1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

SHADOW FLIGHTS - Cuộc đối đầu giữa các phi công trinh sát và Vòm Sắt Liên Xô

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi anheoinwater, 23/09/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. HienTM

    HienTM Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    09/02/2007
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    1
    Cảm ơn Heo rất nhiều vì đã bỏ công sức để giúp mọi người thêm một tài liệu khá quan trọng
  2. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208



    Dự Án 52 AFR18

    Tiếp theo sau việc phát hiện ra sự di chuyển của những chiếc Tu-4 đến các căn cứ tiền phương vào mùa xuân năm 1952, các quan chức Bộ Quốc phòng và CIA lại yêu cầu sự cho phép của Tổng thống Truman để bay xâm nhập vào vùng Siberia. Đề xuất đó đã từng bị hoãn lại sau sự kiện chiếc B-47B nguyên mẫu bị cháy trên mặt đất trong tai nạn hồi tháng tám năm 1951. Tuy nhiên, trong thời gian đó, một chương trình mở rộng hơn các chuyến bay xâm nhập tầm thấp đã bắt đầu. Đó là chương trình phối hợp giữa hải quân và không quân, dưới sự chỉ đạo chung của JCS, mục tiêu trinh sát là các trạm radar cùng các sân bay ở miền đông Siberia. Các kế hoạch bay được giữ bí mật. Chỉ có hai đội bay ở Alaska, Đô đốc Fleet Air Alaska, Tướng chỉ huy Alaska Air Command, cùng các nhân viên tình báo của họ là được biết về các chuyến bay.

    Những chuyến bay xâm nhập tầm thấp này được thực hiện bởi các đội bay P2V-3W Neptune của hải quân, chúng vốn đã được trang bị sẵn thiết bị SIGINT gắn trong mũi. Bên cạnh chiếc P2V hải quân là chiếc RB-50 của không quân, RB-50 thì được gắn thiết bị trinh sát chụp ảnh. Chiếc Neptune sẽ nhận dạng, xác định vị trí mục tiêu dựa vào các tín hiệu radar và sóng radio trên nhiều tần số. Sau khi mục tiêu đã được xác định, chiếc RB-50 sẽ bay đến chụp ảnh các trạm radar và sân bay đó. Chiếc P2V-3W được điều khiển bởi Trung tá. James H. Todd, trung úy Richard A. Koch là phi công phụ. Việc cải tiếnP2V 3W được hoàn thành vào đầu năm 1952. Vào tháng ba nó thực hiện các phi vụ thử nghiệm trong vùng Kodiak Island, mục tiêu thử nghiệm là trạm radar của Alaska Air Command. Sau khi những chuyến bay thử nghiệm thành công, cặp máy bay coi như đã sẵn sàng để bắt đầu bay xâm nhập.

    Chuyến bay xâm nhập phối hợp đầu tiên được thực hiện vào ngày 2 Tháng 4, 1952. Hai chiếc máy bay phải duy trì sự im lặng vô tuyến hoàn toàn, thậm chí cả trong thời gian cất cánh và hạ cánh. Thường thì chiếc Neptune cất cánh từ Kodiak hoặc Shemya thuộc quần đảo Aleutian. Các chuyến bay được thực hiện vào ban ngày. Đối với chiếc P2V-3W bay ở độ cao 15.000 feet, phi hành đoàn của nó phải đeo mặt nạ dưỡng khí, vì loại P2V-3W không có hệ thống điều áp khoang lái. Chiếc RB-50, có hệ thống điều áp, bay phía sau và cao hơn P2V. (Hai chiếc máy bay phải phối hợp hành động với nhau mà không được truyền phát vô tuyến điện.) Các đường bay ăn sâu vào nội địa Liên Xô đến 15-20 dặm tính từ bờ biển. Họ bay như thế suốt mùa xuân năm 1952. Hai lần chiếc P2V Neptune bị nghênh cản bởi máy bay MiG-15 của Liên Xô. Một lần trên eo biển Bering, gần St Lawrence Island. Lần thứ hai xảy ra ngay trên lãnh thổ Liên Xô. MiG-15 vọt lên từ một đường băng ẩn nấp dưới lớp tuyết bao phủ, sau đó bắt kịp chiếc máy bay hải quân chậm chạp. Chiếc P2V cánh quạt coi như cầm chắc cái chết. May thay cả hai lần đều không có hành động thù địch nào được thực hiện, các tay phi công MiG-15 chỉ bay dọc theo P2V-3W, nhận dạng máy bay và chụp ảnh kẻ đột nhập.

    Các căn cứ để máy bay quay về khác nhau tùy theo tuyến bay. Trong một chuyến bay, điểm quay về của Neptune là Căn cứ không quân Ladd ở Alaska. Chiếc P2V-3W về đấy hạ cánh trong màn đêm mà không được phép liên lạc gì với tháp không lưu. Thế là khi chiếc Neptune xuất hiện trên màn ảnh radar, những chiếc F-94 vội vã cất cánh để nghênh cản chiếc máy bay không xác định được này, rồi kèm sát hai bên bắt nó hạ cánh. Ngay khi chiếc Neptune dừng lại trên đường băng, nó được bao quanh bởi đủ loại súng của an ninh sân bay. Họ buộc các phi công hải quân đã kiệt sức sau chuyến bay dài đầy căng thẳng phải ném thẻ bài của mình xuống đường băng. Còn chính các phi công thì phải ở lại trên máy bay và bị canh gác chặt chẽ trong vài giờ cho đến khi họ được xác nhận bởi các cấp thẩm quyền cao hơn.

    Chuyến bay xâm nhập phối hợp cuối cùng được thực hiện ngày 16 Tháng Sáu, 1952. Trong tất cả chín phi vụ được thực hiện, hai chiếc máy bay đã trinh sát một khu vực từ bán đảo Kamchatka thông qua eo biển Bering, phía bắc đến đảo Wrangel, đến tận ngoài khơi bờ biển phía bắc Siberia. Ngay sau khi các phi vụ trinh sát tầm thấp này hoàn tất, người ta bắt đầu chuẩn bị cho một chương trình bay xâm nhập sâu vào vùng đất trung tâm Siberia. Nó được đặt cái tên là Dự án 52 AFR-18.

    Trong tháng sáu năm 1952, bộ tư lệnh không quân đã gửi một công văn đến Phòng trinh sát của SAC, phác thảo kế hoạch nhiệm vụ chung và các quy tắc thực hiện bay xâm nhập. Có hai phi vụ: Một " xuyên qua miền Bắc" để thám sát các mục tiêu phía tây bán đảo Chukotski, và một "xuyên qua phía Nam," dọ thám bán đảo Kamchatka cùng phía đông Siberia. Bộ tư lệnh không quân cũng căn dặn rằng không được phép bay qua hai lần bất kỳ mục tiêu nào. Tướng Ramey đề nghị sử dụng hai chiếc B-47B xâm nhập vào bờ biển của Liên Xô cùng với nhau, sau đó tách ra bay theo đường bay riêng của mỗi chiếc. Điều này được xem là một chỉ thị của Tướng Ramey và phải được tuân thủ trong kế hoạch bay.

