyền mang tiếng rằng Hoa Kỳ đang thực hiện những nỗ lực một cách có chủ ý để xâm nhập vào Đại Lục bằng máy bay quân sự Hoa Kỳ."

    Để tránh tai tiếng ấy, Acheson khuyến cáo các chuyến bay xâm nhập phải bị hạn chế trong các khu vực ven biển và không bao gồm các mục tiêu sâu trong nội địa, nơi mà không có gì có thể bào chữa cho một sự vi phạm nghiêm trọng." Ông lưu ý rằng ông "mong muốn" các chuyến bay sẽ được thực hiện "bằng những chuyến bay đơn độc với tốc độ cao.Trong khi phi công được quyền tự bảo vệ mình, anh ta sẽ phải cố gắng để tránh né các cuộc tấn công bằng mọi cách có thể." Trinh sát bởi cả một đội hình máy bay vào Đại Lục "sẽ tạo ra các vấn đề chính trị rất nghiêm trọng" và "cái giá phải trả sẽ cực kỳ nặng nề” cho chính phủ Hoa Kỳ "

    Ngày 03 Tháng 8, NSC họp để thảo luận về nhiệm vụ được đề xuất, và các thành viên của họ đã phê duyệt nhiệm vụ. Các phi vụ trinh sát chống lại Trung Quốc được cất cánh trong vòng một vài tuần. Bảng báo cáo thông tin tình báo cho Tổng thống Truman ngày 25 tháng 8 ghi nhận: "Trinh sát trên không đã không phát hiện bất kỳ sự gia tăng mật độ tàu bè nào tại các cảng đối diện Đài Loan." Điều này ám chỉ rằng Trung Quốc không có kế hoạch tấn công qua đường biển.Tiềm năng của trinh sát trên không đã được chứng minh.

    Lực lượng Không quân cũng hướng sự quan tâm vềtương lai của Trinh sát xâm nhập. Vào mùa thu năm 1950, Đại tá William A. Adams, giám đốc tình báo tại trụ sở chính của SAC, đã gửi một bản dự thảo nghiên cứu đến Thiếu tướng CP Cabell, giám đốc tình báo lực lượng không quân, báo cáo về khả năng bay xâm nhập vào Liên Xô. Bản nghiên cứu mô tả bốn chuyến bay bằng máy bay trinh sát RB-45C. Ba chiếc đầu sẽ được xuất phát từ Tây Đức và trinh sát khu vực Murmansk ở phía tây bắc Liên Xô - đó là điểm gần nhất với bờ biển phía Đông Hoa Kỳ - cũng như các khu vực Leningrad-Moscow. Chiếc thứ tư sẽ cất cánh từ Nhật Bản và trinh sát bán đảo Chukotski, đối diện <st1:State w:st=[/IMG]Alaska.



    Một đánh giá về bản nghiên cứu này đã lưu ý rằng bản nghiên cứu chưa có giải thích thỏa đáng nào về tính cần thiết của các thông tin, về sự sẵn sàng của các phương tiện để thực hiện nhiệm vụ, hoặc giá trị của các chuyến bay. Ba phi vụ từ Tây Đức sẽ cập nhật các bức ảnh GX và cung cấp thông tin mục tiêu mới cũng như dữ liệu về hệ thống phòng không của Liên Xô. Phi vụ thứ tư được coi là có giá trị nhiều hơn, vì hiện thời không có thông tin nào về khu vực này,”bản đánh giá ghi nhận,tuy nhiên, những phi vụ này không thể thực hiện mà không bị phát hiện và có nguy cơ mất mát máy bay cùng phi hành đoàn.



    Bản đánh giá cũng lưu ý các vấn đề chính trị cần thiết cho các chuyến bay. "Bởi vì các tác động chính trị liên quan mật thiết với kết quả chuyến bay, Không quân không được phép thực hiện các phi vụ này mà không tham chiếu ý kiến các bộtrong chính phủ.Với kinh nghiệm trước đây của chúng tôivới Bộ Ngoại giao về các vấn đề thuộc loại này thì cơ hội của chúng ta về việc phê duyệt kế hoạch trên vào thời điểm này được cho là bằng không. Vì vậy, chúng tôi khuyến cáo không nên thực hiện hành động cho RB-45C trinh sát Liên Xô cho đến khi có tư duy chính trị thuận lợi hơn đối với các đề xuất như vậy.



    Tướng Cabell làm một văn bản trả lời chính thức cho nghiên cứu của Đại tá Adams vàongày 05 tháng 10 1950: "Tôi dự đoán nó sẽ không được chấp nhận bởi Phòng tác chiến Không quân, hoặc JCS, Bộ Quốc phòng, hoặc chính phủ." Cabell không nhận biết được rằng ông sẽ được ghi vào sách sử nếu ông ủng hộ và thúc đẩy kế hoạch trên. Ông tiếp tục: "Nếu SAC muốn chính thức yêu cầu việc đó bằng mọi cách, tôi sẽ khuyên họ từ bỏ.Và trừ khi SAC đưa ra yêu cầu cụ thể, tôi sẽ không chuyển kế hoạch này lên trên." Ông kết thúc bằng việc lưu ý: "Nên dẹp hoàn toàn sang một bên những mong muốn hoàn thiện khả năng Trinh sát của SAC, cho đến khi nào nó trở nên cần thiết hoặc có ít phản đối hơn."



    Mặc dù Tướng Cabell từ chối nghiên cứuRB-45, tình báo không quân vẫn tiếp tục tìm cách thực hiện các chuyến bay xâm nhập sao cho tránh được những vướng mắc về chính trịvì các máy bay có người lái trên đó. Điều này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng máy bay không người lái, nhưng vấn đề đó đã trở thành vấn đề kỹ thuật và cần có thời gian để hoàn thành chúng. Các tên lửa hành trình Snark có thể được trang bị máy ảnh và được hướng dẫn bởi một hệ thống dẫn đường quán tính, nhưng nó vẫn chưa sẵn sàng cho đến tận năm 1953. Vệ tinh trinh sát vẫn là một tiềm năng xa xôi. Các khả năng trước mắt được dường như chỉ là các khí cầu mang camera trôi từ từ qua Liên Xô, sau đó sẽ được thu lại một khi chúngdạt đến vùng trời phe ta.




    Khinh khí cầu trinh sát ban đầu đxuất hiện vào mùa thu năm 1949, nhưng nó đã bị bỏ ngang do thiếu vốn và những nghi ngờ về tính khả thi của nó. Tuy nhiên,vào tháng 7 năm 1950, CB Moore của Tướng Mills đã làm bốn chuyến bay thử nghiệm khinh khí cầu mang camera, các chuyến bay đã được chứng minh rất thành công. Vào tháng chín, ý tưởng trên được sự ủng hộ của cả hai hội đồng Ủy ban Không quân Chiến lược và Ủy ban tư vấn khoa học Không quân. Họ tin rằng những thiết bị kỹ thuật đã có sẵn và chỉ cần vài thay đổi nhỏ là đạt yêu cầu. Các ủy ban tính rằng các khinh khí cầu trinh sát có thể bắt đầu hoạt động vào cuối năm 1951.



    Vào ngày 9 Tháng 10, chỉ bốn ngày sau khi từ chối nghiên cứu của SAC về các chuyến bay xâm nhập bằng RB-45C vào Liên Xô, Tướng Cabell yêu cầu Thiếu tướng Donald L. Putt, giám đốc nghiên cứu và phát triển, bắt đầu một dự án phát triển khí cầu cùng hệ thống camera. Sựphê duyệt đã có được vào ngày 6 tháng 11. Chương trình thử nghiệm ban đầu được đặt tên mã là Gopher, việc chế tạo các phương tiện thử nghiệm được xếp hạng ưu tiên quốc gia cao nhất:1-A.


    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Copy & Paste từ word qua vẫn lỗi, khoản cách giữa cái đoạn dôi ra một khúc kinh dị. Trông y như spam.>:)
  3. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Đến cuối năm 1950, Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên đã đảo ngược dòng thủy triều của chiến tranh, họ tiêu diệt quân đội Bắc Triều Tiên, hướng về phía bắc vĩ tuyến 38 vốn là đường phân chia Bắc Nam, rồi tiến đến gần biên giới Trung Quốc. Poe một lần nữa nhận lệnh về Nhật Bản thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt. Người phi công kia đã bị giết trong khi thi hành nhiệm vụ và không cònphi công nào khác rành rẽ về các nhiệm vụ kiểu này ngoài Poe. Poe xây dựng tất cả các kế hoạch bay. Ông tư vấn loại thông tin nào là cần thiết, sau đó ông lựa chọn các mục tiêu và làm việctrực tiếp trong công tác chuẩn bị bay, quyết định sử dụng loạicamera nào, ấn định độ cao và thời gian bay. Rồi Poebay đi trinh sát,có lúc ông chúi mũi thẳng xuống đường băng của Liên Xô. Ông thấy rằng, mặc dù chiến tranh đang tiếp tục ở Triều Tiên, chỉ có sự thay đổi nhỏlà phản ứng quyết liệt hơn của lực lượng phòng không Liên Xô. Để phòng ngừa, một máy bay chiến đấu F-80C sẽ đón chiếc trinh sát RF-80A ở nửa chặng đường quay về để cắt đuôi bất kỳ chiếc La-11 nào cố gắng săn đuổi chiếc trinh sát. "Mấy chiếc hộ tống này thật ra chưa bao giờ cần đến," Poe nhớ lại, "nhưng cũng rất yên lòng mỗi khi thấy nó xuất hiện ở đường chân trời."

    Sau khi RF-80A hạ cánh, một sĩ quan có trách nhiệm tráng rửa các đoạn phim mang về. Poe chú thích các bức ảnh, sau đó tự tay mang các tài liệu hình ảnh đó đến cho ba người khác có thẩm quyền biết về các phi vụ xâm nhập: Tướng Douglas MacArthur, tư lệnh FEAF và trợ lý hành quâncủa ông ta (deputy of operations – DO- không biết dịch vậy có đúng không?). Cho đến khi Poe thông báo cho họ thì họ mới biết được những mục tiêu nào vừa được chọn lựa để trinh sát. Đúng là một cấp độ quyền hạn bất thường cho một nhân viên cơ sở như Poe. Khi Poe cảm ơn sĩ quan DO khi ông ta trao quyền hạn rộng rãi cho mình, sĩ quan DO dẫn lời Tướng George S. Patton: "Đừng nói với mọi người phải làm gì, hãy nói với họ những gì bạn muốn có và để cho họ làm bạn ngạc nhiên với sự khéo léo của họ." Khi đợt công tác của Poe gần đến kết thúc, người phi đội trưởng bắt đầu tự tay bay một số chuyến bay xâm nhập Liên Xô. Sau khi Poe quay về nhà vào tháng Giêng năm 1951, phi đội trưởng và các phi công khác đã đủ khả năng tiếp tục nhiệm vụ.

    Những chiếc RF-80A có tốc độ thấp và tầm bay ngắn, còn chiếc máy bay trinh sát RF-84F Thunderflash cao cấp vẫn còn hơn một năm để có thể thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên. Để mở rộng các chuyến bay xâm nhập bí mật, một chiếc F-84 Thundeijet đã được bí mật cải tiến. Chiếc máy baynày thông thường được sử dụng để bay hỗ trợ mặt đất ởchiến trường Triều Tiên, giờ nó được trang bị một camera K-93với ống kính tiêu cự36-inch. Ngày 11 tháng hai năm 1951, chiếc F-84 thực hiện một chuyến bay ngang qua Vladivostok ở cao độ 39.000 feet một cách an toàn.

    Vào thời gian này, các yếu tố chính trị liên quan đến các chuyến bay xâm nhập đã thay đổi. Không chấp nhận các lực lượng Mỹ đang đứng ngay trước cửa nhà họ, người Trung Quốc đã can thiệp vào Chiến tranh Triều Tiên. Cuộc tấn công khổng lồ của họ đã phá vỡ lực lượng Hoa Kỳ và Nam Hàn, đẩy họ về phía nam, đưa ra viễn cảnh một cuộc chiến tranh mở rộng


    Spitfire trên bầu trời Trung Quốc


    Không khí sau vụ tấn công của Trung Quốc là hoảng loạn. Sự sụp đổ bất ngờ của lực lượng Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên trước sự tấn công của Trung Quốc, kết hợp với những thông tin tình báovề các vị trí tập trung lực lượng Liên Xô ở Đông Âu làm cho nhiều nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ tin rằng một cuộc tấn công trên bộ vào Tây Âu và tấn công trên khôngvàolục địa Hoa Kỳ của Liên Xô là một khả năng nghiêm trọng.

    Tổng thống Truman phản ứng bằng cách tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia, khôi phục lại quyền hạn của tổng thống thời chiến tranh (Chú thích thêm: Thời chiến thì tổng thống Mẽo là Tổng tư lệnh quân đội), đưa các đơn vị Vệ binh Quốc gia vàotình trạng sẵn sàng tác chiến (chú thích thêm: với Vệ Binh Quốc Gia, các đơn vị chỉ có bộ khung hoạt động thường trực, khi có tình huống nghiêm trọng mới gọi tập trung quân dự bị cho đầy đủ quân số tác chiến), gọi tướng về hưu Dwight D. Eisenhower trở lạivới vị trí Tư lệnh tối cao lực lượng Đồng Minh tại châu Âu, phụ trách lực lượng NATO. JCS kiểm tralại các kế hoạch chiến tranh và lưu ý các sĩ quan chỉ huy Mỹ về khả năng chiến tranh toàn cầu. Chủ tịch JCS, Tướng 5 sao N. Omar Bradley, chỉ đạo nghiên cứu thực hiện các chuyến bay xâm nhập để phát hiện bất kỳ sự chuẩn bị nào cho một cuộc tấn công của Liên Xô. Đây sẽ không phải là những chuyến bay tắt ngang như trước giờ, chúng sẽ là những chuyến bay sâu vào nội địa Liên Xô.

    Vào cuối tháng mười hai 1950, Chỉ huyphó Không quân Hoa Kỳ, tướng Nathan Twining, thông báo cho Tổng thống Truman về kế hoạch bay xâm nhập. Hai tháng trước, bay xâm nhập ban ngày bằng máy bay có người lái vào Liên Xô được đánh giá là quá rủi ro. Bây giờ, với khả năng một cuộc tấn công hạt nhân vào Hoa Kỳ, người ta cần phải thực hiện những chuyến bay nguy hiểm này. Twining nhớ lại, JCS muốn sử dụng loại máy bay ném bom mới B-47B vừa mới được đưa vào sản xuất. Chiếc máy bay này sẽ được sửa đổi với một module camera đặt trong khoang bom. Hai đường bay ngang đã được đề xuất qua vùng Viễn Đông của Liên Xô: Một để trinh sát các bờ biển phía bắc Siberia. Mộtdo thám các tuyến đường phía Nam, trên các vùng biển gần Nhật Bản. Sau khi xem xét các kế hoạch, Truman đã ký giấy phê duyệt hai phi vụ.

    Ngày 4 tháng 1, 1951, Bộ tư lệnh Không quân phê chuẩn kế hoạch bay xâm nhậpbằng B 47B, dự kiến thực hiện vào mùa xuân năm 1951. Mặc dù kế hoạch ban đầu dự kiến sử dụng hai chiếc máy bay, chỉ có mỗimột trong bốn chiếc B-47Bđang sản xuất là được cải tiến. Định danh là dự án WIRAC, chiếc B-47B số serial 49-2645 đã được giao vào ngày 25 Tháng Tư 1951. Ngoài module chứa camera, chiếc B-47B cũng được trang bị la bàn đặc biệt, thiết bị lái tự động, cùng một con quay hồi chuyển kiểm soát độ cao. Phi công được lựa chọn cho các chuyến bay xâm nhập là Đại tá Richard C. Neeley, một phi công thử nghiệm chiếc B-47.

    Người Anh cũng tham gia vào chương trình bay xâm nhập của Mỹ. Tổng thống Truman tuyên bố với một phóng viên vào ngày 30 tháng 11, ông ta đánh tiếng rằng Hoa Kỳ đang xem xét việc sử dụng bomnguyên tử tại Triều Tiên theo đề xuất của tướng Douglas MacArthur. Đáp lại, ************** Anh Clement Attlee đã bay tới Washington DC. Ông đến vào ngày 4 tháng 12 và mang về sự bảo đảm rằng Truman sẽ không ưu tiên xem xét việc sử dụng vũ khí hạt nhân, và rằng bất kỳ quyết định quan trọng nào cũng sẽ do tổng thống đưa ra, không phải do MacArthur. ************** Atdee nhấn mạnh rằng chống lại Trung Quốc bằng một cuộc chiến tranh có giới hạn sẽ tránh choChâu Âu khỏi một cuộc tấn công từ Liên Xô.

    Vào ngay lúc đó, hoặc ngay sau đó, Truman và Atdee bí mật đồng ý phân chia vùng trách nhiệm trên toàn thế giới cho hoạt động bay xâm nhập, và liên kết thực hiện một chương trình do thám chống lại Liên Xô. Hoa Kỳ sẽ cung cấp cho Anh những chiếc RB-45C cũng như đào tạo phi công cho Không quân Hoàng Gia để tiến hành bay xâm nhập. Người ta không biết liệu Truman đã từng thật sự có ý định sử dụng vũ khí hạt nhân tại Triều Tiên hay không? Nhưng nó được cho là có khả năng.