    Nhưng với Thiếu tướng Frank A. Armstrong, chỉ huy Không đoàn 6 đóng quân tại Căn cứ không quân MacDill ở Florida và một số nhân viên chuẩn bị kế hoạch bay, một số thay đổi đã được thực hiện. Thứ nhất, họ đề xuất rằng mục tiêu ưu tiên số 1, căn cứ không quân Provideniya trên bán đảo Chukotski, nên được trinh sát bởi hai phi vụ hơn là chỉ một lần như trong công văn chỉ thị của Bộ tư lệnh không quân. Thứ hai, hai tuyến bay không có điểm xâm nhập chung nào hợp lý . Nếu thực hiện theo đúng kế hoạch bay ở trên đưa xuống sẽ dẫn đến hậu quả là họ phải bay với độ cao thấp ở điểm xâm nhập và chặng đường họ phải bay quá dài, một kế hoạch có vẻ thiếu tôn trọng lực lượng phòng không Liên Xô.

    Đến cuối tháng bảy, hai đường bay đã được lên kế hoạch hoàn tất. Đường bay phía Bắc đi từ Ambarchik trên biển Đông Siberi đến Provideniya trên bán đảo Chukotski. Đường bay phía Nam đi từ Provideniya, sau đó quay về phía tây nam qua Anadyr để đến Magadan, rồi quay trở lại phía đông qua bán đảo Kamchatka. Do thời tiết xấu trong tháng Tám ở vùng Siberia, người lập kế hoạch bay đề nghị với Tướng Ramey rằng các nhiệm vụ nên được lên lịch cho tháng chín. Các thông tin mục tiêu có sẵn cũng được mang ra cho các đội bay nghiên cứu.

    Trong quá trình lên kế hoạch mệt mỏi, những chiếc máy bay cũng được chuẩn bị. Vào ngày 05 Tháng Bảy 1952, Bộ tư lệnh không quân đã ra lệnh SAC cải tiến hai chiếc B-47B cho các phi vụ trinh sát đặc biệt vào những "khu vực không thân thiện". Các thay đổi chính cần thiết cho việc bay xâm nhập là bổ sung một tháp súng đuôi gắn một cặp súng máy cỡ nòng 0.50, và một hộp đựng camera vào khoang chứa bom.

    Phi công được chọn để dẫn đầu phi vụ là Đại tá Donald E. Hillman, chỉ huy phó của Phi đội ném bom 306, đơn vị đầu tiên và duy nhất vào thời điểm đó được trang bị B-47B. Vào cuối tháng bảy hoặc đầu tháng tám, Đại tá Hillman được Tướng Armstrong yêu cầu đến gặp ông tại Tổng hành dinh SAC ở Căn cứ không quân Offutt. Tướng Armstrong đã không thông báo cho Hillman biết trước bất kỳ lý do nào cho cuộc gặp gỡ này. Sau khi đến Offutt, Tướng Amstrong mới đích thân giới thiệu bản tóm tắt nhiệm vụ của Tướng Curtis LeMay E., người đã viết các báo cáo về tiến trình xây dựng sân bay ở Liên Xô, rồi ông nói rằng ông đánh giá rất cần thiết phải chụp ảnh những sân bay để xác minh các báo cáo này, cuối cùng ông thông báo Hillman đã được chọn để dẫn đầu các phi vụ trên lãnh thổ Liên Xô.

    Khi Hillman trở lại MacDill, ông bắt đầu lập kế hoạch bay chi tiết. Điều này đã được thực hiện trong bí mật nghiêm ngặt, sau cánh cửa văn phòng khóa chặt của Hillman. Lực lượng tình báo không quân thông báo với ông rằng một khi những chiếc B-47 bị phát hiện, chúng có thể phải chuẩn bị cho việc bị nghênh cản bằng cả một trung đoàn MiG-15 đóng quân tại Provideniya, vốn cũng là mục tiêu của cả hai phi vụ xâm nhập, cũng như có thể phải hứng chịu hỏa lực từ súng phòng không. Bởi vì đây là một nhiệm vụ chụp ảnh, chiếc B-47 phải bay trong ánh sáng ban ngày và thời tiết trong sáng. Các phi công sẽ phải dựa vào tính bất ngờ, tốc độ và độ cao của B-47, các thiết bị đối kháng gây nhiễu điện tử, và một phương sách cuối cùng: tháp pháo đuôi của chiếc B-47B.
  3. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Hai đội bay được chọn cho các phi vụ xâm nhập cũng bắt đầu bay huấn luyện trên những chiếc B-47B vừa cải tiến. Tất cả phi công đều được tuyển chọn cẩn thận từng người một để bảo đảm rằng họ là những người giỏi nhất. Bay chung với Đại tá Hillman là Thiếu tá Lester E. "Ed" Gunter (phi công phụ) cùng Thiếu tá Edward A. "Shakey" Timmins (hoa tiêu). Đội bay thứ hai bao gồm Đại tá Patrick D. Fleming (phi công), Thiếu tá Lloyd F. "Shorty" Fields (phi công phụ) và Thiếu tá William J. "Red" Reilly (hoa tiêu).

    11:00 giờ sáng ngày 12, Bộ trưởng Quốc phòng Robert A. Lovett gặp Tổng thống Truman để thảo luận về các phi vụ xâm nhập. Lovett trình lên Tổng thống các bản ghi nhớ, danh sách mục tiêu và sơ đồ bay do Giám đốc JCS là Tướng Omar N. Bradley cùng Giám đốc DCI Walter Bedell Smith biên soạn. Truman nghiên cứu các tài liệu và bản đồ, sau đó ông phê chuẩn cho “đường bay xâm nhập phía Bắc”, nhưng ông yêu cầu phải "đặc biệt xem xét lại" để loại bỏ “Mục tiêu chính số 11”. Điều này có nghĩa là “đường bay phía Bắc“ sẽ giảm độ sâu xâm nhập khoảng 275 dặm và giữ cho tuyến bay gần bờ biển hơn.

    Với “đường bay xâm nhập phía Nam”, Tổng thống Truman bày tỏ sự lo ngại về độ dài và độ sâu xâm nhập của chuyến bay. Ông đặc biệt e ngại trước thực tế là tuyến đường bay ra gần như song song với tuyến đường bay vào. Truman gọi đó là một "running the gauntlet" ( ******) và từ chối phê chuẩn phi vụ.

    ********Chú thích: Tớ giữ nguyên cụm từ “running the gauntlet” vì không biết phải dịch ra Tiếng Việt thế nào. “Running the gauntlet” là một hình phạt thời xưa. Trong hình phạt ấy, tội nhân phải chạy giữa hai hàng người đứng song song. Họ sẽ ra sức đánh đập tội nhân khi anh ta cố gắng chạy qua. Ít có tội nhân nào còn sống sót mà vượt qua khỏi đường chạy này.


    Tổng thống nhấn mạnh, sự phê duyệt cho “đường xâm nhập phía Bắc” còn kèm theo một điều kiện là phải có sự thảo luận và nhất trí giữa các quan chức của Bộ Ngoại giao. Nếu có một bất đồng, Tổng thống Truman nói thêm, ông sẵn sàng để lắng nghe cả hai bên. Với đường bay phía nam, ông nói rằng ông sẵn sàng xem xét lại vấn đề “nếu có một phương án ít phiêu lưu và an toàn hơn." Mối âu lo thực sự củaTruman chỉ là ông sợ nếu một chiếc B-47 rơi xuống đất Liên Xô, người Nga sẽ tìm hiểu được các trang thiết bị mới nhất của lực lượng không quân Mỹ. Ông muốn chắc chắn rằng JCS "đã xem xét khía cạnh này như là một yếu tố rủi ro cộng thêm."