    *******: Mấy cái sao này là chữ: Thủ-Tướng. Có lẽ chữ Thủ-Tướng đối với người Việt mang ý nghĩa xấu xa quá nên ttvnol phải đưa vào bộ lọc.=))=))=))
  4. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Các thỏa thuận giữa Truman và Attlee đã sớm được đưa vào thi hành với sự khẩn trương cao độ. Trung úy Không quân Hoàng gia Edward C. Powles là sĩ quan chỉ huy Phi đội 81 Không quân Hoàng gia đóng ở Kai Tak, Hong Kong, ông kể lại: Ngay từ trước Giáng sinh năm 1950, họ đã đưa vào hoạt động hai chiếc máy bay trinh sát Spitfire Mk.19. Hai camera F-52 được lắp vào những chiếc Spitfire, mỗi cái có một ống kính 36 inch
    Trong hai tuần đầu tiên sau khi Powles đến nhận nhiệm vụ, ông khôngnhận được bất kỳ lệnh lạc hoặc hướng dẫn công tác nàocho nhiệm vụ của mình. Sau đó, vào giữa tháng năm 1951, một chuyên viên không ảnh của Không quân Hoàng gia đi vào văn phòng của ông, đặt một bản đồ trên bàn làm việc và hỏi liệu Powles có thể bay vài phi vụ trinh sát trên các đảo của Trung Quốc hay không? Họ thảo luận về quy mô cần thiết của các bức ảnh và Powles nói rằng ông rất vui mừng nhận nhiệm vụ. Bây giờ Powles đã được biết công việc của mình. Powles đã bay chuyến xâm nhập đầu tiên vào Trung Quốc vào ngày 16 Tháng 1 năm 1951. Đến cuối tháng, ông đã hoàn thành ba thêm ba chuyến nữa, thêm một chuyến thứ tư vào tháng hai. Tất cả các chuyến bay được thực hiện ở độ cao 30.000 feet. Sau đó Powles được hỏi liệu ông có thể chụp những hình ảnh ở cao độ thấp vào một sân bay trên đất liền của Trung Quốc hay không?Thế là ông đã làm sáu chuyến bay như vậy trong tháng ba và tháng tư. Vào giữa tháng Năm, Powles được triệu tập đến trụ sở của không quânở Hồng Kông. Ở đó, ông dự một buổi họp với hạm trưởng Black, một sếptình báo hải quân Mỹ, một đô đốc hải quân Mỹ, hai thường dân Mỹ, và một Trưởng Không đoàn RAF. Họ yêu cầu Powles chụp ảnhcảng Yulin, khu vực bến tàu và sân bay trên đảo Hải Nam. Họ nói thêm rằng họ không có thẩm quyền cho phép Powles bay xâm nhập vào Trung Quốc, nên nếu ông đồng ý, điều này sẽ được xem như là hành động tự ý của ông. Mọi chuyến bay đều phải được thực hiện với độ cao 30.000 feet. Nếu ông đồng ý thực hiện chuyến bay, người ta hứa với Powles, một tàu khu trục của Hải quân Mỹ sẽ được bố trí ngoài đảo Hải Nam và một thủy phi cơ Sunderland của Không quân Hoàng gia cũng sẽ luôn sẵn sàng hỗ trợ cứu nạn. Powles nói với họ là ông sẽ phải lập kế hoạch cẩn thận cho nhiệm vụ này, vì nó gần tới giới hạn tầm bay của loại Mk.19 Spitfire, ông còn phải tính toán số lượng và chiều dài chặng đường cần thiết để trinh sát các mục tiêu trong khu vực. Ông nói rằng ông không muốn thực hiện một chuyến bay thẳng trực tiếp từ Hồng Kông đến Yulin rồi trở lại, và ông muốn thay đổi ám danh của mình một khi đã bay ra khỏi không phận Hong Kong. Thời điểm bay xâm nhập sẽ phụ thuộc vào dự báo thời tiết, thứ không đáng tin cậy ở khu vực đảo Hải Nam. Powles được cho biết, tàu khu trục và chiếc Sunderland cầnđược thông báo trước 24 giờ để tiển khai vào vị trí. Powles xây dựng hiện kế hoạch bay cơ bản, sau đó thảo luận với Hạm trưởng Black. Họ đã nhất trí về các ám danh, thủ tục và tần số vô tuyến điện, tất cả đều theo chuẩn của Hải quân Hoa Kỳ. Tất cả những gì còn lại bây giờ là chờ thời tiết tốt. Vào sáng ngày 21 tháng 5, dự báo cho biết thời tiết thuận lợi, Powles thông báo cho Hạm trưởng Black rằng ông sẽ thực hiệnchuyến bay xâm nhập vào sáng hôm sau. 10:00 giờ sáng ngày 22 tháng 5 năm 1951, Powles cất cánh từ Kai Tak, sau đó bay về phía đông nam năm mươi dặm. Khi ông leo lên đến 30.000 feet, ông nhìn thấy mây mù đã che phủ ở phía tây, trên lục địa Trung Hoa, nhưng bầu trời Thái Bình Dương thì trong sáng. Ông quay về phía tây nam và bay đến một điểm cách đảo Hải Namnăm mươi dặm, nơi chiếc tàu khu trục Mỹ đang chờ đợi. Khi bay, ông nhìn thấy những đám mây dày đặc ở phía tây, sau đó là hànglớp mây ở độ cao 20.000 feet trên phía bắc đảo Hải Nam. Thời tiết đã xấu đi. Năm phút trước khi đến điểm đổi hướng tiếp theo, Powles, sử dụng giọng nói và ám danh Mỹ, gọi qua sóng radio để kiểm tra thời tiết. Đây là tín hiệu cho chiếc tàu khu trục và đội bay Sunderland biết là ông đã đến khu vực và bắt đầu hướng vào đảo. Sau đó Powles đổi hướng và bay bốn mươi dặm về phía tây-tây bắc, rồi hướng chiếc Spitfire thẳng lên phía bắc. Powles chỉ còn khoảng mười dặm đến đảo Hải Nam, ông nhìn thấy một tầng mây mỏng trên bờ biển. Tầng mây cao 28.000 feet. Mặc dù Powles biết rằng trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng không nên bay thấp hơn độ cao này trong các điều kiện thời tiết và ánh sáng không tốt,ông vẫn quyết định hạ xuống 27.000 feet ngay dưới các đám mây. Độ cao thấp hơn 3.000 feet so với kế hoạch ban đầu. Powles chuẩn bị baytrên đảo theo ba đường bay ông đã đánh dấu trên bản đồ của mình, và bắt đầu thay đổi các thiết lập trước đó trên bộ điều khiển camera. Sau đó Powles quay lại hướng thẳng vàocảng Yulin, bay đến điểmkhởi đầu chụp ảnh và bắt đầu quay camera. Trong khi camera đang quay với những ánh đèn kiểm soát nhấp nháy theo lịch trình quay định trước, Powles căng mắt quan sát xem có bất kỳ máy bay Trung Quốc nào hay không, nhưng chúng không xuất hiện. Tiếp cận điểm kết thúc của đường bay đầu tiên, Powles lộn chiếc Spitfire về bên phải của nó để kiểm tra chắc rằng ông đã quay hết khu vực, sau đó ông hướng vào đường bay thứ hai. Khi đường bay thứ hai hoàn thành, Powles cảm thấy rằng ông đã chụp ảnh hoàn toàn khu vực vịnh và bến tàu. Ông phát hiện ra sân bay, nó nằm xa khu vực cảng hơn là ông mong đợi. Ông quyết định bay theo một hành trình mới trực tiếp thẳng qua cánh đồng. Ở giữa chặng đường bay thứ ba, ông chợt nhìn thấy ánh sáng mặt trời nhấp nhoáng phản chiếu từ hai chiếc máy bay Trung Quốc, chúng tiếp cận theo một hướng đánh chặn từ phía bắc. Ông vẫn bay hết đường bay thứ ba, sau đó đẩy hết ga, kéo hết cần điều khiển ra sau và leo lên những đám mây. Bây giờ ông đã tránh khỏi mọi con mắt từ bất kỳ máy bay Trung Quốc nào, Powles tắt camera, lao ra ngoài khu vực nguy hiểm, bay về một điểm khoảng năm mươi dặm cách đảo Hải Nam. Khi tới khu vực an toàn, ông thông báo qua radio một số thông tin thời tiết để giả vờ như là một máy bay khí tượng của Hoa Kỳ, điều này cũng là tín hiệu cho biết ông đã hoàn thành nhiệm vụ bay xâm nhậpđang trở lại Hồng Kông. Cả tàu khu trục và chiếc Sunderland đều nhận được tin nhắn


    Mặc dù Powles đã hoàn thành nhiệm vụ, một thách thức lớn xuất hiện là chính chiếc Spitfire. Kế hoạch bay ban đầu cho phép dự trữ nhiên liệu hai mươi phút để bay về Hồng Kông. Do thời gian kéo dài hơn trong đường bay thứ ba, thậm chí nếu bây giờ bay theo một tuyến đường thẳng trực tiếp thì cũngcòn lại chỉ có năm phút nhiên liệu. Khi Powles bay trở về, ông từ từ hạ xuống 22.000 feet, đó là độ cao ít hao nhiên liệu nhất của chiếc Spitfire. Ông nhanh chóng chìm vào những đám mây mà ông đã nhìn thấy trên chặng đi. Trông ra ngoài buồng lái, Powles nhìn thấy băng hình thành trên mép cánh. Ông biết ông không có nhiên liệu để leo lên trên đám mây băng giá.Do đó ông xuống đến 15.000 feet, làm giảm thời gian còn nhiên liệu vốn đãrất ít ỏi. Sự tích tụ của băng dừng lại, nhưng nó cũng chẳng tan ra cho đến khi ông rời đám mây


    Vào lúc Powles tiếp cận Hồng Kông, ông còn chưa đến năm gallon nhiên liệu. Ông gọi tháp điều khiển không lưu Kai Tak yêu cầu hạ cánh khẩn cấp trên đường băng 31. Yêu cầu này bị từ chối vì nơi đó đang gió thổi ngang tốc độ từ 12 đến 17 hải lý/giờ . Ông được yêu cầu hạ cánh xuống đường băng 07, một đường băng ngắn, lại có các tòa nhà cùng các ngọn núi ở cuối đường chạy, ông sẽ đâm sầm vào chúng nếu không thể dừng lại cuối đường băng.Khi Powles bắt đầu tiếp cận, kim đo nhiên liệu đã chỉ về không. Ông quay mũi hướng vào đường băng và hạ càng đáp. Trước khi ông hạ cánh tà, động cơ tắm ngấm vì hết nhiên liệu. Chiếc Spitfire hạ thẳng xuống mặt cỏ, sau đó chạy thẳng lên đường băng rồi dừng lại. Tổng thời gian chuyến bay là ba giờ ba mươi phút.
  5. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Đến cuối năm 1951, Powles đã hoàn thành 63 nhiệm vụ trên không phận Trung Quốc,trong đó có bốn phi vụ đặc biệt. Trong mỗi phi vụ đặc biệt như vậy, ông luôn được nhắc nhở rằng ông không có được sự uỷ quyền chính thức từ các cơ quan cấp trên,có nghĩa phi vụ sẽ được thực hiện dưới danh nghĩa là theo ý của riêng Powles. Hầu hết các chuyến bay được thực hiện ở độ cao 30.000 feet. Bất cứ khi nào Powles nhìn thấy có máy bay đang hướng về chiếc Spitfire của mình, ông lập tứckéo lên cao và quay ra phía bờ biển. Chỉ sau khi chắc chắn rằng chúngcó ý ngăn chặn mình, ôngmới quay trở lại đường bay cũ.

    Powles tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bay xâm nhập vào mùa xuân năm 1952, mặc cho có một số tin đồn gây lo âu. Ông nghe nói một Trung tướng Không quân vừa được bổ nhiệm đến Singapore đã nhìn thấy một số tấm không ảnh Trung Quốc và bắt đầu điều tra xem ai cho phép thực hiện các phi vụ này. Tin đồn tiếp theo là ông ta đã thành lập một phiên tòa để xử lý trách nhiệm các sĩ quan dính đến vụ này.Powles dự kiến sẽ bị gọi về Singapore để đối diện với tòa án quân sự. Mỗi lần điện thoại reo lên, ông đều nghĩ là mình sắp nhận tin xấu. Đầu tháng sáu 1952,ông nhận được một cú điện thoạido đích thân Đại tướng Không quân Bonham-Carter gọi, ông ngay lập tức nghĩ rằng thôi thế là toi đời. Tuy nhiên, người gọi nói: anh! Nữ hoàng Anh Quốc đã tưởng thưởng cho anhHuân chương Thập giá Không quân ." Powles bảongài Đại tướng chắc là ông gọi nhầm số rồi, nhưng người gọi đảm bảo với Powles rằng ông đã được ban thưởng. Powles cũng được ông ta mời đi ăn trưa và được về phép một tuần với vợ và con trai ông ở Anh quốc.



    Cuối tháng Sáu, Powles đến Singapore để được chúc mừng bởi những sĩ quan Không quân Hoàng gia và Hải quân Mỹ cùng các quan chức dân sự cao cấp. Giữa những lời khen tặng tràn ngập, ông không thấy người ta đề cập đến bất kỳ điều gì liên quan đến khu vực ông đã chụp ảnh. Thật vậy, bản đề tặng Huân chương Thập giá Không quân ghi: "Ngoài nhiệm vụ trinh sát không ảnh của mình, ông đã thực hiện các chuyến bay trinh sát khí tượng trong thời tiết khắc nghiệt và một số nhiệm vụ đặc biệt khi cần, một cách lâu dài và gian khổ, cùng với các hoạt động chuyên chở." Các chuyến bay trinh sát gần như bị lược bỏ đi trong đám ngôn từ ấy.



    Vào tháng 9 năm 1952, hầu như tất cả các mục tiêu tình báo quan trọng dọc theo bờ biển Trung Quốc từ khoảng 400 dặm về phía tây nam của Hong Kong cho tới 160 dặm về phía đông bắc đã được chụp ảnh.Khu vựctrinh sát cụ thể lên tới 100 dặm bên trong đại lục. Tổng số phi vụ của Powles là 107 chuyến trinh sát. Bổ sung cho Powles, các chuyến bay xâm nhập vào các đảo ven biển Trung Quốc đã được thực hiện bởi các phi công khác cùng đơn vị. Họ được sự cho phép bởi Powles, nhưng ông luôn thích tự mình thực hiện các chuyến bay tầm xa. Những yêu cầungày càng tăng khiến Powles phải bay vượt quá giới hạn thiết kế chiếc Spitfire. Hai chuyến bay xâm nhập đảo Hải Namđã kết thúc theo kiểu “deadstick landing” tại Kai Tak, và trên hai chuyến khác ông đã không còn nhiên liệu cho máy bay chạy vào bãi đỗ sau khi hạ cánh.



    (Chú thích thêm: deadstick landing: Thuật ngữ chỉ việc hạ cánh khi động cơ đã tắt vì một lý do bất kỳ, thường do hết nhiên liệu hoặc do hỏng động cơ. Khi đó máy bay hạ cánh như tàu lượn)




    Những chuyến baythi hành nhiệm vụ đặc biệt của Không quân Hoàng gia bằng máy bay RB-45C vào lãnh thổ Liên Xô

    Những chuyến bay của Powles vào Trung Quốc là thành quả đầu tiên của thỏa thuận bay xâm nhập giữa Truman-Attlee, nhưngnó chỉ là sự bắt đầu của những nỗ lực lớn hơn nhiều. Vào đầu năm 1951, tướng S. Hoyt Vandenberg Tư lệnh Không quânduyệt cho Không quân Hoàng gia mượn bốn chiếc RB-45C (ba chiếc bay nhiệm vụ và một dự phòng). Họ sẽ bay xâm nhập vào ban đêm trong vùng viễn tây Liên Xô để thực hiệnnhững bức ảnh radarscope của các mục tiêu trong khu vực ấy.



    Trong trường hợp có chiến tranh, SAC và Bộ chỉ huy Không quân oanh tạc Hoàng gia sẽ tấn công vào ban đêm hoặc vàolúc thời tiết xấu để giảm thiểu thiệt hại. Khi ấy họ sử dụng radar để định vị và tấn công mục tiêu. Vì vậy họ cầnxây dựng bản "dự báo radar tổng hợp", đó là hồ sơ phác họa hình ảnh của mục tiêu sẽ như thế nào khinó xuất hiện trên màn ảnh radar. Bởi vì các bức ảnh GX đã được 7-8 tuổi, những dự đoán có thể không chính xác. Điều cần thiết bây giờ là cập nhật các bức ảnh radarscope đối với các căn cứ không quân, các cơ sở công nghiệp và quân sự, và các thành phố trực thuộc Liên Xô.

    Đại tướng Sir Ralph Cochrane phó tư lệnh không quân,được giao trách nhiệm về các hoạt động bay xâm nhập. Trong tháng sáu năm 1951, ông đã yêu cầu phi đội trưởng H.B "Micky" Martin, người đã bay trong Thế chiến II với Phi đội số 617 (được biết đến với cái tên Busters Dam), vạch kế hoạch và dẫn đầu một "chuyến bay thi hành nhiệm vụ đặc biệt." Martin đi gặp Rex Sanders, một trung úy chịu trách nhiệm đào tạo hoa tiêu ở Bộ Hàng không, người đã bay ba mươi ba phi vụ ném bom trên toàn Châu Âu trong Thế chiến II. Martin yêu cầu Sanders giới thiệu một hoa tiêu giỏi. Sanders nhận ra rằng đó là một công tác khá thú vị, vì thế ông nói: "Vâng, tôi đề cử chính tôi." Martin chấp nhận đề nghị của ông.



    Tháng 12,1951, Martin và Sanders đi đến căn cứ RAF Sculthorpe để xem xét những chiếc RB-45C do không lực Hoa Kỳ chuyển giao vài tháng trước. Đó là những máy bay mới toanh. Chuyến bay đầu tiên của loại RB-45C được thực hiện chỉ mới trong tháng tư năm 1950, và chiếc đầu tiên được chuyển giao cho lực lượng không quân là vào tháng Sáu năm 1950. Để cho các máy bay trinh sát được thử nghiệm khả năng trong điều kiện chiến tranh, ba chiếc RB-45C đã được gửi đến Nhật Bản vào cuối tháng Chín năm 1950. Và với việc MiG-15 xuất hiện hai tháng sau đó, loại RB-29 đã không còn có thể hoạt động mà không sợ bị trừng phạt nữa, nên ba chiếc RB-45C này phải gánh hầu hết hoạt động trinh sát.