    Ba ngày sau, Tướng Ramey gửi thư thông báo Tướng LeMay rằng Tổng thống Truman đã phê duyệt Dự án 52 AFR-18 nhưng chỉ với “đường bay phía Bắc”; Mục tiêu chính số 11 sẽ được xóa khỏi sơ đồ bay. Lá thư tiếp tục: "Việc bay trinh sát theo “đường bay phía Bắc” sẽ được giới hạn trong một chuyến bay duy nhất, và mỗi mục tiêu định sẵn chỉ được phép bay qua một lần duy nhất. Một khi đã bay vào vùng trời Liên Xô rồi thì nếu vì lý do nào mà phải hủy ngang chuyến bay, quyết định phê duyệt trên cũng coi như chấm dứt." Sự lo ngại của Truman về trường hợp mất mát một chiếc B-47 trên đất Liên Xô cũng được nhắc đến. Tướng Ramey viết: "Trong trường hợp máy bay bị rơi hoặc phải hạ cánh bắt buộc xuống lãnh thổ không thân thiện, máy bay phải bị phá hủy đến mức tối đa trước khi nó chạm đất."

    Với sự chấp thuận của Truman, Dự án 52 AFR-18 bắt đầu khởi động, người ta dự trù thực hiện phi vụ vào một ngày tháng Chín. Thực tế là Đại tá Hillman cùng phi hành đoàn của ông sẽ sớm phải bay sâu vào Siberia, và những gì có thể xảy ra với họ làm Tướng Armstrong cảm thấy nặng lòng. Ông là người quyết định khi nào nhiệm vụ khó khăn nguy hiểm này được cất cánh, dựa trên cơ sở dự báo thời tiết. Vài ngày trước khi hai đội bay thực hiện một phi vụ thực tập ở Alaska, gia đình của họ tham dự một buổi tiệc ở Câu lạc bộ sĩ quan MacDill. Tướng Armstrong đã kéo vợ của Hillman sang một bên và nói với cô ấy: "Tôi cảm thấy việc tôi trao nhiệm vụ này cho Hillman cũng giống như việc gửi Chúa Kitô lên cây Thập giá vậy." Hillman sau đó lưu ý rằng lời nói của Armstrong đã tác động xấu đến mọi người , "chúng chắc chắn tạo ra tâm trạng lo âu cho những người vợ đang chờ đợi trước hiên nhà, và có rất ít những gì tôi có thể làm hoặc nói ra để trấn an họ."

    Cuối cùng, vào ngày chủ nhật Tháng Chín 21,1952, hai chiếc B-47B và hai chiếc máy bay tiếp dầu KG-97 rời khỏi căn cứ MacDill thực hiện chặng đầu tiên của chuyến đi đến Siberia. Điểm đến trước tiên của họ là Căn cứ không quân Rapid City, nơi họ sẽ phải chờ đợi thêm đến sáu ngày. Trong thời gian đó, họ thực hiện thêm một số chuyến bay huấn luyện tại chỗ. Việc này nằm trong kế hoạch định sẵn của Dự án 52 AFR-18.

    Sự xuất hiện của chiếc B-47B tối tân thu hút rất nhiều sự chú ý tại căn cứ. Một trong những người tò mò về chiếc máy bay là Chuẩn tướng Richard E. Ellsworth, người chỉ huy không quân ở Rapid City. Tướng Ellsworth hỏi liệu ông có thể thực hiện một chuyến bay trên B-47 hay không và Đại tá Hillman đồng ý. Với Tướng Ellsworth ngồi trên ghế phi công phụ, phi hành đoàn thực hiện các bước kiểm tra trước khi bay, rồi B-47B bắt đầu lăn bánh để cất cánh. Khi tốc độ của máy bay tăng lên, Hillman bỗng cảm thấy kinh hãi khi phát hiện ra các cánh tà vẫn còn hoàn toàn rút lên chưa hạ xuống. Trong một thiếu sót của phi hành đoàn hỗn hợp này, chi tiết đó đã bị bỏ quên.

    Chiếc máy bay đã đạt tốc độ quá cao và đã chạy quá xa trên đường băng để có thể ngừng lại trên mặt đất. Không có cánh tà, chiếc B-47 có thể không cất mình lên được, sẽ lao ra khỏi đường băng với tốc độ hai trăm hải lý / giờ và nổ tung trong một quả cầu lửa.

    Đại tá Hillman ra sức kéo cần hạ cánh tà và trân trối nhìn vào bảng hiển thị đang cho thấy các cánh tà bắt đầu hạ xuống một cách vô cùng chậm chạp. Vừa khi đến sát cuối đường băng, chiếc B-47 bỗng nhấc mình ra khỏi mặt đất. Hillman sau đó kể lại: "Tôi đã nhìn thấy bãi cỏ ngay trước mặt" khi chiếc máy bay cuối cùng cũng cất cánh lên được. Dự án 52 AFR-18 đã được dời lại cho một ngày khác. Hillman không bao giờ quên khoảng cách ngắn ngủi của đoạn cuối đường băng đó.

    Ngày thứ bảy 27 Tháng Chín, một trong những máy bay tiếp dầu KC-97 cất cánh hướng đến Căn cứ không quân Eielson ở Alaska. Tiếp theo nó là hai chiếc B-47B cũng bay đến vào ngày 28 tháng 9, và đến Thứ Hai 29 tháng 9 là chiếc KC-97 còn lại. Tất cả các máy bay đến Eielson mà không xảy sự cố gì. Đến lúc đó, các phi công B-47B nhận ra rằng lần này chắc chắn không phải là một chuyến bay huấn luyện định kỳ nữa.

    Bây giờ yếu tố quyết định để bắt đầu chuyến bay xâm nhập là thời tiết. Mặc dù các dự đoán trước đó cho rằng thời tiết Siberia sẽ trong sáng hơn vào tháng Chín, suốt hai tuần lễ đầu điều kiện thời tiết vẫn không đủ để thực hiện phi vụ. Trong khi chờ đợi, các đội bay tiếp tục nghiên cứu các tuyến đường bay và kế hoạch bay. Cuối cùng, dự báo trông có vẻ tốt, vào tối ngày 14 tháng 10, Tướng Armstrong thông báo cho các đội bay rằng họ sẽ đi vào sáng hôm sau.
  4. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Nói thêm về chiếc B-47.

    [​IMG]

    B-47 Stratojet là loại máy bay mang tính cách mạng đối với dòng máy bay ném bom chiến lược, nó đánh dấu bước ngoặt giữa các máy bay ném bom thời world war II và máy bay hiện đại ngày nay.

    Cất cánh lần đầu vào năm 1947, chỉ hai năm sau khi chấm dứt WW2, B-47 tuy là máy bay ném bom nhưng lại có tốc độ gần như ngang ngửa các máy bay tiêm kích hiện đại nhất lúc ấy là Mig-15, F-80... Lý do chính là nó được thiết kế nhằm mục đích tấn công hạt nhân sâu vào lãnh thổ đối phương, lúc ấy là Liên Xô. B-47 có hai đặc điểm mang tính cách mạng mà cho đến ngày nay các máy bay loại lớn, kể cả quân sự lẫn dân sự, vẫn còn áp dụng rộng rãi.