    Một trong những chiếc RB-45C đã rơi ở Bắc Triều Tiên vào ngày 4 tháng 12 năm 1950. Trên chiếc máy bay là Đại úy phi công Charles McDonough cùng hai nhân viên phi hành khác,vớicả Đại tá John R. Lovell, một sĩ quan tình báo cao cấp của không lực. Một điện tín được gửi vào 17 Tháng 12 1950đến Nguyên soái Stepan Krasovsky tham mưu trưởng quân đội Liên Xô, báo cáo: "Một chiếc máy bay loại B-45 bị bắn hạ vào ngày 12/4/50, rơi xuống một khu vực cách 70 km về phía đông Antung. Chiếc máy bay bốc cháy trong không trung và khi rơi xuống đất thì cháy vụn.. Phi hành đoàn đã nhảy dù, phi công Charles McDonough bị bắt làm tù binh..... Khi bị bắt, anh tađã trong tình trạng bỏng nặng và đang nguy kịch." Điện tín tiếp theo vào ngày hôm sau báo rằng phi công trưởng McDonough đã chết. Cũng không có nhân viên phi hành đoàn nào quay trở về.



    Đến mùa xuân năm 1951, thực tế đã chứng minh rõ ràng là RB-45C thiếu tính năng để có thể đối phó với MiG-15. Ngày 9 tháng tư 1951, hầu như chỉ còn một chiếc RB-45C còn tồn tại sau một loạt vụ tấn công bởi máy bay tiêm kích. Kết quả làFEAF yêu cầu mỗi khi RB-45C thực hiện nhiệm vụ bay trên vùng Tây Bắc Triều Tiên (hay còn gọi là Thung lũng MiG) thì phải có máy bay tiêm kích hộ tống. Trong khi đó, những chiếc RB-45C bay xâm nhập Mãn Châu và Viễn Đông Liên Xô lại không có rủi ro nào.



    Dự án 51, bí danh củamột chuyến bay xâm nhập bằng RB-45C đã được thực hiện vào ngày 09 tháng mười năm 1951. Chiếc máy bay cất cánh từ căn cứ không quân Yokota lúc 10:30 để trinh sát phía nam đảo Sakhalin. Chiếc RB-45C bay ở độ cao 18.000 feet và có thể chụp ảnh tất cả các mục tiêu bằng camera của máy bay,đồng thờinó cũng ghi lại ảnh radarscope. Không có pháo phòng không hay máy bay chiến đấu nào hiện diện, chiếc máy bay đã hạ cánh mà không có sự cốnào tại Yokota lúc 2:40 PM, sau một chuyến bay dài bốn giờ và mười phút.



    Khi các hoạt động bay xâm nhậpyếu dần, tình hình ở Tây Bắc Triều Tiên cũng xấu đi. Ngày 9 tháng 11 năm 1951, đúng một tháng sau chuyến bay ngang đảo Sakhalin, một RB-45C suýt bị bắn hạ trên Thung lũng MiG. Kết quả là FEAF ra lệnh ngưng toàn bộ các chuyến bay RB-45C vào ban ngày ởkhu vực Tây Bắc Triều Tiên.


  6. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208

    Các chuyến bay bằng RB-45C vào Trung Quốc đại lục, đảo Sakhalin, bán đảo Kamchatka và Vladivostok mặc dù số lượngít nhưng cuối cùng cũngphải chuyển sang bay đêm với nhiệm vụ thu thập hình ảnh radarscope. Một trong hai RB-45C còn lại được sơn màu đen đểtránh bị phát hiện bởi các dàn đèn chiếuđiều khiển bằng radar. Mối đe dọa đến với các chuyến bay bây giờ đến từ cả hai phía. Có hai lần, RB-45C bị phát hiện bởi tàu sân bay hải quân hoạt động ngoài khơi bờ biển phía tây Hàn Quốc. Họ cho rằngnó IL-28, một loại máy bay ném bom Liên . Thế là máy bay chiến đấu Hải quân Mỹ lập tức cất cánh đuổi theo, may mà không thành công. Các chuyến bay RB-45C tiếp tục được thực hiện cho đến Tháng Tư năm 1953 mà không có thêm bất kỳ tổn thất nào.

    Khi những sự kiện trên diễn ra, việc bổ sung thêm trang bị mới cho các chuyến bay xâm nhập của Không quân Hoàng gia đã được lên kế hoạch. Mỗi RB-45C yêu cầu một đội bay ba người: Phi công, phi công phụ, và hoa tiêu. Có ba chiếc RB-45C để thi hành nhiệm vụ và một chiếc dự phòng, nên cần 9 nhân viên đội bay tất cả. Ngoài ra, bác sĩ cũng được bổ sung cho các chuyến bay đặc biệt. Họ không phải là tình nguyện viên mà đúng hơn là đã bịấn định xuống đơn vị. Bởi vì đội bay phải bay RB-45C ở độ cao vượt quá 40.000 feet, họ phải trải qua kiểm tra y tế đặc biệt. Trong buổi kiểm tra, phi đội trưởng Martin bị phát hiện có vấn đề về phổi, nó không cho phép ông thực hiện nhiệm vụ. Một chỉ huy mới là cần thiết.

    Vào tháng Bảy năm 1951, phi đội trưởng John Crampton nhận lệnhtừTổng tư lệnh Bộ chỉ huy Không quân Oanh tạc trao cho nhiệm vụ phụ trách các chuyến bay đặc biệt. Ông chuẩn bị sang Hoa Kỳ để huấn luyện chuyển loại. Crampton đã từng bay trên những chiếc oanh tạc cơ Halifax và Whitley trong Thế chiến II, sau đó là các máy bay tiêm kích phản lực Vampire và Meteor trong giai đoạn hậu chiến. Crampton nổi danh về tính tình ngay thẳng và cũng về cái cách ông lái chiếc xe Maserati của mình.

    Crampton và các phi công khác rời căn cứ RAF Sculthorpe trên một chiếc C-97Stratofreighter vào ngày 3,1951, bay đến Căn cứ Không quân Barksdale. Ở đây họ dành ra mười ngày với một phi đội B-45 để làm quen với máy bay, sau đó được đưa tới căn cứ không quân Langley, nơi họ được giới thiệu với phiên bản RB-45C. Ngày 2 tháng 9, họ đi đến Căn cứ không quân Lock-bourne, căn cứ chính của Phi đội Trinh sát Chiến lược 91 (SRS), và bắt đầu khóa học chuyển loại RB-45C, một khóa học ngắn nhưng đầy đủ. Trong thời gian đào tạo, một trong những phi công RAF đã thực hiện một chuyến hạ cánh ban đêm quá mạnh, gây thiệt hại cho chiếc RB-45C khiến nó phải nằm ụ để sửa chữa. Tuy nhiên, phi công cùng các nhân viên phi hành khác không hề hấn gì.

    Hậu quả của vụ tai nạn là Crampton, chỉ huy căn cứngười phi công được đưa tới trụ sở SAC để điều trần trướcTướng Curtis LeMay. Crampton nhớ lại:Tướng LeMay không ưa gì những kẻ đã phá hỏng máy bay của mình, và thực tế ông ta chẳng lắng nghe chúng tôi." Cơn giận dữ của LeMay chủ yếu đổ vào đầungười phi công RAF, anh tabị trả ngay về nhà. Crampton sau này biết rằng tay phi công đó đã có danh tiếng tại đơn vị trước đây của anh tavề trò thực hiện một "pranger" (tiếng lóng của RAF chỉ việc một phi công thực hiện hạ cánh mạnh xuống đường băng),ông loại hẳn anh ta ra khỏi các công tác đặc biệt. Thay thế anh ta là một phi công RAF khác,một anh chàng đã từng bay giao lưu với một phi đội B-45.

    Mặc dù các thành viên của đội thi hành phi vụ đặc biệt đangđược đào tạo, những sĩ quan cao cấp của Không quân Hoàng gia và Không quân Mỹ vẫn chưa chắc chắn về tương lai của họ. Một lá thư từ Đại tướng Không quân Cochrane gửi cho Trung tướng Nathanb L. Twining bày tỏ quan ngại rằng Thủ-tướng Attlee sẽ không phê chuẩn cho mình. Cochrane nói: "Chúng tôi chưa có thỏa thuận chính trị cần thiết choviệc thực hiện toàn bộ dự án." Trong lực lượng không quân, chỉ Vandenberg, Twining, LeMay, và tướng Thomas D. White được biết về kế hoạch. Dĩ nhiên điều này gây ra một số vấn đề. Chỉ có ba mươi ba chiếc RB-45C được sản xuất trong khi họ có nhu cầukhá lớn. Thiếu tướng Roger M. Ramey,Tham mưu trưởng hành quân không quân, phản đối việc cho Anhmượn máy bay. Tướng Twining đã phải can thiệp. Người Anh ngày càng tham gia sâu hơn vào chương trình bay xâm nhập, họ ngày càng quan trọng bởi vì các kế hoạch ban đầu của người Mỹ ngày càng gặp nhiều rắc rối.