    Thứ nhất, cặp cánh nghiêng ra sau 36 độ. Máy bay hạng nặng cần lực nâng lớn, lại rất cần sự cân bằng,nên cho dù cánh nghiêng đã xuất hiện trong máy bay tiêm kích từ lâu thỉ người ta vẫn cứ phải thiết kế cánh ngang cho máy bay ném bom. Với hình dáng khí động học tuyệt hảo cùa mình ( đối với thời của nó), B-47 đủ điều kiện sử dụng cánh nghiêng mặc cho những phản đối từ không quân. Sau khi B-47 thực hiện các chuyến bay thử, các quan chức Không quân Mỹ thay đổi hẳn thái độ và nó trở thành xương sống của Không quân chiến lược Mỹ với hơn 2.000 chiếc được sản xuất.

    Thứ hai, kiểu thiết kế động cơ gắn vào một đế dưới cánh. Kiểu thiết kế này ban đầu cũng gặp sư phản đối của các quan chức bảo thủ bên không quân, vì nó... lạ mắt quá ( đối với ngày đó). Nhưng sau khi xem xét những lợi điểm như bảo trì dễ dàng, ít ảnh hưởng đến thân vỏ máy bay, cho phép sử dụng nhiều loại động cơ khác nhau... thì họ mới gật gù. Ngày nay, gần như tất cả máy bay loại lớn đều sử dụng kiểu thiết kế này.

    Tuy vậy, B-47 không được nổi tiếng lắm vì vào thời hoàng kim của nó, không có cuộc chiến tranh lớn nào để nó tham chiến. Sau này nó được thay thế bằng chiếc B-52 huyền thoại (B-52 cất cánh lần đầu vào 1952, Không quân Mỹ cho rằng có thể sử dụng B-52 cho đến tận... 2050. chưa có loại máy bay nào được sử dụng trong không quân cả trăm năm như thế. Hiện tại đã được gần 60 năm cũng đã là kỷ lục rồi, để xem... )

    Một đơn vị trực chiến hạt nhân B-47
    [​IMG]

    PS: Có bác nào còn giữ được bộ truyện tranh Buck Danny không nhỉ? Cho mình mượn scan lại cái. Xin hậu tạ.
  5. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Ngay sau khi mặt trời mọc, ngày 15 Tháng 10 năm 1952, hai máy bay tiếp dầu KC-97 cất cánh từ Eielson, Dự án 52 AFR-18 bắt đầu khởi động. Một giờ sau, đến lượt Hillman và Fleming cất cánh trên những chiếc B-47B của họ. Họ gặp mấy chiếc KC-97 gần Point Barrow thuộc Alaska và tiếp đầy nhiên liệu. Nếu chiếc B-47 của Hillman gặp phải một vấn đề nào đó vào thời điểm này thì chiếc của Fleming sẽ thay thế để thực hiện nhiệm vụ. Nhưng vì cả hai chiếc máy bay đang rất bình thường nên nhiệm vụ được tiếp tục đúng như kế hoạch.

    Hai chiếc B-47 bỏ mấy chiếc tiếp dầu lại phía sau và bay về phía tây cho đến khi họ đến Wrangel Island, khoảng một trăm dặm về phía bắc bờ biển Siberia. B-47 của Fleming chụp ảnh và lập bản đồ các hải đảo, sau đó quay đầu về phía Đông bay đến điểm chuyển tiếp thông tin liên lạc ngoài khơi bờ biển Alaska. Fleming bắt đầu bay lượn vòng ở đấy để chờ đợi tin tức từ chiếc B-47của Hillman.

    Hillman thì tiếp tục bay về phía tây nam, hướng đến phía bờ biển Siberia. Khi ông đến gần bờ biển, ông ngoặt mũi chiếc B-47 về phía Nam bay đến một điểm trên bờ biển giữa Stanovaya và Ambarchik. Chiếc máy bay tiến vào đất liền vào khoảng giữa trưa và tiếp tục bay về phía nam. Phi hành đoàn mở khoang bom để bật camera, họ có thể phải bỏ ngang chuyến bay để tránh bị đông cứng lại, điều này có thể xảy ra khi họ mở khoang bom. Thời tiết cho đến thời điểm này là tốt. Chẳng bao lâu sau, máy bay vượt qua khu vực ven biển. Tuy nhiên, lúc ấy đội bay của chiếc B-47 đã nhìn thấy mây và sương mù rải rác ở độ cao 21.000 feet, chúng che khuất một phần mặt đất. Chiếc B-47 quay về phía đông, về hướng Alaska. Những người lập kế hoạch chuyến bay đã hy vọng động tác này sẽ khiến các sĩ quan radar Liên Xô nghĩ rằng chiếc B-47 là một máy bay phe mình, khi họ thấy chiếc B-47 bay đến từ phía tây.

    Chiếc B-47 bắt đầu do thám hai mục tiêu đầu tiên trong năm mục tiêu của nó, cả chụp ảnh thực tế lẫn ghi hình ảnh radarscope. Đến lúc này, chiếc B-47 đã tiêu thụ hết phần lớn nhiên liệu trong thân nên nó có thể bay lên cao hơn 40.000 feet và đạt tốc độ khoảng 480 hải lý /giờ, cao hơn tốc độ bay bình thường của loại B-47. Khi máy bay hướng mũi về mục tiêu thứ ba, thiết bị cảnh báo của nó bắt đầu bắt được tín hiệu radar của Liên Xô, chiếc B-47 đang bị theo dõi. Hillman báo động Gunter, anh này đang ngồi phía sau ghế của phi công phụ, bảo anh ta sẵn sàng ứng phó với những chiếc MiG-15 được biết là đang đóng quân trong khu vực này. Gunter rời khỏi ghế hoa tiêu và vào vị trí điều khiển tháp pháo đuôi.

    Chỉ vài phút sau, từ đuôi máy bay, Gunter báo cáo máy bay chiến đấu của Liên Xô đã xuất hiện trong tầm nhìn. Mấy chiếc MiG-15 ở phía sau và thấp hơn B-47, chúng đang cố gắng hết sức để bắt kịp chiếc máy bay ném bom bay cao và nhanh lạ thường này. Rõ ràng máy bay của họ bây giờ đã bị xác định là thù địch nên Hillman quyết định phá vỡ sự im lặng vô tuyến. Ông báo cho Fleming biết vị trí và tình hình của mình, để trong trường hợp bị bắn rơi thì người Mỹ sẽ biết những gì đã xảy ra với họ. Gunter tiếp tục theo dõi mấy chiếc MiG-15, nhưng chúng lên cao quá chậm và không thể đuổi kịp chiếc B-47. Tuy vậy Hillman và phần còn lại của phi hành đoàn vẫn phải lo lắng. Tốc độ, độ cao và hướng bay của họ bây giờ đã bị lực lượng phòng không Liên Xô nắm được, họ có thể định vị và tung những chiếc MiG-15 từ những sân bay khác để tấn công chiếc B-47.

    Chiếc B-47 vẫn tiếp tục theo đường bay trong kế hoạch, thực hiện thay đổi hướng bay định kỳ để trinh sát ba mục tiêu còn lại. Những lo ngại trước đó của họ không xuất hiện, đội bay không thấy bất kỳ MiG-15 nào khác. Hillman sau đó cho rằng có điều này là nhờ sự thay đổi hướng bay liên tục của họ, hoặc có lẽ vì Liên Xô không có nhiều tiêm kích đánh chặn đóng quân trong khu vực đó. Chiếc B-47 đến được Egvekinot, sau đó bay dọc theo bờ biển và đến Provideniya, nơi đặt bộ chỉ huy của trung đoàn MiG. Như vậy là họ đã hoàn thành nhiệm vụ, và các camera được tắt. Chiếc máy bay hướng ra khỏi không phận của Liên Xô, bay về phía bán đảo Seward của Alaska. Hillman hướng thẳng về Căn cứ không quân Eielson, ông hạ cánh sau khi trời tối. Tổng thời gian chuyến bay kéo dài bảy giờ ba phút và tổng quãng đường là 3.500 dặm. Trong quãng đường này, 800 dặm là trên đất Liên Xô. Một vài phút sau khi máy bay của Hillman hạ cánh, Fleming cũng tiếp đất an toàn.

    Các nhân viên mặt đất ngay lập tức gỡ các camera ra, mỗi camera chứa ba trăm feet phim chín inch, họ đem chúng vào phòng tối của căn cứ. Phim được rửa, sau đó tạo bản sao trước khi nó được đưa tới Washington DC để phân tích. Tướng Armstrong tỏ ra hài lòng với kết thúc của phi vụ.

    Phản ứng của Liên Xô với vụ xâm nhập cũng nhanh chóng chẳng kém. Sáng ngày 16 tháng 10, Hillman được các sĩ quan tình báo cho biết họ vừa chặn được các thông điệp, trong đó ra lệnh cách chức các chỉ huy Xô viết trong khu vực, và một trung đoàn MiG thứ hai được lệnh di chuyển đến để tăng cường. Một vài giờ sau, Hillman cùng phi hành đoàn của ông một lần nữa leo lên chiếc B-47B của họ rồi bay thẳng một lèo từ Căn cứ không quân Eielson trở lại căn cứ MacDill.

    Sáu tháng sau, vào tháng Tư năm 1953, Đại tá Hillman được chuyển đến nhận nhiệm vụ mới ở Bộ tư lệnh SAC. Một vài ngày sau khi đến, ông được lệnh trình diện tại văn phòng Tướng LeMay. Khi ông bước vào, Tướng LeMay đã đứng dậy và đóng cửa lại. Không nói một lời nào, ông ta gắn một Huân chương Distinguished Flying Cross (DFC) lên áo Hillman. Khi nhìn thấy vẻ khó hiểu trên khuôn mặt của Hillman, LeMay nở một nụ cười nhẹ hiếm thấy ở ông ta. "Đó là bí mật," ông nói. Hai thành viên còn lại thuộc đội bay của Hillman, cùng Đại tá Fleming và đội bay của mình, cũng nhận được DFC. Trích dẫn lời đề tặng cho biết họ được trao tặng huân chương vì "thành tích phi thường khi thực hiện nhiệm vụ hàng không."

    Phi vụ B-47B có kết quả vượt xa những gì bên tình báo mong đợi. Phi vụ còn thiết lập tiền lệ cho các hoạt động bay xâm nhập tiếp theo. Tổng thống Hoa Kỳ, hành động theo sự cố vấn của JCS, DCI và Cố vấn an ninh quốc gia, đã phê chuẩn một chương trình bí mật bay xâm nhập sâu vào lãnh thổ của các thế lực thù địch. Quyết định của tổng thống phê chuẩn hoặc không phê chuẩn phi vụ được xem xét trên từng trường hợp cụ thể, thường là dựa trên sự cân nhắc của ông ta về mức độ rủi ro so với tầm quan trọng của phi vụ đối với an ninh quốc gia Hoa Kỳ.

    Tầm quan trọng là lý do để thi hành bay xâm nhập. Chiếc B-47 đã được gửi qua Siberia để xác định liệu xem Liên Xô có đang chuẩn bị một cuộc tấn công vào Hoa Kỳ hay không? Khi các bức ảnh từ chuyến bay của Hillman được phân tích, chúng cho thấy Liên Xô không hề bố trí máy bay ném bom Tu-4 với số lượng lớn tại các căn cứ không quân ở Siberia. Mặc dù Liên Xô có thực hiện nhiều chuyến bay huấn luyện tầm xa đến các căn cứ tiền phương, đó không phải là để chuẩn bị cho một cuộc tấn công hạt nhân vào nước Mỹ. Chuyến bay B-47B cũng đã xây dựng một nguyên tắc, giống như Đại tá Leghorn đã dự kiến, đó là: Trinh sát trên không trong thời đại hạt nhân là một phương tiện qian trọng cung cấp cảnh báo trước các mối đe dọa có thể chống lại Hoa Kỳ.
  6. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Ju Jitsu

    Quay lại với Crampton của Không lực Hoàng gia (RAF). Sau khi hoàn tất các phi vụ xâm nhập, ông được giao chức chỉ huy Phi đội số 101, đây là đơn vị đầu tiên của RAF đang được tái trang bị bằng những chiếc phản lực ném bom hạng nhẹ Canberra. Mặc dù Crampton hài lòng khi được lựa chọn để trang bị máy bay mới, ông vẫn khó chịu khi nhận thấy chỗ ngồi của phi công trên chiếc Canberra dường như quá chật chội so với chiếc RB-45C. "Giống như ngồi trong một chiếc Ford Escort sau khi đã từng được thoải mái với chiếc Cadillac thân dài", ông nói.

    Trong khi Crampton cố gắng để thích nghi với chiếc máy bay mới, một loạt chuyến bay xâm nhập thứ hai bằng RB-45C được đề xuất. Sir John Slessor, tham mưu trưởng không quân, đề xuất với Tướng Vandenberg một chiến dịch phối hợp giữa Không quân Mỹ và Không quân Hoàng gia, đặt tên mã là Ju Jitsu.

    Trong tháng mười năm 1952, Crampton lại một lần nữa nhận được lệnh đến Bộ chỉ huy không quân oanh tạc, ông được báo các chuyến bay thi hành nhiệm vụ đặc biệt đã được tái khởi động, đồng thời họ cũng hỏi liệu ông có muốn một lần nữa chỉ huy công tác này hay không?. Ông chấp nhận, rồi trong vòng vài ngày ông trở lại Sculthorpe, làm việc với "Hak" Mixson và bắt đầu tái huấn luyện đơn vị.

    Có một vài thay đổi phi công trong đơn vị. Sanders đã trở lại vị trí hoa tiêu của mình, nhưng Trung sĩ Lindsay thì lại bị thương nặng trong một vụ rơi máy bay. Vị trí phi công phụ được thay thế bằng Trung úy McAlistair Furze, một trong những chỉ huy bay của Phi đội 101. "MacFurze", như đồng đội thường gọi, nhanh chóng làm chủ được các hệ thống của chiếc RB-45C. Crampton rất hài lòng về việc này. Ông nhận xét sau đó rằng Furze "có đủ khả năng để hất ra tôi ra khỏi chỗ ngồi của phi công chính". Một sự thay thế khác là trung úy Harry Currell, anh này thay cho Bill Blair.