    Chiếc B-47B được lựa chọn cho việc do thám vùng Viễn Đông của Liên Xô đã xuất hiện, thời gian này chúng đang được chuyển giao và bay thử nghiệm. Vào cuối tháng 7 năm 1951, Đại tá Neeley và phi hành đoàn của ông đã bay tới Căn cứ không quân Eielson ở Alaska. Trong khi các phi hành đoàn chờ đợi thời tiết tốt hơn ở vùng Siberia và đèn xanh từ cấp trên, đại diện kỹ thuật hãng Boeing vẫn làm việc trên chiếc B-47B. Ngày 15 tháng 8, trong khi các nhân viên Boeing thực hành tiếp nhiên liệu vào khoang chứa nằm trên khoang bom của máy bay, một cái van mắc kẹt làm nhiên liệu tràn ra rồi tuôn vào trong cánh. Nhiên liệu chy vào một hộp điều khiển năng lượng, chúng cháy bùng vì một tia lửa điện. Chiếc B-47B ngập trong lửa và hoàn toàn bị phá hủy. Đại tá Neeley bị đánh thức từ một chiếc giường dã chiến trong doanh trại bởi một cuộc gọi báo rằng máy bay của ông đang cháy. Ông chạy ra ngoài và nhìn thấy một cột khói lửa bốc cao lên không trung.

    i xác tan tành của chiếc máy bay vẫn còn âm ỉ cháy trên bãi đỗ khi tin cấp trên bật đèn xanh cho phi vụ bay xâm nhập cuối cùng đã đến. Đại tá Neeley trả lời bằng cách gửi một tin nhắn đến trụ sở SAC báo cáo sự mất mát chiếc B-47B. Câu trả lời từ SAC rất nhanh chóng: "Kiểm điểm trách nhiệm và lập tòa án quân sự".Bởi vì chiếc máy bay bị phá hủy do một lỗi kỹ thuật nên không có tòa án quân sự nào được thiết lập. Tuy nhiên cũng mấtđến một năm sau cácphi vụ khác mới có thể được thực hiện.

    Các kế hoạch đầy tham vọng cho khinh khí cầu trinh sát cũng gặp vấn đề. Mối quan hệ giữa Không quân và Tướng Mills trở nên ngày càng căng thẳng. Trong một báo cáo tiến độ, CB Moore đã viết rằng Không quân muốn Tướng Mills cung cấp nhiều hơn khả năng có thể của họ, nhiều hơn đề xuất thực hiện của họ, rồi Không quân lập kế hoạch hành động quân sự dựa trên các cơ sở đó. Moore tiếp tục: Những yêu cầu của Không quânquá phi thực tế, chẳng hạn như khả năng phóng khinh khí cầu trong điều kiện gió 25 hải lý/giờ. Moore cũng phàn nàn rằng Không quân tỏ ra không tin vàoquan điểm của tướng Mills và không ủng hộ ông ta. Mất một tháng để có được một tuyên bố ưu tiên của Không quân cho dự án Gopher, còn yêu cầu xin tần số vô tuyến vẫn chưa được trả lời sau gần bốn tháng trao đổi qua lại bằng thư từ, bằng các cuộc gọi điện thoại, bằng cả gặp trực tiếp. Kế hoạch ban đầu dự kiến hoạt động bay được tiến hành vào cuối năm 1951. Thực tế là có rất ít tiến bộ được thực hiện trên dự án Gopher. Một hội nghị được tổ chức bởi các đại diện Không quân để thảo luận tình hình. Theo quan điểm của họ, sự chậm trễ là do một số yếu tố. Việc đầu tiên là cung cấp khí polyethylene không phù hợp cho tướng Mills vào đầu năm 1951. Điều này làm các khinh khí cầubị lỗi sau khi phóng, phải mất một thời gian dài nghiên cứu khắc phục. Những lỗi lầm chính được quy cho Bộ chỉ huy nghiên cứu và phát triển Không quân (ARDC) vì đã không "đẩy mạnh và phối hợp tốt chosự phát triển của dự án này."

    Cùng lúc đó, vận mệnh của các chuyến bay đặc biệt đã bắt đầu thay đổi. Trong tháng 10 năm 1951, các cử tri của Anh đã bầu ra một nghị viện với đa số thuộc về Đảng Bảo thủ, dẫn đến việc Winston S. Churchill trở thành thủ-tướng. Từng nhà lãnh đạo thời chiến của Anh, Churchill liên quan sâu sắc đến hoạt động tình báo. Ông hiểu rõ tầm quan trọng và cả những rủi ro của chúng.

    Việc huấn luyện cho các chuyến bay đặc biệt hoàn thành vào đầu tháng mười hai năm 1951.Căn cứ RAF Sculthorpetrở thành căn cứ chính cho hoạt động bay xâm nhập. Nó được bổ sung thêm các phi đội RB-45C Mỹ. Cả chín nhân viên phi hành RAF, Crampton nhớ lại, "nhăn mặt nhíu mày suốt ngày, chúng tôi chẳng biết gì cả." Điều này giảm bớt khi Trung tá Marion C. "Hak" Mixson được chỉ định làm sĩ quan liên lạc của họ và giải quyết nhiều thắc mắc. Dù vậy, chín anh chàng phi công trên vẫn không nắm được họ đang làm việc gì? Crampton nhớ lại lúc ấy ông cho rằng mục đích dự án là đánh giá hệ thống tiếp nhiên liệu của không quân, hệ thống “flying boom” tốt hay hệ thống “probe-drogue” tốt (*).Trung sĩ Bob Anstee thì nghĩ rằng dự án là đánh giá khả năng sử dụng RB-45C cho Không quân Hoàng gia. Họ đã thực hiện các phi vụ trên nước Anh và Tây Âu với RB-45C, thực hiện cả bay ngày và đêm, phối hợp Không quân Hoàng gia và Không quân Hoa Kỳ, sử dụng camera và radarscope.

    Đầu năm 1952, Crampton và Sanders nhận lệnh đến trụ sở Bộ chỉ huy Không quân Oanh tạc ở High Wycombe để dựbuổi hướng dẫn cho nhiệm vụbay xâm nhập của họ. Crampton thú nhận ông đã "có sợ hãi" khi họ đưa bản đồ nhiệm vụ ra. Ba đường baykhác nhauxuất phát từ căn cứ Sculthorpe,đi qua vùng Baltic là một, qua khu vực Moscow là hai, và khu vực trung tâm miền nam Liên Xô là ba. Ba phi vụ sẽ cất cánh liên tiếp nối đuôi nhau, sau đó tiếp nhiên liệu từ máy bay tiếp dầu trên không ở phía bắc Đan Mạch. Rồi những chiếc RB-45C sẽ bay lên với tốc độ tiết kiệm nhiên liệu tối đa, vào khoảng Mach 0,68, nhiệt độ ban đêm sẽ cho phép chúng đạt độ cao cao nhất. Chúng sẽ trinh sát các mục tiêu trên toàn vùng viễn tây Liên bang Xô viết. Trạm tín hiệu tình báo mặt đất (SIGINT) sẽ lắng nghe những phản ứng của Liên Xô khi họ bị xâm nhập, họ cũng đã có kế hoạch để làm cho Liên Xô không thể đoán được các đường bay. Trong trường hợpnhững chiếc RB-45C bị tấn công, phi hành đoàn sẽ sử dụng tần số vô tuyến khẩn cấp OMG (Oh My God) để báo cáo tình hình.


    (*) Hai cách tiếp dầu này giải thích hơi dài dòng, các bồ tèo xem hai tấm ảnh là có thể hình dung được, nhanh hơn.

    Flying boom:
    [​IMG]

    Probe-drogue:
    [​IMG]

  7. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Crampton thấy nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng biết được những gì họ sẽ làm, và ông băn khoăn làm thế nào để thông báo tin này đến các phi công khác. Sự lo lắng của ông nhanh chóng thành sự thật. Anstee bị sốc khi ông nghe nói về nhiệm vụ này. "Lạy Chúa tôi! Tại sao? Tại sao lại là chúng ta? Tại sao chúng ta phải dính vào những việc này?" Còn một phi công khác thì từ chối bay nhiệm vụ và trở về đơn vị cũ của mình. Cũng giống như với tay phi công bị đuổi trong lúc huấn luyện, anh ta được thay thế bằng một phi công khác, người đã từng bay giao lưu với một phi đội B-45 Hoa Kỳ.

    Trước khi các chuyến bay chính thức diễn ra, một phi vụ kiểm tra được thực hiện bởi đội bay của Crampton vào đêm 21 tháng ba năm 1952. Đây là một chuyến bay nửa giờ xuyên qua hành lang Berlin ở độ cao lớn để xác định phản ứng của Liên Xô. Các trạm mặt đất SIGINT sẵn sàng ghi nhận tín hiệu radio và radar của họ, nhưng chẳng có gì, và những chuẩn bị cuối cùng đã hoàn tất cho các chuyến bay xâm nhập.

    Ba máy bay chính và các phụ tùng được xóa bỏ tất cả dấu hiệu Không quân Hoa Kỳ và sơn lại với biểu tượng Không quân Hoàng gia. Crampton giả định rằng nếu một trong những RB-45C bị rơi, Hoa Kỳ có thể dựa vào các dấu hiệu để phủ định mọi liên quan về chiếc máy bay đó, còn Không quân Hoàng gia thì có thể tuyên bố họ chẳng có bất kỳ chiếc RB-45C nào trong không quân của mình. Lo ngại an ninh của Crampton làm ông phải giở ra đủ thứ mánh khóe. Để luôn có máy bay sẵn sàng trực chiến, hai chiếc phải được gửi đến căn cứ RAF West Raynham gần đó. Một hangar được dọn sạch và một số nhân viên bí ẩn sử dụng hàng chục gallon sơn để xóa bỏ hết các dấu hiệu.