    Các bài bay huấn luyện cho các phi vụ đặc biệt được thực hiện suốt tháng 11 năm 1952, đến đầu tháng mười hai thì mọi sự đã sẵn sàng. Ba tuyến bay tương tự như các phi vụ hồi tháng tư được đề xuất, họ dự định chụp hình ảnh radarscope các sân bay chiến lược và các cơ sở quân sự Liên Xô. Các phi vụ được lên kế hoạch bay vào hai đêm 12-13 tháng mười hai ,1952. Tuy nhiên, chỉ vài ngày trước khi thực hiện, họ đã đột ngột nhưng thi hành phi vụ. Sau đó, các phi vụ đặc biệt này bị hủy hoàn toàn, các đội bay được gửi lại về các đơn vị ban đầu. Trong một bức thư ngày 16 tháng 12 năm 1952, Đại tướng không quân Sir Hugh P. Lloyd nói với Thiếu tướng John P. McConnell: "Tôi chỉ tức ở cái cách kết thúc chiến dịch, người ta hủy bỏ chúng mà không có một lời giải thích".

    Lý do Ju Jitsu bị hủy bỏ một cách quá bí ẩn là chủ đề của nhiều tin đồn lan truyền trong các phi công. Crampton nhớ lại rằng một trong số những tin đồn đó là những rủi ro chính trị quá lớn, cụ thể rằng nếu một trong những chiếc RB-45C rơi xuống Liên Xô, nó có thể gây ra một cuộc chiến tranh. Thực hư của tin đồn này không thể nào xác minh được, nhưng có một điều chắc chắn là các sự kiện chính trị trong mùa thu năm 1952 rõ ràng đang có xu hướng tối tăm và nguy hiểm.


    Kỳ sau: Chương 2: Những phi vụ xâm nhập dưới thời Eisenhower.
  7. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208


    Chương 2: Các phi vụ xâm nhập dưới thời Tổng thống Eisenhower



    Lịch sử của Chiến tranh Lạnh có một bước ngoặt đột ngột trong mùa thu năm 1952. Trong sáu năm, Stalin đã từ từ âm thầm xây dựng một nền móng vững chắc. Trong thời gian đó, ông được phong thần là "thiên tài vĩ đại nhất của mọi thời đại và mọi dân tộc," còn KGB thì ra sức gột sạch các ảnh hưởng phương Tây ra khỏi xã hội Liên Xô, loại bỏ bất cứ nhà lãnh đạo cộng sản Đông Âu nào mà Stalin nghi ngờ có tư tưởng độc lập, thủ tiêu hoặc làm cho im lặng những trí thức người Do Thái còn lại. Stalin giờ đã sẵn sàng để bắt đầu một cuộc Đại thanh trừng mới của mình.

    Nó được báo trước vào ngày 5 tháng 10 năm 1952, trong Đại hội XIX của Đ.ảng Cộng sản Liên Xô. Cuộc họp diễn ra trong bầu không khí sợ hãi ngày càng gia tăng. Các đại biểu được cảnh báo về bọn phản_động và lũ gián điệp nước ngoài đang cố gắng "để tạo ra và khai thác các yếu tố bất ổn định trong xã hội Xô Viết", họ được cho biết rằng nhân dân Liên Xô phải cảnh giác với kẻ thù từng phút từng giờ. Các đợt thanh lọc ở Đông Âu được tiến hành. Tại Tiệp Khắc, một đợt thanh lọc thí điểm đã được thực hiện vào tháng 11 năm 1952, nhằm vào mười bốn quan chức cộng sản cao cấp, mười một trong họ là người Do Thái. Họ được mô tả hoặc như là một phần của một âm mưu lớn liên quan đến gián điệp Mỹ và Israel, hoặc là "bọn Trotskyists", hay là tên "nô lệ của giai cấp tư sản", và bè lũ "Hội Tam Điểm Do Thái." Mười một người bị hành quyết bằng cách treo cổ, ba người còn lại bị kết án tù chung thân. Báo New York Times cho rằng cuộc thanh trừng thí điểm tại Séc này "có thể đánh dấu sự khởi đầu của một bi kịch lớn hơn." Các dự báo cho thấy chúng sắp được nhân rộng.

    Ngày 13,1953, họ công bố "Âm mưu của bọn bác sĩ '." Một bài báo của Pravda, được sự phê chuẩn của chính Stalin, viết rằng "một nhóm bác sĩ khủng_bố " đã cố gắng "để rút ngắn cuộc sống của các nhân vật đứng đầu Liên Xô bằng các phương pháp điều trị gây tổn hại." Các bác sĩ được mô tả như là bọn gián điệp ăn lương của Hoa Kỳ, Anh, và "tổ chức gián điệp Do Thái", “chúng là một phần trong một âm mưu của bọn tư bản phương Tây đang " luống cuống chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh thế giới." Trong sáu tuần tiếp theo, có hàng trăm bài viết trên báo chí Liên Xô và Đông Âu khi chiến dịch thanh lọc được mở rộng, càng rộng càng tốt. Người Do Thái của Liên Xô và Đông Âu là nạn nhân đầu tiên, họ bị lưu đày tới các trại lao động khổ sai hoặc bị hành quyết tại chỗ. Họ bổ sung cho danh sách những nạn nhân trước đó vốn đã lên đến con số hàng triệu, bị Stalin quyết định phải chết.

    Tuy nhiên, đó chỉ là khúc dạo đầu của cuộc thanh trừng. Một số người trong quân đội Liên Xô cảm thấy rằng Stalin thật ra đang hoàn tất việc chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Trong số đó có Thiếu tướng NN Ostroumov, phó chỉ huy Bộ phận điều phối hành quân của lực lượng không quân Xô Viết. Vào mùa xuân năm 1952, Stalin ra lệnh thành lập một trăm trung đoàn máy bay ném bom chiến thuật mới. Tướng Ostroumov và các đồng nghiệp của ông đã không tìm được lý do giải thích cho việc tại sao lại cần nhiều máy bay ném bom đến thế, trừ phi Stalin đang lập kế hoạch cho một cuộc chiến tranh mới. Tướng Ostroumov lưu ý: "Việc chuẩn bị dư luận xã hội đã bắt đầu, mục đích quốc gia đã tạo xong, họ đang tiếp cận việc bắt đầu chiến tranh."

    Lịch sử bắt đầu sang hướng mới.



    Cái chết của Stalin

    Vào lúc 08:30 ngày thứ Tư 4 tháng Ba, 1953, tất cả các chương trình trên Đài phát thanh Moscow đột nhiên dừng lại. Vài phút sau đó, một thông báo phát đi cho biết Stalin đã bị xuất huyết não trong đêm 01 Tháng ba. Tiếp theo sau là một bản tin y tế xác nhận Stalin đang nguy kịch. Ngày 5 tháng ba, thêm hai bản tin được ban hành cho biết tình trạng của Stalin dần xấu đi. Lúc 06:00 ngày 06 Tháng Ba, Đài phát thanh Moscow thông báo Stalin đã chết vào đêm hôm trước.

    Những người kế nhiệm Stalin bắt đầu một cuộc đấu tranh cho quyền lực và sự sống còn cá nhân. Họ nắm giữ và củng cố các vị trí quan trọng trong Đ.ảng và chính quyền, họ loại bỏ Lavrenty Beria P., người nắm giữ toàn bộ cơ quan tình báo nước ngoài, cảnh sát trong nước, các trại lao động cưỡng bức, và các chương trình hạt nhân của Liên Xô. "Tập thể lãnh đạo mới" sợ rằng Beria có thể lật lại họ. Cùng với những sự kiện ấy, bản chất của xã hội Xô viết và mối quan hệ của nó với phần còn lại của thế giới đã thay đổi. Trong vòng vài tuần sau cái chết của Stalin, các bài viết chống lại người Do Thái dừng lại và cái tên Stalin không còn thường xuyên xuất hiện, hay đúng hơn là không còn được nhắc đến. Trong tháng Tư, các bác sĩ bị bắt giam đã được thả và phục hồi danh dự. Trong Liên Xô, người ta bắt đầu nói về một "sự tan băng." Trong mọi mặt, nhà lãnh đạo Liên Xô mới cần tạm thời giảm đi căng thẳng quốc tế.

    Thủ_tướng mới của Liên Xô, Georgi Malenkov, báo hiệu sự thay đổi trong một bài phát biểu ngày 15 tháng ba. "Hiện nay, không có tranh chấp hoặc nghi ngờ nào là không thể được giải quyết bằng phương tiện hòa bình trên cơ sở thoả thuận với các nước liên quan. Điều này nói lên sự quan tâm của chúng tôi trong việc đặt quan hệ với tất cả các nước, trong đó có Hoa Kỳ."

    Trong những tháng tiếp theo, nhiều vấn đề tồn tại từ những ngày đầu của Chiến tranh Lạnh đã được giải quyết. Liên Xô bỏ đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ đối với Thổ Nhĩ Kỳ và "xem xét lại" vị trí cũ của mình về việc quản lý chung eo biển Thổ Nhĩ Kỳ, con đường ra vào Biển Đen. Liên Xô bắt đầu các cuộc đàm phán với Iran về vấn đề biên giới, cam kết tài chính, và các vấn đề thương mại

    Vấn đề cấp bách nhất chia rẽ Đông Tây là cuộc chiếnTriều Tiên. Kể từ mùa thu năm 1951, Stalin đã khuyến khích người Trung Quốc và Bắc Triều theo một đường lối cứng rắn trong các cuộc đàm phán ngừng bắn. Ông tin rằng khi chiến tranh vẫn còn là một bế tắc, nó sẽ hút cạn nguồn lực nước Mỹ, tạo ra mâu thuẫn trong khối đồng minh phương Tây, tạo cơ hội cho tình báo Liên Xô tìm hiểu công nghệ và chiến thuật quân sự của Mỹ, cho phép Liên Xô buộc tội Hoa Kỳ những tội ác chiến tranh, chẳng hạn như việc sử dụng vũ khí sinh học ở Triều Tiên. Người kế nhiệm Stalin đã thúc đẩy tiến trình kết thúc chiến tranh. Điều này tỏ ra khó khăn bởi vì tâm điểm trong các cuộc đàm phán ngừng bắn là vấn đề hồi hương cho tù binh. Nhiều tù binh Bắc Triều Tiên và Trung Quốc không muốn quay về nước họ , nhưng các nhà đàm phán cộng sản yêu cầu Liên Hiệp Quốc phải ép họ quay về, Liên Hiệp Quốc không thể làm cái việc ấy nên chiến tranh vẫn tiếp tục.

    Trong tháng sáu và tháng bảy năm 1953, một số các trận đánh lớn nhất của cuộc Chiến tranh Triều Tiên đã diễn ra. Máy bay Mỹ tung ra hỗ trợ tối đa cho các lực lượng mặt đất bị bao vây. Nhưng các đợt tấn công biển người của Trung Quốc và Bắc Triều đe dọa một sự phá vỡ mặt trận. Hệ quả là các tàu sân bay Hải quân Mỹ đang hoạt động ngoài khơi Hàn Quốc được cung cấp những quả bom nguyên tử, rồi Hoa Kỳ bắt đầu bóng gió rằng chúng có thể được sử dụng. Cuối cùng, quan điểm của LHQ về vấn đề hồi hương đã được chấp nhận từ phía những người cộng sản, các thỏa thuận ngừng bắn được ký kết vào ngày 27 Tháng 7, 1953. Ngay sau đó Malenkov nói rằng: “Với sự kết thúc của Chiến tranh Triều Tiên, tình hình quốc tế có một sự tiến bộ nhất định.” Sau một thời gian dài căng thẳng ngày càng tăng, lần đầu tiên bầu không khí quốc tế bắt đầu được cảm nhận dịu hẳn đi trong các năm hậu chiến. "

    Với cái chết của Stalin, chiến tranh lạnh đã chuyển hướng và mang hình thái khác. Tuy nhiên, Liên Xô vẫn là một chế độ độc tài toàn trị với một ý thức hệ khác biệt và vẫn sở hữu khả năng quân sự có thể làm thiệt hại nặng nề phương Tây. Sự xuống thang những căng thẳng như Malenkov đã nói rất ngắn ngủi. Sức mạnh quân sự của Liên Xô sẽ sớm được tăng lên, kéo theo bầu không khí sợ hãi. Cuộc đấu tranh giữa Liên Xô và phương Tây vẫn tiếp tục trong những thung lũng tăm tối của nhân loại.

    Và trên bầu trời cao vút trong xanh….
  8. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Phi vụ xâm nhập bằng chiếc ném bom Caberra của RAF

    Một vài tháng sau khi Chiến dịch Ju Jitsu do thám bằng loại RB-45C bị hủy bỏ, một chiếc Canberra của Không quân Hoàng gia đã thực hiện một trong những nhiệm vụ khó hiểu nhất trong cuộc chiến trên không bí mật chống Liên Xô. Do vấn để an ninh của Anh và do thời gian đã qua quá lâu, không thể xác định chính xác ngày của chuyến bay này. Không giống như nhiệm vụ bằng những chiếc RB-45C trước đó, đây là một hành động chủ yếu do Anh thực hiện, sự tham gia của Không quân Mỹ rất giới hạn và CIA hoàn toàn không liên quan. Cũng không giống như những nhiệm vụ bằng RB-45C, nhiệm vụ này đã suýt kết thúc như một thảm họa.

    Phi vụ có nguồn gốc từ những một năm về trước. Khoảng năm 1952, tình báo phương Tây phát hiện ra Liên Xô đã xây dựng một cơ sở thử nghiệm tên lửa ở Kapustin Yar, cách một khoảng ngắn về phía đông nam Stalingrad gần sông Volga. Dấu hiệu đầu tiên có được là việc phát hiện ra tín hiệu tên lửa từ xa. Ban đầu các dữ liệu này không đủ để kết luận, tuy nhiên sau đó trạm mặt đất SIGINT ở Thổ Nhĩ Kỳ chặn được tín hiệu lần nữa và xác nhận đó là tên lửa. Các thông tin cung cấp bởi các cựu tù binh chiến tranh và kỹ sư Đức bị bắt buộc làm việc trong chương trình tên lửa của Liên Xô cũng xác nhận điều này.

    Công tác chụp ảnh trạm Kapustin Yar đã trở thành một ưu tiên. Bob Amory, lúc đó là Phó giám đốc tình báo CIA, ra sức thúc ép cho tiến hành một chuyến bay vào khu vực này, ông nói: "Chúng tôi không thể làm ngơ chuyện này. Đó là một sự phát triển quan trọng của đối phương về công nghệ tên lửa. Chúng tôi đưa nó lên ưu tiên hàng đầu và phải có dữ liệu để đánh giá chính xác về nó. " Tướng Nathan Twining bảo với Amory rằng Không quân Mỹ chưa sẵn sàng để thực hiện nhiệm vụ. Không quân Hoàng gia sẽ thay thế cho việc ấy.