    Các phi vụ đã được lên kế hoạch cho đêm ngày 17,18 tháng 4, 1952. Khi trinh sát, mỗi một trong ba phi hành đoàn đã phải chịu đựng không ít hơn ba buổi thuyết trình nhiệm vụ: Một buổi thật sự là thuyết trình nhiệm vụ, một buổi để nghe kể lại, rút kinh nghiệm từ các phi vụ trinh sát trước đó, và buổi cuối cùng là để hướng dẫn cách họ trả lời thẩm vấn trước những người Xô viết trong trường hợp bị bắn rơi. Nếu bị bắt, đội bay được yêu cầu phải nói rằng họ đang thực hiện một chuyến bay phục vụ dự báo thời tiết. Tuyến bay phía Nam sẽ bay xuyên qua Biển Đen; hai tuyến bay phía bắc thì qua Vịnh Bothnia. Mỗi chiếc máy bay mang theo một bộ hoàn chỉnh các bản đồ và phương án bay giả mạo để che giấu mục đích thật sự của phi vụ. Crampton sau này gọi tất cả những trò ấy là "một sự sỉ nhục đối với phi hành đoàn chuyên nghiệp của tôi và bản thân tôi, nhưng tôi cho rằng vẫn chấp nhận được nếu có điều khủng khiếp xảy ra." Còn Anstee thì tự hỏi sẽ thực hiện việc này như thế nào nếu Liên Xô tìm thấy các thiết bị trinh sát trên chiếc máy bay?

    Vào lúc xế chiều, ba chiếc RB-45C cất cánh và bay về hướng đông nơi máy bay tiếp dầu đang chờ họ. Tất cả ba chiếc máy bay được tiếp nhiên liệu thành công, họ hút sạch cho đến gallon dầu cuối cùng của mấy chiếc máy bay tiếp dầu. Ba chiếc máy bay tắt hết đèn và ẩn vào màn đêm, hướng mũi về đường bay của chúng vào đất Liên Xô. Crampton tình nguyện đảm nhận đường bay dài nhất là bay vào vùng Nam Liên Xô. Khi họ bay được một chặng đường xa, mọi thứ đều có vẻ yên ổn. Sanders báo cáo rằng ông đã chụp được hình ảnh radarscope khá tốt, và yêu cầu thay đổi hướng bay để đến các mục tiêu tiếp theo. Phi công phụ, trung sĩ Bill Lindsay, báo cáo các hệ thống trên máy bay hoạt động bình thường và quan trọng nhất là họ đã giữ được mức tiết kiệm nhiên liệu rất tốt. Đường bay có độ dài trung bình đến gần Moscow được thực hiện bởi Trung úy Gordon Cremer, Trung sĩ Bob Anstee và Trung sĩ Don Greenslade. Đường bay phía Bắc qua các nước vùng Baltic được lái bởi hai Trung úy Bill Blair và John Hill cùng Trung sĩ Joe Acklam.

    Ấn tượng nhất của Crampton về chuyến bay là "sự hoang dã hoàn toàn" ở những khu vực họ đã bay qua. Không có đèn chiếu sáng trên mặt đất hoặc bất kỳ dấu hiệu sinh sống của con người nào. Anstee nhớ lại rằng ánh sáng tràn ngập trên mặt đất khi họ rời Copenhagen sau khi tiếp nhiên liệu, nhưng khi vào lãnh thổ Liên Xô thì là "một lỗ đen lớn thi thoảng có vài chấm sáng lẻ tẻ." Điều này thay đổi dần khi đến gần Moscow. Anstee tiếp: "Bắt đầu nhìn thấy ánh đèn, rồi chúng thực sự bừng lên .... khi chúng tôi đi đến phía nam Moscow, chúng tôi có thể nhìn thấy tất cả các ngọn đèn ở Moscow. Đó là một thành phố lớn và sáng rỡ.

    Crampton và phi hành đoàn của ông tiếp tục chuyến bay của họ trên toàn khu vực phía nam Liên Xô. Sau khi đã hoàn tất lộ trình và chụp ảnh các mục tiêu, chiếc RB-45C được duy trì mức lên cao với tốc độ chậm khoảng 0,68 Mach cho đến khi đạt 36.000 feet,. Không thấy có phản ứng nào từ phòng không Liên Xô. Crampton nói sau đó: "Toàn bộ xung quanh đều yên tĩnh một cách kỳ lạ." Cuối cùng, cả ba chiếc máy bay lần lượt quay về nhà, dọc đường về họ chụp được thêm một số mục tiêu trước khi đến vùng trời thân thiện. Do quãng đường bay quá dài, Crampton đã phải tiếp thêm nhiên liệu từ máy bay tiếp dầu một lần nữa trước khi bay trở lại Sculthorpe.

    Chỉ có một rắc rối duy nhất trong các phi vụ, đó là thời tiết ở Anh. Khoảng hai mươi phút trước khi chiếc máy bay đầu tiên điều khiển bởi trung úy Blair bay qua bang Baldc, những đám mây tràn vào từ Biển Bắc và máy bay phải chuyển hướng tới căn cứ RAF Marston. Chỉ có chiếc của Crampton là hạ cánh được xuống phi trường Scuithorpe trong sương mù, sau mười giờ hai mươi phút bay. Còn chiếc RB-45C thứ ba do Trung úy Cremer lái thì phải hạ cánh khẩn cấp xuống Copenhagen do sự cố động cơ, bởi các bộ lọc nhiên liệu bị đóng băng. Sau khi xử lý sự cố, họ lại cất cánh và bay về Prestwick.


    Sự lớn mạnh của lực lượng hạt nhân Liên Xô


    Những thông tin mang về từ các chuyến bay cho thấy lực lượng hạt nhân của Liên Xô đang được phát triển mạnh cả về cơ sở vật chất và số lượng vũ khí. Liên Xô đã bắt đầu sản xuất hàng loạt máy bay ném bom Tu-4 (tên mã của NATO là Bull) từ cuối thập niên 1940. Đó là một bản sao từ chiếc B-29 đánh cắp của Mỹ, chiếc B-29 này đã hạ cánh khẩn cấp xuống Liên Xô sau khi bị trúng đạn trên bầu trời Nhật Bản trong Thế chiến II. Tính đến giữa năm 1951, CIA ước tính rằng Liên Xô đã có 600-700 Tu-4 đang phục vụ. Con số này được dự kiến sẽ tăng lên khoảng một nghìn chiếc vào giữa năm 1952. Chúng được chia thành ba không đoàn tầm xa, hai trong số đó trấn đóng ở phía tây Liên Xô, một còn lại ở Viễn Đông.

    Sự gia tăng lực lượng ném bom chiến lược Tu-4 của Liên Xô chắc chắn dẫn đến việc tăng tốc số lượng bom hạt nhân được chế tạo để trang bị cho chúng. Một ước tính của CIA ngày 04 Tháng Chín năm 1951 dự đoán các kho dự trữ Liên Xô đã có được bốn mươi lăm quả bom nguyên tử vào giữa năm 1951, dự đoán cho giữa năm 1952 là một trăm quả. Những quả bom A đó được dự kiến sẽ có công suất từ 30 đến 70 kiloton và cân nặng từ hai đến năm tấn. Căn cứ vào điều này, CIA tin rằng Liên Xô đã có khả năng trên lý thuyết để thực hiện một cú đánh gây thiệt hại nặng nề vào Hoa Kỳ. Theo ước tính quân sự, nếu Hoa Kỳ bị giáng trúng từ mười cho đến năm mươi quả bom A, đất nước này sẽ phải chịu khoảng một triệu thương vong và hầu hết các thành phố lớn sẽ bị phá hủy một phần. Bên cạnh đó, người Nga có thể thực hiện bổ sung một cuộc tấn công vào các căn cứ và cơ sở của SAC để làm giảm hoặc trì hoãn khả năng phản công hạt nhân của Mỹ và cản trở việc tiếp liệu của nước này cho các lực lượng của họ ở hải ngoại.
    Liên Xô cũng đang trong quá trình cải tiến vũ khí hạt nhân của họ. Vào mùa thu năm 1951, hai năm sau khi thử nghiệm quả bom Joe-1, đã có thêm hai quả bom A khác nổ thử nghiệm. Một báo cáo về các cuộc thử nghiệm bom Joe-2 cho Giám đốc Tình báo Trung ương (DCI) Allen W. Dulles đã ghi: "Một tín hiệu âm thanh có cường độ khác thường, dường như xuất phát từ lãnh thổ Liên Xô, đã được ghi nhận bởi các trạm trong hệ thống do thám năng lượng nguyên tử của Không quân vào ngày 24 tháng Chín năm 1951. Các nguồn tín hiệu nhiều khả năng xuất phát từ.....(mật, chưa công bố), khoảng 100 dặm về phía nam đông nam Semipalatinsk.... Thời điểm phát xuất các tín hiệu là 10:15Z (nghĩa là theo mốc thời gian Greenwich hay còn gọi là GMT), ngày 24 tháng 9 (khoảng 15:15 giờ địa phương).... Qua xem xét, tín hiệu này rất có thể là một vụ nổ nguyên tử, phân tích điều kiện thời tiết đã được thực hiện để xác định khi nào và nơi nào mà các khối không khí sẽ lan ra bên ngoài biên giới Liên Xô." Máy bay khí tượng đã cất cánh để đi thu các mẫu phóng xạ. Các phân tích tiếp theo từ các mẫu này cho thấy "sản phẩm phân hạch mới có tuổi tương ứng với 24 tháng Chín, chỉ có thể xuất phát từ một vụ nổ nguyên tử mạnh."