    Không quân Mỹ trước đó đã cung cấp cho người Anh một camera K-30 độ dài tiêu cự 100 inch. Điều khoản chuyển giao rất đơn giản: "Cứ làm những gì các anh muốn với nó, không cần báo trước với chúng tôi, nhưng phải cho chúng tôi bản sao những hình ảnh các anh chụp được." Chiếc camera K-30 này được gắn lên một máy bay ném bom phản lực Canberra và được sử dụng để chụp ảnh sâu vào khu vực Đông Âu trong khi Canberra vẫn bay trong vùng trời thân thiện. Được biết trong một chuyến bay thử nghiệm, chiếc camera này chụp được hình ảnh rõ nét nhà thờ St Paul ở London khi máy bay đang bay ngoài khơi bờ biển Anh ở Dover. Những nhiệm vụ bay dọc biên giới để chụp ảnh với máy ảnh K-30 có tên mã là Dự án Robin tiếp tục được thực hiện cho đến cuối năm 1955.

    Sự kết hợp giữa Canberra và máy ảnh K-30 đã được lựa chọn cho phi vụ xâm nhập Kapustin Yar. Vào mùa xuân năm 1953, một kế hoạch được xây dựng nhằm cải tiến một chiếc Canberra, cho phép nó có thể thực hiện những phi vụ bay xa, xâm nhập vào ban ngày trên toàn phía Nam Liên Xô. Chiếc máy bay được chọn là một Canberra chuẩn B-2 ném bom chứ không phải là phiên bản trinh sát PR-3 mãi sau này mới đưa vào phục vụ. Camera K-30 được gắn vào phía sau thân máy bay và chĩa ống kính ra phía bên trái. Thùng nhiên liệu được gắn thêm vào trong các khoang bom để B-2 có đủ tầm xa cần thiết cho nhiệm vụ này. Để tăng tối đa độ cao của máy bay, tất cả các thiết bị dư thừa đã được loại bỏ, cho phép Canberra bay cao hơn tầm MiG-15 của Liên Xô. Chiếc Canberra cải tiến thực hiện khoảng hai hay ba chuyến bay tầm ngắn xâm nhập Đông Âu để thử nghiệm, tất cả đều thành công nên Thủ_tướng Churchill chấp thuận phê duyệt phi vụ Kapustin Yar.

    Phi vụ Canberra được thực hiện vào cuối tháng Tám năm 1953. Chiếc máy bay cất cánh từ Giebelstadt ở Tây Đức, gần biên giới Đông Đức. Ngay sau khi nó cất cánh, radar Liên Xô đã theo dõi chặt chẽ chiếc máy bay. Chiếc Canberra vừa quay mũi về phía đông vừa leo lên cao cho đến khi đạt độ cao ban đầu là 46.000 feet. Sau đó nó đi vào không phận Tiệp Khắc rồi bay qua Praha. Vẫn bay về phía đông, nó đi qua phía nam Ba Lan và thành phố Krakow, sau đó vượt qua biên giới Liên Xô và bay về phía Kiev. Chiếc máy bay bay theo một lộ trình lên cao dần, độ cao của nó tăng lên khi nhiên liệu trong máy bay ít dần đi khiến nó nhẹ hơn.

    Mặc dù lực lượng phòng không Liên Xô chỉ phải đối phó với mỗi một máy bay duy nhất đang bay theo một đường thẳng, những máy bay tiêm kích của họ đã bị chứng minh không có khả năng ngăn chặn loại Canberra. Cho dù các phi công MiG được hướng dẫn đường bay bởi bộ chỉ huy mặt đất bằng cách sử dụng dữ liệu radar, họ vẫn không thể nhìn thấy chiếc Canberra bây giờ đang bay ở 48.000 feet. Tình trạng còn tệ hơn ở một số đơn vị đóng quân khu vực Keystone Kops, bộ chỉ huy mặt đất đã hướng dẫn những chiếc MiG lao đầu về phía tây thay vì phía đông. Khi Canberra bay qua Kharkov, những chiếc MiG trở nên rối tinh rối mù và chúng bắt đầu bắn vào nhau.

    Khi chiếc Canberra gần đến Kapustin Yar, một phi công MiG cố kéo chiếc máy bay chiến đấu của anh ta lên quá cao và bắt đầu lâm vào tình trạng mất thăng bằng (stall), nhưng trong một giây lát, súng của chiếc MiG hướng ngang với mục tiêu và anh ta bóp cò bắn một loạt. Ít nhất một trong những viên đạn đại bác của anh ta trúng chiếc Canberra. Song chiếc Canberra vẫn có thể tiếp tục bay và duy trì độ cao của nó, bất chấp vết thương gây ra sự rung lắc mạnh. Các phi công MiG sau đó mất dấu Canberra. Viên phi công người Anh chụp hình ảnh của trạm thử nghiệm tên lửa Kapustin Yar, sau đó ông quay chiếc máy bay về phía đông nam và bay dọc theo sông Volga cho đến khi thoát khỏi không phận của Liên Xô trên biển Caspi. Chuyến bay lịch sử của chiếc Canberra đã kết thúc thành công khi hạ cánh an toàn xuống Iran.

    Việc chiếc Canberra suýt bị bắn rơi khiến người Anh từ bỏ bất kỳ ý định nào nữa về việc bay xâm nhập ban ngày vào vùng Viễn tây Liên Xô. Amory nhớ lại thái độ của người Anh là: "Lạy Chúa, không một lần nào nữa." Còn bên phía Liên Xô, sự thất bại của lực lượng phòng không trong việc tiêu diệt chiếc Canberra cùng với những sai lầm ở một số đơn vị đã gây ra một đợt thanh trừng. Một loạt tướng lãnh và sĩ quan bị cách chức. Trong đó có một vị tướng bị hạ cấp xuống tận hàm trung tá, điều này khiến ông ta tự sát. Một số cá nhân còn bị đày xuống các tiểu đoàn trừng giới.

    Hoa Kỳ đã có bình luận về phi vụ Kapustin Yar vào tháng Hai năm 1954, sau khi những bản sao của các tấm ảnh được cung cấp cho Không lực Mỹ và CIA. Mặc dù Amory nhớ lại rằng đã có "một số hình ảnh khá nét," những người khác lại cho rằng chúng có chất lượng kém, rõ ràng là do sự rung lắc của chiếc máy bay bị thương, khiến cho thông tin thu thập được về trạm thử nghiệm tên lửa chẳng được bao nhiêu.
  9. TimeBreak

    TimeBreak Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/10/2004
    Bài viết:
    1.386
    Đã được thích:
    9
    Tiếp đi Ông SUI, những topic như của ông là nơi để tôi vào ttvnol đấy! Chờ mãi, động viên để ông tiếp tục nào! [r2)]

    Mịa, xung quanh toàn bãi vật nhau, phát nản!
  10. kakashivn200

    kakashivn200 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2009
    Bài viết:
    555
    Đã được thích:
    0
    Bác Heo dạo này chắc đang cày làm ace tăng nên bỏ bê kq rồi :))

Chia sẻ trang này