    Các đợt thử nghiệm Joe-2 cho thấy đó là một quả bom đã được cải tiến lớn với trọng lượng chỉ bằng một nửa còn sức mạnh thì gấp hai lần quả Joe-1 sao chép từ nguyên mẫu bom A của Mỹ. Nó cũng sử dụng một phương pháp kích nổ mới giúp giảm đường kính quả bom. Kết quả là nó nhỏ gọn và có hình dáng khí động học tốt hơn nhiều khi so sánh với hình dạng quả trứng của quả bom A đầu tiên của Liên Xô. Khi các dấu vết từ cuộc thử nghiệm của Liên Xô được phân tích, nó chỉ ra rằng thiết bị "có thể sử dụng plutonium như là các vật liệu phân hạch. Hiệu quả của việc sử dụng plutonium đem đến sức công phá lớn hơn so với các quả bom A ban đầu ... Một cuộc nghiên cứu các tàn tích phóng xạ này cho thấy vụ nổ có thể diễn ra ngầm dưới đất. "
  8. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Tiếp theo là vụ thử nghiệm Joe-3 vào 18 tháng 10 1951. Việc phân tích các dấu vết của nó chỉ ra rằng thiết kế này có một nhân tổng hợp, trong đó "cả plutonium và uranium 235 được sử dụng làm nguyên liệu phân hạch. Hiệu quả sử dụng của plutonium trong vụ nổ được xác định là khoảng 35 phần trăm, nhưng tỷ lệ đó thuộc thành phần nào của quả bom thì không xác định được. Tỷ lệ uranium 235 và plutonium có lẽ thấp hơn so với những quả bom hiện thời của Hoa Kỳ. Nếu giả định một mô hình đó sử dụng 7 kg uranium 235 và 3,5 kg plutonium, công suất sẽ có được khoảng 50 kiloton.

    Giống như với các thử nghiệm đầu tiên của Liên Xô, việc lấy mẫu bụi phóng xạ đã tiết lộ chi tiết về thiết kế của quả bom, và từ đó cũng hé lộ ra công nghệ hạt nhân của Liên Xô. Năm 1951, thử nghiệm của Liên Xô cho thấy rằng họ đã làm chủ được cách thiết kế bom hiệu quả hơn. Cả hai cuộc thử nghiệm trong năm ấy cho thấy công suất của chúng đến 40 kiloton (gấp đôi so với thử nghiệm đầu tiên của Liên Xô). Còn vụ thử nghiệm Joe-3, các dữ liệu bụi phóng xạ cho thấy nó đã nổ trên không trung. Quả bom đã được thả từ một chiếc Tu-4 và đã chứng minh rằng các máy bay ném bom Liên Xô có thể chịu đựng và sống sót trước sóng xung kích của vụ nổ.

    Nếu Liên Xô quyết định phát động một cuộc tấn công trên không vào Hoa Kỳ, những chiếc Tu-4 có thể sử dụng các căn cứ tiền phương nằm trên bán đảo Chukotski ở Viễn Đông Liên Xô, bán đảo Kola ở phía tây bắc Liên Xô, và khu vực Baltic. Đây là những khu vực do Liên Xô kiểm soát gần Hoa Kỳ nhất. Mặc dù vậy, do những hạn chế của chiếc Tu-4, đặc biệt là khả năng tiếp nhiên liệu trên không của Không quân Xô viết vẫn chưa có, nên một cuộc tấn công vào Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc phải yêu cầu các phi công thực hiện nhiệm vụ một đi không trở lại.

    CIA ước tính rằng từ bán đảo Chukotski, Tu-4 có thể đến được các mục tiêu trên đất Mỹ trong một vòng cung từ San Diego đến Hồ Superior. Như vậy họ có thể tấn công các cơ sở nguyên tử tại Hanford, Washington, các nhà máy chế tạo máy bay ở Seatle và dọc theo bờ biển phía Tây, các căn cứ hải quân dọc bờ biển Thái Bình Dương. Với hướng xuất phát từ bán đảo Kola, Tu-4 có thể tấn công các mục tiêu dọc theo một vòng cung từ Charlotte, Bắc Carolina đến Porland, Oregon. Còn nếu cất cánh từ khu vực Baltic, Tu-4 có thể bao trùm một vòng cung từ Charleston, South Carolina đến Bismark, Bắc Dakota. Tóm lại, New York, Chicago, Washington, DC, vùng công nghiệp hóa Trung Tây và Đông Bắc, các cảng bờ biển Đại Tây Dương, tất cả nằm trong tầm tay người Nga.

    Vào mùa xuân năm 1952, có một rắc rối mới xuất hiện. Các dữ liệu SIGINT chỉ ra rằng Liên Xô đã bắt đầu cho các máy bay ném bom Tu-4 bay theo đội hình lớn, bay vào bay ra các căn cứ tiền phương tại Siberia. Các sân bay mới được xây dựng trên đảo Dickson ở Biển Kara, trên Mya Schmidta ở biển Chukchi, và trên Provideniya ở bán đảo Chukotski. Điều đó cho thấy rõ ràng rằng các sân bay trên bán đảo Chukotski và các khu vực khác của Siberia đã có thể cho phép Tu-4 hoạt động. Tình báo Mỹ còn nghi ngờ rằng Liên Xô đã nâng cấp các sân bay trên khắp Siberia để có thể đáp máy bay ném bom Tu-4, những sân bay này đã có từ Chiến tranh Thế giới II, ban đầu được xây dựng để nhận các lô hàng máy bay viện trợ trong chương trình Lend-Lease. Sự di chuyển của những chiếc Tu-4 đến các căn cứ tiền phương có thể là bước chuẩn bị hiện tại cho một cuộc tấn công sắp tới vào Hoa Kỳ.

    Mặc dù CIA tin rằng trình độ trung bình của các đội bay Tu-4 Liên Xô hiện tại vẫn còn thấp hơn so với các đội bay ném bom của Mỹ trong Thế Chiến II, họ vẫn giả định rằng Liên Xô sẽ chỉ sử dụng các đội bay tốt nhất của họ cho một cuộc tấn công nguyên tử vào Hoa Kỳ.Hơn nữa, Liên Xô sẽ không có vấn đề trở ngại nào cho việc lập danh sách mục tiêu, họ dễ dàng có được từ các nguồn thông tin công bố công khai, chẳng hạn như bản đồ định vị, danh sách tần số vô tuyến, không ảnh của thành phố và các nhà máy. Các mục tiêu chính sẽ được họ dễ dàng phát hiện bằng cách sử dụng radar ném bom trên chiếc máy bay.

    Đối mặt với một cuộc tấn công từ Liên Xô, hệ thống phòng không Hoa Kỳ lại được thiết kế với giả định rằng mối đe dọa từ máy bay ném bom Liên Xô là rất ít. Bên cạnh đó, sóng radar của Hoa Kỳ là để chống lại máy bay ở độ cao lớn, nó không có radar có thể phát hiện máy bay ném bom bay thấp. Chúng sẽ phải được phát hiện bằng mắt người, bởi các tình nguyện viên thuộc Quân đoàn quan sát mặt đất (GOC). GOC đã bắt đầu được đưa vào tình trạng báo động 24/24 suốt năm, được gọi là Chiến dịch Skywatch, bắt đầu từ 14 tháng 7 năm 1952. Mặc cho mức báo động gia tăng, việc tiếp tục phế thải các máy bay tiêm kích cánh quạt, các máy bay tiêm kích phản lực đánh ban ngày vẫn diễn ra. Khiến cho con số ít ỏi các máy bay đánh chặn mọi thời tiết vẫn còn đầy lỗi kỹ thuật trở nên quá khó khăn để đối phó với số lượng lớn Tu-4 của Liên Xô cho dù chúng lỗi thời. Mối đe dọa một cuộc tấn công Liên Xô vào Hoa Kỳ đã trở thành một thực tế. Để đối mặt với sự nguy hiểm này, người ta thấy cần thiết phải xác minh tình hình các căn cứ không quân Liên Xô ở Siberia. Điều này đòi hỏi phải bay trinh sát xâm nhập.
  9. gabeo2010

    gabeo2010 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/04/2009
    Bài viết:
    2.616
    Đã được thích:
    8
    Bác cứ dịch là máy bay tiếp dầu dùng cần tiếp và máy bay tiếp dầu dùng dây tiếp là xong
  10. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Ừ nhỉ. thay mặt giống loài Heo cám ơn họ nhà Gà! [:D]

Chia sẻ trang này